Thứ Tư, 29 tháng 8, 2012

Kinh tế Việt – Trung nhìn từ chính sách ‘cấm biên’: Hàng ngàn container “xếp hàng” vì chế tài của Trung Quốc

một số thương nhân Việt thường xuyên làm ăn với Trung Quốc đã mở tài khoản ngân hàng tại thành phố Đông Hưng (thuộc tỉnh Quảng Tây - Trung Quốc) để tiện giao dịch, thanh toán. Nhưng từ tháng 7/2012, bất ngờ đã bị phía Trung Quốc phong tỏa. Ngoài ra, một số người Việt Nam lao động theo các hợp đồng tại Trung Quốc khi về nước mang theo tiền lương cũng bị tịch thu tại cửa khẩu.
Trung Quốc siết nhập hàng Việt Nam (29/08/2012)

Trung Quốc là một trong những thị trường hàng đầu của Việt Nam, kể cả nhập khẩu cũng như xuất khẩu. Tổng giá trị hàng hóa buôn bán giữa hai nước không ngừng tăng lên trong những năm vừa qua. Tính riêng 2 quý đầu năm 2012, tổng giá trị kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam với Trung Quốc đạt hơn 19 tỷ USD. Những tháng gần đây, quan hệ buôn bán giữa hai nước phát sinh hiện tượng "lạ” chưa từng xảy ra: Trung Quốc đồng loạt "siết” nhập khẩu hàng hóa từ Việt Nam.





Hầu hết các mặt hàng, xuất cũng như nhập, đều đi qua cửa khẩu các tỉnh phía Bắc có biên giới với Trung Quốc. Việt Nam nhập khẩu của Trung Quốc đủ thứ hàng hóa, kể cả những loại trong nước thừa nguyên liệu và thừa tay nghề như là tăm tre... Ngành hàng nông - lâm - thủy sản là nhóm sản phẩm chủ lực của Việt Nam xuất khẩu sang Trung Quốc. Hàng hóa từ Trung Quốc sang Việt Nam và ngược lại như là dòng chảy không ngớt. Vậy mà những tháng gần đây "dòng chảy” hàng hóa từ Việt Nam sang Trung Quốc bị giảm mạnh. Tại một số cửa khẩu phía Bắc, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa từ Việt Nam sang Trung Quốc từ đầu năm đến nay giảm gần 50% so cùng kỳ năm ngoái. Nhiều mặt hàng nông sản (trước đây thương nhân Trung Quốc mua bằng hết) hiện thời xuất khẩu bị ngưng trệ, giảm sút hơn 30%. Kể cả những mặt hàng vốn là thế mạnh của Việt Nam, chẳng hạn như cao su, kim ngạch xuất khẩu có những tháng tăng trưởng âm gần 60%. Cùng một khu vực cửa khẩu, trong cùng thời điểm, xuất hiện tình trạng "nóng” và "lạnh” trái chiều. Bên Trung Quốc thì "lạnh” vì thờ ơ với hàng hóa nhập khẩu từ Việt Nam. Phía Việt Nam thì ngược lại, thị trường luôn luôn "nóng” bởi hàng hóa ùn ùn kéo đến cửa khẩu nhưng bị "giam lỏng” hết ngày này qua ngày khác. Hầu hết các cửa khẩu phía Bắc đang trở thành kho hàng ứ đọng. Nhiều mặt hàng thực phẩm tươi sống không thể lưu kho lâu ngày, buộc phải bán giá rẻ như cho, thậm chí bị hư hỏng đành phải vứt bỏ.

Đến hết quý 2-2012, phía Trung Quốc xuất khẩu sang Việt Nam với tổng giá trị 13 tỷ USD. Trong khi đó Việt Nam xuất khẩu sang Trung Quốc chỉ đạt hơn 6 tỷ USD. Trong 2 quý đầu năm 2012, Việt Nam nhập siêu từ Trung Quốc xấp xỉ 7 tỷ USD, bình quân mỗi tháng nhập siêu hơn 1 tỷ USD. Việt Nam nhập siêu từ Trung Quốc đã trở thành "căn bệnh” kinh niên, trong đó nhập siêu hàng tiêu dùng chiếm tỷ trọng không nhỏ. Những tháng gần đây, phía Trung Quốc "siết” nhập khẩu hàng Việt Nam, còn phía Việt Nam vẫn cứ "vô tư" nhập siêu từ Trung Quốc. Với hiện trạng đang diễn ra trên thị trường, nếu không có biện pháp ứng phó hữu hiệu, tình trạng nhập siêu từ Trung Quốc sẽ còn trầm trọng hơn.

Nhập khẩu nhiều hay ít, tăng cường hay siết chặt là quyền của đối tác. Cách hành xử của thương nhân Trung Quốc là gây "sốc” trong quan hệ buôn bán với nhiều doanh nghiệp Việt Nam. Không ít doanh nghiệp Việt Nam đang như cỗ xe băng băng trên đường bỗng dưng bị phanh gấp, chuyển hướng không kịp, thậm chí phải gánh chịu hậu quả nặng nề một cách oan uổng. Buôn bán trên thương trường mà không vì thị trường, tự mình hoặc bị giật dây để "len” vào đó ẩn ý phi kinh tế là cách kinh doanh rất không lành mạnh.
Bá Tân


 -đđk http://daidoanket.vn/index.aspx?chitiet=54634&menu=1372&style=1
-Tồn đọng hàng nghìn container tp-
TP - Những ngày gần đây, hàng ngàn container hàng hóa các loại bị ách tại cửa khẩu Móng Cái (Quảng Ninh). Nhiều container hàng đông lạnh đã bị hỏng và chủ hàng mang ra biển đổ gây ô nhiễm.


Container tồn đọng chất đầy khắp Móng Cái.

Theo báo cáo của UBND TP Móng Cái, hoạt động xuất nhập khẩu của địa phương này hiện giảm so với năm 2011 cả về kim ngạch và thuế. Hàng chục doanh nghiệp của Việt Nam đã ngừng hoạt động.

Một lãnh đạo Cty chuyên về hàng tạm nhập có máu mặt cho biết, hàng tạm nhập tái xuất (TNTX) là hàng của các chủ hàng Trung Quốc nhập về qua đường Việt Nam và tái xuất cho Trung Quốc.

Tuy nhiên, đây là loại hàng Trung Quốc cấm nhập. Vì lý do nhu cầu từ thị trường Trung Quốc nên nhiều địa phương có biên giới vẫn cho nhập loại hàng này.

Thời điểm này, tại Móng Cái vẫn tồn trên 3.000 container trong đó có khoảng 1.300 container là hàng đông lạnh chưa xuất được sang nước bạn.

Nhiều doanh nghiệp, vay tiền ngân hàng để lưu container, cắm điện để chờ xuất lấy tiền trả ngân hàng. Càng tắc lâu, tiền vay lãi mẹ đẻ lãi con. Đến nay đã có 86 doanh nghiệp của Móng Cái ngừng hoạt động chờ tín hiệu sáng sủa hơn.

Ông Dương Văn Thăng, Giám đốc Cty TNHH Minh Thăng cho biết, để lưu container hàng lạnh không bị hỏng mỗi công phải trả 80.000 đồng/giờ. Mỗi ngày 24 giờ cứ thế nhân lên, lưu container trong bãi 100.000 đồng/container.

Sở dĩ nhiều doanh nghiệp phải chở container tới Móng Cái vì cắm điện, lưu loại hàng này tại Hải Phòng giá cao hơn rất nhiều. Càng để lâu doanh nghiệp càng lỗ nặng…

Không chỉ có hàng đông lạnh TNTX, một số mặt hàng khác như cao su cũng xuất rất khó khăn khi họ yêu cầu phải xuất qua cửa khẩu, kể cả hàng có nguồn gốc động vật…

Ông Nguyễn Tiến Dũng, Phó Chủ tịch UBND TP Móng Cái cho biết, tình hình xuất khẩu hàng hóa qua biên mậu vốn là một trong những chính sách ưu tiên của các địa phương Trung Quốc và Việt Nam áp dụng từ lâu bởi thực tế doanh nghiệp Trung Quốc có nhu cầu thật sự về nguyên, vật liệu sản xuất.

Để tăng lợi nhuận, nhiều chủ hàng Trung Quốc trốn thuế. Ta xuất đúng luật nhưng có những doanh nghiệp bên kia tìm cách nhập lậu.

Những ngày này, tại TP Móng Cái, sự nhộn nhịp, sôi động của thành phố cửa khẩu dường như trầm lắng.

Các bãi container chất đống như núi khắp thành phố. Những cửu vạn, bốc vác thuê cũng hết việc. Nhiều chủ đò neo đò về nhà. Nhiều lao động bỏ về quê vì thiếu việc làm…

Vì đâu nên nỗi?

Theo ông Nguyễn Tiến Dũng, chính sách thương mại thông thường tại cửa khẩu là xuất khẩu hàng hóa qua đường chính ngạch.

Tuy nhiên, việc thua thiệt của doanh nghiệp ta là do quá ít thông tin về các chính sách của Trung Quốc.

Trong khi họ thay đổi rất nhanh bằng các hàng rào kỹ thuật. Các doanh nghiệp Việt thường bị động, tranh mua, tranh bán dẫn tới giảm giá và bị doanh nghiệp Trung Quốc ép giá.

Rất khó để hạn chế tình trạng này chỉ trừ khi chúng ta mạnh lên, các doanh nghiệp có thể thay xuất thô thành xuất tinh ra các thị trường khác.?

Một lãnh đạo Chi cục Hải Quan Móng Cái, Cục Hải quan Quảng Ninh cho biết, tình hình hiện rất khó khăn cho doanh nghiệp TNTX.

Chúng ta xuất đúng luật nhưng có khi phía Trung Quốc coi là nhập lậu. Bài toán cực kỳ khó giải. Hải quan chỉ còn biết tạo mọi điều kiện có thể để doanh nghiệp xuất được hàng càng sớm càng tốt.

Việc có hơn 1.000 container hàng đông lạnh TNTX tại Móng Cái đang tồn đọng thật sự là nỗi lo không chỉ về thương mại mà có nguy cơ ô nhiễm môi trường nghiêm trọng.

Mới đây, thành phố Móng Cái liên tiếp phát hiện tình trạng nhiều container đông lạnh chứa tai lợn bị hỏng, chủ hàng mang cả container đổ xuống biển gần Trà Cổ gây ô nhiễm cả vùng bãi sú vẹt.

Mùi hôi thối nồng nặc, có nguy cơ phát sinh dịch bệnh. Việc đổ trộm loại hàng này không phải hiếm tại Móng Cái.

Một doanh nghiệp cho biết, không xuất được hàng, chỉ cần vài tiếng một ngày không cắm điện là hàng đông lạnh hỏng. Nếu đem ra bãi thải xử lý đúng quy trình, doanh nghiệp lại mất một khoản phí rất lớn để xử lý, tiêu hủy. Do vậy nạn đổ trộm sẽ vẫn còn khi nhiều chủ hàng chấp nhận bỏ hàng trôi nổi vì hết tiền.

Ông Dương Văn Cơ, Chủ tịch UBND TP Móng Cái cho biết, đã có văn bản yêu cầu các ngành, đơn vị liên quan tăng cường kiểm soát việc đổ thải các loại hàng đông lạnh bị hỏng ra môi trường.

- Hàng ngàn container “xếp hàng” vì chế tài của Trung Quốc
(VietQ.vn) - Nhiều nhất là tại các cửa khẩu lớn ở Móng Cái (Quảng Ninh) và Tân Thanh (Lạng Sơn), đến thời điểm này đã có hàng ngàn container hàng hóa bị ách lại vì các chế tài từ phía Trung Quốc.
Xuất khẩu tôm sang Nhật Bản: Hai lần khó!
Việt Nam thành nước xuất khẩu cà phê số 1 thế giới
Xuất khẩu thực phẩm khô vào EU cần đảm bảo chất lượng
Theo Ban quản lý các khu cửa khẩu nói trên, hàng ngàn container hàng hóa của các doanh nghiệp nước ta đã ngưng trệ hoàn toàn hàng tháng trời chờ xuất vào Trung Quốc. Tại các khu cửa khẩu Ka Long, Bắc Luân... của khu vực Móng Cái, lượng hàng hóa được bốc dỡ và chuyển sang Trung Quốc rất ít và thường chỉ diễn ra trong khoảng thời gian ngắn vào đầu giờ chiều.

Hàng trăm xe hàng hóa ùn ứ tại cửa khẩu Tân Thanh - Lạng Sơn. Ảnh: N. M


Khác với trước đây, mỗi ngày có tới hàng trăm xe container được thông quan, nhưng trong vòng một tháng nay, mỗi ngày chỉ có 30- 40 xe được thông quan. Tại các cảng bốc hàng của sông Ka Long tình trạng cũng không khá hơn là mấy. Hơn 3.000 thuyền lớn nhỏ, nằm im lìm vài tháng nay vì hàng không được thông quan để chở.

Ông Nguyễn Văn Bắc - Phó chi cục trưởng Chi cục Hải quan Móng Cái cho biết, không có chuyện cấm biên hay mở biên, đây là cách hiểu và cách gọi nôm na của các doanh nghiệp.

“Tình trạng đìu hiu, xuất khẩu hàng gặp khó do phía Trung Quốc tăng cường kiểm dịch, quản lý hàng hóa nên doanh nghiệp Việt Nam gặp khó khăn trong giao nhận hàng với đối tác Trung Quốc” ông Bắc cho biết thêm.

Theo báo cáo của Chi cục Hải quan cửa khẩu Móng Cái, tính đến ngày 20/8 có 4.234 container hàng hóa các loại, trong đó hơn 1.000 xe hàng đông lạnh đang phải lưu giữ tại các kho bãi của cửa khẩu Ka Long, điểm thông quan Lục Lầm để bảo quản chờ xuất khẩu. Hiện có gần 300 xe hàng nằm án binh bất động tại các kho bãi này ít nhất bốn, năm tháng và được xếp vào loại hàng tồn quá hạn nhưng vẫn chưa thể xuất kho.

Hàng ngàn xe container đang ách tắc tại các cửa khẩu ở Móng Cái (Quảng Ninh). Ảnh: T. T


Tuy không trầm lắng như ở cửa khẩu Móng Cái, tại bốn cửa khẩu và ba lối mở thuộc Cục Hải quan Lạng Sơn quản lý, tình hình xuất nhập khẩu cũng chậm hơn hẳn so với tháng trước. Việc lưu thông hàng hóa giữa các cửa khẩu chậm không chỉ ảnh hưởng đến các doanh nghiệp, tài xế mà những người làm nghề bốc vác cũng bị ảnh hưởng.

Tại lối mở Bảo Lâm (thuộc cửa khẩu Hữu Nghị), đây là cửa khẩu xuất hàng của Việt Nam nhưng suốt 1km dọc đường vào lối mở này các xe tải xếp hàng nối đuôi nhau. “Hàng qua cửa khẩu này chủ yếu là tinh bột sắn, nhưng mấy tháng nay chậm lắm, mỗi ngày chỉ xuất được khoảng 40 xe (trước đây gần 100 xe)” - ông Nguyễn Đức Thiện - Phụ trách khu vực cửa khẩu Bảo Lâm, cho biết

****************

- Những động thái “lạ” tại cửa khẩu biên giới Móng Cái (CAND).

Tài khoản ngân hàng mà một số thương nhân Việt thường xuyên làm ăn với Trung Quốc mở tại thành phố Đông Hưng (thuộc tỉnh Quảng Tây - Trung Quốc) bất ngờ đã bị phía Trung Quốc phong tỏa. Ngoài ra, một số người Việt Nam lao động theo hợp đồng tại Trung Quốc khi về nước mang theo tiền lương cũng bị tịch thu tại cửa khẩu.
Từ giữa năm 2012 đến nay, hoạt động giao thương với Trung Quốc tại khu vực cửa khẩu Móng Cái (Quảng Ninh) đã có những dấu hiệu bất thường làm cho kim ngạch xuất nhập khẩu (XNK) giảm mạnh so với cùng kỳ và các tháng trước đó. Nguyên nhân ban đầu được xác định là do phía Trung Quốc tăng cường các hoạt động kiểm tra đối với hàng hóa nhập khẩu từ Việt Nam. Ngay cả những loại hàng hóa nguyên liệu thô, thủy sản đông lạnh vốn rất hút hàng thì nay cũng không dễ gì sang được bên kia biên giới.

Ông Nguyễn Tiến Dũng - Phó Chủ tịch UBND TP Móng Cái - xác nhận đúng là có những động thái không bình thường trong thời gian qua.

Với lợi thế thành phố cửa khẩu lớn nhất miền Bắc, Móng Cái thường xuyên có trên 400 DN tham gia hoạt động kinh doanh thương mại qua biên giới với Trung Quốc. Trung bình mỗi ngày có khoảng 450 container hàng hóa XNK, có trên 1.600 tàu, đò của Việt Nam tham gia vận chuyển hàng hóa chủ yếu trên sông Ka Long và bến Lục Lầm. Tổng kim ngạch XNK từ năm 2005 đến 2011 đạt 23.866 triệu USD và luôn trong xu thế tăng trưởng. Tuy nhiên, từ đầu năm 2012 đã có chỉ số giảm. Trong 7 tháng đầu năm, tổng kim ngạch XNK trên địa bàn thành phố đạt 2.607.641 triệu USD, chỉ bằng 78,9% so với cùng kỳ.

Hiện chưa cập nhật số liệu của tháng 8, nhưng nếu có thì chắc chắn giảm mạnh so với tháng trước. Mặt hàng xuất khẩu chủ yếu là nhóm hàng nông, lâm, thủy sản như cao su, tinh bột sắn, thuốc lá điếu… Thậm chí ngay cả khoáng sản than, loại hàng hóa thuộc loại đắt khách nhất, chạy nhất thì nay Trung Quốc cũng không có nhu cầu mua của Việt Nam, dù chính hay tiểu ngạch.

"Cấm biên" khiến cửa khẩu Móng Cái đìu hiu.

Chi cục Hải quan Móng Cái cũng cho biết, tính đến ngày 9/8/2012 trên địa bàn Móng Cái còn tồn 3.860 container, gần một nửa trong số đó với 1.314 container là hàng thực phẩm đông lạnh, phải dùng điện bảo quản tại các kho bãi chờ xuất.

Ông Nguyễn Văn Tính, Trưởng Trạm KSLH Km15 - Bến tàu Dân Tiến cho biết thêm, trước kia, thỉnh thoảng cũng có những đợt ứ hàng nhưng không kéo dài, trước sau gì cũng được xuất khẩu. Riêng đợt này, hầu như không có lô hàng nào xuất được sang Trung Quốc, hàng ứ đọng đã nhiều tháng và rất khó để biết cụ thể đến bao giờ thì những "công" hàng tồn đọng này mới được xuất biên. Đặc biệt, đối với hàng tạm nhập tái xuất thì việc ứ đọng lại thêm một gánh nặng nữa cho các lực lượng chức năng...

Một số doanh nghiệp Việt Nam kinh doanh XNK vì sốt ruột chờ đợi quá lâu đã tự thăm dò động tĩnh từ phía bên kia biên giới. Thông tin mà họ cung cấp cho chúng tôi là khoảng một tháng nay, phía Trung Quốc đã bố trí gần như dày đặc các nhà tạm (lán trại, nhà bằng vỏ container, bạt...) làm chốt điểm kiểm soát có vũ trang dọc chiều dài biên giới. Đáng ngại hơn, một số thương nhân Việt thường xuyên làm ăn với Trung Quốc đã mở tài khoản ngân hàng tại thành phố Đông Hưng (thuộc tỉnh Quảng Tây - Trung Quốc) để tiện giao dịch, thanh toán. Nhưng từ tháng 7/2012, bất ngờ đã bị phía Trung Quốc phong tỏa. Ngoài ra, một số người Việt Nam lao động theo các hợp đồng tại Trung Quốc khi về nước mang theo tiền lương cũng bị tịch thu tại cửa khẩu.

Cũng có nguồn tin không chính thức nói rằng, Trung Quốc tăng cường kiểm soát khu vực biên giới là nhằm bảo đảm an ninh phục vụ Đại hội Đảng Cộng sản Trung Quốc. Đợt 1 "cấm biên" đến hết ngày 31/8/2012, nhưng không rõ sau đó sẽ "mở" biên hay cấm tiếp đợt 2, đợt 3...

Trước tình hình trên, Bộ Công thương, Sở Công thương Quảng Ninh và UBND TP Móng Cái đã có cuộc họp khẩn cấp nhằm giải quyết những bế tắc hiện nay trong hoạt động XNK tại khu vực biên giới. Song, chưa có kiến giải quan trọng nào để cải thiện tình hình



- Báo TQ cáo buộc VN hạn chế phim TQ – (BBC). – Báo TQ chú ý Việt Nam giới hạn các chương trình TV nước ngoài(VOA). Bài trên Hoàn Cầu Thời báo: Vietnam limits Chinese TV broadcasts. - VN không thể thoát gọng kìm TQ? – (RFA).

- Trang web của Trung Quốc “đội lốt” tên miền Gmail.vn (DT). – Tên miền Gmail.vn bị chuyển sangwebsite Trung Quốc !? (TTXVA).

Trong tuần qua, một câu chuyện nổi lên trong lĩnh vực kinh tế là việc xuất khẩu hàng hóa của nhiều doanh nghiệp sang Trung Quốc đang có dấu hiệu bị gây khó khăn, đình trệ. Những thông tin từ hải quan các cửa khẩu ở các tỉnh có đường biên giới giáp Trung Quốc như Lào Cai, Lạng Sơn, Hà Giang…đều cho thấy có sự hạn chế, suy giảm rõ rệt về lượng hàng, kim ngạch xuất khẩu sang Trung Quốc mà không phải do nguyên nhân từ phía Việt Nam .

Những con số thống kê mới nhất đều chứng minh rõ xu hướng này. Tại Móng Cái (Quảng Ninh), tính đến nay, khu vực cửa khẩu này còn tồn hơn 3.800 container hàng hóa các loại, trên 1.300 container hàng để lâu ngày phải cắm điện bảo quản chờ xuất. Ở Lạng Sơn, như tại cửa khẩu Tân Thanh nếu như đầu năm bình quân mỗi ngày có khoảng 300-400 xe vận chuyển hàng hóa qua thì đến thời điểm này, theo Cục Hải quan Lạng Sơn, chỉ còn khoảng 100-200 xe/ngày. Khu vực cửa khẩu quốc tế Hữu Nghị cũng vậy, thông tin cho biết từ tháng 6 đến nay, hoạt động xuất khẩu đã giảm đáng kể…

Một ví dụ đáng suy nghĩ nhất là mới đây, một đoàn xe 6 chiếc chở 8 lô hàng của công ty TNHH Thương mại dịch vụ tổng hợp Hà Thành của Việt Nam chở hàng sang cho một đối tác Trung Quốc tại Pò Chài (Bằng Tường-Trung Quốc) đã bị Hải quan Trung Quốc giữ lại toàn bộ mà không nêu rõ lý do. Trong khi đó, theo kiểm tra hồ sơ của Cục Hải quan Lạng Sơn thì 8 lô hàng này đầy đủ giấy tờ, hóa đơn và không có gì vi phạm. Điều này cho thấy, việc hạn chế hàng xuất khẩu của Việt Nam có thể không chỉ nhằm vào hàng tiểu ngạch mà cả ở hàng hóa xuất khẩu chính ngạch. Vụ bắt giữ hàng vô cớ này đang khiến cho nhiều doanh nghiệp Việt Nam cảm thấy, việc làm ăn với các đối tác Trung Quốc đang trở lên bất an hơn bao giờ hết.

Nguyên nhân chính hiện được cơ quan quản lý Việt Nam xác định là do phía Trung Quốc tăng cường giám sát, chống buôn lậu, tăng cường kiểm tra, kiểm dịch…mà theo ngôn ngữ của các doanh nghiệp thường xuyên  xuất, nhập khẩu hàng sang Trung Quốc gọi là “cấm biên”. Thường mỗi năm phía Trung Quốc có 1-2 đợt tăng cường, mỗi đợt 1-2 tháng nhưng năm nay, đợt “tăng cường” này đã kéo dài bất thường từ tháng 4 đến nay và dự kiến sẽ còn kéo dài thêm vài tháng nữa.

Chưa thể khẳng định là những bất đồng trong quan điểm về chủ quyền lãnh thổ tại Biển Đông là nguyên nhân sâu xa dẫn đến việc tăng cường kiểm tra, kiểm soát…dẫn đến hạn chế, làm giảm hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam vào Trung Quốc. Nhưng những động thái tương tự mà cơ quan quản lý phía Trung Quốc áp đặt, hạn chế lên mặt hàng chuối vả một số hàng nông sản khác mà Philipines xuất khẩu sang nước này sau sự kiện tranh chấp ở bãi cạn Scarborought của Philippines cũng là điều khiến doanh nghiệp, cơ quan quản lý ngoại thương của Việt Nam lưu tâm. Bởi với Trung Quốc, từ những khúc mắc trong quan hệ ngoại giao dẫn đến những cản trở trong quan hệ thương mại, làm ăn với nước khác đã không còn là chuyện lạ.

Trên một phạm vi rộng hơn, cũng đã đến lúc cần nhìn lại quan hệ hợp tác kinh tế về nhiều mặt với người láng giềng Trung Quốc để có những điều chỉnh cho phù hợp. Hợp tác kinh tế với Trung Quốc tất nhiên, do sự gần gũi về địa lý, sự tương đồng về cơ cấu kinh tế, những sự thiếu hụt hay dư thừa về một số chủng loại nguyên, nhiên vật liệu, hàng hóa ở cả 2 nước cần có  giao thương, trao đổi để bù đắp là rất cần thiết và có thể nói, cũng đã đem đến những hiệu quả nhất định. Nhưng quan sát trong nhiều năm gần đây, điều rõ ràng là Việt Nam đang chịu thiệt hơn rất nhiều trong quan hệ kinh tế, thương mại, đầu tư với Trung Quốc và đã có những cảnh báo cần sớm có điều chỉnh để tránh một sự lệ thuộc, mất cân bằng trong quan hệ kinh tế với quốc gia này.

Nhìn vào thực tế quan hệ thương mại với Trung Quốc, hơn 10 năm qua, Việt Nam không khi nào được lợi. Theo các con số thống kê của Tổng cục Hải quan, Bộ Công thương, từ chỗ xuất siêu sang Trung Quốc 135 triệu USD năm 2000, Việt Nam đã bắt đầu chịu thâm hụt với Trung Quốc vào năm 2001, và mức thâm hụt này đã tăng liên tục, đặc biệt là từ năm 2006 đến nay. Năm 2007, nhập siêu từ Trung Quốc của Việt Nam là 9,145 tỷ USD. Năm 2008 tăng vọt lên con số 11,16 tỷ USD. Năm 2009, con số này đã tăng tiếp lên 11,532 tỷ USD. Năm 2010, nhập siêu từ Trung Quốc  đã nâng lên mức báo động đỏ: ước 12,6 tỷ USD, bằng 105% mức nhập siêu cả năm (12 tỷ USD) của Việt Nam. Năm 2011, nhập siêu từ Trung Quốc đã lên đến 13,5 tỷ USD-một con số có thể nói: kinh hoàng !.

Sự bất tương xứng trong quan hệ thương mại 2 bên như vậy có thế nói là nghiêm trọng và nó chính là một nguyên nhân gây bất ổn cho điều hành kinh tế vĩ mô của Việt Nam .  Bộ Công thương vẫn lý giải là do ngành công nghiệp phụ trợ trong nước yếu kém, Việt Nam phải nhập khẩu các nguyên liệu vật liệu phục vụ cho hoạt động sản xuất trong nước và cho xuất khẩu; Trung Quốc có những loại đầu vào phù hợp với nhu cầu của các doanh nghiệp trong nước, nên nhập khẩu từ thị trường này tăng…Nhưng dù nói thế nào, con số nhập siêu chênh lệch một cách nguy hiểm như vậy là khó có thể chấp nhận được. Và đáng lo ngại là những giải pháp để nhằm làm giảm bớt sự mất cân bằng về thương mại rõ ràng đang chưa đỉ đến đâu khi 7 tháng đầu năm nay, theo con số của Bộ Công thương đưa ra, nhập siêu từ Trung Quốc đã lên tới 8 tỷ USD.

Nhìn vào nhiều quan hệ hợp tác đầu tư, kinh doanh khác, đều có những cơ sở để những người có trách nhiệm phải xem lại, điều chỉnh các quan hệ đó để đảm bảo lợi ích cho Việt Nam . Việc phải tiếp tục mua điện từ Trung Quốc với giá không còn rẻ qua các tỉnh giáp biên như Lào Cai, Hà Giang…trong khi nhiều nhà máy điện trong nước phải kêu gào EVN mua điện cho họ, với giá rẻ là điều khó chấp nhận. Thêm nữa, hàng loạt nhà máy điện do các nhà thầu Trung Quốc trúng thầu, khiến Việt Nam phải nhập khẩu lượng máy móc, thiết bị có giá trị rất lớn, lên đến hàng tỷ USD cho mỗi công trình…góp phần quan trọng làm nghiêng lệch cán cân thương mại về phía Trung Quốc, trong khi phần lớn các công trình này chậm tiến độ nghiêm trọng.  Đây là những vấn đề đáng đặt câu hỏi lớn về trách nhiệm của những người có thẩm quyền khi không sớm nhìn nhận ra vấn đề trên, để cho nền kinh tế không khỏi bị những ảnh hưởng nhất định, không chỉ bây giờ mà có thể lâu dài về về sau do để xảy ra tình trạng lệ thuộc về năng lượng, về những nguồn năng lượng bị chậm tiến độ ấy…

Do đó, hơn lúc nào hết, vào thời điểm này, tuy cũng đã là khá muộn, rõ ràng cần phải xem xét lại toàn diện quan hệ hợp tác thương mại, kinh tế, đầu tư Việt-Trung. Đành rằng, nhìn tổng thể, nhiều hoạt động hợp tác đó xuất phát từ những nhu cầu hợp lý, khách quan giữa 2 nền kinh tế, của cộng đồng doanh nghiệp 2 nước. Nhưng nhìn thực tế kết quả trao đổi, hợp tác 2 bên thì Việt Nam đã chịu thiệt hại, ở thế bất lợi rất nhiều năm và đến nay, cần phải có những sự nghiên cứu, điều chỉnh mạnh để giảm bớt, càng nhanh càng tốt mức độ bất tương xứng trong quan hệ thương mại 2 bên. Việc vừa qua, Bộ Khoa học và Công nghệ đã đưa ra các giải pháp hạn chế nhập khẩu máy móc, công nghệ lạc hậu do Trung Quốc thải loại từ hơn 1800 nhà máy lạc hậu, ô nhiễm là một bước đi đúng. Nhưng ở nhiều lĩnh vực khác như xuất, nhập khẩu hàng tiêu dùng, cơ khí, điện năng, khai khoáng…cần phải có sự vào cuộc, xem xét và điều chỉnh mạnh mẽ để Việt Nam không bị thiệt thòi, ở chiếu dưới trong mọi quan hệ hợp tác về kinh tế, thương mại và đầu tư với người láng giềng đặc biệt khôn khéo, khó chơi này.

Mạnh Quân

Bản trên TVN:
 -Kinh tế Việt – Trung nhìn từ chính sách ‘cấm biên’
 - Những động thái gần đây nhắc dư luận nhớ đến việc cơ quan quản lý phía Trung Quốc áp đặt, hạn chế lên mặt hàng chuối và một số hàng nông sản khác mà Philipines xuất khẩu sang nước này sau sự kiện tranh chấp ở bãi cạn Scarborought của Philippines.
Trong tuần qua, một câu chuyện nổi lên trong lĩnh vực kinh tế là việc xuất khẩu hàng hóa của nhiều doanh nghiệp sang Trung Quốc đang có dấu hiệu gặp khó, đình trệ.
Thông tin từ các Sở công thương các tỉnh có đường biên giới giáp Trung Quốc như Lào Cai, Lạng Sơn, Hà Giang…đều cho thấy có sự hạn chế, suy giảm rõ rệt về lượng hàng, kim ngạch xuất khẩu sang Trung Quốc mà không phải do nguyên nhân từ phía Việt Nam.


Những con số thống kê mới nhất đều chứng minh rõ xu hướng này. Tại Móng Cái (Quảng Ninh), tính đến nay, khu vực cửa khẩu này còn tồn hơn 3.800 container hàng hóa các loại, trên 1.300 container hàng để lâu ngày phải cắm điện bảo quản chờ xuất. Ở Lạng Sơn, như tại cửa khẩu Tân Thanh nếu như đầu năm bình quân mỗi ngày có khoảng 300-400 xe vận chuyển hàng hóa qua thì đến thời điểm này, theo Cục Hải quan Lạng Sơn, chỉ còn khoảng 100-200 xe/ngày. Khu vực cửa khẩu quốc tế Hữu Nghị cũng vậy, thông tin cho biết từ tháng 6 đến nay, hoạt động xuất khẩu đã giảm đáng kể…
Một ví dụ đáng suy nghĩ nhất là mới đây, một đoàn xe 6 chiếc chở 8 lô hàng của công ty TNHH Thương mại dịch vụ tổng hợp Hà Thành của Việt Nam chở hàng sang cho một đối tác Trung Quốc tại Pò Chài (Bằng Tường-Trung Quốc) đã bị Hải quan Trung Quốc giữ lại toàn bộ mà không nêu rõ lý do. Trong khi đó, theo kiểm tra hồ sơ của Cục Hải quan Lạng Sơn thì 8 lô hàng này đầy đủ giấy tờ, hóa đơn và không có gì vi phạm.
Điều này dấy lên mối lo, việc hạn chế hàng xuất khẩu của Việt Nam có thể không chỉ nhằm vào hàng tiểu ngạch mà cả ở hàng hóa xuất khẩu chính ngạch.
Nguyên nhân chính hiện được cơ quan quản lý Việt Nam xác định là do phía Trung Quốc tăng cường giám sát, chống buôn lậu, tăng cường kiểm tra, kiểm dịch…mà theo ngôn ngữ của các doanh nghiệp thường xuyên xuất, nhập khẩu hàng sang Trung Quốc gọi là “cấm biên”. Thường mỗi năm phía Trung Quốc có 1-2 đợt tăng cường, mỗi đợt 1-2 tháng nhưng năm nay, đợt “tăng cường” này đã kéo dài bất thường từ tháng 4 đến nay và dự kiến sẽ còn kéo dài thêm vài tháng nữa.
Những động thái này cũng nhắc dư luận nhớ đến việc cơ quan quản lý phía Trung Quốc áp đặt, hạn chế lên mặt hàng chuối và một số hàng nông sản khác mà Philipines xuất khẩu sang nước này sau sự kiện tranh chấp ở bãi cạn Scarborought của Philippines. Trong những trường hợp này, khúc mắc trong quan hệ ngoại giao đã dẫn tới những cản trở trong quan hệ thương mại, làm ăn.
Nhìn trên tổng thể quan hệ hợp tác kinh tế thương mại nhiều mặt hai nước, Việt Nam là nước nhập siêu lớn từ Trung Quốc, thường xuyên chiếm khoảng 60% tổng nhập siêu của Việt Nam đối với toàn thế giới.
Theo các con số thống kê của Tổng cục Hải quan, Bộ Công thương, từ chỗ xuất siêu sang Trung Quốc 135 triệu USD năm 2000, Việt Nam đã bắt đầu chịu thâm hụt với Trung Quốc vào năm 2001, và mức thâm hụt này đã tăng liên tục, đặc biệt là từ năm 2006 đến nay. Năm 2007, nhập siêu từ Trung Quốc của Việt Nam là 9,145 tỷ USD. Năm 2008 tăng vọt lên con số 11,16 tỷ USD. Năm 2009, con số này đã tăng tiếp lên 11,532 tỷ USD. Năm 2010, nhập siêu từ Trung Quốc đã nâng lên mức báo động đỏ: ước 12,6 tỷ USD, bằng 105% mức nhập siêu cả năm (12 tỷ USD) của Việt Nam. Năm 2011, nhập siêu từ Trung Quốc đã lên đến 13,5 tỷ USD.
7 tháng đầu năm nay, theo con số của Bộ Công thương đưa ra, nhập siêu từ Trung Quốc đã lên tới 8 tỷ USD.
Về cơ cấu xuất nhập khẩu hai nước, Trung Quốc chủ yếu xuất khẩu hàng công nghiệp sang Việt Nam trong khi Việt Nam chủ yếu xuất khẩu sang Trung Quốc sản phẩm thô hoặc sơ chế khai thác từ các quặng mỏ. Năm 2007, riêng dầu thô, than đá đã chiếm gần 40% tổng xuất khẩu của Việt Nam sang Trung Quốc và nếu kể thêm cao su, gỗ, rau quả, trà, cà phê và những sản phẩm thô sơ khác, tỉ lệ đó lên tới 80%. Hàng công nghiệp chỉ chiếm độ 20%.
Hợp tác kinh tế với Trung Quốc là lẽ tự nhiên, do sự gần gũi về địa lý, sự tương đồng về cơ cấu kinh tế, những sự thiếu hụt hay dư thừa về một số chủng loại nguyên, nhiên vật liệu, hàng hóa ở cả 2 nước cần có giao thương, trao đổi để bù đắp và cũng đã đem đến những hiệu quả nhất định.
Tuy nhiên, đã có những cảnh báo cần sớm có điều chỉnh để tránh một sự phụ thuộc, mất cân bằng trong quan hệ kinh tế với quốc gia này. Bởi sự bất tương xứng trong quan hệ thương mại hai bên, mà GS Trần Văn Thọ, từ ĐH Waseda, Nhật Bản đã mô tả như đặc trưng của quan hệ kinh tế giữa một nước kém phát triển và một nước phát triển đi liền với rất nhiều rủi ro.
Nhìn vào nhiều quan hệ hợp tác đầu tư, kinh doanh khác, đều có những cơ sở để những người có trách nhiệm phải xem lại, điều chỉnh các quan hệ đó để đảm bảo lợi ích tốt nhất cho Việt Nam. Bài học từ ngành điện đã khó rõ ràng.
Tuy đã khá muộn, nhưng không thể chậm trễ hơn nữa, Việt Nam cần đẩy nhanh việc nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam, tiến lên giai đoạn phân công hàng ngang trong quan hệ ngoại thương với Trung Quốc. Hàng hóa Việt Nam phải đủ sức cạnh tranh để thay thế nhập khẩu từ Trung Quốc và thâm nhập được vào thị truờng rộng lớn này. Có như vậy, Việt Nam mới cải thiện được cán cân mậu dịch và tránh được những rủi ro của mối quan hệ kinh tế bất đối xứng hiện nay.
Điều này đòi hỏi sự xem xét toàn diện, kĩ lưỡng của tất cả các bộ ngành liên quan, với các chính sách điều chỉnh phù hợp, để thương mại Việt Nam ngang hàng với đối tác láng giềng khổng lồ.
Mạnh Quân
 -Kinh tế Việt – Trung nhìn từ chính sách ‘cấm biên’
******************
-- Không có chuyện Trung Quốc “cấm biên” (TT).
09:39 ngày 19.08.2012
SGTT.VN - Nhịp độ xuất khẩu hàng Việt sang Trung Quốc tại các tỉnh giáp biên đã giảm từ tháng 3 đến nay, giao dịch thời điểm này khá trầm lắng.
 - Ớt miền Tây rớt giá vì thương lái Trung Quốc giảm mua (SGTT).   – Cần có luật kiểm soát thương nhân nước ngoài (PLTP).  - Người tiêu dùng ngại hàng Trung Quốc, giá hàng nội tăng nhẹ (PLTP).

CẢI CÁCH TIẾP THEO CỦA TRUNG HOA   Hồ Hải
 
Bài dịch của Trang La
Bài viết gốc: China’s Next Transformation 
Bài viết của 2 tác giả Trầm Liên Đào(沉联涛: Andrew Sheng) và Cảnh Tây Áo(耿西澳: Geng Xiao)
Trầm Liên Đào(Andrew Sheng) là Chủ tịch của Global Fung Institute, là một cựu chủ tịch của Hong Kong Securities and Futures Commission và hiện đang là một giáo sư thỉnh giảng tại Đại học Thanh Hoa, Bắc Kinh. Cuốn sách mới nhất của ông là Từ châu Á đến cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu (From Asian to Global Financial Crisis).
 
Cảnh Tây Áo(Xiao Geng) là giám đốc nghiên cứu tại Global Fung Institute.
HONGKONG – Trong suốt ba thập niên với các điều kiện thuận lợi của kinh tế toàn cầu, Trung Hoa đã tạo ra một hệ thống sản xuất tích hợp toàn cầu chưa từng có về quy mô cũng như tính phức tạp. Nhưng giờ đây các nhà hoạch định chính sách của nó phải đương đầu với một lúc ba thách thức bao gồm cuộc khủng hoảng nợ Châu Âu đang lan rộng, sự phục hồi chậm chạp ở Hoa Kỳ, và sự chững lại trường kỳ của tăng trưởng kinh tế Trung Hoa. Cả ba thách thức này đều có liên quan đến nhau, và bất cứ sai lầm nào của một trong ba yếu tố này đều có thể nhấn chìm nền kinh tế toàn cầu vào một cuộc suy thoái khác.
Để đánh giá các rủi ro và các phương án cho Trung Hoa và thế giới, người ta phải hiểu hệ thống sản xuất “công xưởng toàn cầu” của Trung Hoa, vốn dựa trên bốn trụ cột khác nhau nhưng phụ thuộc lẫn nhau.
Trụ cột đầu tiên, “công xưởng thế giới” đặt tại Trung Hoa, được tạo ra phần lớn bởi các tập đoàn đa quốc gia và các nhà cung cấp cùng các nhà thầu phụ ngoại quốc, với nhiều lao động gia công và lắp ráp bởi các doanh nghiệp nhỏ và vừa (SMEs) mà các doanh nghiệp này có sự tiếp cận trực tiếp tới các thị trường toàn cầu thông qua mạng lưới phức tạp các hợp đồng. Những doanh nghiệp vừa và nhỏ này bắt đầu khiêm tốn ở các khu vực ven biển và các đặc khu kinh tế, chuỗi cung ứng “công xưởng thế giới” này đã mở rộng khắp Trung Hoa, sản xuất mọi thứ từ thú nhồi bông tới máy tính bảng - iPad.
Công xưởng thế giới đã không thể xây dựng được nếu không có trụ cột thứ hai: “mạng lưới cơ sở hạ tầng Trung Hoa”, được xây lắp và vận hành phần lớn bởi các tập đoàn nhà nước đa ngành trong các lĩnh vực logistic, năng lượng, đường sá, viễn thông, vận tải và cảng biển. Trụ cột này chủ yếu dựa vào lập kế hoạch, đầu tư cố định quy mô lớn, và kiểm soát hành chính, và chất lượng, quy mô và tính hiệu quả so sánh là chiến lược để Trung Hoa tạo ra tính cạnh tranh và năng suất.
Trụ cột thứ ba đó là “hệ thống cung ứng tài chính Trung Hoa”, vốn cung cấp tài chính cần thiết cho việc xây dựng và duy trì mạng lưới cơ sở hạ tầng. Chuỗi cung ứng này đặc trưng bởi sự thống trị của các ngân hàng thuộc sở hữu nhà nước, với tỷ lệ tiết kiệm nội địa cao, thị trường tài chính kém phát triển so với mặt bằng chung, và tài khoản vốn (tư bản) khép kín.
Trụ cột cuối cùng đó là “chuỗi cung ứng dịch vụ chính phủ”, qua đó các quan chức trung ương và địa phương gây ảnh hưởng tới toàn bộ liên kết sản xuất, cung ứng, và mạng lưới tài chính thông qua các quy định, thuế, hoặc giấy phép. Phần lớn các nhà quan sát nước ngoài bỏ qua quy mô và mức độ của sự đổi mới thể chế và quy trình trong chuỗi cung ứng này, vốn dĩ được điều hành (chủ yếu) nhằm bảo vệ quyền sở hữu, giảm chi phí giao dịch và tối thiểu hóa rủi ro bằng cách sắp xếp các dịch vụ của chính phủ phù hợp với lợi ích thị trường. Vi dụ, chính quyền địa phương Trung Hoa đã rất xuất sắc trong việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) bằng cách cung cấp cơ sở hạ tầng hấp dẫn và cung ứng dịch vụ mà qua đó tạo thuận lợi cho việc mở rộng chuỗi sản xuất toàn cầu.
Với sự khởi đầu của cuộc khủng hoảng toàn cầu hiện nay, và những thay đổi đáng kể trong truyền thông xã hội, nhân khẩu học, đô thị hóa, và hạn chế nguồn lực, cả bốn trụ cột đang chịu áp lực. Các chuỗi sản xuất đối mặt với sự thiếu hụt lao động, gia tăng lương, và các nguy cơ về việc di dời tới những quốc gia chi phí thấp hơn. Trong khi đó, các nhà đầu tư nước ngoài đang đặt câu hỏi về khả năng thanh toán của các chính quyền địa phương.
Các chuyên gia Trung Hoa hiện đang tranh luận một câu hỏi then chốt về quản trị: kiến trúc thượng tầng nào sẽ cho phép quốc gia này chấp nhận những cải cách cần thiết trước áp lực toàn cầu và nội địa? Các nhà đầu tư đang quan ngại về diễn biến thất thường của chứng khoán Trung Hoa, vấn đề quản lý rủi ro, và sự không ổn định chính sách, cũng như sự không chắc chắn bắt nguồn từ biến động giá tài sản lớn hơn, bao gồm cả giá bất động sản, lãi suất và tỷ giá hối đoái.
Điều khiến nền kinh tế Trung Hoa trở nên khó dự báo hơn đó là sự tác động qua lại ngày càng phức tạp của bốn thành phần trong hệ thống sản xuất của nó với nhau và với phần còn lại của thế giới.
Đầu tiên, các điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của “công xưởng thế giới” đã bắt đầu tiêu tan. Chi phí sản xuất – bao gồm chi phí lao động, tài nguyên, quy định, và hạ tầng – đã tăng lên trong nước, trong khi bong bóng tiêu dùng ở phương Tây đang vỡ.
Thứ hai, thành công ban đầu của “hạ tầng Trung Hoa” đã được xây trên đất đai, nguồn vốn và lao động giá rẻ. Nhưng, mặc cho hạ tầng hiện đại, chi phí cung ứng hậu cần ở Trung Hoa lại chiếm tới 18% chi phí sản xuất, so với 10% ở Hoa Kỳ, do một loạt sự thiếu hiệu quả trong điều hành nội bộ.
Thứ ba, thành công của hệ thống tài chính Trung Hoa được xây dựng trên cơ sở các ngân hàng thuộc sở hữu nhà nước tài trợ cho các dự án hạ tầng và tài trợ tài chính nước ngoài cho việc sản xuất (hàng hóa) xuất khẩu thông qua FDI và thương mại. Hệ thống tài chính chưa giải quyết đầy đủ những thách thức của thể chế tài chính, đặc biệt là tài trợ cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ và khu vực nông thôn, và rủi ro đối với phần năng lực sản xuất dư thừa trong các ngành công nghiệp được lựa chọn.
Điểm cuối cùng, nhưng không phải là không quan trọng, cả ba trụ cột nói trên có lẽ không thể đứng vững nếu không có cái mỏ neo là trụ cột thứ tư. Đến nay, thành công của nó vẫn dựa vào cạnh tranh tích cực giữa chính quyền địa phương và các bộ ngành khác nhau, được đánh giá dựa trên các chỉ số kết quả như là GDP và doanh thu tài khóa. Không may, điều này lại dẫn tới các vấn đề về công bằng xã hội và sự bền vững môi trường, đòi hỏi sự hợp tác phức tạp giữa các “lô cốt” quan liêu để chống lại các nhóm lợi ích quyền lực.
Có một sự công nhận và đồng thuận rộng rãi rằng một phần của việc cải tổ đòi hỏi tái thiết lại cả 4 trụ cột nói trên. Đầu tiên, chuỗi sản xuất phải dịch chuyển từ phụ thuộc xuất khẩu sang tiêu dùng nội địa. Tái thiết cơ sở hạ tầng có nghĩa là đề cao chất lượng hơn số lượng, và giảm thiểu sở hữu nhà nước và để giá cả vận hành theo tác động thị trường. Bộ máy nhà nước thay vào đó nên tập trung vào chống tham nhũng, giảm chi phí giao dịch, thúc đẩy cạnh tranh, hạ thấp các rào cản hành chánh và loại bỏ công suất dư thừa.
Đối với chuỗi cung ứng tài chính, vấn đề cốt lõi là giải quyết rủi ro hệ thống và phân bổ lại các ưu đãi nhằm khuyến khích các nhà đầu tư hỗ trợ các công cụ tăng trưởng kinh tế thực sự thay vì tạo ra bong bóng tài sản.
Sự kỳ diệu Trung Hoa được tạo ra bởi cải cách thể chế và quy trình ở mọi cấp độ trong chuỗi cung ứng dịch vụ chính quyền. Không gì khác, Trung Hoa cần một cuộc cải cách toàn diện để trở thành một nền kinh tế cân bằng, công bằng xã hội và ổn định hơn. Quá trình này thực sự đã bắt đầu với một vòng thử nghiệm tại ba đặc khu kinh tế mới tại Hengquin, Tiền Hải (Qianhai: 前海), và Nam Sa (Nansha: 南沙) để thí điểm sự nổi lên của một nền kinh tế dịch vụ dựa trên tri thức sáng tạo.
Tất nhiên, nền kinh tế như vậy chủ yếu dựa vào chất lượng quản trị. Thách thức thực sự của các quan chức Trung Hoa là làm sao để cân bằng giữa sáng tạo và đổi mới thể chế trong trật tự, qua đó đảm bảo tính toàn vẹn cho cả bốn trụ cột của nền kinh tế.
@Project Syndicate 2012
BS Hồ Hải hiệu đính - Asia Clinic  - 12h31’ ngày thứ Hai, 20/8/2012
-

*****************
 Gặp gỡ các lãnh đạo kế tiếp của Trung Quốc

Gặp gỡ các lãnh đạo kế tiếp của Trung Quốc

Những người nổi tiếng trong các đối thủ hàng đầu cho công việc đầy quyền lực nhất ở Trung Quốc
Tác giả: Isaac Stone Fish
Người dịch: Trần Văn Minh
13-08-2012
Tháng 10 năm 2007, chín người có quyền hành nhất Trung Quốc bước ra khán đài Đại Lễ đường Nhân dân, trong buổi lễ bế mạc Đại hội Đảng toàn quốc, tổ chức 2 lần trong một thập niên. “Một khi họ họp lại, nếu không có con mắt nhà nghề thì khó có thể phân biệt từng người”, phóng viên Richard Macgregor của báo Financial Times đã viết trong cuốn sách The Party của ông vào năm 2010 về những nhà cai trị Đảng Cộng sản Trung Quốc. “Tất cả chín người mặc bộ com lê màu thẫm, và tất cả mang cà vạt đỏ ngoại trừ một người. Họ đều có bộ tóc hất ra sau, đen nhánh và bóng lưỡng, một sản phẩm của sự mê thích đồng bộ về sự nhuộm tóc đều đặn của các chính trị gia cao cấp Trung Quốc, một thói quen “chỉ có thể bị phá vỡ khi họ về hưu hay bị ở tù”.
Thứ tự của chín người trên khán đài đã thông báo cho thế giới bên ngoài biết cấp bậc của họ trong Ban Thường vụ Bộ chính trị, bộ phận chính quyền cai trị Trung Quốc, và dường như cho biết chắc chắn về sự lãnh đạo của họ – quên đi thực tế về tranh chấp nội bộ, mánh khóe và sự đồng thuận của các đảng viên cao cấp, những người bầu chọn chín thành viên này, đã được giấu kín. Đối với những người quan sát ở quốc nội, chín người này với tư tưởng, cá tính và các mối quan hệ khác nhau có thể phân biệt được dựa trên khoảng cách của họ với trung tâm quyền lực.
 Nếu vẫn giữ giá trị truyền thống, một nhóm người khác sẽ lại bước ra khán đài vào tháng 10 trong Đại hội Đảng lần thứ 18, lần này do ông Tập Cận Bình dẫn đầu, được mọi người dự đoán sẽ thay thế ông Hồ cẩm Đào, theo sau là Lý Khắc Cường, mà các nhà quan sát đảng cho rằng sẽ thay thế ông Ôn Gia Bảo giữ chức thủ tướng. Bảy chức vụ còn lại (hoặc là 5 hay 6; có tin là Hồ Cẩm Đào đang thúc đẩy một ban thường vụ nhỏ hơn để ông vẫn còn ảnh hưởng thêm sau khi rời khỏi chức vụ) có lẽ bỏ trống và sẽ được cả chục ông – và một người phụ nữ có quyền hành tranh giành quyết liệt.
Ông Uông Dương là Bí thư Tỉnh ủy Quảng Đông, một tỉnh nổi tiếng nhất Trung Quốc, và ông cũng là chủ đề của một bài viết về tiểu sử, số ấn hành mới nhất của báo Foreign Policy, là một đối thủ. Thế giới bên ngoài ít biết về ông Uông và cá tính hay chức vụ của những người khác trong giới đảng viên cao cấp. Ông Trịnh Lý (Cheng Li), một chuyên viên về giới chính trị cao cấp Trung Quốc ở Viện Brookings, nói: “Các thỏa thuận rất là phức tạp. Chúng tôi không biết sự thật liên quan. Chúng tôi biết một phần trăm của những gì mà [các đảng viên cao cấp] biết”. Với sự hiểu biết này, đây là 5 người ngoài Tập Cận Bình và Lý Khắc Cường mà vẻ mặt đạo diễn, mỉm cười mà chúng ta có thể thấy trên khán đài đỏ này vào tháng 10 sắp tới.
Vương Kỳ Sơn
Là Thị trưởng Bắc Kinh từ năm 2003 đến năm 2007, ông Vương Kỳ Sơn hiện là phó thủ tướng phụ trách các vấn đề kinh tế, năng lượng và tài chánh, phục vụ dưới quyền đương kim thủ tướng Ôn Gia Bảo. Người đồng nhiệm với ông Vương trước đây, cựu bộ trưởng ngân khố [Hoa Kỳ] Hank Paulson, đã gọi ông là người “quả quyết và tò mò” với “tính khôi hài mang vẻ ác ý”. Là con rể của cựu phó thủ tướng Diêu Y Lâm, ông Vương là một trong các thái tử đảng, một nhóm lãnh đạo cao cấp là con cái của các quan chức hàng đầu. Các nhà quan sát chính trị Trung Quốc xem các thái tử đảng như ông Vương có liên minh chặt chẽ với phe lãnh đạo của cựu Chủ tịch Giang Trạch Dân hơn là Chủ tịch hiện tại Hồ Cẩm Đào. Ông Vương có biệt danh “thủ lĩnh đội cứu hỏa” do bản lĩnh của ông [khi đương đầu] với khủng hoảng, ông Lý ở viện Brookings nghĩ ông Vương gần như chắc chắn có được một vị trí trong Ban Thường vụ.
Trương Cao Lệ
Là Bí thư Thành Ủy thành phố Thiên Tân và là một kinh tế gia, đã từng làm việc trong ngành công nghiệp dầu khí, ông Trương Cao Lệ được biết đến như là người có phong cách giản dị, ngay cả đối với một quan chức Trung Quốc. Năm 2011, Thiên Tân dưới thời của ông đã phát triển 16,4%, mức cao nhất ở Trung Quốc, ngang với thành phố Trùng Khánh. Ông Trương được cho là người được Giang Trạch Dân đỡ đầu và ông Giang là cố vấn của Tăng Khánh Hồng. Ông được biết do khuynh hướng thiên thị trường, đã từng giữ chức Bí thư Thành ủy Thâm Quyến từ 1997 đến 2001, trung tâm chủ nghĩa tư bản cao bồi của Trung Quốc. Nhưng nếu Tân Hải, khu vực phát triển đã kéo theo sự tăng trưởng rất nhiều cho Thiên Tân, thất bại dưới sự quản lý của ông Trương, điều này có thể ảnh hưởng đến cơ hội thăng tiến của ông.
Hồ Xuân Hoa
Được xem như là một đồng minh của Hồ Cẩm Đào, ông có biệt danh ở Trung Quốc là “Hồ Nhỏ” (ông không có liên hệ với Hồ Cẩm Đào), là bí thư khu tự trị Nội Mông, một khu vực giàu than đá mênh mông ở phía bắc. Nếu ông Hồ 49 tuổi vào được Ban Thường vụ, thì ông sẽ là ủy viên trẻ nhất và có thể là nòng cốt của thế hệ lãnh đạo thứ sáu của Đảng Cộng sản Trung Quốc, một đối thủ mạnh thay thế Tập Cận Bình chức tổng bí thư vào năm 2022 (Hồ Cẩm Đào cũng 49 tuổi, và là ủy viên trẻ nhất khi được bổ nhiệm vào Ban Thường vụ hồi năm 1992). Giống như Hồ Cẩm Đào, người giữ chức bí thư đảng ủy Tây Tạng và Quý Châu, Hồ Xuân Hoa có nhiều kinh nghiệm đối phó với các nhóm dân thiểu số của Trung Quốc, một khả năng quan trọng trong tình thế bất ổn ở những vùng như Tây Tạng và Tân Cương. Ông ấy đã trải qua 23 năm trong chính quyền cấp tỉnh Tây Tạng và được biết nói sõi tiếng Tây Tạng, điều hiếm thấy ở một quan chức Trung Quốc. Hiện nay, ông Hồ Nhỏ có lẽ là một trong những ủy viên cấp thấp, như Hồ Cẩm Đào vào năm 1992 (thứ bảy) và Tập Cận Bình năm 2007 (thứ sáu).
Lưu Diên Đông
Bà hiện là người phụ nữ duy nhất trong số 25 ủy viên bộ chính trị, bộ phận ra quyết sách dưới Ban Thường vụ một bậc, bà Lưu là ủy viên quốc vụ viện, phụ tá cho thủ tướng và phó thủ tướng Trung Quốc. Bà là người được cả Hồ Cẩm Đào và Giang Trạch Dân đỡ đầu. Bà tốt nghiệp cùng trường với Hồ Cẩm Đào, trường Đại học Thanh Hoa, và giữ chức phó cho ông Hồ ở Đoàn Thanh niên Cộng sản, một tổ chức ông Hồ đảm trách và được xem là căn bản quyền lực của ông. Bà Lưu là một công chúa đảng; cha của bà trước kia là thứ trưởng bộ nông nghiệp và đã giới thiệu cha nuôi của Giang Trạch Dân vào Đảng Cộng sản năm 1927. Bà sẽ là người phụ nữ đầu tiên trong lịch sử Đảng Cộng sản Trung Quốc vào trong Ban Thường vụ, mặc dù bà Lưu ở tuổi 66, có lẽ quá lớn tuổi. Bộ chính trị có tuổi về hưu không chính thức là 68, và cơ hội cho bà Lưu có thể bị ảnh hưởng “nếu giới lãnh đạo quyết định thay đổi bộ phận ra quyết sách tối cao này trẻ trung hơn”, ông Trịnh Lý viết.
Du Chính Thanh
Là Bí thư Thành ủy Thượng Hải, sự nghiệp của ông Du đã có những bước thăng trầm được biết đến nhiều nhất so với bất cứ lãnh đạo hiện tại nào ở Trung Quốc. Năm 1985, anh của ông Du, cựu giám đốc Cục An ninh Quốc gia Bắc Kinh, đã đào thoát sang Hoa Kỳ. Ông Du, một thái tử đảng được biết có mối quan hệ mật thiết với gia đình cựu lãnh đạo tối cao Đặng Tiểu Bình, cố gắng cứu vãn sự nghiệp của ông và có 6 năm làm Bí thư Tỉnh ủy Hồ Bắc trước khi được bổ nhiệm vào chức vụ hiện tại hồi năm 2007. Nhưng những người khác trong danh sách này có thể có những chuyện xấu xa tương tự đang được giấu kín, quy luật im lặng chung quanh Đảng Cộng sản Trung Quốc có nghĩa là khó có khả năng các thông tin này được tiết lộ cho công chúng.
Nguồn: Foreign Policy
Bản tiếng Việt © Ba Sàm 2012
Bản tiếng Việt © Trần Văn Minh

********************
-QUAN HỆ VỚI HOA KỲ CỦA ẤN ĐỘ

Bài dịch của Trang La
Bài viết gốc: India’s American Relations
Bài viết của Shashi Tharoor, Cựu Bộ trưởng Ngoại giao của Ấn Độ và là một trong 5 ứng viên Tổng thư ký Liên hợp quốc sau khi ông Kofi Annan hết nhiệm kỳ, hiện là thành viên Quốc hội Ấn Độ. Cuốn sách mới nhất của ông, Hòa Bình kiểu Ấn Độ: Ấn Độ và thế giới của thế kỷ 21(Pax Indica: India and the World of the 21st Century), vừa được xuất bản.
NEW DELHI – Với cuộc bầu cử tổng thống của nước Mỹ hiện ra lờ mờ, có lẽ khía cạnh rõ ràng nhất trong quan điểm của Ấn Độ đó là không ai ở New Delhi thực sự để tâm đến kết quả. Có một sự đồng thuận rộng rãi trong giới hoạch định chính sách ở Ấn Độ rằng, bất kể ai chiến thắng, mối quan hệ Ấn Độ - Hoa Kỳ đều ít nhiều vẫn đi đúng hướng.
Đảng Dân chủ và Đảng Cộng hòa đều có trách nhiệm đối với diễn biến này. Chuyến thăm Ấn Độ thành công của Tổng thống Barack Obama năm 2010, và bài phát biểu lịch sử của ông trong một phiên họp toàn quốc hội, đã giới hạn những sự kiện quan trọng nhất gần đây trong mối quan hệ song phương. Đây là một trong rất nhiều những cuộc gặp gỡ giữa Obama và Thủ tướng Manmohan Singh trong các diễn đàn khác nhau kể từ khi nhậm chức, thường là các hội nghị thượng đỉnh đa phương như G-20, và nó củng cố mối quan hệ mới nổi lên từ một thập kỷ thay đổi mạnh mẽ.
Trong suốt thời kỳ Chiến tranh lạnh, nền dân chủ lâu đời và lớn nhất của thế giới thực chất đã trở nên ghẻ lạnh. Sự thờ ơ ban đầu của Mỹ được thể hiện rõ ràng nhất trong phản ứng của Tổng thống Harry Truman khi Chester Bowles - một nhà chính trị và ngoại giao theo đảng dân chủ tự do ở bang Connecticut của Hoa Kỳ(ND) - hỏi ông về việc bổ nhiệm làm đại sứ Ấn Độ. “Tôi nghĩ rằng Ấn Độ đang chật ních với những người nghèo và những con bò ở quanh đường phố, các bác sỹ phù thủy và những người ngồi trên than nóng, tắm trên sông Hằng… nhưng tôi không nhận thấy bất cứ ai nghĩ rằng điều đó là quan trọng”.
Nếu điều đó là xấu, thì định hướng chính trị của Ấn Độ còn xấu hơn. Sự ưu tiên của Mỹ đối với việc tạo ra các đồng minh chống cộng, dù không tốt đẹp gì, đã gắn kết Washington với chế độ độc tài Hồi giáo đang lên của Pakistan, trong khi nền dân chủ không liên kết của Ấn Độ trôi theo đường lối của Liên Xô già cỗi. Chính quyền Hoa Kỳ không ủng hộ phong trào không liên kết; thư ký liên bang của Eisenhower, ông John Foster Dulles, có một tuyên bố nổi tiếng rằng “trung lập giữa thiện và ác thực ra chính là ác”. 
Trong một thế giới bị phân chia giữa hai siêu cường không nhân nhượng, sự lừng khừng của Ấn Độ có vẻ như là cách xoa dịu tốt nhất đồng thời là sự hỗ trợ và an ủi tồi tệ nhất đối với kẻ thù.
Mặt khác, Pakistan trở thành một phần thiết yếu trong chiến lược của Mỹ nhằm ngăn chặn Liên Xô và sau này là sự mở cửa cho Trung Quốc. Từ quan điểm của Ấn Độ, sự ‘nuông chiều’ của Mỹ với Pakistan đã trở thành sự thù địch công khai khi Hoa Kỳ gửi Hạm đội Bảy (Seventh Fleet) tới vịnh Bengal nhằm hỗ trợ nạn diệt chủng của Pakistan tại Bangladesh năm 1971. Sự căng thẳng đã trở nên dịu lại đúng lúc, nhưng Ấn Độ vẫn luôn được coi là nghiêng về phía điện Kremlin, rất khó để có thể đề xuất mối quan hệ hữu hảo trong con mắt của người Mỹ.
Với sự kết thúc thời kỳ Chiến tranh lạnh, và sự định hướng lại mục tiêu của Ấn Độ đối với chính sách ngoại giao, cũng với sự gia tăng hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu của nó, đã làm tan băng. Tuy nhiên, một với vụ thử hạt nhân của Ấn vào năm 1998, lại làm khơi mào cho các biện pháp trừng phạt mới của Hoa Kỳ.
Tổng thống Bill Clinton đã bắt đầu làm thay đổi mọi thứ với một chuyến thăm Ấn Độ thành công rực rỡ vào năm 2000, năm cuối cùng tại vị của ông. Chính quyền của G.W.Bush đã đưa các vấn đề tiến xa hơn nữa, với một Thỏa thuận quốc phòng năm 2005 và một Hiệp định trọng yếu về hợp tác hạt nhân dân sự năm 2008 (thứ mà vẫn là tâm điểm của mối quan hệ chuyển biến).
Hiệp định hạt nhân đồng thời thực hiện hai điều. Nó thừa nhận Ấn Độ vào câu lạc bộ hạt nhân toàn câu, mặc cho sự từ chối ký kết Hiệp ước Không phổ biến vũ khí hạt nhân. Quan trọng hơn, nó thừa nhận rằng đây là trường hợp ngoại lệ mà Hoa Kỳ đã tìm được người anh em. Nhờ có Hoa Kỳ, dùng sức mạnh vũ trang đối với 45 quốc gia thuộc Tập đoàn Cung cấp hạt nhân buộc họ ngậm đắng nuốt cay với mối quan ngại rằng sự đối xử đặc biết với Ấn Độ có thể tạo thành một tiền lệ cho các quốc gia có tham vọng xỏ lá về hạt nhân như Pakistan, Bắc Hàn, và Iran, bởi hiện giờ đã có một “Ấn Độ ngoại lệ”.
Dưới thời Obama, không có đột phá nào là khả thi: không có bước đột phá ngoạn mục nào được hình thành hoặc thực thi và cũng không có những gì mà nhiều người đã tưởng tượng. Nhưng Obama - người đã cho trưng bày một bức ảnh của Mahatma Gandhi trong văn phòng Thượng viện của ông, mang một khung hình vị thánh Hindu Hanuman, và thường nói về mong muốn xây dựng một “mối quan hệ chiến lược thân thiết” với Ấn Độ - đã tạo ra những ấn tượng làm vừa lòng New Delhi và làm mềm lòng quốc hội cứng rắn.
Hoa Kỳ là đối tác thương mại lớn nhất của Ấn (nếu bao gồm cả hàng hóa và dịch vụ). Xuất khẩu của Mỹ tới Ấn Độ đã tăng trưởng nhanh hơn trong vòng 5 năm qua so với xuất khẩu tới bất cứ quốc gia nào. Liên đoàn Công nghiệp Ấn Độ ước tính rằng, mặc cho cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu gần đây và sự suy thoái kinh tế Hoa Kỳ đã gây ra nó, thương mại song phương trong lĩnh vực dịch vụ có thể tăng trưởng từ 60 tỷ đô tới hơn 150 tỷ đô trong vòng sáu năm tới.
Trong suốt thời kỳ của Obama, đã có tiến bộ trên những mặt khác - những bước nhỏ nhưng quan trọng để làm tăng sức mạnh cốt lõi của mối quan hệ. Các thỏa thuận về các vấn đề có vẻ bình thường như nông nghiệp, giáo dục, sức khỏe và thậm chí là thăm dò không gian và an ninh năng lượng là chứng thực tăng cường sự hợp tác. Hai chính phủ cũng đã công bố các sáng kiến về năng lượng sạch và biến đổi khí hậu. Giao dịch thương mại và đầu tư đáng kể, cũng như mối liên kết ngày càng tăng giữa các trường đại học Mỹ và Ấn Độ, đã khẳng định rằng mỗi quốc gia đang phát triển mối quan hệ sâu sắc hơn với bên còn lại hơn bất cứ lúc nào.
Kết quả là, người Ấn sẽ theo dõi diễn tiến cuộc bầu cử của Hoa Kỳ, cũng như tất cả mọi người, với mối quan tâm nhiều hơn so với trước kia. Nhưng, không giống như phần lớn phần còn lại của thế giới, họ sẽ cảm thấy rất ít băn khoăn về kết quả.
@Project Syndicate 2012
BS Hồ Hải hiệu đính - Asia Clinic - 18h06'  ngày thứ Sáu, 17/8/2012

Tổng số lượt xem trang