Thứ Bảy, 11 tháng 8, 2012

“Tôi nên từ bỏ đảng Cộng sản sớm hơn,” Gorbachev

(Và vì sao việc này trở nên quan trọng trong một thời đại cách mạng như hiện nay)
Leon AronForeign Policy
Trần Ngọc Cư dịch 
Theo ý kiến của vị thủ tướng của Gorbachev, ông Nikolai Ryzhkov, “tình trạng đạo lý [nrastennoe] của xã hội vào năm 1985 là nét đặc trưng “hãi hùng nhất”: [Chúng ta] ăn cắp từ chính bản thân của chúng ta, nhận và đưa hối lộ, láo khoét trong các báo cáo, trên báo chí, láo khoét từ các diễn đàn cấp cao, đắm mình trong láo khoét, rồi trao huân chương cho nhau. Và tất cả những điều này đã diễn ra — từ trên xuống dưới và từ dưới lên trên. 
Mọi cuộc cách mạng đều tạo ra kinh ngạc. Tuy vậy, cuộc Cách mạng Nga gần đây nhất phải được kể là một trong những kinh ngạc lớn nhất. Trong những năm trước 1991, gần như không một chuyên gia, học giả, viên chức chính quyền, hay chính trị gia phương Tây nào thấy trước được sự sụp đổ sắp xảy ra của Liên Xô, và kéo theo nó một chế độ độc tài độc đảng, một nền kinh tế do nhà nước làm chủ, và cả sự kiểm soát của Điện Cẩm Linh đối với đế quốc Liên Xô và Đông Âu.
Với một ngoại lệ duy nhất, tất cả những nhà bất đồng chính kiến Xô viết cũng như chính những nhà cách mạng tương lai — nếu ta xét qua hồi ký của họ — cũng không tiên đoán được sự kiện này. Khi Mikhail Gorbachev trở thành tổng bí thư Đảng Cộng sản vào tháng Ba năm 1985, không một nhân vật đồng thời nào của ông dự kiến một cuộc khủng hoảng có thể dẫn đến cách mạng. Mặc dù người ta không đồng ý nhau về tầm mức nghiêm trọng của những vấn đề nội tại trong chế độ Xô Viết, nhưng không ai coi những vấn đề này là đang đe dọa sinh mệnh của chế độ, chí ít trong tương lai gần.  
Vậy, do đâu mà có sự thiển cận đều khắp lạ lùng đến thế? Việc các chuyên gia phương Tây không tiên liệu được sự sụp đổ của Liên Xô một phần là do sử quan xét lại (historical revisionism) — tạm gọi là khuynh hướng bài chủ nghĩa chống cộng (anti-anti-communism) — một khuynh hướng phóng đại sự ổn định và tính chính danh của chế độ Xô viết. Tuy nhiên, một số nhân vật khác vốn không được coi là mềm dẻo đối với chế độ cộng sản cũng không kém kinh ngạc trước sự cáo chung của chế độ này.
Một trong những người thiết kế chiến lược Mỹ trong thời Chiến tranh Lạnh, ông George Kennan, viết rằng, trong khi nhìn lại toàn bộ “lịch sử các sự vụ quốc tế trong thời hiện đại”, ông nhận thấy rằng “thật khó nghĩ ra một biến cố nào lạ lùng, đáng kinh ngạc, và mới thoạt nhìn không thể giải thích nỗi, hơn sự tan biến đột ngột và toàn bộ…của đại cường mệnh danh kế tục nhau là Đế quốc Nga rồi đến Liên Xô”.
Richard Pipes, có lẽ là sử gia Mỹ hàng đầu về nước Nga và cũng là một cố vấn của Tổng thống Mỹ Ronald Reagan, cho rằng cuộc cách mạng gần đây của Nga là “bất ngờ”. Một tuyển tập gồm các bài tiểu luận viết về sự cáo chung của Liên Xô trong một số báo đặc biệt năm 1993 của tạp chí bảo thủ National Interest (Lợi ích Quốc gia) có tựa đề là “Cái chết lạ lùng của chủ nghĩa Cộng sản Xô viết”. 
Nếu có thể hiểu được dễ dàng hơn, thì sự thiếu phán đoán mang tính tập thể này có thể đã được an toàn xếp vào một hồ sơ trí tuệ gồm những điều kỳ lạ và phù phiếm của khoa học xã hội rồi bị lãng quên. Tuy nhiên, thậm chí ngày nay, với khoảng cách 20 năm, giả thuyết cho rằng Liên Xô vẫn có thể tiếp tục tồn tại trong tình trạng lúc đó hay bất quá cuối cùng nó sẽ bắt đầu một cuộc suy tàn kéo dài khá lâu, có vẻ là một kết luận không kém phần hợp lý.  Thật vậy, vào năm 1985 Liên Xô gần như vẫn có đủ nguồn lực thiên nhiên và nhân sự của 10 năm về trước. Chắc chắn là, mức sống tại đây còn thấp hơn tại Đông Âu khá xa, nói chi đến phương Tây.
Tình trạng thiếu hụt hàng hoá, hạn chế lương thực, những hàng người dài trước các quầy hàng, và nạn nghèo khổ khắc nghiệt diễn ra đều khắp xã hội. Nhưng Liên Xô đã từng trải qua nhiều đại họa to lớn hơn thế và đã có thể đối phó mà không hề mất một mảy may quyền kiểm soát của nhà nước đối với xã hội và nền kinh tế, lại càng không hề từ bỏ quyền lực này.  Không có một thước đo thành tích kinh tế chủ yếu nào trước năm 1985 cho thấy một thảm họa đang lù lù xốc tới. Từ năm 1981 đến năm 1985 mức tăng trưởng GDP của Liên Xô, mặc dù có chậm lại so với thập niên 1960 và thập niên 1970, nhưng cũng đạt được 1,9% một năm.
Chính cùng một mô hình dù suy yếu nhưng không đến nỗi thảm khốc này còn kéo dài cho đến hết năm 1989. Nạn thiếu hụt ngân sách, một yếu tố kể từ thời Cách mạng Pháp được coi là tín hiệu quan trọng cho một cuộc khủng hoảng có thể đưa đến cách mạng, chưa lên tới 2% GDP vào năm 1985. Mặc dù có gia tăng nhanh chóng, nạn thâm thủng ngân sách vẫn ở dưới mức 9% GDP cho đến hết năm 1989 — một con số mà hầu hết các nhà kinh tế cho là hoàn toàn có thể xoay trở được (manageable).  Giá dầu lửa rơi cực nhanh, từ 66 đôla một thùng năm 1980 xuống 20 đôla một thùng năm 1986 (trong số 2000 giá cả) chắc chắn là một đòn nặng nề đánh vào tài chính Xô-viết.
Tuy vậy, nếu điều chỉnh theo nạn lạm phát, thì vào năm 1985 giá dầu lửa trên thị trường thế giới vẫn cao hơn năm 1972, và chỉ thấp hơn toàn thập niên 1970 một phần ba mà thôi. Nhưng đồng thời, mức thu nhập của người dân Xô viết gia tăng hơn 2% vào năm 1985, và sau khi điều chỉnh lạm phát, đồng lương của họ còn tiếp tục gia tăng trong 5 năm liền cho đến hết năm 1990 ở mức độ trung bình trên 7% mỗi năm.  Vâng, tình trạng đình đốn kinh tế của Liên Xô là hiển nhiên và đáng lo ngại. Nhưng như giáo sư Đại học Wesleyan, ông Peter Rutland, đã chỉ rõ, “Dẫu sao, những chứng bệnh kinh niên của Liên Xô không nhất thiết đe dọa sinh mệnh của nước này”.
Ngay cả nhà nghiên cứu hàng đầu về các nguyên nhân kinh tế của cuộc cách mạng này, ông Anders Aslund, cũng ghi nhận rằng từ năm 1985 đến năm 1987, tình hình “là không mảy may sôi động”.  Từ quan điểm của chính quyền, tình hình chính trị lúc bấy giờ thậm chí ít đáng lo ngại hơn trước. Sau 20 năm liên tục đàn áp đối lập chính trị, gần như tất cả những nhà bất đồng chính kiến nổi tiếng đã bị cầm tù, lưu đày (như trường hợp Andrei Sakharov từ năm 1980), buộc phải ra sống ở nước ngoài, hay chết trong các trại cải tạo và nhà giam. 
Cũng gần như không có bất cứ một dấu hiệu nào khác báo trước một cuộc khủng hoảng tiền cách mạng (pre-revolutionary crisis), kể cả một nguyên nhân truyền thống thường được coi là có thể dẫn đến sự suy sụp của một quốc gia – đó là sức ép từ bên ngoài. Trái lại, thập niên trước đó được các học giả đánh giá đúng đắn là thời kỳ Liên Xô “đã thực hiện được tất cả những tham vọng quân sự và ngoại giao quan trọng”, như nhà sử học và ngoại giao Mỹ, ông Stephen Sestanovich, đã viết.
Tất nhiên, lúc bấy giờ Afghanistan ngày càng cỏ vẻ là một cuộc chiến lâu dài, nhưng đối với một quân lực gồm 5 triệu binh sĩ như của Liên Xô, sự thiệt hại tại đó là không đáng kể.
Thật vậy, mặc dù gánh nặng tài chính khổng lồ do việc duy trì một đế quốc về sau trở thành một vấn đề chính trong các cuộc tranh luận sau năm 1987, nhưng bản thân những chi phí cho cuộc chiến Afghanistan không làm cho quốc gia kiệt quệ: Được ước tính vào khoảng 4 đến 5 tỉ đôla vào năm 1985, đó là một phần không đáng kể trong tổng sản lượng nội địa (GDP) của Liên Xô. 
Hoa Kỳ cũng không phải là một lực tác động cho cuộc cách mạng. “Học thuyết Reagan” bao gồm nỗ lực chống lại và, nếu có thể, đảo ngược những bước tiến của Liên Xô trong Thế giới Thứ ba quả có tạo được sức ép chung quanh đế quốc này, ở những nơi như Afghanistan, Angola, Nicaragua, và Ethiopia.
Tuy nhiên, những khó khăn của Liên Xô ở đó cũng chẳng có gì nghiêm trọng để trở thành một nguy cơ cho chế độ.  Trong một màn giáo đầu cho một cuộc chạy đua vũ trang có tiềm năng gây ra nhiều tốn kém cho đối phương, Sáng kiến Phòng thủ Chiến lược [hay lá chắn nguyên tử] do Reagan đưa ra thực sự có ý nghĩa  nghiêm trọng – nhưng đề xuất này không hề báo hiệu một sự thất bại quân sự cho Liên Xô, vì Điện Cẩm Linh biết chắc rằng việc triển khai hữu hiệu hệ thống phòng thủ không gian của Mỹ cũng mất vài thập kỷ nữa mới thực hiện được.
Tương tự như thế, mặc dù cuộc nổi dậy chống cộng sản bất bạo động của công nhân Ba Lan là một tình hình rất bức xúc cho giới lãnh đạo Xô viết, làm nổi bật sự mong manh của đế quốc của họ tại châu Âu, nhưng vào năm 1985 Phong trào Đoàn kết (Soliditary) tỏ ra đã kiệt lực. Liên Xô hình như thích nghi được với việc tung ra các “đợt bình định” đẩm máu cứ 12 năm một lần – Hungary năm 1956, Tiệp Khắc năm 1968, và Ba Lan năm 1980 — bất chấp dư luận thế giới.  Nói thế khác, đây là một Liên Xô đang ở trên đỉnh cao quyền lực và thanh thế toàn cầu của mình, theo quan điểm của chính nó lẫn quan điểm của thế giới còn lại.
Sau này, sử gia Adam Ulam đã nhận xét “Chúng ta thường quên rằng vào năm 1985, không một chính phủ của một quốc gia quan trọng nào tỏ ra có quyền lực vững chắc và có đường lối chính sách rõ ràng như chính quyền Liên bang Sô viết”. 
Hẵn nhiên, có nhiều lý do thuộc về cơ chế — kinh tế, chính trị, xã hội – cho biết tại sao Liên Xô phải sụp đổ như nó đã sụp đổ; tuy nhiên, những lý do này không thể giải thích đầy đủ biến cố này diễn ra như thế nào và diễn ra khi nào. Nghĩa là, làm sao trong một thời gian từ năm 1985 đến năm 1989, trong lúc không gặp phải những tình trạng tồi tệ gay gắt về kinh tế, chính trị, dân số, và các vấn đề cơ chế khác, mà nhà nước và hệ thống kinh tế Xô viết bỗng dưng bị một quần chúng đủ đông đảo coi là ô nhục, thiếu tính chính danh, và hết chịu nỗi để phải sụp đổ? 
Gần như hầu hết mọi cuộc cách mạng hiện đại, cuộc cách mạng Nga gần đây nhất được khởi động bằng một tiến trình tự do hóa khá do dự “từ trên xuống” – và lý do căn bản của nó vượt quá nhu cầu sửa sai nền kinh tế hoặc làm cho môi trường quốc tế tốt đẹp hơn. Cái cốt lỏi trong sáng kiến của Gorbachev là rất lý tưởng, đó là điều không thể chối cãi: Ông muốn xây dựng một Liên Xô có đạo lý hơn. 
Vì mặc dù chiêu bài đưa ra là cải thiện kinh tế, nhưng rõ ràng là Gorbachev và những người ủng hộ ông trước hết muốn sửa chữa những sai lầm đạo lý hơn là sai lầm kinh tế. Hầu hết những điều họ tuyên bố công khai trong những ngày đầu của chương trình tái cơ cấu (perestroika), bây giờ nhìn lại, có vẻ chỉ là một cách biểu lộ nỗi khổ tâm của họ về sự suy đồi tinh thần và những hệ quả xói mòn đạo lý của thời đại Xít-ta-lin.
Đó là bước khởi đầu của một sự liều lĩnh đi tìm kiếm những câu trả lời cho các vấn nạn to lớn mà mọi cuộc cách mạng vĩ đại thường bắt đầu: Thế nào là một cuộc sống tốt đẹp, hợp với nhân phẩm? Cái gì tạo ra một trật tự kinh tế và xã hội công chính? Một nhà nước chính danh và đàng hoàng là như thế nào? Quan hệ của một nhà nước ấy với xã hội dân sự phải như thế nào? 
“Một không khí đạo lý mới mẻ đang thành hình trên đất nước ta”, Gorbachev đã nói như thế trước Ủy ban Trung ương Đảng trong phiên họp tháng Giêng 1987, nơi ông tuyên bố rằng glasnost (chủ trương cởi mở) và tự do hóa sẽ làm nền tảng cho perestroika (chủ trương tái cơ cấu)  xã hội Xô-viết của ông. “Việc thẩm định lại các giá trị và xét lại chúng một cách sáng tạo đang được tiến thành”.
Sau này, khi nhắc lại cảm tưởng của ông rằng “chúng ta không thể tiếp tục như thế thêm nữa, và chúng ta phải triệt để thay đổi lối sống, dứt khoát với những sai trái trong quá khứ”, ông gọi đó là “lập trường đạo lý” của ông.  Trong một bài phỏng vấn vào năm 1989, “người cha đỡ đầu của glasnost”, ông Aleksandr Yakovlev, nhớ lại rằng, vào lúc trở về Liên Xô sau 10 năm làm đại sứ tại Canada, ông cảm thấy đã đến lúc người dân phải tuyên bố, “Đủ lắm rồi! Chúng ta không thể tiếp tục sống như thế này thêm nữa. Mọi việc phải được thực hiện theo một đường lối mới. Chúng ta phải xét lại tư duy, đường lối, quan điểm về quá khứ và tương lai của chúng ta…Một sự đồng thuận ngấm ngầm: giản dị là, chúng ta không thể tiếp tục sống như chúng ta đã sống trước đây — một cách nhục nhã, ngoài mức chịu đựng”. 
Theo ý kiến của vị thủ tướng của Gorbachev, ông Nikolai Ryzhkov, “tình trạng đạo lý [nrastennoe] của xã hội vào năm 1985 là nét đặc trưng “hãi hùng nhất”:
 [Chúng ta] ăn cắp từ chính bản thân của chúng ta, nhận và đưa hối lộ, láo khoét trong các báo cáo, trên báo chí, láo khoét từ các diễn đàn cấp cao, đắm mình trong láo khoét, rồi trao huân chương cho nhau. Và tất cả những điều này đã diễn ra — từ trên xuống dưới và từ dưới lên trên. 
Một thành viên khác trong nhóm thân cận sơ khởi và rất ít ỏi của Gorbachev gồm những nhân vật chủ trương tự do, Bộ trưởng Ngoại giao Eduard Shevardnadze, cũng khổ tâm không kém vì tình trạng thiếu luật lệ và tham nhũng đều khắp. Ông nhớ lại đã nói với Gorbachev vào mùa đông 1984-1985: “Mọi thứ đã thối nát. Phải thay đổi thôi”. 
Trở lại thập niên 1950, một vị tiền nhiệm của Gorbachev, ông Nikita Khrushchev, đã lần đầu thấy rõ sự mong manh của cái nền tảng của ngôi nhà mà Stalin đã xây lên trên sự khủng bố và dối trá. Nhưng thế hệ thứ năm này của giới lãnh đạo Xô-viết cảm thấy tin tưởng hơn về sức bật của chế độ. Gorbachev và các đồng chí của ông tỏ ra tin tưởng rằng những điều đúng cũng là những điều có thể quản lý được dễ dàng về mặt chính trị (politically manageable). Gorbachev tuyên bố rằng chủ trương dân chủ hóa “không phải là một khẩu hiệu nhưng là tinh túy của perestroika”.
Nhiều năm về sau, ông đã trả lời phỏng vấn như sau: 
“Mô hình Xô-viết không những bị đánh bại trên bình diện kinh tế và xã hội; nó bị đánh bại ngay trên bình diện văn hóa. Xã hội chúng ta, nhân dân chúng ta, những người có học vấn nhất, những người có trí thức nhất, đã bác bỏ mô hình ấy trên bình diện văn hóa vì nó không tôn trọng con người, nó đàn áp con người về mặt tinh thần lẫn chính trị. “
Sự thể những cải tổ đã đưa đến cuộc cách mạng năm 1989 phần lớn cũng phát xuất từ một nguyên nhân “lý tưởng” khác: bản thân Gorbachev rất ghét bạo động và, vì thế, ông cương quyết không sử dụng việc áp bức quần chúng (mass coercion) khi tầm mức của các biến chuyển bắt đầu vượt quá ý định ban đầu của ông. Triển khai các lực lượng đàn áp kiểu Xít-ta-lin cho dù để “duy trì chế độ” cũng sẽ là một hành động phản lại niềm tin tưởng son sắt nhất của ông.
Một chứng nhân nhớ lại Gorbachev đã nói vào cuối thập niên 1980, “Chúng ta được dạy là chúng ta phải đấm bàn”, rồi ông nắm tay lại, minh họa cú đấm. Viên tổng bí thư phát biểu tiếp: “Nói chung, việc này có thể thực hiện. Nhưng chúng tôi không thích làm như vậy”.  Vai trò của tư duy và lý tưởng trong việc mang lại cuộc cách mạng Nga xuất hiện rõ nét hơn khi chúng ta nhìn vào những diễn biến bên ngoài Điện Cẩm Linh.
Một ký giả Xô-viết hàng đầu và về sau trở thành một tiếng nói nhiệt tình đối với chủ trương glasnost, ông Aleksandr Bovin, đã viết vào năm 1988 rằng những lý tưởng của perestroika đã “chín muồi” giữa lúc nhân dân ngày càng “bức xúc” trước nạn tham nhũng, ăn cắp của công trắng trợn, trước những láo khoét, và những cản trở chặn đứng việc làm của người lương thiện. Những dự kiến “về một cuộc đổi thay có thực chất đang bàng bạc trong không gian”,  một chứng nhân khác nhớ lại, và những người mang kỳ vọng này đã tạo nên một khối cử tri rõ nét (appreciable constituency) đang đòi hỏi những cải tổ triệt để.
Thật vậy, những kỳ vọng đã đón chào Gorbachev khi ông lên cầm cầm quyền là rất mãnh liệt và ngày càng gia tăng đến độ chúng có thể định hình cho chính sách thực sự của ông. Đột nhiên, chính các tư duy đã trở nên một yếu tố có cấu trúc, có thực thể trong cuộc cách mạng đang diễn ra. 
Theo cách nói của Yakovlev, cái uy tín của ý thức hệ chính thống, vốn ràng rịt toàn bộ hệ thống chính trị và kinh tế của chế độ Xô-viết “như những niền thép”, đang rã rệu nhanh chóng. Nhận thức mới đã giúp người dân thay đổi thái độ đối với chế độ và tạo ra “một chuyển biến trong hệ thống các giá trị”. Dần dần, tính chính đáng của các sắp xếp chính trị [cơ chế chính trị] bắt đầu bị chất vấn.
soviet_aron_849272
Trong một trường hợp điển hình của “định lý Thomas” bất hủ mà [nhà xã hội học] Robert K. Merton xây dựng thành lý thuyết – “Nếu người ta tin rằng một tình thế là có thực, thì tình thế đó sẽ trở thành hiện thực trong hậu quả của nó”– sự suy đồi thực sự của nền kinh tế Xô-viết chỉ mang lại hậu quả nghiêm trọng sau khi và bởi vì có một chuyển biến cơ bản trong cách người dân cảm nhận và đánh giá thành tích của chế độ. 
Viết cho một tạp chí Xô-viết năm 1987, một độc giả Nga gọi những gì ông chứng kiến chung quanh ông là một “sự dứt khoát triệt để trong ý thức của người dân”. Chúng ta biết độc giả này nhận xét đúng vì cuộc cách mạng của Nga là cuộc cách mạng vĩ đại đầu tiên mà tiến trình của nó được vẽ thành biểu đồ trong các cuộc thăm dò dư luận quần chúng ngay từ đầu. Vào cuối năm 1989, cuộc thăm dò dư luận tiêu biểu đầu tiên đã cho thấy dân chúng nhiệt liệt ủng hộ các cuộc tuyển cử có tính cạnh tranh và việc hợp pháp hóa các đảng phái ngoài Đảng Cộng sản Xô-viết – sau bốn thế hệ dưới chế độ độc tài độc đảng và trong lúc các đảng phái độc lập vẫn còn bất hợp pháp.
Giữa thập niên 1990, hơn nửa số người được thăm dò trong một vùng nước Nga đồng ý rằng “một nền kinh tế lành mạnh” có khả năng phát triển nhanh hơn “nếu chính phủ cho phép tư nhân làm ăn theo ý họ muốn”. Sáu tháng sau, một cuộc thăm dò trên toàn nước Nga cho thấy 56% hậu thuẫn một cuộc chuyển đổi nhanh chóng hay tuần tự sang một nền kinh tế thị trường. Thêm một năm sau thì số người ủng hộ kinh tế thị trường tăng đến tỉ lệ 64%.  Những người đã gieo vào xã hội “chuyển biến ngoạn mục về ý thức” không ai khác hơn là những kẻ đã từng châm ngòi cho các cuộc cách mạng tiêu biểu khác của thời hiện đại: đó là, các nhà văn, nhà báo, và giới nghệ sĩ.
Như Alexis de Tocqueville nhận xét, những con người này “giúp tạo ra một ý thức chung về sự bất mãn như vậy, một công luận được kiên định như vậy, rồi hai yếu tố này … lại tạo ra những đòi hỏi hữu hiệu cho các chuyển biến có tính cách mạng”. Đột nhiên, “toàn bộ việc giáo dục” trên cả nước trở thành “công tác của những người cầm bút”. 
Tại Nga Xô cũng vậy. Những hàng người dài trước các sạp báo – đôi khi các đám đông phải xếp hàng quanh một khu phố từ lúc 6 giờ sáng, vì lượng báo ra hàng ngày thường bán sạch chỉ trong vòng 2 tiếng đồng hồ — và số người đặt mua ngày càng đông các báo nổi tiếng có chủ trương tự do đã chứng minh sức công phá của những nhà bình luận nổi tiếng thuộc khuynh hướng glasnost, hay xin mượn cụm từ của Samuel Johnson, “những bậc thầy truyền giảng chân lý” (teachers of truth): kinh tế gia Mikolai Shmelyov; các triết gia chính trị như Igor Klyamkin và Alexandr Tsypko; các tiểu luận gia như Vasily Selyunin, Yuri Chernichenko, Igor Vinogradov, and Ales Adamovich; các ký giả Yegor Yakovlev, Len Karpinsky, Fedor Burlatsky, và chí ít trên hai chục nhà văn nữa.  Đối với họ, việc phục sinh đạo lý là thiết yếu.
Điều này có nghĩa là không những chỉ rà soát lại các hệ thống chính trị và kinh tế Xô-viết, không những chỉ lật ngược các qui phạm xã hội (social norms), mà còn là một cuộc cách mạng trên bình diện cá nhân: một sự thay đổi trong nhân cách của người dân Nga.
Như Mikhail Antonov tuyên bố trong một tiểu luận rất sáng tạo năm 1987, với tiêu đề “Vậy thì việc gì đang đến với chúng ta?” trên tạp chí Oktyabr, phải “cứu” lấy nhân dân – không phải để họ thoát khỏi các mối nguy từ bên ngoài, nhưng “chủ yếu để họ thoát khỏi chính mình, thoát khỏi các tiến trình phi luân đang giết chết những phẩm chất cao quí nhất của con người”.
Cứu nhân dân bằng cách nào? Bằng cách làm cho tiến trình dân chủ hóa còn sơ sinh trở thành con đường định mệnh, không thể đảo ngược – không phải bằng “một đợt băng tan” ngắn ngủi của Khrushchev, nhưng bằng một cuộc thay đổi khí hậu. Và việc gì sẽ đảm bảo cho tình hình không thể đảo ngược này?
Trên hết, đó là sự xuất hiện của con người tự do, một con người “không bị lây nhiễm trước các sự kiện lặp đi lặp lại của chế độ nô lệ tinh thần”. Tuần báo Ogoniok, một tạp chí quan trọng thuộc chủ trương glasnost, đã viết vào tháng Hai năm 1989 rằng chỉ có “con người không có khả năng làm chỉ điểm cho công an, không có khả năng phản bội và láo khoét, bất luận nhân danh ai hay tổ chức nào, mới có thể cứu chúng ta khỏi sự xuất hiện trở lại của một nhà nước độc tài”. 
Lối lý luận vòng vo này — để cứu nhân dân, người ta phải cứu lấy perestroika, nhưng người ta chỉ cứu được perestroika nếu có thể  thay đổi đựợc con người “từ bên trong” — gần như không hề làm cho ai khó chịu. Những người phát biểu tư duy về những vấn đề này gần như đã cho rằng việc cứu nước bằng chủ trương perestroika và việc kéo người dân khỏi bãi sình lầy tinh thần là hai nỗ lực đan kết chặt chẽ, có lẽ không thể tách rời nhau, và họ dừng lại ở đó. Vấn đề quan trọng là phải đưa nhân dân trở về “địa vị công dân” từ vị trí “nông nô” và “nô lệ”.
“Đủ lắm rồi!” là một lời tuyên bố của Boris Vasiliev, tác giả của một tiểu thuyết bán rất chạy trong giai đoạn này về Thế chiến II, một cuốn truyện được đóng thành phim và được khán giả yêu chuộng không kém. Ông nói: “Đủ lắm rồi những láo khoét, đủ lắm rồi tinh thần nô lệ, đủ lắm rồi sự hèn nhác. Sau cùng, chúng ta phải nhớ rằng tất cả chúng ta đều là công dân. Những công dân tự hào của một đất nước tự hào!” 
Nhìn kỹ vào những nguyên nhân của Cách mạng Pháp, de Tocqueville có nhận xét nổi tiếng rằng, các chế độ bị cách mạng lật đổ thường thường ít áp bức dân chúng hơn các chế độ trước đó. Tại sao? Vì, theo suy đoán của de Tocquevile, mặc dù người dân “ có thể ít khổ sở hơn”, nhưng họ lại “cảm thấy bị xúc phạm nhiều hơn”.  Thông thường, Tocqueville có khuynh hướng bàn về những điều tối quan trọng.
Từ Những Người cha lập quốc trong Cách mạng Mỹ (the Founding Fathers), đến nhóm Jacobins của Cách mạng Pháp và nhóm Bôn-sê-vich trong Cách mạng Nga, những nhà cách mạng này đã chiến đấu chủ yếu dưới một bóng cờ: phát huy nhân phẩm. Chính vì nỗ lực tìm kiếm nhân phẩm xuyên qua quyền tự do và quyền công dân mà khuynh hướng lật đổ chính quyền trong tinh thần glasnost vẫn còn tồn tại – và sẽ còn tồn tại.
Cũng như trước đây những trang báo của tờ Ogoniok và tờ Moskovskie Novosti nằm hãnh diện bên cạnh hình ảnh Boris Yeltsin trên chiếc xe tăng như là các biểu tượng của cuộc mạng Nga gần đây, ngày nay những trang mạng bằng tiếng Á-rập cũng hiên ngang làm biểu tượng cách mạng bên cạnh những hình ảnh các đám đông nổi dậy tại Quảng trường Tahrir của Cairo, tại Khu Casbah của Tunis [Tunisia], trên các đường phố của Benghazi [Lybia], và các thành phố sôi sục bạo động của Syria. Gác các vấn đề ngôn ngữ và văn hóa chính trị qua một bên, các thông điệp và cảm thức mà những cuộc cách mạng này gợi lên là rất giống nhau. 
Mohamed Bouazizi, một thanh niên bán hoa trái, mà cuộc tự thiêu của anh đã châm ngòi cho cuộc nổi dậy tại Tunisia khởi đầu cho Mùa Xuân Á Rập 2011, đã tự tử “không phải vì anh ta thất nghiệp nhưng vì khi anh đến nói chuyện với [chính quyền địa phương] có trách nhiệm về vấn đề của anh thì bị đánh đập – cái chết này là để tố cáo chính phủ”, một người biểu tình tại Tunis đã nói với một nhà báo Mỹ như thế.
Tại Benghazi, cuộc nổi dậy của người Lybia bắt đầu với việc các đám đông hô vang khẩu hiệu, “Nhân dân muốn chấm dứt tham nhũng!” Tại Ai Cập, các đám đông đã “biểu lộ tinh thần tự cường của một dân tộc bị đàn áp quá lâu đã đến lúc không còn biết sợ hãi nữa, không muốn để cho giới lãnh đạo của mình tiếp tục tướt đoạt tự do và chà đạp nhân phẩm”, cây viết chuyên đề của tờ New York Times, ông Thomas Friedman, đã tường thuật từ Cairo vào tháng Hai năm nay. [Nếu có mặt ở hiện trường], ông cũng có thể đã tường thuật như thế từ Mát-xkơ-va năm 1991. 
“Nhâm phẩm có ưu tiên hơn bánh mì!” là khẩu hiệu của cách mạng Tuy-ni-di. Kinh tế Tuy-ni-di đã gia tăng trong khoảng 2 và 8 phần trăm một năm trong hai thập kỷ liền trước cuộc nổi dậy. Với giá dầu lửa ở mức cao,Libya cũng đang phát triển kinh tế khá mạnh ngay trước khi có cuộc nổi dậy.
Cả hai trường hợp này nhắc nhở chúng ta rằng trong thế giới hiện nay, tiến bộ về mặt kinh tế không thể thay thế cho niềm tự hào và tự trọng trong tư cách công dân.
Nếu chúng ta không nhớ kỹ điều này, chúng ta sẽ tiếp tục kinh ngạc — trước “các cuộc cách mạng màu” trong thế giới hậu-Xô viết, trước Mùa Xuân Á Rập, và không chóng thì chầy trước một biến động dân chủ tất yếu tại Trung Quốc – như chúng ta từng kinh ngạc trước cuộc cách mạng tại Nga Xô.
“Thượng Đế đã ban cho chúng ta một ý thức mãnh liệt về nhân phẩm khiến chúng ta không thể chấp nhận sự khước từ các quyền tự do và các quyền bất khả xâm phạm, bất chấp cả quyền lợi có thực hay giả tưởng nào mà các chế độ độc tài ‘ổn định’ có thể mang lại”, tổng thống của nước Kyrgyzstan, ông Roza Otunbayeva, đã viết vào tháng Ba năm nay. “Thật là kỳ diệu khi người dân, nam, phụ, lão, ấu, thuộc nhiều tôn giáo và khuynh hướng chính trị khác nhau, qui tụ trong các quảng trường thành phố và tuyên bố ‘chúng tôi đã bưa lắm rồi’ (enough is enough)”. 
Hẳn nhiên, động lực đạo lý tuyệt vời, sự tìm kiếm chân và thiện, chỉ là một điều kiện cần nhưng không đủ để tái tạo một đất nước thành công. Nhân dân có thể đủ sức lật đổ chế độ cũ (ancien régime), nhưng không thể cùng một lúc khắc phục được nền văn hóa chính trị độc tài đã ăn sâu trên cả nước. Gốc rễ của các định chế dân chủ do những cuộc cách mạng có động cơ đạo lý có lẽ tỏ ra còn quá nông cạn, không thể giữ vững một nền dân chủ hữu hiệu trong một xã hội thiếu truyền thống quí giá là cơ sở hạ tầng biết tự tổ chức và biết tự trị. Đây là điều có thể gây trở ngại to lớn cho việc thực hiện những hứa hẹn của Mùa Xuân Á-rập – đã thấy ở Nga.
Sự phục sinh đạo lý ở Nga đã bị trở ngại do sự phân hóa và ngờ vực mà 70 năm độc tài toàn trị sản sinh ra. Mặc dù Gorbachev và Yeltsin đã tháo dỡ một đế quốc, nhưng cái di sản của não trạng đế quốc trong hằng triệu người Nga đã khiến họ dễ dàng chấp nhận chủ nghĩa tân độc tài của Putin (neo-authoritarian Putinism), với các chủ đề tuyên truyền to lớn như “sự bao vây của các thế lực thù nghịch” và “Nước Nga đứng dậy từ bước ngã quị”. Hơn thế nữa, bi kịch quốc gia to lớn (và tội lỗi quốc gia) mà chủ nghĩa Xit-ta-lin gây ra chưa bao giờ được tìm hiểu đầy đủ và chưa bao giờ được thống hối, vì vậy đã làm hỏng toàn bộ nỗ lực phục hồi đạo lý, đúng như các người rao giảng glasnost từng mạnh mẽ cảnh báo.  Đó là lý do nước Nga ngày nay một lần nữa đang từng bước tiến tới một thời điểm perestroika khác.
Mặc dù những đợt cải tổ thị trường trong thập niên 1990 và giá dầu lửa tăng cao hiện nay đã kết hợp lại để tạo nên sự phồn vinh chưa từng có trong lịch sử cho hằng triệu người Nga, nhưng sự tham nhũng trắng trợn của tầng lớp cai trị ở chóp bu, chế độ kiểm duyệt kiểu mới, và việc công khai khinh thường dư luận đã tạo ra tình trạng bất mãn và yếm thế, một tình trạng đang bắt đầu lên tới (nếu không muốn nói đã thực sự vượt qua) mức độ của đầu thập niên 1980. 
Người ta chỉ cần đến Mát-xcơ-va vài ngày để tiếp xúc với giới trí thức hiện nay hay, tốt hơn nữa, liếc qua các trang nhật ký mạng (blogs) trên LiveJournal (Zhivoy Zhurnal), diễn đàn Internet nổi tiếng nhất của Nga, hay qua các website của những nhóm trí thức đối lập và độc lập hàng đầu, là thấy được rằng câu châm ngôn của thập niên 1980 – “Chúng ta không thể tiếp tục sống như thế này thêm nữa!” đang trở thành tín điều một lần nữa. Lệnh truyền đạo lý của tinh thần tự do đang tái khẳng định chính nó, và hiện tượng này không chỉ diễn ra hạn hẹp trong các giới trí thức và những nhà hoạt động dân chủ.
 Tháng Hai năm nay, Viện Phát triển Đương đại (the Institute of Contemporary Development), một viện nghiên cứu chính sách tự do do Tổng thống Dmitry Medvedev làm chủ tịch, đã xuất bản một tài liệu có vẻ như là một chương trình vận động tranh cử tổng thống Nga năm 2012: 
“Trong quá khứ nước Nga cần tự do để sống [tốt đẹp hơn]; hiện nay nước Nga cần tự do để sống còn…Thách thức của thời đại chúng ta là làm sao để rà soát lại hệ thống giá trị, hun đúc một ý thức mới. Chúng ta không thể xây dựng một đất nước hiện đại với tư duy cũ…Đầu tư tốt đẹp nhất [mà nhà nước có thể dành cho con người] là Tự do và Nền Pháp trị (the Rule of Law). Và tôn trọng Phẩm giá của con người.”
Chính cuộc tìm kiếm có tính cách trí thức và đạo lý này, một nỗ lực khôi phục niềm tự hào và tự trọng, bắt đầu bằng một cuộc duyệt xét đạo lý không nương nễ đối với quá khứ và hiện tại của đất nước, chỉ võn vẹn trong vài năm đã khoét hổng nhà nước Sô-viết đồ sộ, tước sạch tính chính danh của nó, và biến nó thành một chiếc vỏ bị thiêu rụi (burned-out shell) để rồi tan rã vào tháng Tám 1991.
Câu chuyện về hành trình đạo lý và trí thức này là một câu chuyện hoàn toàn chiếm vị trí trung tâm về cuộc cách mạng vĩ đại cuối cùng của thế kỷ 20. 
Bản tiếng Anh: Foreign Policy, July/August 2011,
Trần Ngọc Cư dịch


-“Tôi nên từ bỏ đảng Cộng sản sớm hơn,” Gorbachev 
Mikhail Gorbachev
Nguồn ảnh: Adrian Dennis / AFP / Getty Images

Jonathan Steele - Trà Mi lược dịch
Cựu Chủ tịch Liên Xô nhìn lại vai trò của mình trong sự sụp đổ của Liên Xô cách đây 20 năm trong một cuộc phỏng vấn độc quyền với tờ The Guardian
Các chính trị gia hiếm khi nhận lỗi, nhưng Mikhail Sergeyevich Gorbachev luôn luôn là người của lớp khác. Vì vậy, không ngạc nhiên, khi nhìn lại sáu năm hỗn loạn lãnh đạo Liên Xô, ông sẵn sàng để kể lại những lỗi lầm ông đã phạm phải.
Trong một cuộc phỏng vấn độc quyền với tờ The Guardian, ông đã kể ra ít nhất năm lỗi lầm của mình. Những lỗi lầm này không chỉ đưa đến sự sụp đổ của chính ông cách đây 20 năm, mà còn mang lại sự sụp đổ của Liên Xô và đem lại nền kinh tế tự do không kiểm soát đã biến một số người Nga thành tỷ phú trong khi đưa hàng triệu người khác vào cảnh đói nghèo.




Gorbachev trông có vẻ thoải mái, vui vẻ, nhưng thỉnh thoảng vẫn còn nét cay đắng, đặc biệt khi nói đến kẻ thù không đội trời chung, Boris Yeltsin, hoặc khi ông mô tả lại những kẻ âm mưu đảo chánh đã quản thúc ông tại gia ở Crimea trong cuộc đảo chính thất bại 20 năm trước.
“Họ muốn chọc tức tôi để gây chiến và ngay cả một cuộc đấu súng và có thể đã dẫn đến cái chết của tôi,” ông nói.
Khi được hỏi những điều hối tiếc nhất, ông trả lời không do dự: “Thực tế là tôi đã cố gắng quá lâu để đổi mới đảng Cộng sản.” Ông đã nên từ chức vào tháng 4 năm 1991, Gorbachev nói, và thành lập một đảng dân chủ để đổi mới vì Cộng sản đã chận đứng tất cả các thay đổi cần thiết.
Nhận định này sẽ được các sử gia quan tâm đặc biệt vì đây là lần đầu tiên Gorbachev công nhận rằng ông đã nên rời bỏ Đảng Cộng sản vài tháng trước khi có cuộc đảo chính tháng 8 năm 1991. Trong cuốn hồi ký, xuất bản vào năm 1995, ông đã không nói đến điều này.
Vào mùa xuân năm 1991, Gorbachev đã bị kẹt giữa hai xu hướng mạnh làm không khó cựa quậy được. Một bên là nhóm bảo thủ và phản động trong đảng đã luôn cố gắng để đảo ngược chính sách của ông, một bên là nhóm cấp tiến, những người muốn lập một hệ thống đa đảng và đưa đất nước theo hướng đổi mới [kinh tế] thị trường.
Cuộc đụng độ xảy ra tại một phiên họp của Ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản vào tháng 4 năm 1991. Tại một cuộc họp Ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản, một số diễn giả kêu gọi tuyên bố tình trạng khẩn cấp và áp dụng lại việc kiểm duyệt. Theo hồi ký của ông, Gorbachev đã phản ứng mạnh: “Mỵ dân như thế đủ rồi. Tôi từ chức.”
Trong cuộc phỏng vấn với tờ The Guardian, ông giải thích những gì đã xảy ra một cách chi tiết:“Bộ Chính trị [cơ quan quyết định cao nhất trong ủy ban trung ương] đã đi vào một cuộc họp ba giờ mà không có tôi; tôi được biết họ chỉ trích tôi và thảo luận lan man. Ba tiếng đồng hồ sau họ mời tôi trở lại và yêu cầu tôi rút lại đơn từ chức của tôi. Trong thời gian đó nhóm người ủng hộ tôi trong Ủy ban Trung ương đã lập ra một danh sách và hơn một trăm người ủng hộ ý tưởng lập ra một đảng mới.”
Khi Ủy ban Trung ương tiếp tục phiên họp, khung cảnh đã dịu lại, Gorbachev rút lời từ chức của ông và không ai muốn biểu quyết vấn đề này. (Ngay cả khi đã từ chức khỏi Đảng, ông sẽ vẫn là Chủ tịch Xô Viết). Trong hồi ký của ông, Gorbachev đã viết, “Hôm nay tôi thường tự hỏi liệu tôi đã nên quyết đòi từ chức Tổng Bí thư. Một quyết định như vậy cũng có thể thích hợp hơn cho cá nhân tôi. Nhưng tôi lại cảm thấy tôi không có quyền ‘từ bỏ đảng’.” Đảng Cộng sản đã cai trị nước Nga từ năm 1917 và thật khó cho bất cứ ai ở Nga, nhất là một quan chức với toàn bộ sự nghiệp của mình là người làm việc cho Đảng, có thể tưởng tượng Đảng sẽ không còn quyền lực.
Ngày nay, nghi ngờ của Gorbachev đã biến mất. “Tôi nghĩ rằng tôi nên đã dùng cơ hội đó để thành lập một đảng mới và khẳng định sự từ chức với đảng Cộng sản. Điều này đã trở thành một lực cản về mặt cải cách mặc dù nó đã đưa đến đổi mới. Nhưng tất cả họ đều nghĩ rằng những đổi mới chỉ cần có vẻ bề ngoài. Họ nghĩ rằng sơn mặt tiền là đủ, khi thực sự vẫn còn đầy lộn xộn bên trong tòa nhà cũ.”
Hối tiếc thứ hai của ông, ông nói rằng ông đã không bắt đầu đổi mới Liên Xô và trao nhiều quyền hơn cho 15 nước cộng hòa trong liên bang sớm hơn. Đến lúc ông bắt đầu suy nghĩ về việc tạo ra một liên bang cởi mở hơn vào năm 1991 thì ba nước Baltic đã tuyên bố độc lập. Máu đã chảy ở Lithuania và Azerbaijan ở vùng Caucasus. Dưới quyền lãnh đạo đầy tham vọng của Boris Yeltsin, Nga, nước cộng hòa lớn nhất, phô diễn sức mạnh của mình và đòi quyền kiểm soát ngân sách của Liên Xô nhiều hơn. Một số nhà phân tích nói rằng toàn bộ hệ thống của Liên Xô không thể đổi mới và bất kỳ thay đổi nào cũng sẽ dẫn đến một quá trình chuyển đổi ngày càng mạnh và không thể ngăn cản được. Đó là điều không thể tránh khỏi, theo phân tích này, thì Gorbachev đã hoàn toàn mất quyền kiểm soát.
Một phần vì cá tính hào phóng, và hạnh với phúc cuộc sống gia đình (cho đến khi vợ của ông là Raisa Maximovna qua đời vì bệnh bạch cầu năm 1999), Gorbachev vẫn còn là một người lạc quan. Thất bại không làm ông cay đắng hay trở thành hoài nghi. Ông lập luận rằng tất cả các vấn đề Liên Xô đã nằm trên biên của giải đáp cho đến khi cuộc đảo chính tháng 8 năm 1991 kéo các lực lượng cạnh tranh vào một sôi nổi mới.
Đảng Cộng sản đã đến lúc dự thảo một chương trình mới vào tháng 11 năm 1991. Quốc hội đã thông qua một “kế hoạch chống khủng hoảng” để đẩy mạnh cải cách kinh tế. 12 nước cộng hòa của Liên Xô vẫn còn sau khi các Baltics tách ra đã chấp nhận các văn bản của một hiệp ước mới sẽ cho họ có quyền tự chủ chính trị và kinh tế hơn trong khi việc quốc phòng, ngoại giao vẫn thuộc chính phủ Xô Viết. Hiệp ước đã được chuẩn bị ký kết vào ngày 20 tháng 8.
“Lúc này tôi đã làm một sai lầm. Tôi đã đi nghỉ mát. Tôi có thể không cần 10 ngày nghỉ ... Tôi đã sẵn sàng bay tới Moscow để ký hiệp ước,” ông nói. Nhưng vào ngày 18 tháng 8, một nhóm người không được mời đã đến. “Tôi nhấc điện thoại và hỏi những họ là ai và ai đã gời họ đến, nhưng không có đường giây. Điện thoại của tôi đã bị cắt đứt.”
Gorbachev là với vợ, con gái Irina và gia đình cô trong một biệt thự của chính phủ ở Foros trên bờ Biển Đen. Tòa nhà được canh gác ba ngày cho đến khi cuộc đảo chính sụp đổ vì sức đề kháng của Yeltsin, chia rẽ ở trong quân đội, và bất đồng nội bộ giữa các nhóm đảo chánh tất cả đều là các Bộ trưởng, quan chức cao cấp của đảng Cộng sản.
Gorbachev mạnh mẽ bác bỏ thuyết cho rằng ông đã bật đèn xanh cho cuộc đảo chánh. “Mọi người đã sai khi cho rằng Gorbachev vẫn còn có thông tin liên lạc và ông đã tổ chức tất cả mọi thứ. Họ nói rằng Gorbachev nghĩ rằng ông sẽ trở thành người chiến thắng, dù bất cứ điều gì đã xảy ra. Volys, hoàn toàn vô lý,” Gorbachev nói. “Những người này muốn lật đổ lãnh đạo và giữ lại hệ thống cũ. Đó là những gì họ muốn. Họ yêu cầu tôi viết một tuyên bố yêu cầu được giải nhiệm Chủ tịch vì vì bệnh tật.”
Raisa Maximovna giữ một cuốn nhật ký trong thời gian quản gia đình bị quản thúc tại gia. Trong đó, bà thông báo rằng Gorbachev đã cảnh cáo nhóm lính gác là ông sẽ có “biện pháp cực đoan” nếu liên lạc với thế giới bên ngoài không được khôi phục.
Đây là cú tháu cáy, Gorbachev nói với tôi. “Đó là một phần của thủ đoạn của tôi ... Tôi chỉ muốn gây áp lực với họ, nhưng tôi muốn tránh khiêu khích họ ... biện pháp cực đoan của tôi là ngoại giao và chính trị. Tôi đã có thể thắng trí bọn họ. Nếu không có thay đổi tại Moscow, tôi đã không biết phải làm gì. Nhưng tại Moscow, người dân phản đối. Họ được Yeltsin dẫn đầu và đây là lý do tại sao chúng tôi phải ghi công và trao quyền cho Yeltsin. Yeltsin đã làm đúng.”
Là một trong những phóng viên của The Guardian Moscow trong cuộc đảo chính, tôi nhắc với Gorbachev, rằng Yeltsin kêu gọi tổng đình công đã không ai chịu nghe và nhiều người Nga trong tuyệt vọng, cảm thấy cuộc đảo chính sẽ thành công. Các thế hệ lớn tuổi nhớ nhóm bảo thủ ngày trước đã dễ dàng loại bỏ Khrushchev và mang thời đại của gột rửa Stalin đến kết thúc vào năm 1964. Tôi hỏi Gorbachev điều gì sẽ xảy ra nếu nhóm đảo chính đã bắt Yeltsin cũng như Gorbachev ngay lúc đầu. Họ có thể đã giành được chiến thắng?
Cựu lãnh đạo Liên Xô cho biết, câu hỏi giả thuyết ít có giá trị. Cân bằng lực lượng như vậy nên cuộc đảo chính đã bị tiêu diệt bất kỳ nhóm đảo chính đã làm gì. Nhóm âm mưu đảo chính đã bối rối vì sức đề kháng và từ chối từ chức Chủ tịch của Gorbachev. Ông cũng chỉ ra rằng các lực lượng đặc biệt đã nổi loạn khi được lệnh xông vào Nhà Trắng nơi Yeltsin đã được hàng ngàn người ủng hộ bao quanh.
Gorbachev liệt kê một số thành tựu ông tự hào nhất, bắt đầu với một từ: “Perestroika.”
Có nghĩa là tái cấu trúc, perestroika là chương trình cải cách hệ thống chính trị và kinh tế của Liên Xô do Gorbachev thiết lập ngay sau khi ông lên nắm quyền vào tháng 3 năm 1985. Nhưng nó cũng liên quan đến việc cơ cấu lại các quan hệ quốc tế về giải trừ vũ khí hạt nhân, từ chối can thiệp tại nước ngoài và công nhận rằng các siêu cường cũng đang sống chung trong một thế giới phụ thuộc lẫn nhau. Không có quốc gia là một hòn đảo hay nên hành động đơn phương.
Chính sách mới không-can-thiệp của Liên Xô cho phép các mước Đông Âu có thể thay đổi chế độ nội bộ bằng phương tiện hòa bình. “Những gì chúng tôi đã có thể đạt được trong nước và trên trường quốc tế có tầm quan trọng rất lớn. Nó xác định trước các sự kiện đi đến sự kết thúc chiến tranh lạnh, chuyển hướng tới một trật tự thế giới mới, và mặc dù tất cả mọi thứ, đẩy phong trào dần dần đi từ một nhà nước độc tài toàn trị một nền dân chủ.”
Gorbachev đã không bao giờ hòa giải được với chín năm quyền lực của Yeltsin mà ông xem như là một thời gian hỗn loạn. Ông cũng không ưng thỏa thuận của Yeltsin với các nhà lãnh đạo Ukraine và Belarus tuyên bố Liên Xô đã chết trong tháng 12 năm 1991. Ông nghĩ mình đã nên loại Yeltsin ra khỏi chính trường vài năm trước khi Yeltsin trở thành một đối thủ trực tiếp. “Tôi đã có thể quá tự do và dân chủ trong ứng xử với Yeltsin. Đáng lẽ tôi đã nên gửi ông ấy đi làm Đại sứ tại Vương quốc Anh hoặc có thể làm Đại sứ tại một thuộc địa cũ của Anh,” ông nói.
Ông ca ngợi Putin khôi phục lại sự ổn định ban đầu cho đến khoảng năm 2006. Mặc dù Putin đã sử dụng một số phương pháp độc tài, chấp nhận được trong quan điểm của Gorbachev. “Nhưng sau đó đến khi tôi thấy ông ấy thay đổi hệ thống bầu cử, bãi bỏ các cuộc bầu cử thống đốc vùng của Nga và loại bỏ các khu vực bầu cử chỉ có một dân biểu. Có khoảng 20 thay đổi mà tôi không thể ủng hộ,” ông nói thêm.
Khi cuộc phỏng vấn một giờ gần kết thúc, tôi đã yêu cầu cựu Chủ tịch Liên Xô nói về sự thay đổi ở Trung Quốc, nhà nước cộng sản lớn nhất thế giới hiện nay. Gorbachev có quan điểm dài của lịch sử nhưng chắc chắn rằng đổi mới ở đó là điều không thể tránh khỏi. Bất kỳ đề nghị nào cho rằng ông đã nên đi theo Trung Quốc bằng cách bắt đầu với cải cách kinh tế hơn là đổi mới chính trị là sai, ông nói.
“Không có gì có thể xảy ra tại Liên Xô đã nếu chúng tôi đã làm như thế [đổi mới kinh tế trước khi đổi mới chính trị]. Người dân đã bị cô lập hoàn toàn trong mọi quyết định. Đất nước của chúng tôi là một giai đoạn phát triển khác với Trung Quốc và với chúng tôi, để giải quyết vấn đề, chúng tôi đã phải liên quan đến người dân.”
“Ông [nhà báo] có nghĩ rằng Trung Quốc sẽ có thể để tránh những lựa chọn khó khăn tương tự tại một thời điểm trong tương lai? Sẽ đến lúc họ sẽ phải có quyết định thay đổi chính trị và họ đã đến gần thời điểm đó.”
Gorbachev kỷ niệm sinh nhật lần thứ 80 của mình vào tháng Ba năm nay ở London tại một buổi dạ tiệc tại Royal Albert Hall, do Kevin Spacey và Sharon Stone tổ chức. Một mảng các ca sĩ lập dị, đã trình diễn cho Gorbachev, như Shirley Bassey, Paul Anka, Melanie C cũng như các ban nhạc rock, Scorpions, của Đức, ban nhạc phương Tây thứ hai chơi ở Liên Xô.

























Mikhail Gorbachev phát biểu trong Gorby 80 Gala tại Royal Albert Hall, London
Nguồn ảnh: Dave Hogan/Getty Images



Tuy nhiên, nổi bật nhất là khi Gorbachev hát một bản tình ca Nga trên màn hình lớn. Khán giả đã choáng váng vì độ trong sáng cũng như niềm đam mê trong của giọng hát của ông. Tôi nói tôi không biết ông có thể hát một cách tuyệt vời như thế, và có tài năng tiềm ẩn này.
Gorbachev cười. “Nếu cần tôi sẽ trở thành một ca sĩ nhạc pop,” ông nói. “Raisa thích khi tôi hát.”

© DCVOnline





Nguồn: Mikhail Gorbachev: I should have abandoned the Communist party earlier. guardian.co.uk, Tuesday 16 August 2011.

-Bài học tranh đấu dân chủ
Nhìn lại phong trào tranh đấu bất bạo động của Gandhi -Bất bạo động, bất hợp tác hay vũ trang? : Việt Nguyên
Dân đã thức sao Đảng vẫn ngủ? –   (DLB).

Về bức "Thư Ngỏ": Thư ngỏ Hà Nội 2012... Tuyên ngôn Caravelle 1960 (VOA 10-8-12)


Tướng Nguyễn Chí Vịnh: Xử lý dioxin Đà Nẵng chậm do chưa có tiền lệ (infonet 10-8-12)

Tổng số lượt xem trang