XÃ HỘI: CHÍNH LÀ BẠN
Cho dù bạn lý giải thế nào thì xã hội vẫn là tập hợp của những con người, và mối quan hệ của cuộc sống chính là mối quan hệ giữa các cá nhân. Cho dù bạn là người nào, giàu hay nghèo, có địa vị cao sang hay một lương dân lam lũ, bạn sống trong dinh thự của một bộ trưởng hay rày đây mai đó, sống trong nhà tranh vách lá của một thợ thuyền, hay bạn sống ẩn dật viễn ly để truy tìm chứng nghiệm tâm linh... thì mối quan hệ luôn là trọng tâm đời sống con người, và đời sống chính là kết quả của những mối tương giao giữa con người với tha nhân và môi trường thiên nhiên.
Những lề thói, phép tắc của các mối quan hệ tạo nên một ý thức tập thể. Khi con người đồng thuận về một quy tắc hành xử trong một tập thể dù lớn hay nhỏ cũng là lúc những giao thoa của tư tưởng thuận chiều đan kết với nhau và tạo thành dòng tư tưởng mà chúng ta quen gọi là ý thức xã hội hay dân tộc tính... Chính sự tương tác của tập thể và cá nhân định hình cho khuôn mẫu xã hội và nhân cách của mỗi cá nhân trưởng thành trong đó. Ý thức của mỗi cá thể chính là sự bao hàm những thâu lượm từ môi trường chung quanh như nền văn hóa, giáo dục, thời tiết thiên nhiên và cả đến đồ ăn thức uống mà nó được nuôi dưỡng để trưởng thành. Và chính mỗi cá nhân trưởng thành lại tác động vào cộng đồng mà nó đang sống để gìn giữ có cải tiến cho cái khuôn mẫu chung đó. Bỡi vậy chính cái dòng tư tưởng chung định đoạt cho mỗi số phận cá thể. "Con người là tư tưởng hóa thân" và xã hội chính là sự hóa thân cộng hưởng của nhiều luồng tư tưởng. Vậy, xã hội chính là bạn, là tôi, là chúng ta chứ không phải điều gì cao xa, trừu tượng. Và toàn thể chúng ta có quyền, có bổn phận thay đổi xã hội theo ý nguyện của chúng ta chứ không một thế lực hay đảng phái nào có quyền cũng như bổn phận phải làm thay cho chúng ta, nếu như đó không phải sự đồng thuận của toàn dân ủy thác.
Thế nhưng có những dòng tư tưởng tích cực và cũng có dòng tư tưởng tiêu cực. Hãy lấy một ví dụ rất đời thường để thấy sự khác biệt của hai hướng đi của dòng tư tưởng. Ví dụ hai người bạn làm cùng nghề nghiệp với nhau nếu thật tâm chia sẻ những kiến thức, kinh nghiệm trong nghề với nhau cả hai đều sở hữu số kiến thức và kinh nghiệm bằng 2 lần mỗi một người có được; ngược lại nếu cả hai " mạnh ai nấy giữ" thì mỗi người chỉ giữ được những gì họ có được đó là chưa kể dạng cạnh tranh bất thiện, tức là 'phá phach' lẫn nhau, thì vốn liếng của mỗi người trong việc thực thi kiến thức để mang lại lợi ích cho công việc sẽ ở dưới mức khả năng của chính mỗi người. Suy rộng ra ở bình diện quốc gia và dân tộc thì nếu như một dân tộc có chung dòng suy nghĩ giúp nhau để phát triển thì kết quả sẽ nhân đôi, thậm chí nhân lên gấp bội lần trong khi một dân tộc mà trong đó mỗi con người luôn nghĩ đến việc hại người để giành thế thượng tôn thì kết thành quả của nó chỉ bằng với chính tiềm năng hoặc sẽ thấp hơn nhiều so với tổng tiềm lực mà chính những con người trong tập thể đó có được. Thế mới biết "Nhứt thiết duy tâm tạo". Ý thức được mối tương tác giữa cá thể và tập thể chính là sự kết tinh của linh hồn đời sống, ông Vua Thép-Andrew Carnegie- đã tặng lại gần như toàn bộ tài sản của mình để tái đầu tư lại cho nền tảng của xã hội như giáo dục, y tế, đạo đức..., đây, ông nói " Nhờ sự nỗ lực của người khác mà tôi đã đạt được tiền bạc, và tôi, bằng cách tìm ra một phương pháp càng mau càng tốt, chia sẻ tiền bạc lại cho người khác." Sau ông, chúng ta thấy có nhiều người thành đạt Mỹ cũng có tư tưởng tương tự với những người hiện tại mà chúng ta thấy như Warren Buffett, Bill Gates, Cựu TT Jimmy Carter, Cựu TT Bill Clinton, Cựu TT George W. Bush...và vô số hội từ thiện mang tên những con người thành đạt khác đã tạo nên tinh thần Mỹ, tinh thần tương trợ và giúp nhau cùng tiến bộ. Tinh thần đó đã giúp rút ngắn khoảng cách giàu nghèo, tái cân bằng sự ổn định xã hội. Nó cũng tạo ra những tiện ích công cộng để phục vụ con người, chúng ta có thể bắt gặp những loại dịch vụ đó trong đời sống hàng ngày như trang Wikipedia là một ví dụ. Tinh thần đó cũng tạo cơ hội để khai thác tối đa bộ óc của con người -một tài sản quý giá nhất - hầu xây dựng xã hội qua những chương trình Financial Aid trong lĩnh vực giáo dục. Và nó còn vươn xa hơn nữa đến tận những châu lục xa xôi, những quốc gia lạc hậu để mang lại cơ hội cho con người. điển hình là mỗi năm có khá nhiều sinh viên các nước được nhận học bỗng du học Mỹ và các nước châu Âu. Thế mới biết "Tài sản nằm trong đầu óc con người luôn luôn dồi dào hơn tài sản nằm trong lòng đất", và trái tim-tình yêu và niềm đam mê- chính là động lực đã biến những tài sản vô hình thành vật thể hữu dụng như sản phẩm Apple của Steve Jobs, và biết bao sản phẩm mà chúng ta sử dụng hôm nay cũng chính là kết tinh của niềm khao khát, đam mê cháy bỏng cộng với những bộ óc cần mẫn đến mức phi thường. Họ chính là những con người yêu nước chân chính và tình yêu con người và xứ sở trong họ không ồn ào, hoa hòeo, hào nhoáng như một khẩu hiệu mà nó đã thẩm thấu vào tận xương thịt để đơm hoa kết trái cho đời bằng những hành động cụ thể-một hành động mang đầy tính xây dựng, vun vén cho cộng đồng, xã hội.
LÒNG YÊU NƯỚC KHÔNG PHẢI MỘT MỆNH ĐỀ TRỪU TƯỢNG
Ở đâu đó tôi đã bắt gặp câu giáo dục lòng yêu nước rất cụ thể, giản đơn " Đối với nước nhà anh phải có bổn phận phát triển tận độ khả năng của anh ", quả thật vậy, nếu anh không có khả năng tốt làm sao anh phục vụ quốc gia của anh một cách hữu hiệu? Một quốc gia phú cường há chẳng phải một quốc gia có nhiều con người tài năng siêu việt hay sao? Thế mới biết 'lòng yêu nươc' không phải là một mỹ từ trừu tượng. Vì ngôn từ cứ mãi là ngôn từ nếu như nó không biến thành cảm xúc mãnh liệt để thúc đẩy con người hành động, như sự quay về quê huơng VN để xây dựng đội ngũ Toán học nước nhà của giáo sư Ngô Bảo Châu, sự lên tiếng cảnh báo hiểm họa quốc gia của tiến sĩ luật Cù Huy Hà Vũ (mà hôm nay điều đó đã trở thành sự thật ) và hàng hàng lớp lớp sinh viên, trí thức trong ngoài nước tham gia phản biện, hội thảo, kiến nghị, biểu tình...về các vấn đề trọng đại của quốc gia, dân tộc.
Nếu "Tình yêu là một mỹ từ đẹp nhất trong các mỹ từ " thì tình yêu nước được nhân lên gấp bội, vì nó đã vượt khỏi ý thức cá thể để bao dung, ôm ấp cả một giống nòi. Lòng yêu nước không là một ngôn từ tĩnh tại, mà nó chính là cảm xúc thiết tha, mãnh liệt của mỗi tâm hồn, mỗi trái tim luôn trăn trở với vận mệnh non sông và mọi thăng trầm của dân tộc; nó có sức nóng, sự truyền cảm, bức xạ cảm xúc để truyền sang những người bên cạnh, và nhận chìm tất cả những âm mưu đen tối chung quanh để tỏa sáng như vầng dương đều đặn mỗi ngày. Có lẽ vì quá quen với những suy nghĩ sáo mòn của những người không còn sức sống sinh động, và tư duy già cõi của giới tuyên truyền trong nước với những mệnh đề yêu nước đầy sáo rỗng như "Yêu nước là yêu CNXH"...Bằng vào mạng nhện chủ nghĩa Marx-Le người ta đi tìm đâu là lòng yêu nước thì thật là hoài công và phi lý ; và con người nghe theo nó như chìm vào sự ru ngủ của độc tố nội tâm để không còn nhận ra một tình yêu đất nước ban sơ mộc mạc nhưng chan chứa, nồng nàn. Để rồi người ta không còn nhận ra yêu thuơng người hàng xóm của mình chính là lòng yêu nước, giúp đỡ những dân oan ba miền Trung, Nam, Bắc chính là lòng yêu nươc; lên tiếng với những bất công, phi lý của cuộc sống, những sai trái của giới cầm quyền chính là lòng yêu nước, can đảm bước ra khỏi đảng Cộng Sản, một đảng phái đã làm băng hoại đạo đức, tước đoạt phẩm giá của nhân dân chính là lòng yêu nước. Giáo dục trẻ em sống đời thật thà, lành mạnh là vô vàng yêu nước.
Bởi vậy, nếu bạn yêu nước thì hãy hành động, vì lẽ trên thế gian này không có một tình yêu chân thực nào bị giới hạn ở ngôn từ sáo rỗng.
- Nguon: Facebook:William Truong. Ý THỨC CÔNG DÂN
--
Diễn từ nhận giải thưởng sách hay 2012
Tôi thật bất ngờ và vinh dự được Ban xét giải thưởng Sách Hay trao giải nghiên cứu năm 2012 cho tôi như người đã dịch tác phẩm Bàn về tự do của John Stuart Mill. Tôi xin chân thành cảm ơn về đánh giá khích lệ này cho công việc của tôi.
Tôi vốn không phải là người được đào tạo bài bản về khoa học xã hội và nhân văn, nhưng trong tư cách là một con người sống trong xã hội, tôi luôn băn khoăn với một số câu hỏi nhân sinh; những câu hỏi ấy thôi thúc tôi tìm lời giải đáp cho chính mình. Thế hệ chúng tôi lớn lên trong những biến động lịch sử to lớn của dân tộc, dưới ảnh hưởng tinh thần của những khẩu hiệu đến từ cách mạng Pháp: Tự do, Bình đẳng, Tình anh em; chúng tôi luôn được giáo dục phải dấn thân vì xã hội. Thực tiễn cuộc sống cho tôi thấy rằng, tập thể đông người không phải lúc nào cũng có ý kiến đúng đắn và thường có thái độ chuyên chế áp đặt đối với cá nhân trong tất cả mọi chuyện. Trong lòng tôi xuất hiện câu hỏi: có ranh giới chuẩn mực nào cho việc áp đặt ý kiến của số đông với cá nhân để cho việc áp đặt ấy là chính đáng. Công việc nghề nghiệp và cuộc sống bề bộn đã không cho tôi có điều kiện thư thả để tìm hiểu chuyện này. Mãi đến tuổi về hưu tôi mới được đọc tuyệt tác Bàn về tự do của John Stuart Mill. Cuốn sách đã gây ấn tượng rất mạnh cho tôi. Vào lúc đó trình độ tiếng Anh của tôi còn khá thấp, nhưng tôi cũng bắt tay vào việc dịch những trích đoạn ấn tượng nhất và giới thiệu với bạn bè. Một người bạn của tôi, ông Chu Hảo, là người đã khích lệ tôi dịch toàn bộ tác phẩm. Sau khi ông Chu Hảo trở thành Giám đốc NXB Tri Thức, ông cùng với các cộng sự của mình đã giúp tôi hoàn tất bản dịch và cho xuất bản cuốn sách.
Tác phẩm Bàn về tự do đã đưa ra lời giải đáp khá thỏa đáng về ranh giới chính đáng cho sự áp đặt của xã hội lên tự do cá nhân: vì sự an toàn cho xã hội, con người cá nhân phải giao nộp một phần tự do của mình; thế nhưng con người cá nhân không thể giao nộp toàn bộ tự do của mình vì như thế con người cá nhân tất yếu sẽ tha hóa, và xã hội sẽ phải chịu tổn thất vì sự tha hóa của các thành viên của nó. Tự do như thế của cá nhân trong quan hệ với xã hội thường được gọi là tự do dân sự. Mặc dù vấn đề tự do dân sự đã được J.S. Mill làm sáng tỏ từ trước đây một thế kỷ rưỡi, nhưng cho đến nay tự do dân sự vẫn chưa thành hiện thực trong đại đa số các xã hội con người. Có những nguyên nhân lịch sử khiến cho sự phát triển của các xã hội không đồng đều. Người ta bàn luận rất nhiều về những nguyên nhân ngoại tại tác động không thuận lợi cho sự phát triển con người cá nhân, khiến cho mức độ phát triển tinh thần chung của xã hội phải thấp kém. Người ta nói nhiều đến ảnh hưởng quyết định của môi trường xã hội đến con người cá nhân. Những ảnh hưởng của môi trường xã hội đến thế giới tinh thần của con người cá nhân không nhất thiết mang tính bạo lực và cưỡng bức, mà thường là dưới dạng thức của những cám dỗ: cám dỗ vươn tới quyền lực và hùng mạnh, cám dỗ đầy uy lực của đồng tiền, cám dỗ của danh tiếng… Trong lòng tôi lại xuất hiện câu hỏi: liệu ảnh hưởng môi trường xã hội đến con người cá nhân có thật là mang tính quyết định hay không? Nếu ảnh hưởng ấy không mang tính quyết định, thì con người cá nhân có những khả năng gì để chống trả lại những ảnh hưởng tiêu cực đến từ bên ngoài, đặng bảo vệ phẩm giá con người của mình? Nhà tư tưởng Nga Herzen đã khẳng định:”Tính độc lập về nhân cách của con người cũng là chân lý và thực tại hiển nhiên, không khác gì sự phụ thuộc của con người vào môi trường, với sự khác biệt là nó ở trong quan hệ ngược lại với môi trường: càng nhiều ý thức thì tính độc đáo càng lớn; càng kém ý thức thì sự ràng buộc với môi trường càng chặt chẽ hơn, môi trường càng nuốt mất bản ngã nhiều hơn”. Vậy là ở đây đặt ra vấn đề con người cá nhân phải bảo vệ tự do của bản ngã chống lại những cám dỗ ngoài xã hội để giữ được phẩm giá của mình. Tự do ở đây không có ý nghĩa như một quyền cần phải giành lấy, mà lại có ý nghĩa như một trách nhiệm trước bản thân mình, đòi hỏi con người cá nhân phải có dũng khí nhận lấy trách nhiệm ấy. Cần phải có dũng khí bởi vì tự do với cám dỗ thì rất khó khăn, còn chịu khuất phục làm nô lệ cho cám dỗ thì dễ dàng hơn, ít đau đớn hơn nhiều. Ở đây tôi đang nói tới một thứ tự do khác với tự do dân sự, tự do này được các triết gia tôn giáo Nga đầu thế kỷ XX gọi là tự do lương tâm.
Tự do lương tâm có lẽ gắn với phong trào Phục hưng được thể hiện trong “Diễn từ về phẩm giá con người” của triết gia Ý Pico della Mirandola (1463-1494) vốn được coi là tuyên ngôn của chủ nghĩa nhân văn. Ông đã diễn giải ý nghĩa của việc Thượng đế tạo ra con người như sau: “Ta đặt Mi giữa thế gian, để cho Mi có thể tự do nhìn ra khắp mọi phía của thế giới và nhìn đi đâu tùy ý của Mi. Ta tạo ra mi không phải trần tục, không phải thượng giới, không phải loài có sinh có tử, không phải bất tử. Bởi vì Mi tự Bản thân mình, phù hợp theo ý chí của Bản thân mình và theo danh dự, có thể là Đấng sáng tạo và Người tạo tác của chính mình và từ vật liệu thích hợp cho Mi mà hình thành nên Bản thân mình. Như vậy, Mi tự do trong việc đi xuống thấp tới những thang bậc thấp kém nhất của thế giới thú vật, thế nhưng Mi cũng có thể nâng cao Bản thân mình lên tới phạm vi cao cả nhất của Thần thánh“.
Trong tác phẩm Anh em nhà Caramazov, đại văn hào Nga Dostoevski đã dựng nên câu chuyện Viên Đại pháp quan tôn giáo ra lệnh bắt giam Chúa Kitô khi Ngài xuất hiện trở lại trên thế gian. Viên Đại pháp quan đã chất vấn Chúa: Chúa đã hứa hẹn với người đời thứ tự do mà người đời chất phác và bẩm tính càn rỡ không thể hiểu nổi… Con người quý trọng sự yên ổn và thậm chí cả cái chết hơn là tự do lựa chọn trong sự nhận thức thiện ác. Đối với con người không có gì hấp dẫn hơn tự do lương tâm, nhưng cũng không có gì khổ ải hơn. Con người yếu đuối sẽ không kham nổi sức nặng khủng khiếp của tự do lựa chọn, họ sẽ đi tìm ai đó có phép lạ để trút bỏ gánh nặng tự do lựa chọn ấy mà làm nô lệ cho kẻ đó. Có thể có mấy chục ngàn người theo Chúa vì bánh mì trời, nhưng còn có hàng chục triệu người khác không đủ can đảm coi rẻ bánh mì trần thế; những người này sẽ mang tự do của họ đặt dưới chân chúng tôi và nói: “Chẳng thà biến chúng tôi thành nô lệ, nhưng cho chúng tôi ăn còn hơn”. Viên Đại pháp quan yêu cầu Chúa đi khỏi thế gian, đừng gây phiền nhiễu nữa.
Triết gia Nga N. Berdyaev trong tác phẩm Bàn về nô lệ và tự do của con người đã diễn giải ẩn dụ trên của Dostoevsky như sau: “Hai vấn đề nằm trong cơ sở của đời sống xã hội và không có gì khó khăn hơn việc giải quyết chúng cho thật hài hòa – vấn đề tự do và vấn đề bánh mì. Có thể giải quyết được vấn đề tự do bằng cách tước mất bánh mì của con người. Một trong những quyến rũ mà đức Kitô bác bỏ ở sa mạc, là quyến rũ biến những hòn đá thành bánh mì. Ở đây bánh mì biến thành sự nô dịch con người. Tất cả ba quyến rũ mà đức Kitô bác bỏ, đều nô dịch con người. Dostoevsky diễn đạt một cách thiên tài điều này trong Huyền thoại về viên Đại pháp quan. Nhưng sẽ là trá ngụy nếu diễn giải huyền thoại ấy như vấn đề bánh mì không có lời giải đáp tích cực và đành phải chỉ có được tự do thôi mà không có bánh mì. Người ta nô dịch con người bằng cách tước đoạt bánh mì của họ. Bánh mì là biểu tượng vĩ đại, và gắn với nó là đề tài xã hội chủ nghĩa, đề tài mang tính toàn thế giới. Con người không được trở thành kẻ nô lệ của “bánh mì”, không được vì “bánh mì” mà giao nộp tự do của mình“. Ông còn nói: “Cuộc đấu tranh vì bản diện cá nhân, sự khẳng định bản diện cá nhân là đầy đau đớn. Tự thực hiện bản diện cá nhân giả định một sự kháng cự lại, đòi hỏi đấu tranh chống lại quyền lực nô dịch của thế gian, đòi hỏi không chấp nhận thói thụ động thích ứng theo. Việc từ bỏ bản diện cá nhân, việc chấp thuận hòa tan vào thế giới xung quanh có thể làm giảm bớt nỗi đau và con người dễ dàng đi theo lối đó. Chấp thuận làm nô lệ sẽ giảm bớt nỗi đau, không chấp thuận sẽ gia tăng nỗi đau. Nỗi đau trong thế giới con người là sự khai sinh của bản diện cá nhân, là sự khai sinh cuộc đấu tranh vì hình tượng của nó. Ngay tính cá thể trong thế giới động vật đã biết đau đớn rồi. Tự do sinh ra đau khổ. Có thể giảm bớt đau khổ bằng cách chối bỏ tự do. Phẩm giá con người, tức là bản diện cá nhân, tức là tự do, đòi hỏi chấp nhận đau đớn, đòi hỏi khả năng chịu đựng nỗi đau“.
Đến lúc này tôi mởi hiểu được câu danh ngôn của Marx: “Tự do của mỗi người là điều kiện đảm bảo cho tự do của mọi người“.
Tôi xin kết thúc ở đây. Cảm ơn quý vị đã cho tôi cơ hội được nói ra những điều này.
N.V.T.
Tác giả gửi trực tiếp cho BVN
Huỳnh Như Phương: Trả lại vị trí xứng đáng cho những tác phẩm giá trị (viet-studies 22-9-12) -- Nhân ngày kỷ niệm 80 năm ngày Nhất Linh làm Giám đốc báo Phong Hóa, chuẩn bị cho sự ra đời của Tự Lực Văn đoàn◄◄
-- Phỏng vấn nhà phê bình văn học Lại Nguyên Ân: ‘Đổi bút danh để được in ấn trong nước’? (BBC).
-
BBC — thứ bảy, 22 tháng 9, 2012
Công ty Nhã Nam được cho là đã xuất bản một cuốn sách của nhà văn Võ Phiến với tựa đề “Quê hương tôi” dưới bút danh Tràng Thiên, dựa trên một tập sách từng được xuất bản trước đây gồm các tùy bút của ông Võ Phiến với tên gọi “Đất nước quê hương.”
Một số ý kiến từ cộng đồng mạng, trong đó có trang Blog Đông A, đặt câu hỏi phải chăng cuốn sách được công ty Nhã Nam vừa in đánh dấu “Sự trở về của Võ Phiến không âm thầm nhưng cũng không ồn ào?”
Võ Phiến từng bị một số nhà phê bình văn học miền Bắc trước đây đánh giá là “nhà văn chống Cộng nổi tiếng, và là một cây bút “được xếp đầu” trong một cuốn sách từng được xuất bản trong nước với tựa đề “Những tên biệt kích của chủ nghĩa thực dân kiểu mới trên mặt trận văn hóa tư tưởng.”
BBC đã trao đổi với nhà phê bình văn học Lại Nguyên Ân hôm 22/9/2012 và được ông cho biết đánh giá của mình về cây bút này. Trước hết, ông Ân bình luận về việc nhà văn, tác giả nói chung có quyền thay đổi tên tác phẩm, sử dụng bút danh khác hay không, khi in mới hay tái bản một tác phẩm của mình.
*****
Nguồn:
http://www.bbc.co.uk/vietnamese/multimedia/2012/09/120922_lainguyenan_on_vophien.shtml
**********
Văn hóa chính trị là gì?
Nguyễn Hưng Quốc

Nếu chính trị và văn hóa có quan hệ chặt chẽ với nhau, hệ luận đầu tiên có thể được rút ra là: muốn có một sinh hoạt chính trị đàng hoàng nghiêm túc, điều cần có, trước hết, là một văn hóa chính trị thích hợp. Cũng vậy, muốn có dân chủ, điều cần có đầu tiên chính là văn hóa dân chủ. Không có văn hóa làm nền tảng, những thay đổi, cho dù lớn lao đến mấy, như thay đổi giới lãnh đạo hay thậm chí, thể chế, chỉ có tính cách tạm thời. Và hời hợt. Rồi, cuối cùng đâu cũng lại hoàn đấy. Con quái vật độc tài, một lúc nào đó, sẽ ngoi đầu dậy trở lại, nuốt chửng nền dân chủ còn phôi thai và lại hãm hại những người dân đang ngây thơ ngỡ mình đã hoặc sẽ được giải phóng khỏi mọi kiềm kẹp.
Chính vì vậy, yếu tố văn hóa, cụ thể là văn hóa chính trị càng ngày càng được quan tâm nghiên cứu.
Nhưng văn hóa chính trị là gì?
Trước hết, xin nói một tí về văn hóa. Với mấy trăm định nghĩa khác nhau, “văn hóa” được xem là một trong những từ đa nghĩa và phức tạp nhất hiện nay. Có điều, ở Việt Nam, quan niệm về văn hóa vẫn còn rất đơn giản, ngay đối với những chuyên gia nổi tiếng nhất. Nói đến văn hóa, điều người ta thường nghĩ đến nhiều nhất là phong tục, tập quán và di tích lịch sử, bao gồm ngôn ngữ, tín ngưỡng, luật lệ, nghệ thuật, từ nghệ thuật bằng lời (ca dao, tục ngữ, cổ tích) đến nghệ thuật dựa trên nhịp điệu (dân ca và vũ điệu) và nghệ thuật không gian (chủ yếu là điêu khắc và kiến trúc) và hai khía cạnh quen thuộc khác: y phục và ẩm thực. Trong cách nghĩ như thế, người ta dễ tưởng, một, văn hóa là những gì ở bên ngoài chúng ta, hoặc chúng ta chỉ là những kẻ tiếp nhận và thực hành một cách thụ động; hai, trung tính (neutral), không gắn liền với một ý thức hệ, hay ít nhất, một quan điểm nào cả; và ba, ổn định từ đời này sang đời khác; với nó, chúng ta chỉ có một bổn phận duy nhất là bảo tồn.
Thật ra, tất cả những điều mới được đề cập chỉ là một phần của văn hóa. Đó là phần vật thể (với những lâu đài, đền miếu, tranh tượng, nhạc cụ, thực phẩm…) và một ít mang tính chất phi vật thể (với tín ngưỡng, văn học, âm nhạc, ngôn ngữ…). Đằng sau và bên dưới hai phần vật thể và phi vật thể ấy, còn một khía cạnh khác, càng ngày càng được chú ý vì nó chi phối gần như toàn bộ các mặt nổi kia: văn hóa được hiểu như một hệ thống ý nghĩa và niềm tin với những biểu tượng và những bảng giá trị đặc biệt được chia sẻ bởi các thành viên trong cộng đồng và cũng là yếu tố chính làm cho mỗi thành viên thực sự là thành viên của cộng đồng. Với hệ thống ý nghĩa và niềm tin ấy, mọi người sẽ có những tiêu chí và tiêu chuẩn giống nhau trong việc đánh giá người và vật, phân biệt cái đúng và cái sai, cái tốt và cái xấu, cái hay và cái dở, điều nên làm và điều không nên làm, v.v.
Nói cách khác, văn hóa, ở ý nghĩa căn bản nhất, là những gì nằm sâu tận trong tiềm thức và vô thức của mỗi người, định hướng cho các lựa chọn, cách suy nghĩ và cách hành xử của họ theo một chuẩn mực đã thành truyền thống mà mọi người được thụ đắc từ trong gia đình đến ngoài xã hội.
Hiểu theo nghĩa đó, văn hóa chính trị chỉ là một phần phụ của văn hóa (subculture). Nếu văn hóa là một hệ thống ý nghĩa và niềm tin, văn hóa chính trị sẽ là hệ thống ý nghĩa và niềm tin liên quan đến chính trị, nghĩa là đến quan hệ quyền lực giữa các cá nhân cũng như giữa các tập thể, từ gia đình đến giai cấp, trong một quốc gia cũng như giữa các quốc gia với nhau. Cái gọi là quyền lực ấy bao gồm nhiều yếu tố từ quyền (right) đến thẩm quyền (authority) và các thiết chế phân phối quyền lực (power), trong đó, quan trọng nhất là quyền lực đối với việc lựa chọn và quyết định những gì liên quan đến số phận của cả tập thể cũng như của từng cá nhân. Văn hóa chính trị, do đó, theo tôi, trước hết, là hệ thống niềm tin về quyền, thẩm quyền và quyền lực. Tất cả các yếu tố ấy đều gắn liền với, nếu không muốn nói là châu tuần chung quanh, một thiết chế chính: nhà nước.
Ý niệm văn hóa chính trị đã được manh nha từ thời cổ đại Hy Lạp, với Plato và Aristotle, nhưng chỉ thực sự phát triển, thành một đề tài nghiên cứu riêng và là một trong những vấn đề trung tâm của việc phân tích chính trị từ cuối thập niên 1950 đến nay. Người ta thường gắn liền sự ra đời của thuật ngữ này với các công trình nghiên cứu của Gabriel Almond, một nhà chính trị học người Mỹ, tác giả bài tiểu luận “Comparative Political Systems” đăng trên tờ Journal of Politics số 18 năm 1956 và đặc biệt, cuốn The Civic Culture xuất bản năm 1963.
Thời gian ở giữa hai tác phẩm này, nhiều học giả khác cũng tham gia vào cuộc tranh luận. Kết quả là chúng ta có vô số những cách nhìn khác nhau về ý niệm văn hóa chính trị. Với Almond, văn hóa chính trị là những định hướng – thái độ chính trị đặc biệt đối với hệ thống chính trị cũng như đối với vai trò của bản thân mình trong hệ thống ấy. Với Sidney Verba, nó là “hệ thống những niềm tin về kiểu mẫu của các thiết chế và sự tương tác chính trị.” Với Samuel Beer, hai vấn đề lớn liên quan đến văn hóa chính trị là: một, chính quyền nên được điều hành như thế nào; và hai, nó nên làm những gì. Và đằng sau hai vấn đề này là một số nguyên tắc chính liên quan đến giá trị, niềm tin và thái độ cảm xúc (emotional attitudes) của mọi thành viên trong cộng đồng. Roy Macridis tóm tắt: đó là những niềm tin được san sẻ và những luật lệ được chấp nhận một cách phổ biến. (1)
Mặc dù các định nghĩa trên sử dụng khá nhiều thuật ngữ tâm lý học, từ niềm tin đến thái độ, định hướng… các lý thuyết gia không dừng lại ở phạm vi tâm lý cá nhân: Đối tượng của văn hóa chính trị là tâm lý tập thể. Trong ý nghĩa đó, Almond và Verba xem văn hóa chính trị như một hệ thống chính trị được nội tâm hóa trong nhận thức, tình cảm và sự đánh giá của quần chúng; Ronald Inglehart xem văn hóa chính trị chính là khía cạnh chủ quan của các thiết chế xã hội; Harrison và Hungtington nhấn mạnh thêm: đó là những khía cạnh thuần túy chủ quan nằm dưới và chi phối cách suy nghĩ và hành xử của mọi người trong xã hội. Trong cuốn Political Culture, Walter A. Rosenbaum chia văn hóa chính trị thành hai cấp độ: ở cấp độ cá nhân, nó tập trung ở khía cạnh tâm lý; và ở cấp độ hệ thống, nó tập trung vào sự định hướng tập thể (collective orientation). (2)
Có thể nói, trung tâm của văn hóa chính trị là vấn đề định hướng. Có ba cấp độ định hướng chính.
Một, về phương diện nhận thức, nó bao gồm những hiểu biết về hệ thống chính trị cũng như vai trò của các thành phần tham dự vào hệ thống chính trị ấy, từ giới cầm quyền đến các đại biểu cũng như cả vai trò của truyền thông.
Hai, về phương diện cảm xúc, nó phản ánh tình cảm của dân chúng đối với hệ thống chính trị, đối với những người tham gia vào hệ thống ấy cũng như đối với các hoạt động và các giá trị mà hệ thống ấy đại diện hoặc theo đuổi.
Ba, về phương diện đánh giá, nó bộc lộ quan hệ cá nhân của con người đối với hệ thống chính trị trong nước, từ đó, định hình mức độ tham gia, dưới hình thức này hoặc hình thức khác, vào cái hệ thống ấy.
Walter A. Rosenbaum, chi tiết hơn, chia sự định hướng ấy thành ba loại:
- Định hướng về cấu trúc chính quyền, bao gồm hai khía cạnh: đối với thể chế và đối với các thành tựu của chính phủ.
- Định hướng về các yếu tố khác trong hệ thống chính trị (ví dụ: bản sắc chính trị, sự tin tưởng trong lãnh vực chính trị và luật lệ trong sinh hoạt chính trị).
- Định hướng về các hoạt động chính trị của bản thân mình (bao gồm thái độ và cách thức dấn thân cũng như ý thức về tính hiệu quả của sự dấn thân ấy) (3)
Cũng giống như văn hóa nói chung, ở tất cả các khía cạnh nêu trên, văn hóa chính trị đều có tính chất tập thể, đều được thụ đắc qua hệ thống giáo dục và tuyên truyền, và đều chịu ảnh hưởng của truyền thống. Dĩ nhiên văn hóa chính trị không phân bố đều đặn cho mọi người: mỗi cá nhân, bên cạnh những điểm chung, vẫn có thể khác biệt ở mức độ. Nhưng văn hóa chính trị vẫn là những gì, thứ nhất, chi phối cách suy nghĩ và những lựa chọn cũng như quyết định của mỗi người khi đối diện với các tình huống chính trị nào đó; và thứ hai, có thể nhìn thấy trong đời sống hàng ngày, ở các sinh hoạt chính trị bình thường hàng ngày.
Tìm hiểu về văn hóa chính trị Việt Nam hẳn chúng ta sẽ phát hiện ra lắm điều thú vị. Cho đến nay, đó vẫn còn là một đề tài mới. Một vùng đất còn hoang.
Nguyễn Hưng Quốc
(20.09.2012)
***
Chú thích:
- Xem luận án tiến sĩ của Kwang- Il Yoon, Political Culture of Individualism and Collectivism đệ trình tại The University of Michigan năm 2010. Đọc trêndeepblue.lib.umich.edu/bitstream/2027.42/75827/1/kiyoon_1.pdf
- Walter A. Rosenbaum (1975), Political Culture), London: Nelson, tr. 4.
- Như trên, tr. 6-7.
- ĐƯỢC LÀM VUA THUA LÀM GIẶC (Phạm Viết Đào). – ĐI ĐÊM PHẢN QUỐC (Sơn Thi Thư).- Thêm 3 tổ chức nhân quyền lên tiếng về phiên xử 3 blogger Việt Nam (RFI). – Vì sao Nguyễn Tiến Trung bị bắt làm nhân chứng trong phiên xử anh Điếu Cày? (DLB). – Luật sư Ngô Ngọc Trai kiến nghị: Mọi người dân đều được quyền tham dự phiên tòa công khai (VRNs/ Dân Luận). - Đền Thánh Antôn linh địa Trại Gáo: Đêm hướng về các thanh niên Kitô giáo bị bắt (J.B. Nguyễn Hữu Vinh).
- Nguyễn Ngọc Già – Trao đổi với Huỳnh Thục Vy (Dân Luận). – Gió Lang Thang – Viết sau những tấm giấy mời (Dân Luận).
- Bao giờ có hai người Việt Nam nhận Giải thưởng Trần Nhân Tông?(Hữu Nguyên). – Bọ Lập đề xuất giải Trần Nhân Tông cho người Việt (Quê Choa). - Quốc Hội đã nhận đơn ông Đặng Thành Tâm (BBC).
- Tin tức trái chiều là do thông tin không minh bạch (RFA).
******************j
Thế hệ thanh niên Trung Quốc bị tẩy nãoBA SÀM
Thế hệ thanh niên Trung Quốc bị tẩy não
Tác giả: Qi Ge
Người dịch: Đan Thanh
21-9-2012
Những cuộc biểu tình chống Nhật Bản chẳng đòi lại được đảo cho chúng ta, mà chỉ làm rõ một điều: Người dân là con rối của Đảng Cộng sản Trung Quốc.
THƯỢNG HẢI – Từ thập niên 1970, tôi đã được biết rằng nhân dân Trung Quốc là nhân dân tự do và dân chủ nhất thế giới. Mỗi năm tôi đi học tiểu học ở Thượng Hải, các thầy cô giáo đều nhắc đi nhắc lại điều này trong giờ đạo đức và chính trị. Sách giáo khoa – giả vờ giả vịt ngây thơ – hỏi chúng tôi rằng liệu tự do và dân chủ ở các nước tư bản có thật là cái mà họ tự nhận không? Sau đó là có đủ kiểu logic và các ví dụ không hề nêu nguồn trích dẫn, nhưng do tôi luôn luôn ngồi đếm thầm trong những giờ học đó, thay vì tập trung nghe giảng, cho nên việc chính quyền làm về căn bản là vô ích đối với tôi. Ở trường trung học và lên đại học, tôi khó bị tẩy não một cách kỳ lạ.
Nhưng ngay cả như thế, thì trong những năm đại học, tôi vẫn ghét Nhật Bản. Tôi cảm thấy người Nhật đã giết hại quá nhiều đồng bào tôi, đa số nạn nhân đều là dân thường, và cuối cùng Nhật đầu hàng thì vẫn là chưa đủ. Chỉ sau khi học tiếng Nhật và đọc thêm các tài liệu lịch sử, tôi mới dần hiểu ra bộ mặt thật của lịch sử: Khi quân đội Nhật xâm lược Trung Quốc vào năm 1931, Mao Trạch Đông – hồi ấy vẫn còn là du kích – đã quay đầu tháo chạy. Tưởng Giới Thạch – vị tống thống trên danh nghĩa của Trung Hoa lúc đó đã trụ lại để chiến đấu trong thành phố Trùng Khánh thời chiến, còn Đảng Cộng sản của Mao trốn lên phía bắc để lập căn cứ chống Nhật ở tỉnh Thiểm Tây (Shaanxi), Cam Túc (Gansu), và Ninh Hạ (Ningxia), nơi chẳng có một lính Nhật nào.
Thanh niên ngày nay lại lặp lại những chuyện tôi đã trải qua hồi mới lớn, nhưng, không như thế hệ tôi – những người mà lòng căm ghét Nhật Bản chỉ dừng ở mức độ lời nói – thế hệ này đã xuống đường biểu tình.
Mặc dù hiến pháp Trung Hoa cho phép dân biểu tình, nhưng chính quyền vẫn cấm biểu tình trong những trường hợp đặc biệt. Bất cứ ai biết sử Trung Quốc đều hiểu rằng khi luật Trung Quốc quy định một điều gì đó thì có thể là nó có ý nói ngược lại. Ví dụ, luật Trung Quốc bảo rằng mọi người đều bình đẳng trước pháp luật, nhưng trên thực tế, Hồ Cẩm Đào và các đồng chí của ông ta bình đẳng hơn tất cả những người khác.
Vì vậy, thanh niên Trung Quốc ngày nay nên cảm ơn chính quyền Nhật Bản, bởi vì nếu Nhật Bản chưa mua quần đảo Điếu Ngư, thì chính quyền Trung Quốc sẽ chẳng mở mạng một chút nào để cho phép họ xuống đường như tuần trước. Những người biểu tình hò hét các khẩu hiệu đơn điệu, nhàm chán, chẳng hạn như đòi Nhật Bản cút khỏi quần đảo Điếu Ngư; công an mặc thường phục trà trộn với người biểu tình, trao đổi với nhau một cách hết sức căng thẳng qua tai nghe. Người biểu tình thậm chí còn vác ảnh Mao Trạch Đông – đã chết từ năm 1976, và tôi thì ước giá như ông ta chết sớm hơn thế.
Nhiều người biểu tình trẻ tuổi tỏ ra cực kỳ phấn khích. Hàng thập kỷ qua, các chương trình tivi về cuộc kháng chiến chống Nhật 1931-1945 bóp méo mọi sự thật lịch sử và biến người Nhật thành một sắc dân ngu đần, hung hãn, tàn bạo, một giống gián cần bị tiêu diệt. Thật buồn cười là, các diễn viên Trung Quốc vào vai ác quỷ Nhật Bản đều chỉ nói tiếng Trung Quốc, khúm núm một cách trơ trẽn, mọi cử chỉ của họ chẳng khác gì các quan chức tham nhũng có mặt trên khắp đất nước Trung Hoa ngày nay.
Giờ đây, chính quyền Trung Quốc cảm thấy chỉ bôi nhọ kẻ thù qua tivi thì chưa đủ, và đã đến lúc cho phép thanh niên biểu tình – một cơ hội mà thanh niên rất hoan nghênh, bởi vì như thế là thông qua các hành động yêu nước của mình, họ có thể chứng tỏ là họ có giá trị trên cái cõi đời này. Nhiều người trong số họ bình thường có địa vị rất khiêm tốn, thu nhập thấp, lê lết vật lộn sống ở các thành phố đắt đỏ. Họ không mua nổi nhà, không có gia đình, không nuôi được con, không chăm sóc nổi bố mẹ, và chẳng ai quan tâm chú ý đến họ. Nhưng giờ đây, những con rối bị chà đạp đó cuối cùng đã có thể nhảy vào trung tâm của sân khấu chính trị, thế nên họ rất sẵn sàng để cho người ta giật dây họ.
Tuy nhiên, nền giáo dục tẩy não của chính quyền Trung Quốc tinh vi hơn thế nhiều. Để một chế độ đỏ có thể tồn tại lâu đến thế, để theo kịp với phương Tây về sự thừa thãi của chủ nghĩa tư bản, họ cần phải vượt trội so với mô hình Xô Viết thô bạo. Và chắc chắn là, sau những vụ đập phá, đốt phá, cỗ máy tuyên truyền sẽ tung ra khẩu hiệu “yêu nước có lý trí”: Vẫn là những định-hướng-theo-đảng cũ kỹ đó, nhưng bây giờ là một thời đại khác rồi và đảng cần kín đáo hơn, có nghĩa là họ phải nhấn mạnh cái từ đang là mốt thời thượng: “có lý trí”. Đảng Cộng sản và Bộ Tuyên truyền của họ luôn luôn theo kịp thời đại.
Trong cái xã hội toàn trị một cách tinh vi này, “yêu nước có lý trí” nghĩa là phải tôn trọng các quy tắc mà chế độ toàn trị đề ra. Kiểu lý trí đó, và kiểu yêu nước đó, cũng sẽ tương tự như của Joseph Goebbels mà thôi. Tuy nhiên, những thanh niên yêu nước bị tẩy não ở Trung Hoa lục địa không hiểu điều đó. Người Hong Kong – những người biểu tình phản đối “nền giáo dục yêu nước” do chính quyền lục địa áp đặt lên họ – mới thật hiểu biểu tình: Không giống như ở lục địa, các cuộc biểu tình ở Hong Kong thực sự là tự phát và không được sự hậu thuẫn của chính phủ. Thảo nào mà các hãng tin sở tại không hề đưa tin về chúng.
Thật lạ, trên các blog, một số lượng đáng ngạc nhiên các trí thức nổi tiếng Trung Hoa lại nhiệt liệt ủng hộ khẩu hiệu yêu nước có lý trí. Lúc đầu, tôi thấy như thế là hỏng rồi, nhưng về sau tôi hiểu ra: Khi họ ngồi học các giờ đạo đức ở trường tiểu học, hẳn họ đã không có cái thú như tôi là đếm đến những số thật lớn.
Nguồn: Foreign Policy
Bản tiếng Việt © Ba Sàm 2012
- Tây Tạng đang cháy – Trung Quốc chiếm đóng Tây Tạng bất hợp pháp (TSW/ Ba Sàm). =>
- IAEA kêu gọi Bắc Triều Tiên chấm dứt hạt nhân (RFI). – Triều Tiên lại dọa đánh Hàn Quốc (TN).
- Một ký giả Cuba bị giam vì tội “xúc phạm lãnh đạo” (RFI).
- Aung San Suu Kyi nhận giải Công dân toàn cầu (RFI).Tâm sự sếp kiểm duyệt cuối cùng của Myanmar: Chief Censor in Myanmar Caps His Red Pen (NYT 21-9-12) -- Đọc bài này mà ganh tím mặt! Chừng nào mói đọc được tâm sự của sếp kiểm duyệt cuối cùng của Việt Nam? ◄
- UNESCO yêu cầu điều tra về vụ sát hại nhà báo Philippines và Campuchia (VOA).
Nguyễn Trung: Lũ - Tập 2 - Chương 12 (viet-studies 22-9-12) ◄
Đông Kinh Nghĩa Thục và tư tưởng cải cách giáo dục (PetroTimes 22-9-12)
Buồn đến bao giờ? (TP 22-9-12) -- Về cuốn Sông của Nguyễn Ngọc Tư. (Tôi không ngạc nhiên về phản ứng của ông Hàm Châu đối với tác phẩm này; như tôi viết trong bài điểm của tôi: "Nhiều người (ở một lứa tuổi chưa quá già, tôi đoán) sẽ thích thú tìm thấy ở đây một sự đồng điệu bất ngờ, song tôi e rằng không ít độc giả sẽ thấy Sông quá xa lạ với họ")
Nguyễn Quang Sáng với quê hương văn học (SGGP 22-9-12)
Món nộm văn hóa Việt hiện nay dưới con mắt Đỗ Minh Tuấn (Đọc tiểu thuyết Thần Thánh Và Bươm Bướm) (VHNA 21-9-12)
- Xử lý PV đưa tin bố chồng “dính” con dâu (KP) – Vũ điệu sexy 10 – Kịch nhiều hồi của Chu Mộng Long (Chu Mộng Long).
Các nhà khoa học hiện có lương trung bình chỉ 200 đô la/tháng? (infonet 22-9-12) -- Tôi thấy như vậy là quá cao. Giảm xuống chừng 80 đô la/tháng thì vừa! (Nếu cần thêm tiền để trả học phí cho con thì nhờ vợ, hoặc chồng, đi buôn vậy!)
Ứng viên Giáo sư, Phó giáo sư phải sử dụng thành thạo một ngoại ngữ (SGGP 22-9-12)
- Học từ tên đường (PLTP).
- Ngoại ngữ của giáo sư (PLTP). - Giáo sư, Phó giáo sư phải giao tiếp được bằng tiếng Anh (TTVN).
- Tài liệu của độc giả “tố” TS Lê Thẩm Dương đạo văn (GDVN).- Hà Nội: Vẫn xây bãi đỗ xe trong công viên Thống Nhất (Tin tức).
- Nhà khoa học chờ tiền, tiền chờ nhà khoa học (TT).
- Thuế đẻ kia mới thật lạ lùng (LĐ/ DT). - Ngỡ ngàng các khoản lạm thu (NLĐ).Kotex bị thu hồi ở nước ngoài nhưng vẫn tràn lan ở Việt Nam (NĐT 22-9-12) -- Không dám nghĩ thêm!
Chết vì ăn huyết sống (SGGP 22-9-12) -- Muốn sống thì ăn huyết chết.
-Vụ 'con giữ mẹ cho bố đánh': Vì sao nạn nhân chuyển viện khác?
Ngày 21/9, theo người thân của bà Lê Thị Liên, người bị chồng và con trai đánh cho hay: Gia đình đã chuyển bệnh nhân Liên sang bệnh viện khác để tiếp tục điều trị các thương tích…
Báo Nguy: Gạo Chứa Nhiều Thạch Tín Độc (09/23/2012)
Nếu gạo là phần chính trong thực đơn của bạn, Consumer Reports đề nghị bạn nên giảm bớt xuống.
Hoa hậu Việt Nam: Hình thức đè bẹp tri thức! (PetroTimes 22-9-12) -- Tut tut!
*Lái Gió Dạy Con
“The ultimate tragedy is not the oppression and cruelty by the bad people but the silence over that by the good people.”
Martin Luther King, Jr.
http://tuongnangtien.wordpress.com/2012/08/03/la%CC%81i-gio%CC%81-day-con/
- Thuốc “dỏm”: Uống rồi đành chịu! (NLĐ).
- Lồng đèn nhựa Trung Quốc có chất gây ung thư (TT).
- Danh sách đen của lương tâm (Vef).
- Nước sinh hoạt bị ô nhiễm (VNN).
- Quảng Nam: 36 đối tượng cai nghiện bỏ trốn đã được đưa về trại (PNTP).
- “Hiệp sĩ” Minh Tiến một ngày 2 lần bắt cướp (TT).
- Người đi đường thờ ơ, nạn nhân TNGT tử vong (VNN).
- Lấy chồng sớm làm gì! (NLĐ).
- Tháo gỡ những bất cập trong việc xây dựng lưới điện hạ áp nông thôn (XD nông thôn mới – VTV).
- Cuộc sống của người dân ở Vương quốc vàng Ma Nu (TTXVN).
- Đắk Lắk đầu tư 60 tỷ đồng quản lý, bảo tồn đàn voi (TTXVN).