“… “… có một thực tế tồi tệ phổ biến trong cưỡng chế. Đó là thiếu minh bạch, cản trở báo chí tác nghiệp. Mặc dù hoạt động cưỡng chế không thuộc phạm trù bí mật, hầu hết trường hợp, phóng viên đến hiện trường tác nghiệp đều bị lực lượng trực tiếp tham gia cưỡng chế cản trở hung hăng…”...
Nhà báo Võ Văn Tạo
Vụ cưỡng chế Văn Giang
Vụ cưỡng chế quyết liệt ở huyện Văn Giang (tỉnh Hưng Yên) làm công luận cả nước và truyền thông quốc tế chấn động. Thật khó tin khi dư âm đau lòng vụ Tiên Lãng chưa dứt, lại tiếp đến Văn Giang rầm rộ cưỡng chế, lửa khói ngút trời, súng nổ dữ dằn.
Trong vụ Tiên Lãng, Chính phủ và các cơ quan chức năng nhìn nhận chính sách đất đai, vấn đề đền bù giải tỏa, cưỡng chế còn nhiều bất cập… quan chức địa phương sai phạm, khuất tất, đẩy người dân vào đường cùng, phản ứng tiêu cực.
Trong vụ Văn Giang, địa phương khẳng định làm đúng. Theo họ, người dân không thắc mắc giá đền bù, mà phủ nhận dự án. Điều đó là bất khả thi, buộc phải cưỡng chế, vì Thủ tướng đồng ý dự án… Những ngày qua, báo chí trong nước đăng thưa thớt, nhiều báo gỡ bài đăng online. Trên mạng, dậy lên làn sóng bloger và công chúng lên án cưỡng chế, người dân tố cáo mức đền bù rẻ mạt, chủ đầu tư “cò kè bớt một thêm hai”, cưỡng chế bất minh, tàn bạo… Nhưng cũng có một số ý kiến cho rằng chính quyền không sai, viện dẫn luật đất đai và các văn bản liên quan.
Trái với tuyên bố của chính quyền, rằng cuộc cưỡng chế thành công nhanh gọn, có Viện Kiểm sát chứng kiến, không có nổ súng, không có thương vong… các videoclip người dân quay bí mật cho thấy, hàng nghìn công an trang bị kỹ lưỡng cùng vũ khí, thiết bị hùng hậu được huy động, súng nổ ran trời, khói lửa mịt mùng, đó đây người dân bị lực lượng cưỡng chế xúm lại đánh đập, đá thúc mạng sườn, tiếng phụ nữ uất hận chửi thề… Trong khi đó, phóng viên báo chí bị cản trở tiếp cận, hiện trường nhan nhản bảng “cấm quay phim chụp ảnh”… Những ai đau đáu Văn Giang, đều không khỏi nghẹn ngào căm giận, lo ngại cho số phận bấp bênh của người dân thấp cổ bé họng, về bất ổn xã hội… Ở tầm sâu hơn, những người từng trải, nhiều cống hiến, day dứt hiện tượng lực lượng vũ trang nhân dân dùng vũ lực với dân, băn khoăn một nhà nước “của dân, do dân, vì dân”, quan ngại tồn vong chế độ, tương lai đất nước…
Thu hồi đất
Những người cho rằng chính quyền không trái luật viện dẫn Luật đất đai để chứng minh. Dù phê phán và quan ngại cảnh tượng “hàng ngàn cảnh sát chống bạo động, “khiên – giáo tua tủa”, đối đầu với vài trăm nông dân cuốc xẻng trong tay không”, nhà báo Huy Đức (bloger Osin) trích dẫn và nhận định: “lợi ích quốc gia” chủ yếu là những “dự án đầu tư có nhu cầu sử dụng đất phù hợp với quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất được cơ quan nhà nước có thẩm quyền xét duyệt”. Và: “Dự án Ecopark đã được Thủ tướng phê duyệt, nếu chiểu theo Luật 2003, việc nông dân Văn Giang không chịu bị thu hồi nên bị cưỡng chế là hoàn toàn phù hợp với Điều 39”. Theo Huy Đức, Luật 1993 bị sửa nhiều lần, đến Luật 2003, quy định “trở nên rắc rối và dễ bị lũng đoạn hơn”, “lợi ích đại gia” trở thành ngang hàng mục tiêu cao cả “lợi ích quốc gia”.
Phải chăng có sự nhầm lẫn ở đây? Thực tế, điều 39 – Luật 2003 quy định trong trường hợp “thu hồi đất để sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng”. Dự án Ecopark có vì mục đích trên?
Trong khi đó, điều 40 – Luật 2003 (thu hồi đất để sử dụng vào mục đích phát triển kinh tế) quy định:
“1. Nhà nước thực hiện việc thu hồi đất để sử dụng vào mục đích phát triển kinh tế trong trường hợp đầu tư xây dựng khu công nghiệp, khu công nghệ cao, khu kinh tế và các dự án đầu tư lớn theo quy định của Chính phủ.
Việc thu hồi đất được thực hiện theo quy định tại Điều 39 của Luật này.
2. Đối với dự án sản xuất, kinh doanh phù hợp với quy hoạch sử dụng đất đã được xét duyệt thì nhà đầu tư được nhận chuyển nhượng, thuê quyền sử dụng đất, nhận góp vốn bằng quyền sử dụng đất của các tổ chức kinh tế, hộ gia đình, cá nhân mà không phải thực hiện thủ tục thu hồi đất”.
Do vậy, Ecopark ở Văn Giang, với nội dung đã công bố và quảng cáo rộng rãi, hiển nhiên là dự án kinh doanh, chủ đầu tư chỉ được phép nhận chuyển nhượng, thuê quyền sử dụng đất, nhận góp vốn bằng quyền sử dụng đất của các tổ chức kinh tế, hộ gia đình, cá nhân; chính quyền không được phép thực hiện thủ tục thu hồi đất.
Câu chuyện Thụy Điển
Liên quan nội dung này, câu chuyện sau, do một nhà báo Thụy Điển kể, rất đáng suy ngẫm:
Một dự án mở tuyến đường sắt, muốn xuyên qua một vùng dân cư, bị cư dân địa phương phản đối. Họ lập luận, tổ tiên và họ đã khai phá, định cư ở đó hơn 300 năm. Bây giờ cái đường sắt kia mới từ đâu lù lù tới, hòng nhảy vào chiếm chỗ, muốn họ phải dời đi nơi khác. Tại sao nó không biết tránh họ, mà họ lại phải tránh nó? Kết cục, nhà nước quyết định tuyến đường sắt đó phải hoạch định lại, đi vòng, tránh vùng dân cư nọ.
Nhà báo này cho biết, Thụy Điển không quy định đất đai thuộc sở hữu toàn dân hay nhà nước, cũng như hầu hết quốc gia phát triển đều thừa nhận sở hữu tư nhân về đất đai. Nhưng không phải vì thế mà Thụy Điển và các nước đó chậm phát triển hạ tầng. Một khi nhà nước muốn thực hiện dự án vì mục đích công cộng, phải cân nhắc cái được đại cục cho xã hội lớn hơn rất nhiều cái mất cục bộ của cá nhân, cộng đồng bị tác động do dự án. Chính vì cái được lớn hơn rất nhiều cái mất, xã hội (ngân sách nhà nước) sẵn sàng bù đắp thỏa đáng cho cá nhân, cộng đồng bị tác động. Được bù đắp lớn hơn rất nhiều so với mất, lại vì lợi ích chung, có điên mới phản đối. Nhờ vậy, hạn chế được nguy cơ lạm quyền quyết ẩu, lãng phí, tham nhũng… Công luận không bao giờ phản đối việc nhà chức trách cưỡng chế trong trường hợp cá nhân, doanh nghiệp vay tiền ngân hàng, rồi chây nợ hay nhận tiền bán nhà, rồi không chịu giao nhà.
Cưỡng chế
Hiện tượng cưỡng chế đất cho các dự án kinh doanh, các khu đô thị mới… trong những năm gần đây gây nhiều bức xúc, làm người dân giảm sút lòng tin. Như trên đã nêu, dù không muốn, việc cưỡng chế vẫn phải thực hiện trong những trường hợp đúng đắn và thật cần thiết. Thế nhưng có một thực tế tồi tệ phổ biến trong cưỡng chế. Đó là thiếu minh bạch, cản trở báo chí tác nghiệp. Mặc dù hoạt động cưỡng chế không thuộc phạm trù bí mật, hầu hết trường hợp, phóng viên đến hiện trường tác nghiệp đều bị lực lượng trực tiếp tham gia cưỡng chế cản trở hung hăng, thậm chí không ít phóng viên còn bị cướp máy ảnh, hành hung(!). Chính vì không có sự giám sát của báo chí, hiện tượng cưỡng chế sai ẩu, lạm dụng vũ lực, hành hung vô lối và thái quá với người bị cưỡng chế rất phổ biến.
Nếu nhà nước nhìn nhận bất cập đã nêu, cần quy định trong quy trình cưỡng chế, phải thực hiện việc tổ chức, tạo điều kiện báo chí giám sát, quy định đây là yêu cầu tối quan trọng và bắt buộc, nếu không thực hiện nghiêm túc hoặc thực hiện chiếu lệ, phải chịu chế tài nghiêm khắc.
Càng ít cưỡng chế, càng tốt
Như trên đã phân tích, nhìn chung hành vi cưỡng chế gây phản cảm, bức xúc, xáo trộn xã hội, tạo mầm mống bất an, bạo loạn. Đó là điều người dân lương thiện và bất cứ thể chế nào cũng không mong muốn.
Nhìn lại vụ Văn Giang, vụ cưỡng chế lại nhằm vào nông dân nghèo khó chất phác, lấy đi mảnh đất – kế sinh nhai duy nhất của họ – để giao cho dự án kinh doanh của một vài người giàu. Để có được giang sơn hôm nay, Đảng từng xác định nông dân là quân chủ lực. Nhiều triệu con em nông dân đã hy sinh xương máu, hàng trăm triệu nông dân nhiều thế hệ đã đổ mồ hôi, sôi nước mắt, chắt chiu từng hạt thóc trong và sau chiến tranh để có chính quyền hôm nay. Vụ Tiên Lãng, dưới góc nhìn của nhiều lão thành cách mạng, là thất bại chính trị nặng nề, khi chính quyền giải quyết vấn đề bằng vũ lực đối với nhân dân.
Bất cứ vụ cưỡng chế nào tương tự Tiên Lãng hay Văn Giang, cũng đi ngược với tuyên bố mới đây của Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng: “Chúng ta cần một hệ thống chính trị mà quyền lực thực sự thuộc về nhân dân, do nhân dân và phục vụ lợi ích của nhân dân, chứ không phải chỉ cho một thiểu số giàu có… Pháp quyền dưới chế độ XHCN là công cụ thể hiện và thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ lợi ích của đại đa số nhân dân… Nguy cơ đối với đảng cầm quyền là tham nhũng, quan liêu, thoái hoá…”…
V.V.T.
-Huy Đức -Đặt Mình Trong Vị Trí Người Dân Văn Giang
Chính quyền Hưng Yên nói họ đã không sai khi tổ chức cưỡng chế 70 hecta đất của 160 hộ dân Văn Giang. Chưa có cơ sở để tin rằng Thủ tướng sẽ nói quyết định này của Hưng Yên là sai như ông đã làm với chính quyền Hải Phòng. Nhưng, cho dù bên thua trận là nhân dân thì hình ảnh hàng ngàn cảnh sát chống bạo động, “khiên-giáo” tua tủa, đối đầu với vài trăm nông dân cuốc xẻng trong tay không chỉ phản ánh mối quan hệ Chính quyền - Nhân dân hiện nay mà còn có tính dự báo không thể nào xem thường được.
Làm luật cũng là Chính quyền, giải thích luật cũng là Chính quyền, chỉ có người dân là thiệt. Kể từ năm 1993, Luật Đất đai theo tinh thần Hiến pháp 1992 đã được sửa đổi 5 lần. Chỉ riêng các điều khoản thu hồi, nếu như từng được quy định khá chặt chẽ trong Luật 1993, đã trở nên rắc rối và dễ bị lũng đoạn hơn trong Luật 2003.
Điều 27, Luật Đất đai 1993, quy định rằng: “Trong trường hợp thật cần thiết, Nhà nước thu hồi đất đang sử dụng của người sử dụng đất để sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng thì người bị thu hồi đất được đền bù thiệt hại”. Điều Luật tiếp theo còn đưa ra những điều kiện ràng buộc nhằm tránh sự lạm dụng của Chính quyền. Luật sửa đổi 1998 gần như giữ nguyên tinh thần này. Nhưng, đây là thời điểm mà các đại gia bắt đầu phất lên nhờ đất. Tiến trình ban hành chính sách bắt đầu có sự can dự của các nhóm đặc lợi, đặc quyền.
Luật Đất đai 2003 đã đặt rất nhiều rủi ro lên người dân khi điều chỉnh mối quan hệ này thành một chương gọi là Mục 3. Trong phần “Thu hồi đất”, Luật gần như đã đặt những mục tiêu cao cả như “lợi ích quốc gia” ngang hàng với “lợi ích của các đại gia”. Điều 39 định nghĩa những “lợi ích quốc gia” chủ yếu là những “dự án đầu tư có nhu cầu sử dụng đất phù hợp với quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất được cơ quan nhà nước có thẩm quyền xét duyệt”. Dự án Ecopark đã được Thủ tướng phê duyệt, nếu chiểu theo Luật 2003, việc nông dân Văn Giang không chịu bị thu hồi nên bị cưỡng chế là hoàn toàn phù hợp với Điều 39.
Việt Nam không có một tối cao pháp viện để nói rằng Luật 2003 ở những điều khoản nói trên đã vi Hiến; Việt Nam cũng không có tư pháp độc lập để nông dân có thể kiện các quyết định của chính quyền. Chỉ vì không có niềm tin Hệ thống có thể mang công lý đến cho mình mà gia đình anh Đoàn Văn Vươn, hôm 5-1-2012, và 160 hộ dân Văn Giang, hôm 24-4-2012, phải chọn hình thức kháng cự chịu nhiều rủi ro như thế.
Cho dù “đất đai thuộc sở hữu toàn dân”, người dân chỉ có các quyền của người sử dụng. Nhưng, sở dĩ ai cũng gắn bó với mảnh đất mà mình đang cắm dùi là bởi: Đất ấy không phải được giao không từ quỹ đất công như những quan chức có đặc quyền, đặc lợi; Đất ấy họ đã phải mua bằng tiền; Đất ấy họ phải tạo lập bằng nước mắt, mồ hôi; Đất ấy là của ông cha để lại.
Không thể nói một thứ có thể quy đổi thành tiền mà không phải là tài sản. Không thể bỗng dưng một khối tài sản có khi phải đánh đổi cả cuộc đời lại có thể bị thu hồi. Không thể nhìn đất ấy đang làm lợi cho các đại gia qua quyết định hành chính của một cấp chính quyền, thường chỉ là, hàng huyện.
Đất đai của các doanh nghiệp, của nông dân, vì thế, phải được coi là “tài sản hợp pháp của cá nhân, tổ chức”. Trong bài “Ba khâu Đột phá của Thủ tướng” tôi có đề nghị đa sở hữu hóa đất đai, công nhận quyền sở hữu đã có trên thực tế của người dân. Nhưng, sau gần một năm, tôi nghĩ là, những người lạc quan chính trị nhất cũng không còn hy vọng ấy. Cho dù chưa có những thay đổi về mặt ngôn từ thì việc tuân thủ Hiến pháp 1992 là điều không nên bàn cãi. Điều 18 Hiến pháp 1992, nói: “Nhà nước giao đất cho các tổ chức và cá nhân sử dụng ổn định lâu dài”. Nghĩa là việc giao đất cho dân là vô thời hạn. Khi bình luận về các điều khoản quy định thời hạn giao đất, chính một trong những tác giả chính của Luật Đất đai 1993, ông Tôn Gia Huyên, cũng cho rằng, Luật đã có “một bước lùi so với Hiến pháp”.
Hiến pháp đã cho “chuyển quyền sử dụng” có nghĩa là công nhận quyền ấy như một tài sản của người dân. Nghĩa là, thay vì “thu hồi đất” như các quy định trong Luật Đất đai, “trong trường hợp thật cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh và vì lợi ích quốc gia”, Nhà nước nên chiểu theo Điều 23 của Hiến pháp mà “trưng mua, trưng dụng”. Luật trưng mua - trưng dụng cũng nên định nghĩa minh bạch “lợi ích quốc gia” để phân biệt với “lợi ích của các đại gia”. Và khi trưng mua thì nên lấy giá giao dịch trên thực tế chứ không phải là giá hành chánh được nghĩ ra trong các phòng máy lạnh.
Với những dự án lớn, dụng chạm xã hội, như Ecopark, cho dù là tư nhân đầu tư, thì cũng nên đòi phải minh bạch trong từng bước đi. Phải buộc kiểm toán để thấy rằng, đất đai của nông dân chiếm bao nhiêu phần trăm trong tổng vốn đầu tư và mời nông dân tham gia bằng cách góp vốn và chia lãi theo tỉ lệ vốn bằng quyền sử dụng đất.
Vì sao trong trường hợp vì lý do quốc phòng, an ninh và lợi ích quốc gia mà Hiến pháp vẫn yêu cầu phải trưng mua theo giá thị trường? Vì sao các nhà nước của dân vẫn đền bù thỏa đáng cho các trường hợp rủi ro ví dụ như bồi thường cho ai đó đang đi dưới hè đường bị một cành cây rơi trúng. Cái cành cây ấy, mọc ở ven đường, mang lại phúc lợi bóng mát cho hàng vạn con người nên khi nó gãy không thể để một người chịu thiệt.
Người dân Văn Giang không chống lại dự án Ecopark, người dân chỉ không đồng ý với giá và cách mà Chính quyền đền bù. Nếu con số 90% nông dân Văn Giang đã nhận đền bù là đúng thì cũng không thể coi 10% phản ứng là sai. Trước anh Đoàn Văn Vươn đã có những người cam chịu lệnh thu hồi đất của chính quyền Tiên Lãng.
Đừng nghĩ những người chân lấm tay bùn không biết tính toán. Đừng nghĩ nông dân không biết xót xa khi nhận chưa tới 150 nghìn đồng/ m2 rồi nhìn đất của họ được đem bán với giá hàng chục triệu đồng. Chính quyền nói, “chỉ có 30% diện tích được phục vụ vào mục đích kinh doanh, tức là phần chủ đầu tư làm nhà để bán, còn lại là diện tích đất dành cho phát triển giao thông, công trình phúc lợi, cây xanh”. Tất nhiên phải có phần hạ tầng và cây xanh này thì người ta mới đến Ecopark mua nhà. Nhưng, cho dù nó thực sự là phúc lợi thì cũng không thể đòi hỏi 1.500 hộ dân ở Văn Giang phải chịu thiệt cho các đại gia đến hưởng.
Sáng 17-4-2009, khi bị cưỡng chế thu hồi đất, chính người thân của Thủ tướng đương nhiệm cũng đã kháng cự. Cho dù 185 hecta đất cao su mà những người này có được ở huyện Bến Cát, tỉnh Bình Dương, nhẹ nhàng hơn cách mà thường dân có được vài nghìn mét ruộng nương. Đất ấy họ được địa phương bán với giá bình quân 50 triệu/ hecta và sau đó khi thu hồi lại, Bình Dương đã đền bù mỗi hecta gần một tỉ. Tôi nhắc lại điều này chi để đề nghị tất cả ai quan tâm nên đặt mình trong vị trí của người dân Văn Giang. Từ các quan chức ra lệnh cho đến những cảnh sát đã đánh vào đầu dân đều phải nghĩ đến ngày đất đai của nhà mình bị Chính quyền cưỡng chế.
Đừng nghĩ Đoàn Văn Vươn hay Văn Giang là đơn lẻ. Không nên coi một chính sách luôn giữ kỷ lục trên dưới 80% tổng số người khiếu kiện trong suốt hơn 20 năm qua là không có gì sai. Cho dù quyết tâm cưỡng chế 160 hộ dân ở Văn Giang có thể chỉ vì lợi ích của một số cá nhân; có thể sau thất bại trong vụ Đoàn Văn Vươn, Chính quyền muốn cứng rắn để dập tắt khát vọng đòi đất của những nông dân muốn noi gương anh Vươn. Thì, hình ảnh cuộc cưỡng chế hôm 24-4-2012 đã trở thành một vết nhơ trong lịch sử.
Một chế độ luôn lo sợ mất ổn định không nên nuôi dưỡng quá nhiều những mầm mống đang làm mất ổn định. Một chế độ rất sợ các thế lực thù địch không nên tạo quá nhiều thù địch ngay chính trong lòng mình. Đất nước này tao loạn quá nhiều rồi, hơn ai hết người dân cũng cần ổn định.
-Theo:Đặt Mình Trong Vị Trí Người Dân Văn Giang
.
-------