Thứ Sáu, 6 tháng 7, 2012

Bà Bùi Thị Minh Hằng gửi thư cho Ngoại trưởng Hoa Kỳ

Mỹ có khi cũng bị lừa:  “Mao Trạch Đông và các đồng chí Trung Quốc yên lặng ngồi nhìn: [Việt Nam] đánh Mỹ đến người Việt Nam cuối cùng. Họ xem chúng ta làm suy yếu một nước, là hàng rào vững chắc chống lại sự bành trướng của Trung Quốc xuống phía Nam… Như một nhà quan sát Mỹ đã nói: ‘chúng ta dường như đang bị chơi đúng kịch bản mà Mao đã viết ra’.”

 05.07.2012

Người phụ nữ được nhiều người biết đến qua các cuộc biểu tình chống Trung Quốc xâm lược Hoàng Sa-Trường Sa và cũng từng bị đưa vào trại phục hồi nhân phẩm vì các hoạt động này vừa gửi thư cho Ngoại trưởng Hoa Kỳ, yêu cầu chính phủ Mỹ có biện pháp thúc đẩy Việt Nam cải thiện tình trạng nhân quyền. 

Trong thư gửi Ngoại trưởng Hillary Clinton, bà Bùi Thị Minh Hằng nêu rõ thực trạng vi phạm nhân quyền tại Việt Nam dưới con mắt của một chứng nhân và một nạn nhân.  

Thư nói rằng người dân Việt Nam “không được tôn trọng nhân phẩm và quyền làm người, những ai có chính kiến khác với quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam đều bị đàn áp, sách nhiễu và thậm chí còn bị bỏ tù” dù Hiến pháp Việt Nam công nhận quyền tự do ngôn luận và bày tỏ quan điểm của công dân.
Thư cũng nhắc tới những bất công xã hội, nạn quan chức nhà nước cưỡng đoạt đất của dân nghèo, khủng hoảng đất đai, tệ buôn bán phụ nữ, và tham nhũng hoành hành.

Bà Minh Hằng cho VOA Việt ngữ biết: “Tôi đã tiến hành gửi thư trong ngày hôm nay 5/7. Tình trạng nhân quyền tại Việt Nam bây giờ rất tồi tệ. Chính phủ Mỹ và những nước có bang giao với Việt Nam đều có tiếng nói giúp người dân trong nước rất nhiều. Do đó, tôi viết lá thư này vì tôi đã chứng kiến rất nhiều các cảnh hành xử của chính quyền với những người dân xung quanh tôi. Cá nhân tôi cũng đã có lá thư gửi tất cả bạn bè, bằng hữu và họ đã phát tán đi. Trong đó, tôi tuyên bố với nhà cầm quyền Việt Nam rằng nếu họ còn gia tăng những sự đàn áp, bất công đối với dân chúng như thế này thì tôi sẽ tự thiêu. Đây là lần đầu tiên tôi gửi thư ra ngoài kêu cứu vì tôi đã có 4 năm đi khiếu kiện trong nước và gửi rất nhiều đơn thư kêu cứu, nhưng không được phản hồi hay giải quyết bất kỳ đơn thư nào.”

Trong thư gửi người đứng đầu ngành Ngoại giao của Hoa Kỳ, bà Bùi Hằng kêu gọi chính phủ và nhân dân Mỹ hãy đứng bên cạnh nhân dân Việt Nam, giúp người dân Việt có được những giá trị do tự do, dân chủ như người dân Hoa Kỳ đang thụ hưởng, đúng như mục tiêu Hoa Kỳ hướng tới trên toàn cầu.

Bà Minh Hằng cũng đề nghị chính phủ Hoa Kỳ nên có những biện pháp chế tài cụ thể để buộc chính quyền Việt Nam phải tôn trọng nhân quyền của công dân.

Đại sứ quán Mỹ từng lên tiếng bênh vực và yêu cầu chính quyền Hà Nội trả tự do cho bà Minh Hằng khi bà bị tuyên phạt đến hai năm trong một trại cải tạo ở Việt Nam mà không thông qua xét xử vì đã tham gia các cuộc tuần hành ôn hòa phản đối Trung Quốc.

Dưới áp lực của quốc tế, Việt Nam đã trả tự do sớm hơn thời hạn cho bà vào ngày 29/4 sau 5 tháng giam giữ tại trung tâm Thanh Hà. Sau khi được phóng thích, bà Hằng đã tuyên bố cương quyết tiếp tục đấu tranh cho lẽ phải và sẽ tự thiêu vì dân oan.

-Bà Bùi Thị Minh Hằng gửi thư cho Ngoại trưởng Hoa Kỳ


 

Ngoại trưởng Hoa Kỳ Hillary Clinton thăm Việt Nam tuần tới

2012-07-05

Ngoại trưởng Hoa Kỳ, Hillary Clinton, sẽ đến thăm Việt Nam vào ngày 10 tháng 7 tới đây.

anhbasam-BTV: Không riêng gì người Việt bị Trung Quốc lừa trong “cuộc chiến chống Mỹ cứu nước”, để giúp Trung Quốc  “đánh Mỹ cho tới người Việt Nam cuối cùng”, mà chính Mỹ cũng bị vướng vào kịch bản của Mao. Mời bà con xem lại bài phát biểu của TNS Robert Kennedy hồi tháng 3-1968, tại trường ĐH Kansas State University, trong đó có đoạn: “Mao Trạch Đông và các đồng chí Trung Quốc yên lặng ngồi nhìn: [Việt Nam] đánh Mỹ đến người Việt Nam cuối cùng. Họ xem chúng ta làm suy yếu một nước, là hàng rào vững chắc chống lại sự bành trướng của Trung Quốc xuống phía Nam… Như một nhà quan sát Mỹ đã nói: ‘chúng ta dường như đang bị chơi đúng kịch bản mà Mao đã viết ra’.” Bốn mươi bốn năm sau bài phát biểu của Robert Kennedy, mọi sự đã rõ ràng!

bài phát biểu của TNS Robert Kennedy

Primary Sources: Comments on the War in Vietnam

 

Robert Kennedy spoke at Kansas State University on March 18, 1968 as part of the Alfred M. Landon Lectures on Public Issues. Kennedy had announced his candidacy for president only two days before, and he encountered an enthusiastic crowd. His speech addressed the dire consequences of the war in Vietnam and criticized the course of action taken by the Johnson administration.

Conflict in Vietnam and at Home
The reason I'm here is that someone sent me a history of this city. And I found out that it was founded by people from Chicago who came to Kansas to found a town named Boston which they later changed to Manhattan. So I knew I'd be right at home.

I am proud to come here at the invitation of Alfred M. Landon. I met him at the White House when he visited there. I know how highlyPresident Kennedy respected Governor Landon, and the continuing contribution he made -- and still makes -- to the public life of the country.

I am also glad to come to the home of another Kansan who wrote,

"If our colleges and universities do not breed men who riot, who rebel, who attack life with all the youthful vision and vigor then there is something wrong with our colleges. The more riots that come on college campuses, the better world for tomorrow."

The man who wrote these words was that notorious seditionist, William Allen White -- the late editor of the Emporia Gazette and one of the giants of American journalism. He is an honored man today; but when he lived and wrote, he was often reviled on your campus and across the nation as an extremist -- or worse. For he spoke as he believed. He did not conceal his concern in comforting words; he did not delude his readers or himself with false hopes and illusions. It is in this spirit that I wish to speak today.

A Year of Choice
For this is a year of choice -- a year when we choose not simply who will lead us, but where we wish to be led; the country we want for ourselves -- and the kind we want for our children. If in this year of choice we fashion new politics out of old illusions, we insure for ourselves nothing but crisis for the future -- and we bequeath to our children the bitter harvest of those crises.

For with all we have done, with all our immense power and richness, our problems seem to grow not less, but greater. We are in a time of unprecedented turbulence, of danger and questioning. It is at its root a question of the national soul. The president calls it "restlessness;" while cabinet officers and commentators tell us that America is deep in a malaise of the spirit -- discouraging initiative, paralyizing will and action, dividing Americans from one another by their age, their views, and the color of their skins.

There are many causes. Some are in the failed promise of America itself: in the children I have seen, starving in Mississippi; idling their lives away in the ghetto; committing suicide in the despair of Indian reservations; or watching their proud fathers sit without work in the ravaged lands of Eastern Kentucky. Another cause is in our inaction in the face of danger. We seem equally unable to control the violent disorder within our cities -- or the pollution and destruction of the country, of the water and land that we use and our children must inherit. And a third great cause of discontent is the course we are following in Vietnam: in a war which has divided Americans as they have not been divided since your state was called "bloody Kansas."

Crisis of Confidence
All this -- questioning and uncertainty at home, divisive war abroad -- has led us to a deep crisis of confidence; in our leadership, in each other, and in our very self as a nation.

Today I would speak to you of the third of those great crises: of the war in Vietnam. I come here, to this serious forum in the heart of the nation to discuss with you why I regard our policy there as bankrupt: not on the basis of emotion, but fact; not, I hope, in clichés -- but with a clear and discriminating sense of where the national interest really lies.

I do not want -- as I believe most Americans do not want -- to sell out American interests, to simply withdraw, to raise the white flag of surrender. That would be unacceptable to us as a country and as a people. But I am concerned -- as I believe most Americans are concerned -- that the course we are following at the present time is deeply wrong. I am concerned -- as I believe most Americans are concerned -- that we are acting as if no other nations existed, against the judgment and desires of neutrals and our historic allies alike. I am concerned -- as I believe most Americans are concerned -- that our present course will not bring victory; will not bring peace; will not stop the bloodshed; and will not advance the interests of the United States or the cause of peace in the world.

I am concerned that, at the end of it all, there will only be more Americans killed; more of our treasure spilled out; and because of the bitterness and hatred on every side of this war, more hundreds of thousands of Vietnamese slaughtered; so that they may say, as Tacitus said of Rome: "They made a desert, and called it peace."

And I do not think that is what the American spirit is really all about.

Let me begin this discussion with a note both personal and public. I was involved in many of the early decisions on Vietnam, decisions which helped set us on our present path. It may be that the effort was doomed from the start; that it was never really possible to bring all the people of South Vietnam under the rule of the successive governments we supported -- governments, one after another, riddled with corruption, inefficiency, and greed; governments which did not and could not successfully capture and energize the national feeling of their people. If that is the case, as it well may be, then I am willing to bear my share of the responsibility, before history and before my fellow-citizens. But past error is no excuse for its own perpetuation. Tragedy is a tool for the living to gain wisdom, not a guide by which to live. Now as ever, we do ourselves best justice when we measure ourselves against ancient tests, as in the Antigone of Sophocles: "All men make mistakes, but a good man yields when he knows his course is wrong, and repairs the evil. The only sin is pride."

Reversals and Escalations
The reversals of the last several months have led our military to ask for 206,000 more troops. Recently, it was announced that some of them -- a "moderate" increase, it was said -- would soon be sent. But isn't this exactly what we have always done in the past? If we examine the history of the conflict, we find the dismal story repeated time after time. Every time -- at every crisis -- we have denied that anything was wrong; sent more troops; and issued more confident communiques. Every time, we have been assured that this one last step would bring victory. And every time, the predictions and promises have failed and been forgotten, and the demand has been made again for just one more step up the ladder.

But all the escalations, all the last steps, have brought us no closer to success than we were before. Rather, as the scale of the fighting has increased, South Vietnamese society has become less and less capable of organizing or defending itself, and we have more and more assumed the whole burden of the war. In just three years, we have gone from 16,000 advisors to over 500,000 troops; from no American bombing North or South, to an air campaign against both, greater than that waged in all the European theater in World War II; from less than 300 American dead in all the years prior to 1965, to more than 500 dead in a single week of combat in 1968.

And once again the President tells us, as we have been told for twenty years, that "we are going to win;" "victory" is coming.

But what are the true facts? What is our present situation?

The Present Situation
First, our control over the rural population -- so long described as the key to our efforts -- has evaporated. The vice president tells us that the pacification program has "stopped". In the language of other high officials, it is a "considerable setback," with "loss of momentum," "some withdrawal from the countryside," "a significant psychological setback both on the part of pacification people themselves and the local population." Reports from the field indicate that the South Vietnamese Army has greatly increased its tendency to "pull into its compounds in cities and towns, especially at night, reduce its patrolling, and leave the militia and revolutionary development cadres open to enemy incursion and attack." Undoubtedly, this is one reason why, over two recent weeks, our combat deaths -- 1,049 -- were so much greater than those of the South Vietnamese -- 557. Like it or not, the government of South Vietnam is pursuing an enclave policy. Its writ runs where American arms protect it: that far and no farther. To extend the power of the Saigon government over its own country, we now can see, will be in essence equivalent to the reconquest and occupation of most of the entire nation.

Let us clearly understand the full implications of that fact. The point of our pacification operations was always described as "winning the hearts and minds" of the people. We recognized that giving the countryside military security against the Viet Cong would be futile -- indeed that it would be impossible -- unless the people of the countryside themselves came to identify their interests with ours, and to assist not the Viet Cong, but the Saigon government. For this we recognized that their minds would have to be changed -- that their natural inclination would be to support the Viet Cong, or at best remain passive, rather than sacrifice for foreign white men, or the remote Saigon government.

It is this effort that has been most gravely set back in the last month. We cannot change the minds of people in villages controlled by the enemy. The fact is, as all recognize, that we cannot reassert control over those villages now in enemy hands without repeating the whole process of bloody destruction which has ravaged the countryside of South Vietnam throughout the last three years. Nor could we thus keep control without the presence of millions of American troops. If, in the years those villages and hamlets were controlled by Saigon, the government had brought honesty, social reform, land -- if that had happened, if the many promises of a new and better life for the people had been fulfilled -- then, in the process of reconquest, we might appear as liberators: just as we did in Europe, despite the devastation of war, in 1944-45. But the promises of reform were not kept. Corruption and abuse of administrative power have continued to this day. Land reform has never been more than an empty promise. Viewing the performance of the Saigon government over the last three years, there is no reason for the South Vietnamese peasant to fight for the extension of its authority or to view the further devastation that effort will bring as anything but a calamity. Yet already the destruction has defeated most of our own purposes. Arthur Gardiner is the former chief of the United States AID mission in South Vietnam, and currently executive director of the International Voluntary Services. He tells us that we are "creating more Viet Cong than we are destroying" -- and "increasing numbers of Vietnamese are becoming benevolently neutral toward the Viet Cong." As a consequence, the political war -- so long described as the only war that counts -- has gone with the pacification program that was to win it. In a real sense, it may now be lost beyond recall.

Our Regressive Ally
The second evident fact of the last two months is that the Saigon government is no more or better an ally than it was before; that it may even be less; and that the war inexorably is growing more, not less, an American effort. American officials continue to talk about a government newly energized, moving with "great competence," taking hold "remarkably well," doing "a very, very good piece of work of recovery." I was in the executive branch of the government from 1961 to 1964. In all those years, we heard the same glowing promises about the South Vietnamese government: corruption would soon be eliminated, land reform would come, programs were being infused with new energy. But those were not the facts then, and they are not the facts today. The facts are that there is still no total mobilization: no price or wage controls, no rationing, no overtime work. The facts are, as a Committee of the House of Representatives has told us, that land reform is moving backward, with the government forces helping landlords to collect exorbitant back rents from the peasantry. The facts are that 18-year-old South Vietnamese are still not being drafted; though now, as many times in the past, we are assured that this will happen soon. The facts are that thousands of young South Vietnamese buy their deferments from military service while American Marines die at Khe Sanh.

The facts are that the government has arrested monks and labor leaders, former presidential candidates and government officials -- including prominent members of the Committee for the Preservation of the Nation, in which American officials placed such high hopes just a few weeks ago.

Meanwhile, the government's enormous corruption continues, debilitating South Vietnam and crippling our effort to help its people. Committees of the Senate and House of Representatives have officially documented the existence, extent, and results of this corruption: American AID money stolen, food diverted from refugees, government posts bought and sold while essential tasks remain undone. A subcommittee of the Senate Committee on Government Operations has reported that the Vietnamese Collector of Customs had engaged in smuggling gold and opium -- and that he was protected by figures even higher in the government. President Johnson has responded to criticism of corruption in Vietnam by reminding us that there is stealing in Beaumont, Texas. I for one do not believe that Beaumont is so corrupt. I do not believe that any public official, in any American city, is engaged in smuggling gold and dope: selling draft deferments, or pocketing millions of dollars in U.S. government funds. But however corrupt any city in the United States may be, that corruption is not costing the lives of American soldiers; while the pervasive corruption of the government of Vietnam, as an American official has told us, is a significant cause of the prolongation of the war and the continued American casualties. As this government continues on its present course, and our support for it continues, the effect can only be to leave us totally isolated from the people of Vietnam. Our fighting men deserve better than that.

The Cost of Destruction
Third, it is becoming more evident with every passing day that the victories we achieve will only come at the cost of destruction for the nation we once hoped to help. Even before this winter, Vietnam and its people were disintegrating under the blows of war. Now hardly a city in Vietnam has been spared from the new ravages of the past two months. Saigon officials say that nearly three quarters of a million refugees have been created, to add to the existing refugee population of two million or more. No one really knows the number of civilian casualties. The city of Hue, with most of the country's cultural and artistic heritage, lies in ruins: Of its population of 145,000, fully 118,000 are said to be homeless. There is not enough food, not enough shelter, not enough medical care. There is only death and misery and destruction.

An American commander said of the town of Ben Tre, "it became necessary to destroy the town in order to save it." It is difficult to quarrel with the decision of American commanders to use air power and artillery to save the lives of their men; if American troops are to fight for Vietnamese cities, they deserve protection. What I cannot understand is why the responsibility for the recapture and attendant destruction of Hue, and Ben Tre and the others, should fall to American troops in the first place.

If Communist insurgents or invaders held New York or Washington or San Francisco, we would not leave it to foreigners to take them back, and destroy them and their people in the process. Rather I believe there is not one among us who would not tear the invaders out with his bare hands, whatever the cost. There is no question that some of the South Vietnamese Army fought with great bravery. The Vietnamese -- as these units, and the Viet Cong have both shown us -- are a courageous people. But it is also true that a thousand South Vietnamese soldiers, in Hue on leave for Tet, hid among the refugees for three weeks, making no attempt to rejoin their units or join the town's defense; among them was a full colonel. And it is also true that in the height of the battle of Hue, as trucks brought back American dead and wounded from the front lines, millions of Americans could see, on their television screens, South Vietnamese soldiers occupied in looting the city those Americans were fighting to recapture.

If the government's troops will not carry the fight for their cities, we cannot ourselves destroy them. That kind of salvation is not an act we can presume to perform for them. For we must ask our government -- we must ask ourselves: where does such logic end? If it becomes "necessary" to destroy all of South Vietnam in order to "save it", will we do that too? And if we care so little about South Vietnam that we are willing to see the land destroyed and its people dead, then why are we there in the first place?

Can we ordain to ourselves the awful majesty of God -- to decide what cities and villages are to be destroyed, who will live and who will die, and who will join the refugees wandering in a desert of our own creation? If it is true that we have a commitment to the South Vietnamese people, we must ask, are they being consulted -- in Hue, or Ben Tre, or in the villages from which the 3 million refugees have fled? If they believe all the death and destruction are a lesser evil than the Viet Cong, why did they not warn us when the Viet Cong came into Hue, and the dozens of other cities, before the Tet Offensive? Why did they not join the fight?

Will it be said of us, as Tacitus said of Rome: "They made a desert and called it peace?"

It is also said that we are protecting Thailand -- or perhaps Hawaii -- from the legions of the Communists. Are we really protecting the rest of Southeast Asia by this spreading conflict? And in any case, is the destruction of South Vietnam and its people a permissible means of defense?

Let us have no misunderstanding. The Viet Cong are a brutal enemy indeed. Time and time again, they have shown their willingness to sacrifice innocent civilians, to engage in torture and murder and despicable terror to achieve their ends. This is a war almost without rules or quarter. There can be no easy moral answer to this war, no one-sided condemnation of American actions. What we must ask ourselves is whether we have a right to bring so much destruction to another land, without clear and convincing evidence that this is what its people want. But that is precisely the evidence that we do not have. What they want is peace, not dominated by any outside force. And that is what we are really committed to help bring them, not in some indefinite future, but while some scraps of life remain still to be saved from the holocaust.

Our Weakening World Position
The fourth fact that is now more clear than ever is that the war in Vietnam, far from being the last critical test for the United States is in fact weakening our position in Asia and around the world, and eroding the structure of international cooperation which has directly supported our security for the past three decades. In purely military terms, the war has already stripped us of the graduated-response capability that we have labored so hard to build for the last seven years. Surely the North Koreans were emboldened to seize the Pueblo because they knew that the United States simply cannot afford to fight another Asian war while we are so tied down in Vietnam. We set out to prove our willingness to keep our commitments everywhere in the world. What we are ensuring instead is that it is most unlikely that the American people would ever again be willing to again engage in this kind of struggle. Meanwhile our oldest and strongest allies pull back to their own shores, leaving us alone to police all of Asia; while Mao Tse-Tungand his Chinese comrades sit patiently by, fighting us to the last Vietnamese: watching us weaken a nation which might have provided a stout barrier against Chinese expansion southward; hoping that we will further tie ourselves down in protracted war in Cambodia, Laos, Thailand; confident, as it is reported from Hong Kong, that the war in Vietnam "will increasingly bog down the United States, sapping its resources, discrediting its power pretensions, alienating its allies, fraying its ties with the Soviet Union, and aggravating dissensions among Americans at home." As one American observer puts it, truly, "We seem to be playing the script the way Mao wrote it."

All this bears directly and heavily on the question of whether more troops should now be sent to Vietnam -- and if more are sent, what their mission will be. We are entitled to ask -- we are required to ask -- how many more men, how many more lives, how much more destruction will be asked, to provide the military victory that is always just around the corner, to pour into this bottomless pit of our dreams?

But this question the Administration does not and cannot answer. It has no answer -- none but the ever-expanding use of military force and the lives of our brave soldiers, in a conflict where military force has failed to solve anything in the past. The President has offered to negotiate -- yet this weekend he told us again that he seeks not compromise but victory, "at the negotiating table if possible, on the battlefield if necessary." But at a real negotiating table, there can be no "victory" for either side; only a painful and difficult compromise. To seek victory at the conference table is to ensure that you will never reach it. Instead, the war will go on, year after terrible year -- until those who sit in the seats of high policy are men who seek another path. And that must be done this year.

For it is long past time to ask: what is this war doing to us? Of course it is costing us money -- fully one-forth of our federal budget -- but that is the smallest price we pay. The cost is in our young men, the tens of thousands of their lives cut off forever. The cost is in our world position -- in neutrals and allies alike, every day more baffled by and estranged from a policy they cannot understand.

The Price We Pay
Higher yet is the price we pay in our own innermost lives, and in the spirit of our country. For the first time in a century, we have open resistance to service in the cause of the nation. For the first time perhaps in our history, we have desertions from our army on political and moral grounds. The front pages of our newspapers show photographs of American soldiers torturing prisoners. Every night we watch horror on the evening news. Violence spreads inexorably across the nation, filling our streets and crippling our lives. And whatever the costs to us, let us think of the young men we have sent there: not just the killed, but those who have to kill; not just the maimed, but also those who must look upon the results of what they do.

It may be asked, is not such degradation the cost of all wars? Of course it is. That is why war is not an enterprise lightly to be undertaken, nor prolonged one moment past its absolute necessity. All this -- the destruction of Vietnam, the cost to ourselves, the danger to the world -- all this we would stand willingly, if it seemed to serve some worthwhile end. But the costs of the war's present course far outweigh anything we can reasonably hope to gain by it, for ourselves or for the people of Vietnam. It must be ended, and it can be ended, in a peace of brave men who have fought each other with a terrible fury, each believing he and he alone was right. We have prayed to different gods, and the prayers of neither have been answered fully. Now, while there is still time for some of them to be partly answered, now is the time to stop.

What We Can Do
And the fact is that much can be done. We can -- as I have urged for two years, but as we have never done -- negotiate with the National Liberation Front. We can -- as we have never done -- assure the Front a genuine place in the political life of South Vietnam. We can -- as we are refusing to do today -- begin to deescalate the war, concentrate on protecting populated areas, and thus save American lives and slow down the destruction of the countryside. We can -- as we have never done -- insist that the government of South Vietnam broaden its base, institute real reforms, and seek an honorable settlement with their fellow countrymen.

This is no radical program of surrender. This is no sell-out of American interests. This is a modest and reasonable program, designed to advance the interests of this country and save something from the wreckage for the people of Vietnam.

This program would be far more effective than the present course of this Administration -- whose only response to failure is to repeat it on a larger scale. This program, with its more limited costs, would indeed be far more likely to accomplish our true objectives.

And therefore even this modest and reasonable program is impossible while our present leadership, under the illusion that military victory is just ahead, plunges deeper into the swamp that is our present course.

So I come here today, to this great university, to ask for your help: not for me, but for your country and for the people of Vietnam. You are the people, as President Kennedy said, who have "the least ties to the present and the greatest ties to the future." I urge you to learn the harsh facts that lurk behind the mask of official illusion with which we have concealed our true circumstances, even from ourselves. Our country is in danger: not just from foreign enemies; but above all, from our own misguided policies -- and what they can do to the nation that Thomas Jefferson once told us was the last, best, hope of man. There is a contest on, not for the rule of America, but for the heart of America. In these next eight months, we are going to decide what this country will stand for -- and what kind of men we are. So I ask for your help, in the cities and homes of this state, into the towns and farms: contributing your concern and action, warning of the danger of what we are doing -- and the promise of what we can do. I ask you, as tens of thousands of young men and women are doing all over this land, to organize yourselves, and then to go forth and work for new policies -- work to change our direction -- and thus restore our place at the point of moral leadership, in our country, in our own hearts, and all around the world.

Robert F. Kennedy, March 18, 1968, Landon Lecture at Kansas State University, Manhattan, Kansas. Used with permission. May not be reproduced without permission of the Landon Lectures, Kansas State University.

 

- Loạt bài về chiến tranh Việt Nam: Còn phải đổ nhiều máu (Der Spiegel/ Phan Ba). “Người Trung Quốc đỏ thì lộ rõ vẻ thù địch, những người trước nay bao giờ cũng muốn chiến đấu ở Việt Nam cho tới người Việt Nam cuối cùng. Họ cảnh báo Hà Nội trước ‘những mưu mẹo của tên bịp bợm Johnson’, yêu cầu chiến đấu tới cùng và đe dọa cắt tiếp tế cho các đồng chí muốn thỏa hiệp”.


War and prejudice: Reality check in Vietnam (The Africa Report).

Biển Đông: China walks tightrope over troubled waters (Asia Times 6-7-12)
Biển Đông: Roiling the waters (Economist 7-7-12) -- "Tensions rise between China and Vietnam in the South China Sea"
 
Việt Nam: ngoại giao và nội trị (viet-studies 5-7-12) -- Bài này rất hay vì có cho đường link đến... viet-studies!
Đàn áp: Hệ lụy của lần xuống đường chống Trung Quốc hôm 1/7/2012 (RFA 4-7-12)


Bí thư Ðà Nẵng 'cứng rắn' với Trung Quốc Nguoi Viet Online
Ông Nguyễn Bá Thanh, bí thư Thành Ủy Ðà Nẵng, kiêm chủ tịch Hội Ðồng Nhân Dân, vừa đưa ra lời phát biểu cứng rắn, khi đề cập đến việc Trung Quốc thành lập thành phố Tam Sa, trong đó có Hoàng Sa, thuộc chủ quyền của Việt Nam.

Đà Nẵng lên án ‘thành phố Tam Sa’ (BBC). - Ngạc nhiên về tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc (LĐ).
- Philippines phản đối lập TP Tam Sa (PLTP).  – Manila Protests New Chinese City (WSJ). ‎    -  China to build research center in S China Sea (China Daily). - Trung Quốc vẫn cố tình gây căng thẳng ở biển Đông (ĐV).
- Tranh chấp Biển Đông: chính trị trùm lên luật pháp và kinh tế (NCBĐ).  – Biển Đông: Câu chuyện về cá (Foreign Policy/NCBĐ).  – Mỹ tính toán trong khi tái quân bình trọng tâm quân sự ở Châu Á (VOA).
- An ninh biển Đông là quan tâm chung của ASEAN(TTXVN).
- Thứ trưởng Ngoại giao Anh: Cần tôn trọng luật pháp quốc tế khi giải quyết tranh chấp ở biển Đông (TN). 
Trung Quốc: thành viên lá mặt lá trái của UNCLOS
SGTT.VN - Tham gia nhưng không tuân theo, rõ ràng UNCLOS là một cái ô rất hiệu quả đối với Trung Quốc trên cả hai phương diện là tranh giành và bảo vệ lợi ích, với kỹ thuật “lộng giả thành chân”. 

- Người dân Trung Quốc đang bị kích động (TT). “Gần 80% ủng hộ Trung Quốc “sử dụng vũ lực để đập tan các hành động gây hấn và xâm phạm” trên biển Đông. Chỉ vỏn vẹn 16,6% là nói không.”  - Bá quyền Biển Đông: Chiến lược hay liều lĩnh? (TVN). - Chín con rồng đang khuấy động Biển Đông (JapanTimes/TVN).  - Từ Khu hành chính Hải Nam đến “TP.Tam Sa” (TN).


- Viết Lê Quân: Vì sao người giàu Trung Quốc “không yêu nước”? (P.2) (DNSG). Vì sao người giàu Trung Quốc “không yêu nước”? (P.1).

Tại sao bóng đá Trung Quốc lại tệ như thế? One Billion Fans, One Terrible Team: Why is China’s National Soccer Team So Bad? (The New Republic 3-7-12)
Nạn bằng cấp giả ở Trung Quốc: A quick study (Economist 7-7-12) -- Bogus degrees from non-existent colleges cause headaches for employers

- Mạng TQ ‘hoạt động không phép’ ở VN (BBC).

 – ‘Chống quan điểm sai của phương Tây’ (BBC).  Trùm công an, tòa án Trung Quốc cảnh cáo chống Tây phương Nguoi Viet Online
Bộ trưởng Công An Trung Quốc vừa lên tiếng kêu gọi đảng Cộng Sản hãy chống lại các cuộc tấn công của thế giới Tây phương nhắm vào hệ thống chính trị và pháp lý của quốc gia này, trong các lời phát biểu được đưa ra ngay trước thời điểm có cuộc thay đổi nhân sự lãnh đạo mỗi mười năm. 
- Chính sách ‘bàn tay sắt’ với Tân Cương (BBC).  – TQ ‘tăng cường đàn áp’ ở Tân Cương.  – Ân xá Quốc tế: Trung Quốc tiếp tục đàn áp người Uighur(VOA).  - 3 năm sau các cuộc bạo loạn, Tân Cương trở thành một ‘chế độ dùi cui’ (VOA). - TQ kiên quyết đàn áp mạnh tại Tân Cương (RFA).
- Chủ tịch Cuba bắt đầu chuyến thăm chính thức Trung Quốc  —  (RFI).
- Phe dân chủ Hồng Kông tìm cách truất phế tân lãnh đạo Lương Chấn Anh  —  (RFI).

- Tìm hiểu cách thức Trung Quốc kiểm duyệt internet – Kỹ thuật tân tiến cho biết tại sao Trung Quốc kiểm soát thông tin  mạng (WSJ/ Ba Sàm).

Wall Street Journal

Kỹ thuật tân tiến cho biết tại sao Trung Quốc kiểm soát thông tin  mạng

Tác giả: Paul Mozur

Người dịch: Trần Văn Minh

03-07-2012

Chính phủ Trung Quốc không phải là chính phủ duy nhất chú ý tới những gì người dân bàn luận trên các trang mạng xã hội. 

Khi 500 triệu người sử dụng internet ở Trung Quốc tiếp cận các trang mạng xã hội, giới học giả và các nhà đầu tư tìm cách thu thập những tin tức trên mạng và các bài trên blog để hiểu thêm về những điều mà chính phủ kiểm duyệt – và ngay cả làm cách cách nào để tiên đoán nội dung kiểm duyệt.

Chính phủ Trung Quốc sử dụng kỹ thuật phần mềm và một đạo quân hàng ngàn người để kiểm soát internet, nhưng nhà nước dành phần lớn việc kiểm duyệt cho các công ty mạng xã hội như Sina, gỡ bỏ các bài viết vi phạm luật lệ địa phương và quốc gia được phát hành mỗi tuần. Thông thường, vài chữ hay câu nào đó, sẽ đụng phải kiểm duyệt, như cuộc tàn sát tại quảng trường Thiên An Môn, nhưng không thể hiểu toàn bộ [nguyên tắc kiểm duyệt].

 Các công ty mạng xã hội này thường để lại dấu tích rằng, họ xóa bỏ thông tin là do vấn đề kiểm duyệt – thay vì do tác giả hay vì một lý do kỹ thuật – bằng cách để lại các tín hiệu hay hình ảnh đặc biệt như hình hoạt họa của một cảnh sát mạng. Điều đó giúp các nhà nghiên cứu tìm ra các cơ cấu quyền lực thiếu trong sáng của Trung Quốc để kiểm soát người dân như cách nào.

Ông David Bandurski, một nhà nghiên cứu Dự án Thông tin Trung Quốc ở Đại học Hong Kong nói, “Hiện chúng tôi có một mức độ rõ ràng về kiểm duyệt mà chúng tôi chưa từng có”.

Ông King Wa Fu, một phó giáo sư nghiên cứu tại Đại học Hong Kong cho biết, đại học Hong Kong đã làm ra phần mềm gọi là WeiboScope, dùng để duyệt qua bài vở của trang mạng Weibo của công ty Sina, một trang mạng xã hội phổ biến giống như Twitter. Nhu liệu này được làm để tìm hiểu người dân Trung Quốc phản ứng với những tin tức khác nhau thế nào, nhưng cũng hữu ích để phân tích chiều hướng kiểm duyệt.  Ông King Wa Fu là người giúp chế tạo phần mềm WeiboScope này.

WeiboScope vận hành tương tự như công cụ tìm kiếm và quét qua khoảng 300.000 danh mục người sử dụng (user account), chú trọng tới những người có ảnh hưởng. Bên cạnh việc thu thập các bài viết về những chủ đề khác nhau và cho phép các nhà nghiên cứu tìm tài liệu bằng tiếng Anh, WeiboScope cũng có thể kiểm tra một một bài viết nhiều lần để biết có phải bài này đã bị chặn nên không thể truy cập. Nếu có, một tin báo lỗi cho biết rằng nó đã bị chặn, và WeiboScope cho bài đó đó vào danh sách các bài bị kiểm duyệt.

Các nhà nghiên cứu trong Dự án Thông tin Trung Quốc ở ĐH Hong Kong thường xuyên dùng WeiboScope để chỉ ra và lý giải những chủ đề bị cơ quan kiểm duyện nhắm tới trên trang mạng phổ biến của họ. 

Một bài viết bị gỡ bỏ cho thấy, cơ quan kiểm duyệt Trung Quốc đã bắt đầu ngăn chặn sự truy cập liên quan tới các cuộc biểu tình có kế hoạch ở Hong Kong trong dịp kỷ niệm ngày thành phố bị trao trả cho Trung Quốc, 3 ngày trước khi xảy ra biểu tình.  

Bài viết này cũng cho biết vì sao cần con người để duyệt qua các bài vở. Thay vì trực tiếp nói về các cuộc biểu tình, bài này đã dùng ‘một cơn bão đang tới’ làm tiếng lóng cho những gì sẽ xảy ra vào ngày kỷ niệm.  

Sau khi thu thập mọi dự kiện, thách thức kế tiếp là tìm hiểu ý nghĩa của nó. Ông Gary King, giáo sư Đại học Harvard gần đây đã tìm ra kỹ thuật phân tích thông tin mạng xã hội do ông phát hiện có thể áp dụng cho mô hình kiểm duyệt của Trung Quốc. Nó còn có khả năng tiên đoán các sự kiện quan trọng trước khi các sự kiện này xảy ra.     

Năm 2007, ông King là đồng sáng lập công ty Crimson Hexagon, chuyên đo lường cảm nhận của khách hàng qua các trang mạng xã hội cho những công ty lớn như Microsoft và Starbucks. Thay vì chỉ truy cập các từ khóa, phần mềm của Crimson dùng thuật toán để phân tích dữ liệu dựa trên một số những phân loại và chủ đề do người sử dụng xác định.

Năm ngoái, ông King đã dùng kho trữ dữ liệu truyền thông xã hội của Crimson để bắt đầu phân tích một số lớn dữ liệu truyền thông xã hội Trung Quốc bao gồm 11 triệu bài vở được đăng tải trên 1.382 diễn đàn Trung Quốc.

Ông King đã chọn 85 chủ đề thuộc giới hạn vấn đề nhạy cảm chính trị – từ các cuộc phản đối ở Nội Mông tới một trò chơi điện tử thông dụng – và phân loại bài vở dựa trên nội dung liên quan tới tin tức, chính sách nhà nước, khiêu dâm, kiểm duyệt và “hành động tập thể”, hay bài vở có thễ dẫn tới sự tập họp công cộng. Sau đó, ông King dùng nhu liệu Crimson để khảo sát xem bao nhiêu bài vở trong mỗi loại đã bị kiểm duyệt. 

Trong một báo cáo mới phát hành, ông King và các nhà nghiên cứu khác tìm thấy, 13% bài vở trên mạng xã hội đã bị kiểm duyệt.

Đáng chú ý là chính phủ thường để yên những phê bình gay gắt về các chính sách quốc gia và các nhà lãnh đạo chính quyền. Nhưng họ nhắm tới những bài vở kêu gọi biểu tình trong những biến cố quan trọng. Đề tài bị kiểm duyệt chặt chẽ nhất bao gồm sự thảo luận về Nội Mông và Tăng Thành (Zengcheng), sự bắt giữ nhà bất đồng chính kiến Ngải Vị Vị và các vụ đánh bom về tranh cướp đất đai ở Phúc Châu.

Như vậy, các vụ kiểm duyệt thường bỏ qua những lời bình luận của những người thuộc chủ nghĩa dân tộcvề tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc ở biển Đông, nhưng trong suốt cuộc tranh cãi với Việt Nam năm ngoái, họ đã xóa bỏ các bài viết liên qua tới chủ đề này, sợ rằng dân chúng xuống đường biểu tình.

Đề tài khiêu dâm và các lời bình về sự kiểm duyệt hầu như bị ngăn cấm hoàn toàn.

Đa số hành động kiểm duyệt xảy ra trong vòng 24 tiếng khi bài viết được đăng trên mạng. Ông King viết: “Đây là một thành quả tổ chức tuyệt vời, đòi hỏi sự chính xác giống như trong quân sự, trên bình diện rộng lớn”. Chính phủ phải quyết định điều gì cần kiểm duyệt, chuyển những điều đó tới hàng chục ngàn người để họ thực thi sự kiểm duyệt trong vòng 24 tiếng.   

Nhưng tìm ra lý do vì sao các bài viết bị biến mất chỉ là một nửa của trận đấu. Ông King nói, công ty của ông đang nhắm tới việc dùng nhu liệu để tiên đoán những hành động chính trị của Trung Quốc.

Như một phần trong bản phân tích, ông King thấy rằng nhịp độ kiểm duyệt gia tăng trong lúc Trung Quốc tranh cãi với Việt Nam, nhưng các bài viết về chuyện tranh chấp bị kiểm duyệt đã giảm xuống 5 ngày trước khi ký một hiệp ước hòa bình bất ngờ [với Việt Nam] hồi tháng 6 năm 2011. Một ví dụ khác, các bài viết đề cập đến nhà hoạt động chính trị Ngải Vị Vị bắt đầu giảm bớt vài ngày trước khi ông bị bắt.

Ông King nói: “Hàng trăm ngàn người tham gia để giúp chính phủ giữ bí mật… và một nghịch lý thú vị là, một kế hoạch khổng lồ như thế được thiết kế để không cho dân chúng biết (tin tức), thực sự đã tự lộ ra. Một con voi đã để lại các dấu chân lớn”.

Công ty Crimson Hexagon đã dùng phần mềm – mà ông King nhận bản quyền hồi tháng 5 [năm 2012] – để giúp những công ty khác hiểu sự khác biệt về việc nhận biết danh hiệu qua những dịch vụ đăng ký và cố vấn.

Nhưng công ty này nói rằng họ có nhiều hy vọng vào thị trường Trung Quốc. Do phần mềm này đặt căn bản chung quanh sự phân loại của một người về các bài viết trên mạng xã hội, nó có thể dễ dàng vượt qua rào cản ngôn ngữ và văn hóa, và điều này có nghĩa là nó có thể giúp thêm nhiều công ty hiểu được người khách hàng thầm lặng Trung Quốc nghĩ thế nào về các công ty, hay ít nhất nói về họ ở trên mạng.

Ông King nói đây chỉ là khởi đầu. Ông hy vọng có thể bẻ gẫy những dữ liệu kiểm duyệt về mặt địa lý để khảo sát sự khác biệt giữa chính sách kiểm duyệt toàn quốc và địa phương, và xem xét thêm về việc phải chăng chuyện xóa bỏ bài vở trên mạng internet có thể là điềm báo cho sự thay đổi chính sách.

Ông King không đơn độc. Những người khác, như các nhà nghiên cứu ở phân khoa Khoa học Máy tính của Đại học Carnegie Mellon, gần đây đã thực hiện một nghiên cứu rộng lớn về sự kiểm duyệt của Weibo, đang cố gắng tìm kiếm phương thức đã được giấu kín về tất cả các cuộc bàn thảo trên internet bị biến mất khỏi mạng điện tử ở Trung Quốc.  

Nguồn: Wall Street Journal

Bản tiếng Việt © Ba Sàm 2012

Bản tiếng Việt © Trần Văn Minh

 

 - Nghiên cứu mới tiết lộ cách thức kiểm duyệt Internet ở Trung Quốc.

 

Wall Street Journal

Tác giả: Paul Mozur

Người dịch: Dương Lệ Chi

14-06-2012

Được chứng minh rõ ràng là các cơ quan tuyên truyền của Trung Quốc sử dụng nhiều kỹ thuật khác nhau để kiểm soát thông tin lan truyền trên các mạng xã hội, nhưng một nghiên cứu mới cho thấy, phòng tuyến cuối cùng của chính phủ là một đội quân kiểm duyệt, những người cắt bỏ các bài viết, đang hoạt động khác hẳn so với những gì chúng ta nghĩ trước đây.

Thay vì đơn giản là kiểm duyệt các chủ đề quan trọng của chính phủ hoặc các chủ đề làm cho Trung Quốc trông có vẻ xấu đi, nghiên cứu này tìm thấy, những người kiểm duyệt ở Trung Quốc đặc biệt nhắm vào mục tiêu là các bài viết có thể dẫn đến biểu tình hoặc các hình thức hành động tập thể khác, [ngoài sự kiểm duyệt các bài viết đó], một không gian rộng lớn còn lại dành cho những người sử dụng mạng ở Trung Quốc chỉ trích chính phủ.

 Một nghiên cứu gần đây đã được Institute for Quantitative Social Science, thuộc Đại học Harvard công bố, đã tiến hành các bước đầu tiên, sử dụng các xu hướng kiểm duyệt để dự đoán hành vi của chính phủ Trung Quốc, kiểm tra các trường hợp mà các sự kiện chính trị lớn xảy ra, được báo trước bởi những thay đổi quyết liệt trong cách thức kiểm duyệt.

Nghiên cứu này do ông Gary King, là một nhà khoa học chính trị của trường ĐH Harvard, cùng với hai ứng viên tiến sĩ là Jennifer Pan và Margaret Roberts thực hiện, nghiên cứu tập trung vào các blog và các bản tin, bỏ qua các tiểu blog nổi tiếng nhất ở Trung Quốc, giống như Twitter, được gọi là Weibo. Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu cung cấp kiến thức hữu ích mới về các biện pháp Trung Quốc kiểm duyệt thông tin trên mạng và mối quan hệ của cách thức kiểm duyệt đó đối với các hành động của chính phủ ở thế giới bên ngoài.

Ông King nói trong một cuộc phỏng vấn: “Đây là một chương trình rất lớn. Hàng trăm ngàn người tham gia để giúp chính phủ giữ bí mật… và nghịch lý thú vị là một chương trình to lớn như thế đã được thiết kế để không cho mọi người thấy những điều mà chính nó đã thực sự phơi bày. Một con voi để lại các dấu chân lớn“.

Ông King chỉ ra rằng, nghiên cứu này dựa vào các dữ liệu do công ty phân tích việc giám sát mạng truyền thông xã hội Crimson Hexagon thu thập, đã không xem xét các trang web mà Trung Quốc chặn thông qua hệ thống lọc Internet, được nhiều người biết đến như “Vạn Lý Hỏa Thành” hoặc kiểm duyệt nhiều  từ khóa nhạy cảm dùng để kiểm soát những điều mà người sử dụng ở Trung Quốc tìm kiếm và đăng bài trên các mạng truyền thông xã hội.

Ông King nói rằng, một cư dân mạng Trung Quốc bình thường có thể sử dụng lối chơi chữ khéo léo và mưu kế để đi vòng qua hai kỹ xảo đầu tiên, ông King lập luận rằng, mối đe dọa thực sự về tự do ngôn luận ở Trung Quốc đến từ đội quân kiểm duyệt, được cả chính phủ và các công ty Internet sử dụng, những người đã kiểm tra và xóa các bài viết đăng trên mạng xã hội.

Sau khi kiểm tra hơn 11 triệu bài đã được đăng trên 1.382 trang mạng truyền thông xã hội ở Trung Quốc, nghiên cứu này ước tính rằng khoảng 13% trong số tất cả các bài đăng trên blog ở Trung Quốc bị kiểm duyệt.

Tìm kiếm để xác định mối quan hệ giữa nội dung của một bài viết và khả năng bài đó sẽ bị kiểm duyệt, nghiên cứu này chia các bài thành ba nhóm, dựa vào độ nhạy cảm chính trị. Thể loại nhạy cảm nhất gồm các cụm từ như “Trần Quang Thành” (nhà hoạt động pháp lý khiếm thị, người mà gần đây đã trải qua sáu ngày ẩn trú bên trong Đại Sứ quán Hoa Kỳ ở TQ) và “Thiên An Môn”, các cụm từ bị xếp loại nhạy cảm trung bình như “chính sách một con” và “môi trường và ô nhiễm“, trong khi các cụm từ bị xếp loại ít nhạy cảm nhất, gồm các cụm từ như “giao thông ở Bắc Kinh” và tên của các trò chơi video phổ biến.

Tỷ lệ kiểm duyệt ở ba loại này chính xác hơn dự kiến, nghiên cứu cho thấy: các từ ở mức độ nhạy cảm nhất đã bị kiểm duyệt 24% thời gian, trong khi các từ nhạy cảm trung bình thì bị kiểm duyệt 17% và 16% cho những từ ít nhạy cảm nhất.

Kiểm tra lại dữ liệu, các nhà nghiên cứu tìm thấy, không phải tất cả các bài viết có vẻ nhạy cảm đã bị kiểm duyệt như nhau. Chẳng hạn như, khiếu nại về tình trạng thiếu điện trong mùa xuân năm 2011 và dự đoán về chấm dứt chính sách một con trong thời gian Quốc hội [đang họp] năm 2011, nói chung không bị ảnh hưởng.

“Chính quyền thành phố này đối xử khinh miệt, các quan chức chính phủ ở đây lồng lên như những kẻ điên, chính quyền thành phố mà không có công bằng, chính quyền thành phố khoái chuyện thô bỉ, nơi mà tất cả các quan chức đều có người tình“, một người sử dụng Internet nói huyên thiên trong một bài không kiểm duyệt, đã được bản nghiên cứu trích dẫn.

Nghiên cứu lưu ý: “Các bài mang tính tiêu cực không thể ngẫu nhiên vuột khỏi một hệ thống có kẻ hở hoặc không hoàn hảo. Bằng chứng cho thấy, kiểm duyệt không có ý định ngăn cản các bài viết, mà kiểm duyệt tập trung vào việc loại bỏ các bài có khả năng dẫn đến hành động tập thể, bất kể các bài đó có đánh ngã ban lãnh đạo Trung Quốc và các chính sách của họ ra ánh sáng hay không” .

Nghiên cứu phát hiện, sau vụ đánh bom phản đối việc cưỡng bức trục xuất tại tỉnh Phúc Kiến hồi tháng 5 năm 2011, các bài viết phê bình chính phủ đã bị cắt – kể cả những bài viết ủng hộ chính phủ [liên quan đến chủ đề này] cũng bị cắt. Nghiên cứu cũng tìm thấy rằng, các trang mạng truyền thông xã hội trong nước, chẳng hạn như các dịch vụ cung cấp thông báo ở địa phương cho dân chúng, giống như các bản tin trực tuyến, đang ngày càng bị kiểm duyệt sau khi các sự kiện cụ thể xảy ra ở một số khu vực nhất định.

Ví dụ như, sau trận động đất ở Nhật Bản năm 2011, các bài viết về i-ốt – mà nhiều người sai lầm đã tin rằng có thể giúp chống lại bức xạ – dẫn đến việc mọi người đổ xô mua muối ở các cửa hàng tạp hóa, đã được gỡ bỏ khỏi các dịch vụ địa phương, nhưng vẫn còn trên các diễn đàn quốc gia.

Bản nghiên cứu lập luận rằng, do “tổ chức tập thể và địa phương thì không được phép, nên kiểm duyệt, bất kể ủng hộ hay chỉ trích chính phủ”.

Nghiên cứu tìm thấy chỉ có hai trường hợp ngoại lệ: Các bài viết với nội dung khiêu dâm hoặc những lời chỉ trích sự kiểm duyệt internet ở Trung Quốc hầu như hoàn toàn bị cắt, bất kể khi nào người sử dụng đăng tải, hoặc mức độ của những lời chỉ trích.

Có lẽ không ngạc nhiên khi ông King lưu ý trong cuộc phỏng vấn rằng, kiểm duyệt dường như khắc nghiệt hơn về những lời chỉ trích sự kiểm duyệt hơn là chỉ trích chính phủ.

Ngạc nhiên hơn nữa là kết quả cho thấy, những thay đổi trong kiểm duyệt có thể được sử dụng để dự đoán các hành động chính trị quan trọng của các nhà chức trách Trung Quốc. Trong ba trường hợp — một hiệp ước với Việt Nam về tranh chấp ở Biển Đông (Nguyên văn: biển Hoa Nam), việc cách chức Vương Lập Quân, cựu cảnh sát trưởng Trùng Khánh và việc bắt giữ nhà bất đồng chính kiến họa sĩ Ngải Vị Vị – nghiên cứu cho thấy, có những thay đổi mạnh mẽ về cách kiểm duyệt diễn ra vài ngày trước khi các sự kiện xảy ra.

a) Việc bắt giữ Ngải Vị Vị; b) Hiệp ước hòa bình ở Biển Đông; c) Cách chức Vương Lập Quân (sự kiện Bạc Hy Lai).

Trường hợp ông Ngải, các nhà nghiên cứu để ý thấy rằng, xóa các bài viết về họa sĩ này bắt đầu gia tăng năm ngày trước khi ông bị bắt, trước cả bất kỳ dấu hiệu hoặc cảnh báo nào đưa ra công chúng về việc ông sẽ bị bắt giữ. Kiểm tra sự gia tăng trong việc xóa bỏ so với tốc độ kiểm duyệt các cuộc thảo luận của Ngải Vị Vị trong suốt cả năm, ông King tìm thấy, việc gia tăng kiểm duyệt theo thống kê là cao nhất trong năm.

Ông King viết: “Chúng tôi đưa ra giả thuyết rằng giới lãnh đạo Trung Quốc đã (nếu không ai để ý) quyết định hành động khoảng năm ngày trước và chuẩn bị cho điều đó bằng cách thay đổi mức độ kiểm duyệt để nó khác với điều lẽ ra phải như vậy”. Ông viết thêm rằng, hành vi kiểm duyệt “có vẻ tiên đoán được các hành động xảy ra sau đó, ở bên ngoài Internet, chuyện kiểm duyệt cung cấp thông tin cho dù các phương tiện truyền thông truyền thống im lặng”.

Ông King nói, các phát hiện của nhóm nghiên cứu ở Harvard trong việc tiên đoán sức mạnh của kiểm duyệt chỉ là sơ bộ, nhưng đó là chủ đề ông đang tiếp tục theo đuổi.

Nguồn: Wall Street Journal

Bản tiếng Việt © Ba Sàm 2012

 

Tổng số lượt xem trang