(VEF.VN) - Phát biểu trên diễn đàn Quốc hội mới đây, Thống đốc Bình cho biết, từ đầu năm đến nay, Ngân hàng Nhà nước đã đưa ra một lượng tiền có thể nói là “khủng khiếp”!
Cụ thể, cơ quan này đã mua vào 9 tỷ USD, cung ứng ra thị trường là 180.000 tỷ đồng. Ngoài ra, trong tháng 2/2012, Ngân hàng Nhà nước đã bơm ra 60.000 tỷ đồng để phục vụ các chương trình nông nghiệp và nông thôn. Trước đó, cuối năm 2011, Ngân hàng Nhà nước đã đưa ra 30.000 tỷ đồng để cứu trợ các ngân hàng mất khả năng thanh khoản.
Thống đốc nói rõ: "Tổng các gói tiền mà Ngân hàng Nhà nước đã đưa ra như vậy có khối lượng vô cùng lớn. Chính vì vậy mà thanh khoản của hệ thống ngân hàng được cải thiện rất đáng kể, từ chỗ cuối quý 4/2011 là các ngân hàng có nguy cơ đổ vỡ hàng loạt, nhưng đến nay thanh khoản trong hệ thống ngân hàng đã được cải thiện đáng kể".
Một lượng tiền lớn đã được đưa ra nhưng thực tế bù lại thì tín dụng vẫn âm, DN và nền kinh tế vẫn khát vốn. Chính vì thế, câu hỏi đặt ra là lượng tiền lớn như thế đã đi vào đâu và ai đang là người hưởng lợi từ lượng tiền này.
Trao đổi với phóng viên Diễn đàn Kinh tế Việt Nam - VEF, báo VietNamNet, ông Cao Sỹ Kiêm, Chủ tịch Hiệp hội DN nhỏ và vừa, cho biết, mặc dù từ cuối 2011, Ngân hàng Nhà nước đã cung ra thị trường một lượng tiền cực lớn lên đến gần 300.000 tỷ đồng, vậy nhưng số triền trên không có tác động tới sản xuất.
- Thưa ông, một lượng tiền lớn cung ra nền kinh tế nhưng sao kinh tế vẫn tăng trưởng thấp, sản xuất kinh doanh gặp khó khăn, nhu cầu tiêu dùng giảm mạnh. Vậy số tiền trên đi đâu và có tác động đến nền kinh tế không?
TS. Cao Sỹ Kiêm: Số lượng tiền cung ra đúng như Thống đốc Ngân hàng Nhà nước nói. Nhưng sau khi tung tiền đồng ra mua USD dự trữ với con số 180.000 tỷ đồng thì ngay lập tức Ngân hàng Nhà nước đã phát hành trái phiếu để thu tiền về với con số là 90.000 tỷ đồng rồi. Phải làm như vậy vì việc dùng tiền đồng mua USD thực chất là hoán đổi tiền và như vậy sẽ dễ tác động gây tăng lạm phát. Vì vậy, việc thu hồi tiền về là cần thiết.
Ngoài ra, tiền còn được luân chuyển trên thị trường liên ngân hàng dưới hình thức cho vay qua thị trường liên ngân hàng. Thêm vào đó là các ngân hàng thanh toán vay mượn lẫn với nhau...
Số tiền còn lại có đến được với các DN không còn nhiều và cũng chưa đủ để trám vào những khoản nợ đọng, vay mượn từ trước nên hết ngay. Nền kinh tế cần khối lượng tiền lớn, trong khi khả năng thanh khoản của người dân cũng như các DN đã cạn kiệt từ lâu, vì vậy nó không đủ kích thích kinh tế.
- Nói như vậy theo ông tức là nhiều tiền lớn nhưng không có tác dụng với sản xuất kinh doanh?
Để thúc đẩy sản xuất thì phải căn cứ vào dư nợ tín dụng và tiền từ ngân sách cấp ra cho các dự án. Thời gian qua, tiền cấp cho các dự án không tăng nhiều, tăng trưởng tín dụng âm. Như vậy, lượng tiền cung ra không có tác dụng với sản xuất kinh doanh, không đi vào nền kinh tế.
- Vậy riêng việc cung ra 60.000 tỷ đồng cho khu vực nông nghiệp, nông thôn có tác dụng gì cho khu vực ưu tiên này?
Việc cung ra 60.000 tỷ đồng cho nông nghiệp nông thôn, qua theo dõi đã thấy cho vay khu vực nông thôn có tăng lên và đó là yếu tố góp phần làm thay đổi, giúp cho sản xuất các mặt hàng thiết yếu tại nông thôn tăng. Vụ được mùa vừa qua cũng có yếu tố đóng góp của các dịch vụ và vai trò của ngân hàng. Tuy nhiên, với một khu vực nông thôn rộng lớn, việc cung ra 60.000 tỷ đồng chưa thấm vào đâu cả, tác động có nhưng chưa lớn, chưa làm thay đổi mạnh mẽ.
- Theo công bố, từ nay đến cuối năm, mỗi tháng sẽ có khoảng 70.000 tỷ đồng được cung ra nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Theo ông số tiền này liệu có kéo nguy cơ lạm phát trở lại?
Con số chính xác là ngân sách sẽ cung cấp 21.000 tỷ đồng/tháng và ngân hàng cung cấp 50.000 tỷ đồng/tháng. Nếu số tiền này được đưa vào đúng chỗ, đúng địa chỉ thì nó sẽ phát huy tác dụng, giúp đảm bảo tăng trưởng GDP đạt 6%/năm. Nền kinh tế hiện nay rất khó khăn, nếu không rót tiền sẽ khựng lại, đặc biệt là sản xuất kinh doanh. Khi có tiền, các dự án sẽ tiếp tục triển khai thực hiện, tạo ra việc làm, tạo ra sức mua giúp DN thực hiện được dự án và vượt qua khó khăn. Khi hàng hóa được tung ra nhiều, giá cả ổn định thì nó còn có tác dụng kìm chế lạm phát.
Nhưng nếu rót không trúng, tiền không đưa vào sản xuất mà chạy lòng vòng, tất nhiên sẽ không thúc đẩy sản xuất phát triển, không tạo ra hàng hóa thì lạm phát sẽ trở lại.
- Hiện nay, DN muốn vay vốn, ngân hàng thì thừa vốn muốn cho vay nhưng lại vướng tài sản thế chấp, nợ quá hạn. Nếu cứ áp dụng đúng tiêu chí thì ngân hàng không thể rót tiền được. Vậy sẽ giải quyết bằng cách nào?
Vấn đề là ngân hàng và DN cần tìm tiếng nói chung. Ngân hàng không nên hạ tiêu chí cho vay nhưng cần linh hoạt và minh bạch. Với những dự án đang dở dang thì nên cho vay để tiếp tục hoàn thiện, cho vay với những DN có nhiều lao động, có hướng đi rõ ràng... Nói chung cần có chia sẻ với DN cũng như phân tích cụ thể, không nên xơ cứng, cứ đòi hỏi phải đủ điều kiện mới cho vay.
Ngân hàng không giải quyết được thì DN khó khăn. DN khó khăn, ngân hàng không cho vay được vốn cũng khó khăn. Ngân hàng và DN đang ngồi chung 1 thuyền, nếu không tìm ra tiếng nói chung, lối thoát thì cả 2 sẽ cùng chết chìm.
@Bơm tiền 'khủng khiếp': Gần 300.000 tỷ đồng mất hút
Việt Nam tụt hạng về độ hấp dẫn gia công phần mềm
Theo Báo cáo về 100 thành phố hấp dẫn nhất thế giới về gia công phần mềm vừa được Công ty tư vấn Tholons công bố, TP.HCM đang đứng ở vị trí 17 còn Hà Nội ở vị trí 21.
- VN thuộc các nước có triển vọng tăng trưởng kinh tế tốt nhất thế giới (TN).- Việt Nam vào top 29 nền kinh tế “nóng” nhất toàn cầu (VnEco).
-70% số doanh nghiệp thua lỗ trong quý I năm 2012
Theo tin từ Tổng cục Thuế (Bộ Tài chính), có tới 70% trong số hơn 250.000 doanh nghiệp được khảo sát trong quý I năm 2012 cho thấy đang thua lỗ.
- Mandalay kêu gọi doanh nghiệp TPHCM đầu tư (SGTT).
- Ngân hàng Nhà nước đồng loạt công bố dữ liệu tài chính “quý hiếm” (VnEco). - Ngân hàng Nhà nước thanh minh về lãi khủng (TT).
- Cho vay VND lãi suất… 7%/năm (VnEco).
- Quỹ bảo lãnh tín dụng: Có như không ! (NLĐ).- Nhà đầu tư chỉ mua 400 tỷ đồng trái phiếu Chính phủ (VnEconomy).
- Năm 2011, hơn 10% tổ chức tín dụng thua lỗ (TN).- Không lấy tiền của dân để xử lý nợ xấu ngân hàng (TN).
-Quốc hội: Không dùng ngân sách Nhà nước xử lý nợ xấu ngân hàng
Chiều nay (21/6), Quốc hội thông qua Nghị quyết chất vấn và trả lời chất vấn với gần 96% đại biểu tán thành.
Bộ trưởng Tài chính trả lời về 1.700 tỷ đồng “bồi dưỡng CSGT”
Dân Trí
(Dân trí) - Bộ trưởng Tài chính Vương Đình Huệ xác nhận, 70% trong tổng số 2.540 tỷ đồng tiền phạt người vi phạm giao thông thu được trong năm 2011 (tương đương 1.700 tỷ đồng) được chi lại cho lực lượng công an nhưng không phải dành toàn bộ để bồi ...
1.700 tỷ đồng tiền phạt bồi dưỡng cảnh sát giao thông: Cơ sở nào?VnEconomy
-Cấm TCTD cho vay mới để trả nợ cũ nhằm dấu nợ xấu
NHNN cũng yêu cầu xem xét giảm lãi suất cho vay của các hợp đồng tín dụng xuống theo lãi suất cho vay hiện hành, nhất là với lĩnh vực ưu tiên.
- Lãi suất và chuyện về một cơ hội hồi sinh (VnEco).- Phó Tổng giám đốc Sacombank muốn bán 80% cổ phiếu sở hữu (ĐĐK).- Mua nợ xấu ngân hàng – Ai lợi ? (DĐDN).- Lợi nhuận công bố của các ngân hàng “chưa chính xác” (VnEco).
- “Nới” giới hạn tín dụng phi sản xuất và chuyện bỗng dưng có quà(VnEco).- Tuýt còi hiện tượng lách trần lãi suất tiền gửi (VnEco).
- Vàng giảm mạnh dưới 42 triệu đồng/lượng (DV). – Sản xuất vàng miếng: Sẽ Khó như in tiền? (VNE/ĐV).
- Cấm ngân hàng lách lãi suất tiền gửi trên 12 tháng (NLĐ). - NHNN cấm trả lãi kỳ hạn dài cho tiền gửi rút trước hạn (TBKTSG). – Rút trước hạn vẫn hưởng lãi suất dài hạn là phạm lỗi (TTXVN). - Bắt đầu cuộc đua lãi suất mới (SGGP).
- Muốn được vay vốn, đừng giấu tình trạng xấu (PLTP).
- DLG: Hai phó tổng giám đốc đồng loạt thoái sạch vốn(VnEconomy).- Thu nhập dưới 9 triệu được miễn thuế TNCN hết năm 2012 (ĐV). - Miễn 6 tháng thuế thu nhập cá nhân bậc 1 (TN).
- Giải pháp cá tra: The Catfish Solution (WSJ). - Chương trình giám sát cá tra và ba sa của Mỹ là phi lý (VOV).
- Giá lúa giảm sâu (NLĐ). - Tiếp tục mua tạm trữ 1 triệu tấn gạo (TBKTSG).
- Nông dân ĐBSCL: “Choáng” với giá vật tư nông nghiệp (DV).
- Petro Vietnam sẽ tái cấu trúc như thế nào? (VnEco). - Bất ngờ giảm giá xăng thêm 700 đồng/lít (VEF).
- Tiếp tục giảm, xăng A92 thế giới thấp nhất trong 2 năm qua (DT). - Ngành điện cần sớm chấm dứt độc quyền (TT). - Điện hạt nhân – nhu cầu không song hành triển vọng (TTXVN).
- Lo thiếu thực phẩm cuối năm (DV).
- Tăng cường hợp tác thương mại Việt Nam – Mỹ Latinh (NLĐ).
- Trần Vinh Dự: Hãy chu cấp cho nàng vì nàng đẹp (phần 4) (Blog VOA).
Dân công sở ăn cơm lề đường, mặc đồ 'tái chế'
Hình ảnh "ăn ngon mặc đẹp" bên ngoài, những tưởng dân công sở đứng ngoài cuộc khi giá cả tăng cao. Nhưng thật ra, thành phần vốn mạnh tay cho chi tiêu này bị “đảo lộn” rõ nhất trước biến động kinh tế.
- Giám đốc chi nhánh ngân hàng “kinh doanh” tiền giả (TN). Giám đốc chi nhánh ngân hàng tiêu thụ tiền giả tno
Giám đốc phòng giao dịch ngân hàng đi mua tiền giả
(NLĐO) - Sau khi mua được 500 triệu đồng tiền giả, Duy "ém hàng" chờ ngày đưa đi tiêu thụ. Tuy nhiên, sau đó Duy ra đầu thú vì sợ.
China telecom firms may be subsidized: U.S. lawmaker
WASHINGTON (Reuters) - Two of China's top telecommunications companies may be selling subsidized gear in the United States, and legislation could be proposed to deal with any related national-security threat, the head of the U.S. House of Representatives' Intelligence Committee said on Thursday.
Phát triển kinh tế phiên bản 3.0
08:08 ngày 22.06.2012
SGTT.VN - Theo phân tích về mô hình mới trong phát triển kinh tế của kinh tế trưởng ngân hàng Thế giới, các nước đang phát triển có thể duy trì tăng trưởng cao, trở thành nước có thu nhập trung bình hoặc cao, trong một hoặc hai thế hệ nữa.
(Giang Le)Cách đây hơn 10 năm khi lần đầu tiên được học mô hình IS-LM tôi có hỏi thầy giáo rằng tại sao trong khi các nước ĐNA đang bị khủng hoảng mà IMF lại buộc họ phải thắt chặt tiền tệ và tài khoá, đồng nghĩa với việc shift cả 2 đường IS và LM sang trái. Điều này hoàn toàn trái ngược với những gì sách giáo khoa macro khuyến cáo, i.e. phải nới lỏng tiền tệ và tài khoá khi kinh tế suy thoái. Lúc đó thầy giáo của tôi giải thích rằng đành rằng sách nói như vậy nhưng vì các nước ĐNA phụ thuộc vào dòng vốn của foreign investors nên "thắt lưng buộc bụng" là cách để lấy lại "confidence" của investors. Hơn nữa đó là "cây gậy" của IMF đổi lại "củ cà rốt" là những gói cứu trợ.Thời điểm đó thuật ngữ "austerity" chưa phổ biến và tôi cũng chưa đủ trình độ để phân biệt thế nào là Keynesian, thế nào là neo-classical economics. Thế rồi lời giải thích của thầy giáo tôi gần như được lặp lại 100% cho những gì đang diễn ra ở châu Âu trong 2 năm qua. các nước PIIGS phải chấp nhận thực thi những chính sách austerity ngặt nghèo để đổi lại được "the troika" (IMF, ECM, EU) cứu trợ thông qua EFSF/ESM. Nghĩa là mặc dù kinh tế đang suy thoái, những nước này buộc phải thắt chặt tài khoá (trong khi đã mất quyền kiểm soát chính sách tiền tệ) để lấy lại investors' confidence và trả giá cho những giai đoạn chi tiêu phung phí trong quá khứ.Bây giờ thì tôi đã biết mô hình IS-LM là đặc trưng của trường phái Keynesian và lập luận lấy lại investors' confidence là của giới conservative, gần như đồng nghĩa với neo-classical economics. Một trong những Keynesian nổi bật hiện tại là Paul Krugman, người đã rất active trong suốt 3 năm qua cổ vũ cho fiscal expansion không chỉ ở Mỹ mà còn ở châu Âu. Trong khi đó giới fresh water economist, điển hình là John Cochrane (Uni Chicago) hay Tyler Cowen (George Mason Uni), ủng hộ chính sách austerity của châu Âu và tư tưởng fiscal conservative của đảng Cộng hoà (Mỹ). Hai trường phái kinh tế này tìm mọi bằng chứng chứng minh quan điểm của mình đúng. Năm ngoái Tyler Cowen đã viện dẫn Ireland khi nước này phục hồi rất tốt trong nửa đầu 2011. Đáng tiếc là Ireland đã bị rơi lại vào suy thoái khi cuộc khủng hoảng nợ ở châu Âu càng ngày càng tệ hại.Năm nay giới conservative lại viện dẫn Latvia, dù không trong EMU nhưng có tỷ giá cố định với đồng Euro, như là một thành công của chính sách austerity. Chính tổng giám đốc IMF Christine Lagarde đã có một bài phát biểu ca ngợi Latvia và Oliver Blanchard, chief economist của IMF, cũng thừa nhận Latvia đã thành công (phần nào) với chính sách austerity mặc dù bản thân Blanchard nghiêng về salt water school (phe Krugman). Cả với Ireland năm ngoái và Latvia năm nay Krugman đều tỏ ý nghi ngờ sự thành công của các nước này trong khi viện dẫn Iceland như là một thành công của việc áp dụng chính sách Keynesian. Bằng chứng mới nhất của Krugman là đồ thị dưới đây cho thấy mối liên hệ chặt chẽ giữa government spending và economic growth của các nước EMU trong 3 năm qua:
Một bằng chứng nữa ủng hộ cho phe Keynesian là trường hợp của Anh. Cách đây hơn 1 năm khi David Cameron thắng cử và thực hiện một loạt biện pháp austerity dù Anh không cần bailout và cũng không bị ai bắt buộc, Martin Wolf, một nhà báo kinh tế rất nổi tiếng của FT, đã cho rằng Anh và Mỹ sẽ là 2 "thí nghiệm" thực tế về hiệu quả của austerity. Trong khi chính phủ Cameron cũng viện dẫn investors' confidence nên buộc phải cắt giảm chi tiêu, Mỹ dưới thời Obama vẫn tiếp tục chính sách kích cầu từ năm 2009 và Fed vẫn tiếp tục nới lỏng tiền tệ. Kết quả là dù tỷ lệ thất nghiệp của Mỹ còn rất cao, nước này đã chính thức thoát khỏi suy thoái và khả năng double dip recession đã hầu như không còn (tất nhiên còn rủi ro vì khủng hoảng của châu Âu). Trong khi đó Anh đã chính thức rơi vào double dip recession từ Q1 năm nay và tương lai của nền kinh tế này rất mờ mịt.Krugman trong mấy năm gần đây phê phán những người ủng hộ austerity với lý do để khôi phục lại investors' confidence là họ tin tưởng ngây thơ vào "confidence fairy", một ý tưởng ngụ ngôn từ câu truyện cổ tích Peter Pan (hai thuật ngữ khác cũng rất hay bị Krugman đem ra bêu riếu là "bond vigilante" và "inflationistas"). Cội nguồn của mối liên hệ giữa austerity và investors' confidence là lý thuyết rational expectation của Robert Lucas, một đại thụ của trường phái Chicago. Theo lý thuyết này một khi gánh nặng nợ công của một chính phủ quá lớn thì kiểu gì trong tương lai sẽ xảy ra khủng hoảng nợ công như trường hợp Hi lạp. Lý do là khi tỷ lệ debt/GDP vượt qua một tipping point tất cả investors sẽ lo ngại chính phủ không trả được nợ nữa, do đó họ sẽ không đầu tư vào trái phiếu chính phủ dẫn đến yield/lãi suất tăng, làm gánh nặng nợ nần càng chồng chất. Vì investors được giả định có rational expectation vào tương lai nên cho dù tình hình kinh tế trong ngắn hạn có được cải thiện (theo lập luận của giới Keynesian) thì họ vẫn dự báo được chính xác khả năng khủng hoảng nợ sẽ xảy ra. Như vậy để tránh cái vòng xoáy nợ cao dẫn đến investors mất confidence và đẩy chính phủ đến bờ vực vỡ nợ nhanh hơn, austerity là cách duy nhất chính phủ có thể chứng minh cho giới investors thấy cam kết của mình về dài hạn.Lập luận này, giống như khái niệm rational expection, rất "đẹp" về mặt lý thuyết nhưng có nhiều ví dụ phản biện trên thực tế. Krugman thường viện dẫn 2 ví dụ điển hình là tình trạng nợ công của chính phủ Mỹ sau WWII và của Nhật ở thời điểm hiện tại cao hơn nhiều so với ngưỡng 90% do Carmen Reinhart và Kenneth Rogoff đưa ra trong một nghiên cứu rất nổi tiếng của họ. Trong cả 2 trường hợp này investor dường như chẳng quan tâm gì đến tỷ lệ nợ quá cao và có vẻ chẳng mất chút confidence nào. Krugman giải thích (bằng một mô hình kinh tế) rằng đó là hệ quả của "liquidity trap", tình trạng một nền kinh tế có mặt bằng lãi suất quá thấp nên những trade off thông thường của investors không còn đúng nữa. Khái niệm liquidity trap do Keynes đưa ra từ những năm 1930, nhưng điểm quan trọng hơn trong tư tưởng của Keynes, trái ngược với rational expectation sau này, là ý tưởng "animal spirit" của investors. Confidence trong nhiều trường hợp rất ít bị chi phối bởi các tính toán rational dài hạn mà bị ảnh hưởng rất nhiều từ những hiện tượng/tin tức trước mắt. Một investor có thể chẳng quan tâm gì đến khả năng trả nợ của chính phủ Mỹ mà chấp nhận gửi tiền vào nơi mà họ và đa số các investor khác cho là safe haven trong ngắn hạn. Nếu không giữ vốn được trong ngắn hạn thì dài hạn chẳng có ý nghĩa gì.(Còn tiếp)