-Quan hệ Việt Mỹ: thân nhau cho đến bao giờ? :The slow rapprochement - The rapid rise of China is bringing Vietnam and America closer together, but how long will this last? (American Review Nov 2012) -- Bài của Nayan Chanda, phải đọc!◄◄
Trên tờ American Review, Nayan Chanda một biên tập viên của Yale Global Onlibe và Tuần báo Kinh tế Viễn Đông vừa viết một bài nhận định khá sâu sắc về mối quan hệ Việt Mỹ. Mời các tv và độc giả cùng đọc sau đây:
Cuộc chắp nối lại tình hữu nghị chậm chạp giữa Mỹ-Việt
Nayan Chanda/American Review
Lê Quốc Tuấn chuyển dịch Việt Ngữ
Sự vươn dậy nhanh chóng của Trung Quốc đã đưa Việt Nam và Mỹ xích lại gần nhau hơn, nhưng điều này sẽ kéo dài được bao lâu?
Trong những ngày sau khi chiếc trực thăng cuối cùng nhấc mình khỏi bãi đáp trực thăng toà đại sứ Hoa Kỳ, bầu trời Sài Gòn rơi vào im lặng và những kẻ chiến thắng đã bận rộn dương cao màu vàng đỏ tiêu chuẩn của Mặt trận Giải phóng Quốc gia trên cột cờ của các cơ quan đại diện nước ngoài. Riêng toà đại sứ như một pháo đài của Mỹ là không có lá cờ quân giải phóng. Được hỏi về lý do cho ngoại lệ này, một nhân viên từ Hà Nội quả quyết với tôi bằng một nụ cười: "Người Mỹ sẽ quay lại ngay." Như ông giải thích, "Người Mỹ lo lắng về sự bành trướng của Trung Quốc và họ biết, trong lịch sử, Việt Nam đã là rào cản lớn nhất chống lại đường tiến về phương Nam của Bắc Kinh."
Đầu năm nay Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Leon Panetta đã được cấp cho một cuộc tham quan mời gọi đến Vịnh Cam Ranh nổi tiếng vốn đã từng nổi bật trong trí tưởng tượng chiến lược của Mỹ. Điều này không phải là để cho thấy rằng Mỹ và Việt Nam đang ở đâu đó gần với loại hợp tác chiến lược mà những người kể chuyện Việt Nam của tôi từng mơ ước vào năm 1975, nhưng là hành trình ngoằn ngoèo của sự hòa giải và việc tái lập mối quan hệ hữu nghị giữa hai đối thủ vẫn còn là một câu chuyện hấp dẫn. Câu chuyện ấy cũng cung cấp các bài học có giá trị trong sự tương tác của ba yếu tố - địa chính trị, chủ nghĩa yêu nước và ý thức hệ - từng định hình các biến đổi rực rỡ muôn hình vạn trạng. Lịch sử hai ngàn năm quan hệ yêu ghét của Việt Nam 2000 với người láng giềng khổng lồ Trung Quốc, tham vọng quốc gia của mình và mối quan tâm của Đảng Cộng sản cầm quyền để duy trì chế độ có thể giải thích được con đường nhục hình đi đến bình thường hoá quan hệ giữa hai nước.
Năm 1975, vào lúc kết thúc cuộc chiến, đảng CS Việt Nam đã tự hào với chiến thắng lịch sử của mình, muốn xây dựng lại đất nước bị tàn phá nhưng lại lo lắng về những dấu hiệu thù địch công khai từ phía Trung Quốc. Từ những cân nhắc đến khía cạnh địa chính trị rộng lớn, mối lạc quan về cuộc phục hồi quan hệ nhanh chóng với Washington có thể là suy nghĩ hợp lý, nhưng lại dựa trên một sự hiểu lầm tổng thể về chính sách năng động của Mỹ. Bất chấp mong muốn khôi phục lại quan hệ với tất cả các cựu thù ở châu Á, bao gồm cả Trung Quốc của Tổng thống Jimmy Carter, cuộc bình thường hóa quan hệ với Việt Nam đã chứng minh là không thể thực hiện. Carter đã không thể chia sẻ được tâm nhìn xa của Việt Nam và về phần mình Việt Nam đã đánh giá thấp những vết thương chiến tranh tâm lý sâu sắc của Mỹ. Trong khi muốn quan hệ với Washington để cân bằng với sức mạnh của Trung Quốc, Việt Nam lại quá tự hào về cuộc chiến thắng đến mức từ bỏ các chiến lợi phẩm từ cuộc chiến - lời hứa viện trợ tái thiết của Mỹ trong hiệp định hòa bình Paris năm 1973. Sau khi các cuộc đàm phán về bình thường hoá bị sụp đổ vào năm 1978, bối cảnh địa chính trị đã trải qua một sự thay đổi bất lợi đáng kể cho Việt Nam kéo dài gần hai thập kỷ.
Bốn năm sau khi kết thúc của cuộc chiến tranh dài, một lần nữa Việt Nam lại ở trong tình trạng chiến tranh trên nhiều mặt trận phía bắc và phía tây của mình. Trung Quốc ủng hộ Khmer Đỏ tấn công vào biên giới phía tây trong năm1977-78, dẫn đến cuộc xâm lược chiếm đóng Campuchia của Việt Nam. Trung Quốc trả đũa bằng một cuộc xâm lược trừng phạt miền Bắc Việt Nam vào năm 1979. Giai đoạn này đã bắt đầu một thời kỳ kéo dài hàng thập kỷ, trong đó Việt Nam phải đối mặt với khủng hoảng kinh tế ở trong nước và bị cô lập ở bên ngoài. Áp lực của liên minh trên thực tế giữa Mỹ và Trung Quốc và sự hỗ trợ của liên minh do Khmer Rouge lãnh đạo trở nên phức tạp bởi việc mất đi ủng hộ từ Liên bang Xô Viết vốn đang cải tổ. Các cuộc đàm phán nhằm bình thường hóa quan hệ với Mỹ bị sa lầy bởi những yêu cầu bất tận của Mỹ về trách nhiệm với tù binh chiến tranh và các binh sĩ mất tích (MIA) trong chiến tranh. Giới bảo thủ trong chính quyền và quân đội, những người không bao giờ tha thứ cho Việt Nam vì đã sỉ nhục quốc thể Hoa Kỳ, tìm cách khôi phục lại danh dự của đất nước bằng cách phải đưa hài cốt các liệt sĩ về nước và duy trì lệnh cấm vận làm tê liệt thương mại từng áp đặt từ năm 1975. Để ra khỏi các khó khăn kinh tế và bị cô lập ngoại giao, Việt Nam đã phát động công cuộc đổi mới cải cách của mình và bắt đầu rút hết quân ra khỏi Campuchia vào năm 1989.
Vào thời điểm Việt Nam gần rút quân theo yêu cầu của Mỹ, ASEAN và tham dự các cuộc đàm phán về tương lai chính trị của Campuchia, bối cảnh địa chính trị đã thay đổi một lần nữa. Cuộc tái lập quan hệ hữu nghị Trung-Xô và sự cô lập Bắc Kinh của quốc tế sau vụ thảm sát Thiên An Môn không chỉ thay đổi môi trường bên ngoài mà còn dấy lên những lo ngại về an ninh của chế độ. Các cuộc biểu tình lớn ở Trung Quốc, kết thúc trong đàn áp bạo lực tại Thiên An Môn và sự sụp đổ liên tục như những quân cờ domino của những chế độ xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu tiếp theo sau đó làm vang lên hồi chuông cảnh báo ở Bắc Kinh và Hà Nội. Trong khi hết sức cần viện trợ và thương mại với phương Tây, Việt Nam lại cảnh giác với "diễn biến hòa bình" và sự lật đổ hệ thống xã hội chủ nghĩa nhân danh hỗ trợ. Cái gọi là lộ trình bình thường hóa của chính quyền George HW Bush đã bị nhìn vào bằng sự nghi ngờ sâu sắc. Sự thất bại không đạt đưọc bình thường hóa của Nguyễn Cơ Thạch, nhà ngoại giao hàng đầu của Việt Nam, bất chấp những nhượng bộ về MIA và rút quân khỏi Campuchia, khiến Hà Nội phải thay đổi quỹ đạo chống Trung Quốc của mình. Một cuộc họp hội nghị thượng đỉnh bí mật giữa các nhà lãnh đạo đảng Trung Quốc và Việt Nam đã được tổ chức tại Thành Đô vào ngày 4 và ngày 05 tháng 9 năm 1990. Đấy là nền tảng cho cuộc suy giảm dần dần mối xung đột giữa Trung Quốc với Việt Nam và một thỏa thuận để thành lập một chính phủ liên minh tại Phnom Penh dưới sự bảo trợ của Liên Hợp Quốc.
Với việc bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc diễn ra, mục tiêu chính của Việt Nam trong việc tìm kiếm quan hệ với Washington là về hợp tác kinh tế. Nhưng Việt Nam vẫn còn đặt nặng vào việc bảo vệ nhằm chống lại mối đe dọa đối với chế độ xã hội chủ nghĩa. Trớ trêu thay, chính quyền Dân chủ dưới thời Bill Clinton đã chứng tỏ là cứng rắn hơn với Việt Nam so với thời chính quyền Cộng hòa trước đó. Bị thúc ép bởi các chính trị gia cánh hữu, chính quyền Clinton đã gia tăng áp lực về MIA và các vi phạm quyền con người. Mặc dù giới kinh doanh nhìn thấy cơ hội ở Việt Nam và phối hợp vận động hành lang để buộc Washington cuối cùng phải đồng ý nương nhẹ lập trường của mình. Tháng hai năm 1995, Mỹ bỏ lệnh cấm vận thương mại với Việt Nam, và lời thông báo khôi phục quan hệ ngoại giao đã đến vào tháng Bảy. Cuối cùng, vào ngày 05 Tháng Tám năm 1995 (30 năm sau khi chiến tranh kết thúc), khi Tổng trưởng Ngoại Giao Warren Christopher kéo ngọn cờ sao sọc lên cao trong toà Đại sứ quán Mỹ tại Hà Nội, mối quan tâm chính của Việt Nam đã thay đổi. Không còn là quan tâm đến một liên minh chiến lược như đã từng để mở cửa nền kinh tế ra thế giới và, cụ thể, là để giành được chế độ tối huệ quốc trong thương mại.
Sự dè dặt của Việt Nam được xem như là một đồng minh với Mỹ để chống lại Trung Quốc đã trở nên rõ ràng trong tháng 3 năm 2000. Bộ trưởng Quốc phòng William Cohen trở thành vị quan chức nội các đầu tiên đến thăm Việt Nam, nhưng Hà Nội đã nỗ lực theo cách riêng của mình để thông báo rằng không hề có thương thảo gì về các mối quan hệ chiến lược. Ngay cả khi Clinton đến Việt Nam vào tháng 12 năm 2000, một chỉ thị mật của Ủy ban Trung ương đã yêu cầu các đảng viên phải hiển thị một "khuôn mặt lạnh" với Clinton. Khoảng cách giữa người dân và Đảng Cộng sản đã không thể lạnh lẽo hơn. Tôi đã chứng kiến hàng ngàn người dân Sài Gòn trẻ tuổi vượt qua các rào cản công an, nhào đến xe tổng thống hò reo "Bill, Bill". Đối với Đảng Cộng Sản, đó là sự kiện Mỹ thuần phục và công nhận Việt Nam chứ không phải là Việt Nam đang tìm kiếm mối quan hệ gần gũi hơn với Mỹ vì mục đích ở Bắc phương. Trong cuộc họp với Clinton, tổng bí thư Lê Khả Phiêu đã dạy tổng thống một bài học về lịch sử vẻ vang chống ngoại xâm của Việt Nam, và đã chẳng hề bàn thảo gì về hiện tại hay tương lai của mối quan hệ với Hoa Kỳ. Vì thế, Việt Nam đã phải đợi thêm ba năm nữa và chờ sự thay đổi ở môi trường bên ngoài.
Nhiệm kỳ tổng thống Bush lần thứ hai dường như đã di chuyển ra khỏi thái độ hơi nịnh nọt mà Mỹ từng có với Trung Quốc trong sự trỗi dậy của sự cố máy bay gián điệp EP-3. Thậm chí trước cả cuộc căng thẳng vì vụ máy bay do thám, dư luận quan trọng tại Washington đã bày tỏ quan ngại về việc phô trương sức mạnh của Trung Quốc. Zalmay Khalilzad, một trong những tác giả tập báo cáo của tập đoàn RAND, người sau đó trở thành cố vấn an ninh quốc gia, lưu ý rằng Hoa Kỳ nên thúc đẩy hiện diện quân sự tổng thể ở châu Á để đáp ứng với quyền lực gia tăng của Trung Quốc. Bản báo cáo chỉ ra rằng "có một logic cơ bản để hợp tác giữa Hoa Kỳ và Việt Nam nhằm ngăn chặn một cuộc dự tranh làm bá quyền trong khu vực của Trung Quốc. Khi Washington bắt đầu tập trung vào việc thay đổi sự cân bằng trong khu vực Đông Á, các quyền lợi của Mỹ tại Việt Nam trở nên có ý nghĩa chiến lược.
Việt Nam cũng lo lắng về áp lực tiếp tục của Trung Quốc ở Biển Đông và ở các tỉnh dọc theo biên giới. Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương tháng sáu năm 2003, đảng phỏng đoán rằng tình hình ở Đông Á đã phát triển theo hướng bất lợi và phải thực hiện những nỗ lực để phát triển mối quan hệ với Mỹ. "Thế cân bằng đã mất" như Việt Nam đã nói với các quan chức Mỹ. Quan hệ Mỹ Việt rất yếu, trong khi quan hệ với Trung Quốc đã được cải thiện rất nhiều và ảnh hưởng của Trung Quốc trong khu vực đã gia tăng. Mối nhận thức lẫn nhau mới này đã dẫn đến chuyến thăm đầu tiên của một bộ trưởng quốc phòng Việt Nam tới Washington vào tháng 11 năm 2003. Tiếp theo là chuyến ghé cảng đầu tiên của tàu của Hải quân Mỹ USS Vandergrift đến thành phố Hồ Chí Minh.
Cao điểm của mối quan hệ nồng ấm đã đến trong tháng 6 năm 2005, khi Phan Văn Khải trở thành nhà lãnh đạo Việt Nam đầu tiên được tiếp đãi tại Nhà Trắng. Trong bản tuyên bố chung, George W. Bush và Khải cho biết cả hai cùng "chia sẻ tầm nhìn về hòa bình, an ninh và thịnh vượng ở Đông Nam Á, khu vực châu Á-Thái Bình Dương, đồng ý sẽ hợp tác song phương và đa phương để thúc đẩy các mục tiêu này. Sự bao gồm các cụm từ "khu vực châu Á-Thái Bình Dương" trong thông cáo là ám chỉ công khai duy nhất về các mối quan hệ vượt quá giới hạn song phương hoặc thậm chí có tính khu vực Đông Nam Á. Khải đã ký một thỏa thuận về tình báo an ninh với Hoa Kỳ cho phép hợp tác về chống rửa tiền và tham gia chia sẻ thông tin tình báo với Washington.
Mối quan hệ Mỹ Việt đã trở nên sâu sắc hơn trong bối cảnh sức mạnh và tính quyết đoán ngày càng tăng trong khu vực Biển Đông của Trung Quốc. Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton đã đến thăm Hà Nội trong một cuộc họp các bột trưởng ASEAN trong năm 2010, ở đó bà đã bày tỏ mối quan tâm của Hoa Kỳ về hành vi của Trung Quốc ở Biển Đông, đánh dấu một cấp độ mới của sự hợp tác với Việt Nam. Năm sau, Hoa Kỳ và Việt Nam tham gia vào các cuộc thảo luận để nâng cao mối quan hệ song phương lên một quan hệ đối tác chiến lược. Mối quan hệ về quân sự đã trưởng thành. Chuyến thăm của Bộ trưởng Quốc phòng Việt Nam năm 2003 đến Washington đã quyết định rằng các chuyến thăm cao cấp tương tự sẽ diễn ra mỗi ba năm một lần. Bộ trưởng quốc phòng Việt Nam và Hoa Kỳ qua lại thăm viếng nhau bốn lần. Chuyến thăm tháng 6 năm 2012 của Leon Panetta đã thu hút chú ý nhiều hơn trong bối cảnh mối quan hệ Mỹ-Trung bị xấu đi. Panetta đã được chào mời đi thăm cảng Cam Ranh, nơi từng là căn cứ hải quân và máy bay ném bom tầm xa của Liên Xô.
Trong khi mối quan hệ đã phát triển đáng kể trong thập kỷ qua, sự tương tác của ba yếu tố tiếp tục chi phối mối quan hệ. Một nướcTrung Quốc với quân sự mạnh mẽ đặt ra một mối đe dọa lớn hơn cho chủ quyền của Việt Nam hơn bất cứ lúc nào. Tuy nhiên, Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Cộng sản Trung Quốc vẫn chia xẻ chung sự lo ngại về một mối đe dọa từ phương Tây đến hệ thống chính trị của họ, cùng lúc ấy, tất cả lại cùng muốn tìm kiếm hợp tác kinh tế của Tây phương để xây dựng quốc gia thịnh vượng và mạnh mẽ.
Năm 1978, một nhà ngoại giao Việt Nam, Lưu Doanh Huỳnh, giải thích logic đằng sau cuộc vun trồng quan hệ với Moscow của Việt Nam: "Trong lịch sử, chúng tôi chỉ đã được an toàn với Trung Quốc trong hai hoàn cảnh. Một là khi Trung Quốc yếu và nội bộ bị chia rẽ. Hai là khi họ bị đe dọa bởi những kẻ man rợ từ phía bắc. Trong thời đại hiện nay, người Nga là những kẻ man rợ của chúng tôi . Cùng một logic ấy có thể được áp dụng cho nhu cầu vun xới quan hệ với Mỹ của Việt Nam hiện nay - một người bạn mạnh mẽ để ngăn chặn Trung Quốc quá hung hăng. Như các nhà lãnh đạo Việt Nam thường xuyên nhắc nhở người nước ngoài, một quốc gia có thể chọn bạn của mình nhưng không thể chọn láng giềng. Tuy nhiên điều thú vị là, Việt Nam sẽ xa lánh bất kỳ liên minh quân sự nào với Washington vốn có thể kích động sự thù địch với người láng giềng khổng lồ của mình hoặc làm cho chính phủ Việt Nam bị tổn thương với áp lực của Mỹ về dân chủ và nhân quyền. Cải thiện quan hệ giữa hai nước là có thật nhưng do đó có những giới hạn.
Nguồn
The rapid rise of China is bringing Vietnam and America closer together, but how long will this last?
By Nayan Chanda
In the days after the last helicopter lifted off the United States embassy helipad, the Saigon sky fell silent and the victors got busy raising the red and gold standard of the National Liberation Front on the flag poles of foreign missions. The fortress-like American embassy alone did not have the NLF flag. Asked about the reason for the exception, an officer from Hanoi assured me with a smile: “The Americans will be back soon.” As he explained, “The Americans worry about Chinese expansionism and they know, historically, Vietnam has been the biggest barrier against Beijing’s southward drive.”
Earlier this year US Secretary of Defense Leon Panetta was granted a tantalising tour of the famed Cam Ranh Bay that figured prominently in America’s strategic imagination. This is not to suggest that the US and Vietnam are anywhere near the strategic cooperation that my Vietnamese interlocutor dreamed of in 1975, but the zigzag journey of reconciliation and rapprochement between the two adversaries remains a gripping tale. The story also offers valuable lessons in the interplay of three factors—geopolitics, nationalism, and ideology—that shaped the kaleidoscopic transformations. Vietnam’s two thousand year history of love-hate relations with its giant neighbour China, its national ambition, and the ruling Communist Party’s concern about regime maintenance might explain the tortured path towards normalisation.
At the end of the war in 1975 the Vietnamese party was flush with its historic victory, eager to rebuild the ravaged nation but worried about the signs of overt hostility from China. Its optimism about speedy restoration of ties with Washington, because of broad geopolitical considerations, may have been logical thinking but it was based on a total misunderstanding of the American policy dynamic. Despite President Jimmy Carter’s desire to restore ties with all erstwhile enemies in Asia, including China, normalisation of relations with Vietnam proved impossible. Carter did not share Vietnam’s long-range perspective and Vietnam, on its part, underestimated America’s deep psychological war wounds. While it wanted relations with Washington to balance Chinese power, Vietnam was too proud a victor to forego the spoils of war—reconstruction aid promised by the US in the Paris peace accord of 1973. After the normalisation talks collapsed in 1978, the geopolitical context underwent a dramatic shift unfavourable to Vietnam that lasted nearly two decades.
Four years after the end of the long war, Vietnam was again in a state of war on its northern and western fronts. Chinese-backed Khmer Rouge attacks on its western border in 1977–78 led to Vietnamese invasion and occupation of Cambodia. China retaliated with a punitive invasion of northern Vietnam in 1979. This began a decade-long period in which Vietnam faced economic crisis at home and isolation abroad. The pressure of the de facto alliance between the US and China and their support of the Khmer Rouge–led coalition was compounded by the loss of support from a Soviet Union undergoing perestroika. The talks on normalisation of relations with the US were bogged down by unending American demands for accounting of their POWs and missing in action (MIA) during the war. The conservatives in the administration and the military, who never forgave Vietnam for America’s national humiliation, sought to restore the country’s honour by bringing home the remains of fallen soldiers and maintaining a crippling trade embargo imposed since 1975. To emerge out of its economic troubles and diplomatic isolation, Vietnam launched itsdoi moi (renovation) reforms and began the withdrawal of its troops from Cambodia, which was completed in 1989.
By the time Vietnam came close to withdrawing its troops, as demanded by the US and ASEAN, and engaged in talks with them over Cambodia’s political future, the geopolitical context changed again. The Sino–Soviet rapprochement and the international isolation of Beijing following the Tiananmen massacre not only altered the external environment but also raised concerns about the regime’s security. The large protests in China, which ended in the violent suppression in Tiananmen Square, and the domino-like fall of socialist regimes in Eastern Europe that came shortly afterwards rang alarm bells in Beijing—and in Hanoi. While Vietnam sorely needed aid and trade with the West, it was wary of “peaceful evolution” and subversion of the socialist system in the name of assistance. The George H. W. Bush administration’s so-called road map for normalisation was viewed with deep suspicion. Vietnam’s top diplomat Nguyen Co Thach’s failure to obtain normalisation, despite many concessions on MIA and the withdrawal from Cambodia, led Hanoi to alter its anti-Chinese trajectory. A secret summit meeting between Chinese and Vietnamese party leaders was held in Chengdu on 4 and 5 September 1990. The ground was laid for a gradual de-escalation of China’s conflict with Vietnam and an agreement to form a coalition government in Phnom Penh under UN auspices.
With normalisation of relations with China on course, Vietnam’s main objective in seeking ties with Washington was economic cooperation. But Vietnam was still very much on guard against threats to the socialist regime. Ironically, the Democratic administration under Bill Clinton proved tougher on Vietnam than the previous Republican administration. Pressed by right-wing politicians, the Clinton administration stepped up pressure over MIA and human rights violations. Business though saw opportunities in Vietnam and its concerted lobbying forced Washington to eventually agree to soften its stance. In February 1995, America lifted its trade embargo against Vietnam, and in July came the announcement that diplomatic ties would be restored. When, finally, on 5 August 1995 (a full 30 years after the end of the war), secretary of state Warren Christopher unfurled the Stars and Stripes in the US embassy in Hanoi, Vietnam’s main concern had shifted. It was no longer as interested in a strategic alliance as it was in ways to open the economy to the world and, specifically, win favoured nation trade status.
Vietnam’s reticence in being seen as a US ally against China was evident in March 2000. Defense secretary William Cohen became the first cabinet official to visit Vietnam, but Hanoi went out of its way to announce that there was no talk of strategic ties. Even when Clinton came to Vietnam in December 2000, a secret Central Committee directive told party members to show a “cold face” to Clinton. The gap between the Communist Party and the people could not have been starker. I watched thousands of young Saigonese break through police cordons to rush towards the presidential limo shouting “Bill, Bill!” For the Party it was America coming to Canossa and recognising Vietnam rather than Vietnam seeking closer ties with America with an eye to the north. In his meeting with Clinton, secretary general Le Kha Phieu gave the president a lesson in Vietnam’s glorious history of resistance to aggressors, but did not discuss the present or the future of relations with the US. For that, Vietnam had to wait another three years and a change in the external environment.
The second Bush administration seemed to move away from the somewhat smarmy attitude the US had toward China in the wake of the EP-3 spy plane incident. Even before the tension over the spy plane, important voices in Washington expressed concern about China’s muscle flexing. One of the authors of the RAND corporation report, Zalmay Khalilzad, who would become a national security adviser, noted that the United States should bolster its overall military presence in Asia in response to rising Chinese power. It pointed out that “there is an underlying logic to cooperation between the United States and Vietnam to prevent a Chinese bid for regional hegemony.” As Washington began focusing on changing the balance in East Asia, its interest in Vietnam took on strategic significance.
Vietnam, too, was worried about China’s continuing push in the South China Sea and in the states along Vietnam’s periphery. In the June 2003 Central Committee plenum, the party surmised that the situation in East Asia was developing in an unfavourable way and efforts had to be made to develop ties with the US. As the Vietnamese told American officials, “The triangle is out of balance.” US relations with Vietnam were weak, while its ties with China had improved a great deal and China’s influence in the region had grown. This new mutual awareness led to the first-ever visit by a Vietnamese defence minister to Washington in November 2003. It was followed by the first port call by Navy ship the USS Vandergrift to Ho Chi Minh City.
The high point in the warming ties came in June 2005, when Phan Van Khai became the first Vietnamese leader to be entertained at the White House. In their joint statement George W. Bush and Khai said they “shared a vision of peace, prosperity, and security in Southeast Asia and the Asia-Pacific region, and they agreed to cooperate bilaterally and multilaterally to promote these goals.” The inclusion of the phrase “Asia-Pacific region” in the communiqué was the only public hint that the relations went beyond bilateral or even regional—Southeast Asian concerns. Khai signed an intelligence agreement with the United States allowing cooperation on staunching money laundering and engaging in intelligence sharing with Washington.
Against the backdrop of growing Chinese power and assertiveness in the South China Sea US–Vietnam relations have deepened. US Secretary of State Hillary Clinton’s visit in Hanoi during an ASEAN ministerial meeting in 2010, where she expressed US concern about Chinese behaviour in the South China Sea, marked a new level of cooperation with Vietnam. The following year, US and Vietnam entered into discussions to raise their bilateral relationship to a strategic partnership. Military ties too have grown. During the Vietnamese defence minister’s 2003 visit to Washington, it was decided that similar level exchange visits would take place every three years. Vietnamese and US defence chiefs have since exchanged four visits. Leon Panetta’s June 2012 visit drew more than the usual attention against the backdrop of deteriorating US–China relations. Panetta was given a tour of Cam Ranh Bay, where Soviet naval assets and long-range bombers were once based.
While the relationship has grown dramatically in the past decade, the interplay of three factors continues to modulate the relations. A militarily strong China poses a greater threat to Vietnam’s sovereignty than at any time in the recent past. But the Vietnamese Communist Party shares the Chinese Communist Party’s concerns about a Western threat to their system, all the while seeking Western economic cooperation to build a prosperous and powerful country.
In 1978 a Vietnamese diplomat, Luu Doanh Huynh, explained the logic behind Vietnam’s cultivation of Moscow: “In all of history we have been secure from China in only two conditions. One is when China is weak and internally divided. The other is when she has been threatened by barbarians from the north. In the present era, the Russians are our barbarians.” The same logic can be applied to Vietnam’s need to cultivate the US today—a powerful friend to deter China from being too aggressive. As Vietnamese leaders frequently remind foreigners, a country can choose its friends but not its neighbours. However enticing it might be, Vietnam would shun any military alliance with Washington that could provoke its giant neighbour’s hostility or make the Vietnamese government vulnerable to American pressure on democracy and human rights. Rapprochement between the two countries is real but so are the limits.
-Bị Trung Quốc lợi dụng , Iran tìm cách nối lại đối thoại với Mỹ
Mỹ ở châu Á: Words and Deeds Show Focus of the American Military on Asia (NYT 10-11-12)
Mỹ-Trung Quốc:Beijing and Washington navigate in risky waters (FT 12-11-12)
Lãnh đạo Trung Quốc: The Powerful Factions Among China's Rulers (Brookings 5-11-12) -- Bài mới, ngắn, của Cheng Li
Quân đội Trung Quốc: China's Other Transition: What we still don't know about the Chinese military. (FP 12-11-12)
Hồ sơ Hạt nhân: Going Nuclear in Southeast Asia (Energy Tribune 9-11-12)
DNNN ở Trung Quốc sẽ là một thử thách cho Tập Cận Bình: China’s Grip on Economy Will Test New Leaders (NYT 9-11-12)
ĐCSTQ chống những đòi hỏi dân chủ: Amid Calls to Open China’s Politics, Party Digs In (NYT 10-11-12)
Điểm cuốn sách của John Garnaut về Bạc Hi Lai: The Rise and Fall of the House of Bo: How a Murder Exposed the Cracks in China’s Leadership (London Sunday Times 11-11-12) -- Bài Michael Sheridan (rất tiếc chỉ subscribers mới xem được)
Tại sao đảng Cộng Hoà "mất" dân Mỹ gốc Á? The GOP’s Asian-American Fiasco (American Conservative 9-11-12)
ĐH 18 ĐCSTQ: China’s players rehearse in the dark (FP 10-11-12) -- David Pilling
Về bọn "thái tử đảng" bên Tàu: The Children Devour the Revolution (FP 10-11-12) -- Bài rất hay của John Garnaut, đặc biệt chú ý đến tướng Lưu Nguyên (con của Lưu Thiếu Kỳ, xem bài của Cheng Li sắp đăng trên Thời Đại Mới). Garnaut vừa ra (hôm qua!) cuốn eBook về vụ Bạc Hi Lai: The Rise and Fall of the House of Bo: How A Murder Exposed The Cracks In China's Leadership, vô cùng hấp dẫn! (Bây giờ tôi mới biết: Garnaut biết nhiều về Trung Quốc vì cha của anh ta đã từng làm đại sứ Úc ở bên đó!)
Về Lý Khắc Cường: Li Keqiang, China’s next premier, carries reformers’ hopes (WP 10-11-12)
Về Tập Cận Bình: China's New Boss (WSJ 9-11-12) Bài này của Kenneth Lieberthal: Xi Jinping's Challenge (FP 7-11-12)
Change in Beijing, Change in Tibet?
theDiplomat.com
Silicon Valley mong đợi gì ở Obama? Silicon Valley’s second-term wish list (WP 10-11-12) -- Mong muốn số 1: Được đem chuyên viên các nước khác vào Mỹ dễ dàng hơn! WHOA!
Kinh tế Mỹ và "fiscal cliff": TT Obama đứng trước bế tắc chính trị 'fiscal cliff' (VOA 11-11-12) -- P/v ... THD!
Obama's Global Challenges
RealClearWorld
- NGƯỜI VIỆT KHÓ XÓA ĐI THÙ HẬN? (Huỳnh Ngọc Chênh). - Vì sao Obama vội vã công du Myanmar ngay sau tái đắc cử? (DT).
- Hồ Cẩm Đào sớm thôi chức Quân ủy TW? (BBC). – Kissinger: Trung Quốc có tham vọng lớn (BBC). – Trung Quốc quyết tâm hiện đại hóa quân đội (VNE).
-Ý kiến của một học giả ngành luật: Cải cách thể chế chính trị ởTrung Quốc vẫn sẽ là chủ đề chính trong thập kỷ tới Bauxite Việt Nam
Keiko Yoshioka – Phóng viên tờ Ashi ShimbunPhạm Gia Minh dịch
Giáo sư luật He Weifang – Hạ Vệ Phương贺卫方 – Đại học Bắc Kinh
Chính quyền của Hồ Cẩm Đào đã chứng kiến nền kinh tế TQ tăng trưởng gần gấp 4 lần, thế nhưng nó để lại cho người thừa kế của mình là Tập Cận Bình nhiều mâu thuẫn xã hội, chẳng hạn như tham nhũng và phân hóa giàu nghèo .
Đại hội ĐCS TQ khai mạc hôm 8/11 đánh dấu sự chuyển giao quyền lực từ Chủ tịch họ Hồ sang họ Tập.
He Weifang (Hạ Vệ Phương), một Giáo sư ngành Luật ở Đại học Bắc Kinh, người đã từ lâu ủng hộ quan điểm về nhà nước pháp quyền chấp nhận nhiều tự do ngôn luận hơn đã đề cập đến những thách thức mà chính quyền của Tập Cận Bình sẽ phải đối mặt trong cuộc phỏng vấn dành cho tờ Asahi Shimbun.
Hỏi: Năm 2006 có một cuộc gặp mang tính riêng tư giữa các trí thức ở Bắc Kinh để biên soạn những đề nghị liên quan tới cải cách chính trị sau đó đã được trình lên chính quyền Hồ Cẩm Đào. Tại cuộc gặp đó, ông đã phát biểu rằng các mục tiêu trong tương lai phải là “hệ thống đa đảng, tự do báo chí, dân chủ thực sự và thực thi các quyền tự do cá nhân theo đúng nghĩa của nó”. Ông có thể cho biết thêm chi tiết?
Trả lời: đó là thời điểm mà chính quyền hiện nay bắt đầu bước vào nửa sau nhiệm kỳ của mình. Chúng tôi đã tổ chức cuộc gặp đó với kỳ vọng rằng chính quyền sẽ có thể làm gì đó vì nó cũng đã củng cố được vị thế của mình. Tuy nhiên chẳng hề có một tiến bộ nào. Có hai lý do cho việc này.
Thứ nhất, khi nổ ra cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008 các quyết định (của ĐCS và nhà nước TQ – ND) tức thời được đưa ra nhằm vào những biện pháp kích thích nền kinh tế. Trong ngắn hạn chúng đã đạt được kết quả.
Đó là một ví dụ về sức mạnh của chế độ độc đảng cầm quyền nếu so sánh với các dân tộc tiên tiến nơi mà không có quyết định nào lại có thể được thông qua khi không có các cuộc thảo luận dân chủ.
Bởi lẽ Phương Tây bị ảnh hưởng nặng nề do khủng hoảng tài chính nên TQ đã vượt Nhật Bản về kinh tế. Tận dụng sức mạnh kinh tế tương đối vượt trội hơn trước, TQ đã trở nên hăng hái hơn trên mặt trận ngoại giao. TQ làm chủ nhà Olympic Bắc Kinh và Triển lãm Thương mạiThế giới ở Thượng Hải.
Những diễn biến đó đã tạo lý do để không vội vàng đẩy mạnh cải cách chính trị vốn khó khăn, phức tạp. Kết cục là đã diễn ra một vài bước thụt lùi trong những cải cách trước đây.
Chẳng hạn như các doanh nghiệp nhà nước là những cơ sở nhận trách nhiệm thực hiện những biện pháp kích thích kinh tế khổng lồ đã trở nên mạnh hơn trước.
Một trong những nguyên nhân để xảy ra tình trạng số các vụ hối lộ có liên quan tới các nhà chính trị và quan chức của chính quyền đạt con số hàng tỷ Đôla (tương đương hàng trăm tỷ Yên) chính là sự gia tăng phạm vi can thiệp của nhà nước vào nền kinh tế.
Xu hướng đó đã dẫn đến một khái niệm mang đầy tính mỉa mai mô tả nền kinh tế Trung Quốc không hề là một nền “kinh tế thị trường” mà là “ nền kinh tế thị trưởng ” (tương tự như chức vụ Chủ tịch UBND cấp thành phố ở Việt Nam- ND), nơi mà các quan chức có quyền lực mạnh.
Hỏi:Thế nguyên nhân khác nữa là gì?
Trả lời: Có thể đó còn là sự thay đổi trong mối quan hệ giữa các vị lãnh đạo.
Khi mà Mao Trạch Đông cai trị mối quan hệ đó mang phong cách của một ông nội độc đoán với những đứa cháu của mình. Nếu như Mao nói “làm điều này đi” thì mọi thứ đều trở nên có thể bất kể là tốt hay xấu. Ông ta có quyền lực bao trùm lên những nhà chính trị khác.
Khi Đặng Tiểu Bình nắm quyền, mối quan hệ đó đã trở nên kiểu giữa cha và các con trai. Trong khi vẫn tôn trọng một vài nhân vật lớn tuổi hơn thì sự giám sát vẫn được thực thi trên hầu hết các lĩnh vực ngay cả lúc không đạt được sự đồng thuận ý kiến.
Tuy nhiên, điều đó rõ ràng đã thay đổi dưới thời của Hồ Cẩm Đào. Các lãnh đạo cao nhất ví dụ như họ Hồ cũng chỉ là con trai cả còn những người khác là các em trai của anh ta.
Mỗi một vị lãnh đạo lại chịu trách nhiệm về một lĩnh vực riêng, đó có thể là Đại hội Đại biểu nhân dân toàn quốc hay an ninh công cộng, kinh tế…và họ có những quyền lực mạnh trong các lĩnh vực riêng đó.
Hơn thế nữa, thay vì thảo luận một cách chân thành, thẳng thắn giữa các người anh em trai với nhau thì hình như hệ thống lại vận hành theo lối tránh can thiệp vào công việc của nhau.
Trong khi sự trao đổi có thể giúp ngăn chặn những sai lầm nghiêm trọng , chẳng hạn như Cách mạng Văn hóa mà Mao đã khởi xướng thì nó còn dẫn đến việc tránh được những quyết định sai có ảnh hưởng tới nhiều lĩnh vực cuộc sống.
Điều này có nghĩa là chẳng thể thực hiện được cải cách chính trị nếu như không đi tới tận cốt lõi của cơ cấu hệ thống hiện nay và điều đó có thể sẽ gặp phải sự kháng cự kịch liệt.
Hỏi:Và điều đó đã được thể hiện trong việc lựa chọn người kế nhiệm của họ Hồ?
Trả lời: Nếu như là Mao đã quyết thì mọi thứ coi như đã an bài. Đặng cũng còn có thể chọn Giang Trạch Dân và Hồ Cẩm Đào, còn bây giờ thì khó xác định ai là người ra quyết định. Bởi lẽ không có một cá nhân vượt trội hẳn lên để ra quyết định nên một vài cá nhân khác có thể cảm thấy rằng “ta đây tốt hơn” và sẽ sinh ra chuyện đấu đá chính trị nếu như họ không thỏa mãn với việc lựa chọn được đưa ra.
Hỏi:Phải chăng là điều này đã xảy ra với Bạc Hy Lai, nguyên Bí thư ĐCS Trùng Khánh trước khi bị khai trừ khỏi đảng vì tội nhận những khoản hối lộ khổng lồ và lạm dụng quyền lực?
Trả lời:Mặc dùphẩm chất cá nhân họ Bạc cũng có vai trò ở đây thế nhưng có thể còn do không còn cách nào khác để tham gia vào cuộc chơi chính trị mà lại không phải phô diễn ra rằng bản thân mình là người phù hợp nhất để trở thành một nhà lãnh đạo bằng chiêu thức sử dụng mọi phương tiện có thể để tạo ra sự nổi tiếng trong quần chúng nhân dân và người ngoại quốc.
Nếu như cứ tiếp tục thiếu một nhân vật có quyền uy bao trùm để chọn lựa tầng lớp lãnh đạo trong bí mật thì những cuộc đấu đá quyền lực có thể gây nên một tương lai chính trị hỗn loạn.
Để ổn định nền chính trị, cần phải có nhiều cấp độ đảng viên hơn nữa được tham gia vào quá trình lựa chọn tầng lớp lãnh đạo cao cấp và việc này nhất thiết phải được tiến hành minh bạch hơn.
Hỏi: Hồi tháng 4 năm 2011 ông có công bố bức thư tựa đề “Vì một nền pháp trị và cũng là lý tưởng của tôi” ông đã vạch rõ rằng khi họ Bạc còn giữ trọng trách ở Trùng Khánh chiến dịch làm sạch thành phố khỏi tội phạm có tổ chức đã được tiến hành dẫn đến việc gia tăng các vụ bắt bớ và xét xử coi thường tính pháp quyền.
Ông cũng nghiêm khắc phê phán rằng đó là một sự tái sinh của Cách mạng Văn hóa. Tôi hiểu rằng trong thời kỳ Cách mạng Văn hóa cha đẻ của ông đã từng là mục tiêu đấu tố khiến cụ đã phải tự vẫn.
Trả lời:Chẳng phải riêng mình tôi đã sống qua những biến cố của thời đó.
Sau đấy cuối cùng thì tôi cũng qua được kỳ thi tuyển vào học ngành Khoa học chính trị và Luật của trường Đại học Tây Nam ở Trùng khánh. Các giáo sư và sinh viên, tất cả đều cảm thấy một cách mạnh mẽ rằng nhất định các nhà lãnh đạo không bao giờ lại được phép để trở thành những tên bạo chúa nữa.
Khi mà các bạn tôi và tôi lấy làm sung sướng trước những gì diễn ra sau đó (họ Bạc bị khai trừ khỏi đảng) thì cũng còn một vài việc đáng tiếc xảy ra.
Việc xét xử chẳng là gì khác ngoài trò diễn chính trị và hoàn toàn xa rời nguyên tắc độc lập tư pháp.Không rõ ràng ai phạm tội gì và có ít sự chắc chắn trong cách trình bày chứng cứ và nhân chứng.
Lời tuyên án đã được đưa ra sau một thời gian ngắn cho dù đây là một vụ lớn và nghiêm trọng. Cũng không rõ các ủy viên công tố và luật sư bào chữa phát biểu gì nữa.
Điều đó đã chỉ cho thế giới thấy rằng bộ máy tư pháp ở TQ tồn tại chỉ là để phục vụ chính trị.
Hỏi:Năm nay sẽ có bầu Tổng thống Hoa Kỳ và lựa chọn các lãnh đạo cấp cao TQ, đó là những sự kiện xảy ra đồng thời 20 năm mới có một lần. Người nước ngoài rất quan tâm tới liệu lãnh đạo sắp tới của Hoa Kỳ nghĩ gì, thế nhưng không rõ thế hệ lãnh đạo sắp tới của TQ nghĩ gì?
Trả lời:Có một sự biểu hiện ra bên ngoài của ĐCS cho thấy không có thay đổi gì cả.
Theo truyền thống thì bất cứ một sự khác biệt ý kiến nào sẽ chỉ được công khai ra sau khi đối thủ chính trị đã bị thua. Quá trình tranh luận, kể cả về ngoại giao không bao giờ được công khai hóa.
Trong một hệ thống như vậy khó có thể làm cho người ngoại quốc quan tâm tới việc tìm hiểu người TQ nghĩ gì.
Chỉ khi nào TQ bắt đầu coi trọng việc đánh giá, nhìn nhận trong con mắt của cộng đồng quốc tế, hay còn gọi là quyền lực mềm thì lúc đó mới có nhu cầu đểhiểu rằng hình ảnh của quốc gia trên trường quốc tế có liên quan mật thiết tới cái cách hành xử trong chính sách đối nội.
Hỏi:Sự đối đầu về vấn đề đảo Senkaku đã làm gián đoạn việc trao đổi không chỉgiữa hai chính phủ mà còn hệ lụy đến kinh doanh, văn hóa và thể thao. Các tiểu thuyết dịch của nhà văn Haruki Murakami đã bị đưa ra khỏi quầy ở hiệu sách. Vậy ông có suy nghĩ gì?
Trả lời:Chính phủ TQ sợ tiếng nói công luận cho nên họ lo rằng sẽ bị chỉ trích nếu tiếp tục trao đổi với Nhật Bản.
Vì lẽ các nhà lãnh đạo không có tính chính danh do không được bầu lên bởi nhân dân cho nên họ sợ đối đầu.
Sau các cuộc biểu tình chống Nhật, chính phủ chỉ kêu gọi một sự đáp trả hợp lý khi mà họ nhận thấy có nhiều ý kiến trên mạng Internet phê phán các hành động đốt phá xe ô tô Nhật.
Hỏi:Ông cũng ký tên vào một tài liệu lưu truyền trên Internet do một phụ nữ viết đòi tự do ngôn luận và nhân quyền. Tài liệu đó kêu gọi một sự quay trở lại với lý trí và lẽ phải trong quan hệ Trung – Nhật. Tại sao ông lại phê phán việc đưa sự đối đầu về chính trị sang các lĩnh vực khác như văn hóa và kinh doanh như là một thái độ không khôn ngoan?
Trả lời: Tôi cảm thấy rằng nếu những ý kiến rất khác nhau ở TQ được chuyển tải sang Nhật thì chúng sẽ làm giảm bớt căng thẳng.
Cuộc cải cách của Đặng Tiểu Bình chú trọng vào tăng trưởng kinh tế và hạn chế những tranh luận đã đạt tới điểm giới hạn của nó. Trong khi một cách công khai điều đó đã dẫn tới việc lảng tránh thảo luận về nhân quyền, dân chủ và tự do ngôn luận, báo chí thì hiện nay tranh luận trên mạng Internet đã được khởi động lại.
Hỏi:Có những cuộc biểu tình lớn do người dân bất bình trước những vấn nạn về môi trường và điều kiện lao động, một số cuộc biến thành bạo động và gần đây, quần chúng đã chống lại việc mở rộng nhà máy hóa chất ở Ningbo, tỉnh Zhejiang trong suốt cả một tuần lễ. Sự kiện này lại xảy ra ngay cả khi chính quyền dường như đã cảnh báo mạnh mẽ chống lại các cuộc phản đối trước Đại hội ĐCS TQ.
Trả lời:Đó cũng chính là nguyên nhân vì sao sự phản kháng lại xảy ra lúc này. Với việc chính quyền cảnh báo và sử dụng áp lực lên quần chúng để không xảy ra lộn xộn phức tạp thì quần chúng lại cho rằng cái lý lẽ của họ sẽ được nghe khi chính quyền phải ra tay làm dịu tình hình nếu họ gây nên sự náo loạn (theo lối nghĩ con có khóc thì mẹ mới cho bú – ND) .
Càng ngày càng có nhiều người cho rằng con đường duy nhất để phản đối lại một chính phủ không biết điều là sử dụng các biện pháp không biết điều.
Chính quyền đã nỗ lực kiềm chế những động thái xã hội này bằng cách tăng cường công tác an ninh, tăng ngân sách và lực lượng nhân sự (kế hoạch chi phí cho an ninh nội địa TQ năm 2012 đạt con số 701.8 tỷ NDT trong khi đó chi phí quốc phòng chỉ có 670.3 tỷ – ND. Nguồn:http://viet-studies.info/kinhte/201226_lythanh.pdf hoặc Shijie Ribao .3/5/2012.A4).
Tuy nhiên, tôi cảm nhận thấy rằng không chỉ quần chúng nhân dân mà cả những người trong chính quyền đã bắt đầu cảm thấy lo sợ những lực lượng xã hội sắp trở nên rất hùng mạnh.
Hỏi: Ông nói thế nghĩa là thế nào?
Trả lời:Nếu như các lực lượng an ninh công cộng, cảnh sát và quân đội càng ngày càng trở nên đông đảo thì sức mạnh của nhân dân thường trực trong các lực lượng đó cũng trở nên mạnh hơn rất nhiều.
Có những thứ được lập ra để quản lý xã hội nhưng đang trở nên có khả năng chống đối lại trật tự hiện hành vào một ngày nào đó, thậm chí chúng hướng vào cấp lãnh đạo cao nhất (điển hình là các lực lượng vũ trang Liên Xô thời Goocbachov-Elsin và sau này của Kadaphi và Mubarak khi chính quyền tỏ ra rệu rã đã quay súng và đứng về phía quần chúng – ND).
Con đường duy nhất tránh được nỗi sợ đó là nỗ lực một cách nghiêm túc để thiết lập nên một hệ thống có thể phản ánh tiếng nói của quần chúng đối với lĩnh vực chính trị trong khi vẫn cho phép tồn tại các lực lượng đối lập lành mạnh.
Hỏi:Với mối quan hệ của Tập Cận Bình với các lãnh đạo cấp cao khác theo kiểu quan hệ giữa các anh em thì liệu ông ta có khả năng thúc đẩy cải cách không?
Trả lời: Tôi không dám chắc, bởi lẽ ở TQ những người đã leo lên vị trí cao nhất không bao giờ bày tỏ sớm quá ý nghĩ thực sự của mình.
Tuy nhiên, nếu có một sự khác biệt nào đó của Tập Cận Bình khi so sánh với các vị lãnh đạo khác tính cho đến ngày hôm nay thì họ Tập là vị Tổng bí thư đầu tiên có người cha cũng từng giữ vị trí cao trong ĐCS TQ. Cha của Tập Cận Bình từng nổi tiếng như một nhân vật khai sáng.
Các nguồn lực (hiểu theo nghĩa những mối quan hệ cá nhân) mà người cha của họ Tập để lại có thể sẽ đóng vai trò như một tài sản chính trị.
Một quốc gia được điều hành bởi một đảng mà tính chính danh của đảng đó chỉ dựa trên sự phát triển kinh tế không thôi thì là một quốc gia bấp bênh.
Hơn nữa, sự phát triển kinh tế đó đã đạt tới giai đoạn mà không thể tách rời với cải cách thể chế chính trị là thứ rất cần thiết để đem lại sự phân phối của cải công bằng.
Tôi tin rằng cải cách chính trị sẽ vẫn là chủ đề chính trong 10 năm tới.
Thăng long – Hà nội 12/11/2012
K.Y.
Nguồn: Asahi Shimbun7/11/2012
Dịch giả gửi trực tiếp cho BVN
Bị Trung Quốc lợi dụng , Iran tìm cách nối lại đối thoại với Mỹ- Tham vọng cường quốc (hết) (Spiegel/ Phan Ba). - Trung Quốc hối hả cho tham vọng siêu cường (TVN).
- Trung Quốc tăng tốc xây dựng ở Tam Sa (VOA). – Trung Quốc “không giới hạn” hoạt động hải giám tại đảo tranh chấp (DT).
- Trung Quốc quyết quấy rối Nhật bằng tàu hải giám (TTXVN). - Nhật lo Trung Quốc chơi con bài “tiêu hao sinh lực” (TTXVN). - Tàu sân bay Liêu Ninh thử nghiệm trên biển lần hai (TTXVN).
- Có xác nhận Đài Loan thử tên lửa hạm đối hạm mới (TTXVN). – Đài Loan thử nghiệm tên lửa “diệt” tàu sân bay(RFI). – Đài Loan thử nghiệm “sát thủ diệt tàu sân bay” (NLĐ).
- Việt Nam trong nhiệm kỳ mới của Obama (TVN). – Tổng thống Mỹ đến Cam Bốt dự hội nghị thượng đỉnh Đông Á(RFI). – Hội nghị Bộ Trưởng Úc-Mỹ đánh dấu giai đoạn mới của Washington (VOA). - Cuộc chiến giành giật châu Á giữa Mỹ và Trung Quốc (Kỳ 1) (Petrotimes). - Tàu tấn công đổ bộ mới nhất của Mỹ có sức mạnh ngang tàu sân bay (GDVN).
- Hải quân Philippines cứu 11 ngư dân Việt (BBC).
- Ngừng dự án thủy điện vì dân (PLTP).
America’s Pivot: “Stoking The Fires of Nationalism?” theDiplomat.com
Kissinger: Trung Quốc có tham vọng lớn
Hồ Cẩm Đào sớm thôi chức Quân ủy TW?
-Changing of the Guard: Hu Jintao’s Military Role in China Uncertain as Congress Winds Down
Quốc hội không thể mũ ni che tai được mãi
- Nga hiện đại hóa 18 tiêm kích Su-30K cho đối tác Đông Nam Á (Infonet).
- Campuchia công khai nguồn gốc 140 xe thiết giáp mới nhập (ĐV).
Dịch vụ của Google bị gián đoạn ở Trung Quốc
TTO - Google vừa cho biết một số dịch vụ trực tuyến của họ đã bị chặn tại Trung Quốc, trong đó có công cụ tìm kiếm Google và dịch vụ thư điện tử Gmail.
-Bắt giam thẩm phán bị nghi vòi vĩnh
Tuổi Trẻ
Bắt giam thẩm phán bị nghi vòi vĩnh. TT - Sáng 12-11, Cục điều tra Viện Kiểm sát nhân dân tối cao đã thực hiện lệnh khởi tố, bắt giam ông Nguyễn Minh Toàn, thẩm phán Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Cửu (Đồng Nai), để điều tra về tội “lạm dụng chức vụ, ...
Bắt tạm giam thẩm phán chiếm đoạt tài sảnTiền Phong Online
Bắt giam thẩm phán đòi tiền xử ánThanh Niên
Bắt tạm giam một thẩm phán ở Đồng Nai nhận hối lộĐài Tiếng Nói Việt Nam
Trên tờ American Review, Nayan Chanda một biên tập viên của Yale Global Onlibe và Tuần báo Kinh tế Viễn Đông vừa viết một bài nhận định khá sâu sắc về mối quan hệ Việt Mỹ. Mời các tv và độc giả cùng đọc sau đây:
Cuộc chắp nối lại tình hữu nghị chậm chạp giữa Mỹ-Việt
Nayan Chanda/American Review
Lê Quốc Tuấn chuyển dịch Việt Ngữ
Sự vươn dậy nhanh chóng của Trung Quốc đã đưa Việt Nam và Mỹ xích lại gần nhau hơn, nhưng điều này sẽ kéo dài được bao lâu?
Trong những ngày sau khi chiếc trực thăng cuối cùng nhấc mình khỏi bãi đáp trực thăng toà đại sứ Hoa Kỳ, bầu trời Sài Gòn rơi vào im lặng và những kẻ chiến thắng đã bận rộn dương cao màu vàng đỏ tiêu chuẩn của Mặt trận Giải phóng Quốc gia trên cột cờ của các cơ quan đại diện nước ngoài. Riêng toà đại sứ như một pháo đài của Mỹ là không có lá cờ quân giải phóng. Được hỏi về lý do cho ngoại lệ này, một nhân viên từ Hà Nội quả quyết với tôi bằng một nụ cười: "Người Mỹ sẽ quay lại ngay." Như ông giải thích, "Người Mỹ lo lắng về sự bành trướng của Trung Quốc và họ biết, trong lịch sử, Việt Nam đã là rào cản lớn nhất chống lại đường tiến về phương Nam của Bắc Kinh."
Đầu năm nay Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Leon Panetta đã được cấp cho một cuộc tham quan mời gọi đến Vịnh Cam Ranh nổi tiếng vốn đã từng nổi bật trong trí tưởng tượng chiến lược của Mỹ. Điều này không phải là để cho thấy rằng Mỹ và Việt Nam đang ở đâu đó gần với loại hợp tác chiến lược mà những người kể chuyện Việt Nam của tôi từng mơ ước vào năm 1975, nhưng là hành trình ngoằn ngoèo của sự hòa giải và việc tái lập mối quan hệ hữu nghị giữa hai đối thủ vẫn còn là một câu chuyện hấp dẫn. Câu chuyện ấy cũng cung cấp các bài học có giá trị trong sự tương tác của ba yếu tố - địa chính trị, chủ nghĩa yêu nước và ý thức hệ - từng định hình các biến đổi rực rỡ muôn hình vạn trạng. Lịch sử hai ngàn năm quan hệ yêu ghét của Việt Nam 2000 với người láng giềng khổng lồ Trung Quốc, tham vọng quốc gia của mình và mối quan tâm của Đảng Cộng sản cầm quyền để duy trì chế độ có thể giải thích được con đường nhục hình đi đến bình thường hoá quan hệ giữa hai nước.
Năm 1975, vào lúc kết thúc cuộc chiến, đảng CS Việt Nam đã tự hào với chiến thắng lịch sử của mình, muốn xây dựng lại đất nước bị tàn phá nhưng lại lo lắng về những dấu hiệu thù địch công khai từ phía Trung Quốc. Từ những cân nhắc đến khía cạnh địa chính trị rộng lớn, mối lạc quan về cuộc phục hồi quan hệ nhanh chóng với Washington có thể là suy nghĩ hợp lý, nhưng lại dựa trên một sự hiểu lầm tổng thể về chính sách năng động của Mỹ. Bất chấp mong muốn khôi phục lại quan hệ với tất cả các cựu thù ở châu Á, bao gồm cả Trung Quốc của Tổng thống Jimmy Carter, cuộc bình thường hóa quan hệ với Việt Nam đã chứng minh là không thể thực hiện. Carter đã không thể chia sẻ được tâm nhìn xa của Việt Nam và về phần mình Việt Nam đã đánh giá thấp những vết thương chiến tranh tâm lý sâu sắc của Mỹ. Trong khi muốn quan hệ với Washington để cân bằng với sức mạnh của Trung Quốc, Việt Nam lại quá tự hào về cuộc chiến thắng đến mức từ bỏ các chiến lợi phẩm từ cuộc chiến - lời hứa viện trợ tái thiết của Mỹ trong hiệp định hòa bình Paris năm 1973. Sau khi các cuộc đàm phán về bình thường hoá bị sụp đổ vào năm 1978, bối cảnh địa chính trị đã trải qua một sự thay đổi bất lợi đáng kể cho Việt Nam kéo dài gần hai thập kỷ.
Bốn năm sau khi kết thúc của cuộc chiến tranh dài, một lần nữa Việt Nam lại ở trong tình trạng chiến tranh trên nhiều mặt trận phía bắc và phía tây của mình. Trung Quốc ủng hộ Khmer Đỏ tấn công vào biên giới phía tây trong năm1977-78, dẫn đến cuộc xâm lược chiếm đóng Campuchia của Việt Nam. Trung Quốc trả đũa bằng một cuộc xâm lược trừng phạt miền Bắc Việt Nam vào năm 1979. Giai đoạn này đã bắt đầu một thời kỳ kéo dài hàng thập kỷ, trong đó Việt Nam phải đối mặt với khủng hoảng kinh tế ở trong nước và bị cô lập ở bên ngoài. Áp lực của liên minh trên thực tế giữa Mỹ và Trung Quốc và sự hỗ trợ của liên minh do Khmer Rouge lãnh đạo trở nên phức tạp bởi việc mất đi ủng hộ từ Liên bang Xô Viết vốn đang cải tổ. Các cuộc đàm phán nhằm bình thường hóa quan hệ với Mỹ bị sa lầy bởi những yêu cầu bất tận của Mỹ về trách nhiệm với tù binh chiến tranh và các binh sĩ mất tích (MIA) trong chiến tranh. Giới bảo thủ trong chính quyền và quân đội, những người không bao giờ tha thứ cho Việt Nam vì đã sỉ nhục quốc thể Hoa Kỳ, tìm cách khôi phục lại danh dự của đất nước bằng cách phải đưa hài cốt các liệt sĩ về nước và duy trì lệnh cấm vận làm tê liệt thương mại từng áp đặt từ năm 1975. Để ra khỏi các khó khăn kinh tế và bị cô lập ngoại giao, Việt Nam đã phát động công cuộc đổi mới cải cách của mình và bắt đầu rút hết quân ra khỏi Campuchia vào năm 1989.
Vào thời điểm Việt Nam gần rút quân theo yêu cầu của Mỹ, ASEAN và tham dự các cuộc đàm phán về tương lai chính trị của Campuchia, bối cảnh địa chính trị đã thay đổi một lần nữa. Cuộc tái lập quan hệ hữu nghị Trung-Xô và sự cô lập Bắc Kinh của quốc tế sau vụ thảm sát Thiên An Môn không chỉ thay đổi môi trường bên ngoài mà còn dấy lên những lo ngại về an ninh của chế độ. Các cuộc biểu tình lớn ở Trung Quốc, kết thúc trong đàn áp bạo lực tại Thiên An Môn và sự sụp đổ liên tục như những quân cờ domino của những chế độ xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu tiếp theo sau đó làm vang lên hồi chuông cảnh báo ở Bắc Kinh và Hà Nội. Trong khi hết sức cần viện trợ và thương mại với phương Tây, Việt Nam lại cảnh giác với "diễn biến hòa bình" và sự lật đổ hệ thống xã hội chủ nghĩa nhân danh hỗ trợ. Cái gọi là lộ trình bình thường hóa của chính quyền George HW Bush đã bị nhìn vào bằng sự nghi ngờ sâu sắc. Sự thất bại không đạt đưọc bình thường hóa của Nguyễn Cơ Thạch, nhà ngoại giao hàng đầu của Việt Nam, bất chấp những nhượng bộ về MIA và rút quân khỏi Campuchia, khiến Hà Nội phải thay đổi quỹ đạo chống Trung Quốc của mình. Một cuộc họp hội nghị thượng đỉnh bí mật giữa các nhà lãnh đạo đảng Trung Quốc và Việt Nam đã được tổ chức tại Thành Đô vào ngày 4 và ngày 05 tháng 9 năm 1990. Đấy là nền tảng cho cuộc suy giảm dần dần mối xung đột giữa Trung Quốc với Việt Nam và một thỏa thuận để thành lập một chính phủ liên minh tại Phnom Penh dưới sự bảo trợ của Liên Hợp Quốc.
Với việc bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc diễn ra, mục tiêu chính của Việt Nam trong việc tìm kiếm quan hệ với Washington là về hợp tác kinh tế. Nhưng Việt Nam vẫn còn đặt nặng vào việc bảo vệ nhằm chống lại mối đe dọa đối với chế độ xã hội chủ nghĩa. Trớ trêu thay, chính quyền Dân chủ dưới thời Bill Clinton đã chứng tỏ là cứng rắn hơn với Việt Nam so với thời chính quyền Cộng hòa trước đó. Bị thúc ép bởi các chính trị gia cánh hữu, chính quyền Clinton đã gia tăng áp lực về MIA và các vi phạm quyền con người. Mặc dù giới kinh doanh nhìn thấy cơ hội ở Việt Nam và phối hợp vận động hành lang để buộc Washington cuối cùng phải đồng ý nương nhẹ lập trường của mình. Tháng hai năm 1995, Mỹ bỏ lệnh cấm vận thương mại với Việt Nam, và lời thông báo khôi phục quan hệ ngoại giao đã đến vào tháng Bảy. Cuối cùng, vào ngày 05 Tháng Tám năm 1995 (30 năm sau khi chiến tranh kết thúc), khi Tổng trưởng Ngoại Giao Warren Christopher kéo ngọn cờ sao sọc lên cao trong toà Đại sứ quán Mỹ tại Hà Nội, mối quan tâm chính của Việt Nam đã thay đổi. Không còn là quan tâm đến một liên minh chiến lược như đã từng để mở cửa nền kinh tế ra thế giới và, cụ thể, là để giành được chế độ tối huệ quốc trong thương mại.
Sự dè dặt của Việt Nam được xem như là một đồng minh với Mỹ để chống lại Trung Quốc đã trở nên rõ ràng trong tháng 3 năm 2000. Bộ trưởng Quốc phòng William Cohen trở thành vị quan chức nội các đầu tiên đến thăm Việt Nam, nhưng Hà Nội đã nỗ lực theo cách riêng của mình để thông báo rằng không hề có thương thảo gì về các mối quan hệ chiến lược. Ngay cả khi Clinton đến Việt Nam vào tháng 12 năm 2000, một chỉ thị mật của Ủy ban Trung ương đã yêu cầu các đảng viên phải hiển thị một "khuôn mặt lạnh" với Clinton. Khoảng cách giữa người dân và Đảng Cộng sản đã không thể lạnh lẽo hơn. Tôi đã chứng kiến hàng ngàn người dân Sài Gòn trẻ tuổi vượt qua các rào cản công an, nhào đến xe tổng thống hò reo "Bill, Bill". Đối với Đảng Cộng Sản, đó là sự kiện Mỹ thuần phục và công nhận Việt Nam chứ không phải là Việt Nam đang tìm kiếm mối quan hệ gần gũi hơn với Mỹ vì mục đích ở Bắc phương. Trong cuộc họp với Clinton, tổng bí thư Lê Khả Phiêu đã dạy tổng thống một bài học về lịch sử vẻ vang chống ngoại xâm của Việt Nam, và đã chẳng hề bàn thảo gì về hiện tại hay tương lai của mối quan hệ với Hoa Kỳ. Vì thế, Việt Nam đã phải đợi thêm ba năm nữa và chờ sự thay đổi ở môi trường bên ngoài.
Nhiệm kỳ tổng thống Bush lần thứ hai dường như đã di chuyển ra khỏi thái độ hơi nịnh nọt mà Mỹ từng có với Trung Quốc trong sự trỗi dậy của sự cố máy bay gián điệp EP-3. Thậm chí trước cả cuộc căng thẳng vì vụ máy bay do thám, dư luận quan trọng tại Washington đã bày tỏ quan ngại về việc phô trương sức mạnh của Trung Quốc. Zalmay Khalilzad, một trong những tác giả tập báo cáo của tập đoàn RAND, người sau đó trở thành cố vấn an ninh quốc gia, lưu ý rằng Hoa Kỳ nên thúc đẩy hiện diện quân sự tổng thể ở châu Á để đáp ứng với quyền lực gia tăng của Trung Quốc. Bản báo cáo chỉ ra rằng "có một logic cơ bản để hợp tác giữa Hoa Kỳ và Việt Nam nhằm ngăn chặn một cuộc dự tranh làm bá quyền trong khu vực của Trung Quốc. Khi Washington bắt đầu tập trung vào việc thay đổi sự cân bằng trong khu vực Đông Á, các quyền lợi của Mỹ tại Việt Nam trở nên có ý nghĩa chiến lược.
Việt Nam cũng lo lắng về áp lực tiếp tục của Trung Quốc ở Biển Đông và ở các tỉnh dọc theo biên giới. Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương tháng sáu năm 2003, đảng phỏng đoán rằng tình hình ở Đông Á đã phát triển theo hướng bất lợi và phải thực hiện những nỗ lực để phát triển mối quan hệ với Mỹ. "Thế cân bằng đã mất" như Việt Nam đã nói với các quan chức Mỹ. Quan hệ Mỹ Việt rất yếu, trong khi quan hệ với Trung Quốc đã được cải thiện rất nhiều và ảnh hưởng của Trung Quốc trong khu vực đã gia tăng. Mối nhận thức lẫn nhau mới này đã dẫn đến chuyến thăm đầu tiên của một bộ trưởng quốc phòng Việt Nam tới Washington vào tháng 11 năm 2003. Tiếp theo là chuyến ghé cảng đầu tiên của tàu của Hải quân Mỹ USS Vandergrift đến thành phố Hồ Chí Minh.
Cao điểm của mối quan hệ nồng ấm đã đến trong tháng 6 năm 2005, khi Phan Văn Khải trở thành nhà lãnh đạo Việt Nam đầu tiên được tiếp đãi tại Nhà Trắng. Trong bản tuyên bố chung, George W. Bush và Khải cho biết cả hai cùng "chia sẻ tầm nhìn về hòa bình, an ninh và thịnh vượng ở Đông Nam Á, khu vực châu Á-Thái Bình Dương, đồng ý sẽ hợp tác song phương và đa phương để thúc đẩy các mục tiêu này. Sự bao gồm các cụm từ "khu vực châu Á-Thái Bình Dương" trong thông cáo là ám chỉ công khai duy nhất về các mối quan hệ vượt quá giới hạn song phương hoặc thậm chí có tính khu vực Đông Nam Á. Khải đã ký một thỏa thuận về tình báo an ninh với Hoa Kỳ cho phép hợp tác về chống rửa tiền và tham gia chia sẻ thông tin tình báo với Washington.
Mối quan hệ Mỹ Việt đã trở nên sâu sắc hơn trong bối cảnh sức mạnh và tính quyết đoán ngày càng tăng trong khu vực Biển Đông của Trung Quốc. Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton đã đến thăm Hà Nội trong một cuộc họp các bột trưởng ASEAN trong năm 2010, ở đó bà đã bày tỏ mối quan tâm của Hoa Kỳ về hành vi của Trung Quốc ở Biển Đông, đánh dấu một cấp độ mới của sự hợp tác với Việt Nam. Năm sau, Hoa Kỳ và Việt Nam tham gia vào các cuộc thảo luận để nâng cao mối quan hệ song phương lên một quan hệ đối tác chiến lược. Mối quan hệ về quân sự đã trưởng thành. Chuyến thăm của Bộ trưởng Quốc phòng Việt Nam năm 2003 đến Washington đã quyết định rằng các chuyến thăm cao cấp tương tự sẽ diễn ra mỗi ba năm một lần. Bộ trưởng quốc phòng Việt Nam và Hoa Kỳ qua lại thăm viếng nhau bốn lần. Chuyến thăm tháng 6 năm 2012 của Leon Panetta đã thu hút chú ý nhiều hơn trong bối cảnh mối quan hệ Mỹ-Trung bị xấu đi. Panetta đã được chào mời đi thăm cảng Cam Ranh, nơi từng là căn cứ hải quân và máy bay ném bom tầm xa của Liên Xô.
Trong khi mối quan hệ đã phát triển đáng kể trong thập kỷ qua, sự tương tác của ba yếu tố tiếp tục chi phối mối quan hệ. Một nướcTrung Quốc với quân sự mạnh mẽ đặt ra một mối đe dọa lớn hơn cho chủ quyền của Việt Nam hơn bất cứ lúc nào. Tuy nhiên, Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Cộng sản Trung Quốc vẫn chia xẻ chung sự lo ngại về một mối đe dọa từ phương Tây đến hệ thống chính trị của họ, cùng lúc ấy, tất cả lại cùng muốn tìm kiếm hợp tác kinh tế của Tây phương để xây dựng quốc gia thịnh vượng và mạnh mẽ.
Năm 1978, một nhà ngoại giao Việt Nam, Lưu Doanh Huỳnh, giải thích logic đằng sau cuộc vun trồng quan hệ với Moscow của Việt Nam: "Trong lịch sử, chúng tôi chỉ đã được an toàn với Trung Quốc trong hai hoàn cảnh. Một là khi Trung Quốc yếu và nội bộ bị chia rẽ. Hai là khi họ bị đe dọa bởi những kẻ man rợ từ phía bắc. Trong thời đại hiện nay, người Nga là những kẻ man rợ của chúng tôi . Cùng một logic ấy có thể được áp dụng cho nhu cầu vun xới quan hệ với Mỹ của Việt Nam hiện nay - một người bạn mạnh mẽ để ngăn chặn Trung Quốc quá hung hăng. Như các nhà lãnh đạo Việt Nam thường xuyên nhắc nhở người nước ngoài, một quốc gia có thể chọn bạn của mình nhưng không thể chọn láng giềng. Tuy nhiên điều thú vị là, Việt Nam sẽ xa lánh bất kỳ liên minh quân sự nào với Washington vốn có thể kích động sự thù địch với người láng giềng khổng lồ của mình hoặc làm cho chính phủ Việt Nam bị tổn thương với áp lực của Mỹ về dân chủ và nhân quyền. Cải thiện quan hệ giữa hai nước là có thật nhưng do đó có những giới hạn.
Nguồn
The rapid rise of China is bringing Vietnam and America closer together, but how long will this last?
By Nayan Chanda
In the days after the last helicopter lifted off the United States embassy helipad, the Saigon sky fell silent and the victors got busy raising the red and gold standard of the National Liberation Front on the flag poles of foreign missions. The fortress-like American embassy alone did not have the NLF flag. Asked about the reason for the exception, an officer from Hanoi assured me with a smile: “The Americans will be back soon.” As he explained, “The Americans worry about Chinese expansionism and they know, historically, Vietnam has been the biggest barrier against Beijing’s southward drive.”
Earlier this year US Secretary of Defense Leon Panetta was granted a tantalising tour of the famed Cam Ranh Bay that figured prominently in America’s strategic imagination. This is not to suggest that the US and Vietnam are anywhere near the strategic cooperation that my Vietnamese interlocutor dreamed of in 1975, but the zigzag journey of reconciliation and rapprochement between the two adversaries remains a gripping tale. The story also offers valuable lessons in the interplay of three factors—geopolitics, nationalism, and ideology—that shaped the kaleidoscopic transformations. Vietnam’s two thousand year history of love-hate relations with its giant neighbour China, its national ambition, and the ruling Communist Party’s concern about regime maintenance might explain the tortured path towards normalisation.
At the end of the war in 1975 the Vietnamese party was flush with its historic victory, eager to rebuild the ravaged nation but worried about the signs of overt hostility from China. Its optimism about speedy restoration of ties with Washington, because of broad geopolitical considerations, may have been logical thinking but it was based on a total misunderstanding of the American policy dynamic. Despite President Jimmy Carter’s desire to restore ties with all erstwhile enemies in Asia, including China, normalisation of relations with Vietnam proved impossible. Carter did not share Vietnam’s long-range perspective and Vietnam, on its part, underestimated America’s deep psychological war wounds. While it wanted relations with Washington to balance Chinese power, Vietnam was too proud a victor to forego the spoils of war—reconstruction aid promised by the US in the Paris peace accord of 1973. After the normalisation talks collapsed in 1978, the geopolitical context underwent a dramatic shift unfavourable to Vietnam that lasted nearly two decades.
Four years after the end of the long war, Vietnam was again in a state of war on its northern and western fronts. Chinese-backed Khmer Rouge attacks on its western border in 1977–78 led to Vietnamese invasion and occupation of Cambodia. China retaliated with a punitive invasion of northern Vietnam in 1979. This began a decade-long period in which Vietnam faced economic crisis at home and isolation abroad. The pressure of the de facto alliance between the US and China and their support of the Khmer Rouge–led coalition was compounded by the loss of support from a Soviet Union undergoing perestroika. The talks on normalisation of relations with the US were bogged down by unending American demands for accounting of their POWs and missing in action (MIA) during the war. The conservatives in the administration and the military, who never forgave Vietnam for America’s national humiliation, sought to restore the country’s honour by bringing home the remains of fallen soldiers and maintaining a crippling trade embargo imposed since 1975. To emerge out of its economic troubles and diplomatic isolation, Vietnam launched itsdoi moi (renovation) reforms and began the withdrawal of its troops from Cambodia, which was completed in 1989.
By the time Vietnam came close to withdrawing its troops, as demanded by the US and ASEAN, and engaged in talks with them over Cambodia’s political future, the geopolitical context changed again. The Sino–Soviet rapprochement and the international isolation of Beijing following the Tiananmen massacre not only altered the external environment but also raised concerns about the regime’s security. The large protests in China, which ended in the violent suppression in Tiananmen Square, and the domino-like fall of socialist regimes in Eastern Europe that came shortly afterwards rang alarm bells in Beijing—and in Hanoi. While Vietnam sorely needed aid and trade with the West, it was wary of “peaceful evolution” and subversion of the socialist system in the name of assistance. The George H. W. Bush administration’s so-called road map for normalisation was viewed with deep suspicion. Vietnam’s top diplomat Nguyen Co Thach’s failure to obtain normalisation, despite many concessions on MIA and the withdrawal from Cambodia, led Hanoi to alter its anti-Chinese trajectory. A secret summit meeting between Chinese and Vietnamese party leaders was held in Chengdu on 4 and 5 September 1990. The ground was laid for a gradual de-escalation of China’s conflict with Vietnam and an agreement to form a coalition government in Phnom Penh under UN auspices.
With normalisation of relations with China on course, Vietnam’s main objective in seeking ties with Washington was economic cooperation. But Vietnam was still very much on guard against threats to the socialist regime. Ironically, the Democratic administration under Bill Clinton proved tougher on Vietnam than the previous Republican administration. Pressed by right-wing politicians, the Clinton administration stepped up pressure over MIA and human rights violations. Business though saw opportunities in Vietnam and its concerted lobbying forced Washington to eventually agree to soften its stance. In February 1995, America lifted its trade embargo against Vietnam, and in July came the announcement that diplomatic ties would be restored. When, finally, on 5 August 1995 (a full 30 years after the end of the war), secretary of state Warren Christopher unfurled the Stars and Stripes in the US embassy in Hanoi, Vietnam’s main concern had shifted. It was no longer as interested in a strategic alliance as it was in ways to open the economy to the world and, specifically, win favoured nation trade status.
Vietnam’s reticence in being seen as a US ally against China was evident in March 2000. Defense secretary William Cohen became the first cabinet official to visit Vietnam, but Hanoi went out of its way to announce that there was no talk of strategic ties. Even when Clinton came to Vietnam in December 2000, a secret Central Committee directive told party members to show a “cold face” to Clinton. The gap between the Communist Party and the people could not have been starker. I watched thousands of young Saigonese break through police cordons to rush towards the presidential limo shouting “Bill, Bill!” For the Party it was America coming to Canossa and recognising Vietnam rather than Vietnam seeking closer ties with America with an eye to the north. In his meeting with Clinton, secretary general Le Kha Phieu gave the president a lesson in Vietnam’s glorious history of resistance to aggressors, but did not discuss the present or the future of relations with the US. For that, Vietnam had to wait another three years and a change in the external environment.
The second Bush administration seemed to move away from the somewhat smarmy attitude the US had toward China in the wake of the EP-3 spy plane incident. Even before the tension over the spy plane, important voices in Washington expressed concern about China’s muscle flexing. One of the authors of the RAND corporation report, Zalmay Khalilzad, who would become a national security adviser, noted that the United States should bolster its overall military presence in Asia in response to rising Chinese power. It pointed out that “there is an underlying logic to cooperation between the United States and Vietnam to prevent a Chinese bid for regional hegemony.” As Washington began focusing on changing the balance in East Asia, its interest in Vietnam took on strategic significance.
Vietnam, too, was worried about China’s continuing push in the South China Sea and in the states along Vietnam’s periphery. In the June 2003 Central Committee plenum, the party surmised that the situation in East Asia was developing in an unfavourable way and efforts had to be made to develop ties with the US. As the Vietnamese told American officials, “The triangle is out of balance.” US relations with Vietnam were weak, while its ties with China had improved a great deal and China’s influence in the region had grown. This new mutual awareness led to the first-ever visit by a Vietnamese defence minister to Washington in November 2003. It was followed by the first port call by Navy ship the USS Vandergrift to Ho Chi Minh City.
The high point in the warming ties came in June 2005, when Phan Van Khai became the first Vietnamese leader to be entertained at the White House. In their joint statement George W. Bush and Khai said they “shared a vision of peace, prosperity, and security in Southeast Asia and the Asia-Pacific region, and they agreed to cooperate bilaterally and multilaterally to promote these goals.” The inclusion of the phrase “Asia-Pacific region” in the communiqué was the only public hint that the relations went beyond bilateral or even regional—Southeast Asian concerns. Khai signed an intelligence agreement with the United States allowing cooperation on staunching money laundering and engaging in intelligence sharing with Washington.
Against the backdrop of growing Chinese power and assertiveness in the South China Sea US–Vietnam relations have deepened. US Secretary of State Hillary Clinton’s visit in Hanoi during an ASEAN ministerial meeting in 2010, where she expressed US concern about Chinese behaviour in the South China Sea, marked a new level of cooperation with Vietnam. The following year, US and Vietnam entered into discussions to raise their bilateral relationship to a strategic partnership. Military ties too have grown. During the Vietnamese defence minister’s 2003 visit to Washington, it was decided that similar level exchange visits would take place every three years. Vietnamese and US defence chiefs have since exchanged four visits. Leon Panetta’s June 2012 visit drew more than the usual attention against the backdrop of deteriorating US–China relations. Panetta was given a tour of Cam Ranh Bay, where Soviet naval assets and long-range bombers were once based.
While the relationship has grown dramatically in the past decade, the interplay of three factors continues to modulate the relations. A militarily strong China poses a greater threat to Vietnam’s sovereignty than at any time in the recent past. But the Vietnamese Communist Party shares the Chinese Communist Party’s concerns about a Western threat to their system, all the while seeking Western economic cooperation to build a prosperous and powerful country.
In 1978 a Vietnamese diplomat, Luu Doanh Huynh, explained the logic behind Vietnam’s cultivation of Moscow: “In all of history we have been secure from China in only two conditions. One is when China is weak and internally divided. The other is when she has been threatened by barbarians from the north. In the present era, the Russians are our barbarians.” The same logic can be applied to Vietnam’s need to cultivate the US today—a powerful friend to deter China from being too aggressive. As Vietnamese leaders frequently remind foreigners, a country can choose its friends but not its neighbours. However enticing it might be, Vietnam would shun any military alliance with Washington that could provoke its giant neighbour’s hostility or make the Vietnamese government vulnerable to American pressure on democracy and human rights. Rapprochement between the two countries is real but so are the limits.
-Bị Trung Quốc lợi dụng , Iran tìm cách nối lại đối thoại với Mỹ
Mỹ ở châu Á: Words and Deeds Show Focus of the American Military on Asia (NYT 10-11-12)
Mỹ-Trung Quốc:Beijing and Washington navigate in risky waters (FT 12-11-12)
Lãnh đạo Trung Quốc: The Powerful Factions Among China's Rulers (Brookings 5-11-12) -- Bài mới, ngắn, của Cheng Li
Quân đội Trung Quốc: China's Other Transition: What we still don't know about the Chinese military. (FP 12-11-12)
Hồ sơ Hạt nhân: Going Nuclear in Southeast Asia (Energy Tribune 9-11-12)
DNNN ở Trung Quốc sẽ là một thử thách cho Tập Cận Bình: China’s Grip on Economy Will Test New Leaders (NYT 9-11-12)
ĐCSTQ chống những đòi hỏi dân chủ: Amid Calls to Open China’s Politics, Party Digs In (NYT 10-11-12)
Điểm cuốn sách của John Garnaut về Bạc Hi Lai: The Rise and Fall of the House of Bo: How a Murder Exposed the Cracks in China’s Leadership (London Sunday Times 11-11-12) -- Bài Michael Sheridan (rất tiếc chỉ subscribers mới xem được)
Tại sao đảng Cộng Hoà "mất" dân Mỹ gốc Á? The GOP’s Asian-American Fiasco (American Conservative 9-11-12)
ĐH 18 ĐCSTQ: China’s players rehearse in the dark (FP 10-11-12) -- David Pilling
Về bọn "thái tử đảng" bên Tàu: The Children Devour the Revolution (FP 10-11-12) -- Bài rất hay của John Garnaut, đặc biệt chú ý đến tướng Lưu Nguyên (con của Lưu Thiếu Kỳ, xem bài của Cheng Li sắp đăng trên Thời Đại Mới). Garnaut vừa ra (hôm qua!) cuốn eBook về vụ Bạc Hi Lai: The Rise and Fall of the House of Bo: How A Murder Exposed The Cracks In China's Leadership, vô cùng hấp dẫn! (Bây giờ tôi mới biết: Garnaut biết nhiều về Trung Quốc vì cha của anh ta đã từng làm đại sứ Úc ở bên đó!)
Về Lý Khắc Cường: Li Keqiang, China’s next premier, carries reformers’ hopes (WP 10-11-12)
Về Tập Cận Bình: China's New Boss (WSJ 9-11-12) Bài này của Kenneth Lieberthal: Xi Jinping's Challenge (FP 7-11-12)
Change in Beijing, Change in Tibet?
theDiplomat.com
Silicon Valley mong đợi gì ở Obama? Silicon Valley’s second-term wish list (WP 10-11-12) -- Mong muốn số 1: Được đem chuyên viên các nước khác vào Mỹ dễ dàng hơn! WHOA!
Kinh tế Mỹ và "fiscal cliff": TT Obama đứng trước bế tắc chính trị 'fiscal cliff' (VOA 11-11-12) -- P/v ... THD!
Obama's Global Challenges
RealClearWorld
- NGƯỜI VIỆT KHÓ XÓA ĐI THÙ HẬN? (Huỳnh Ngọc Chênh). - Vì sao Obama vội vã công du Myanmar ngay sau tái đắc cử? (DT).
- Hồ Cẩm Đào sớm thôi chức Quân ủy TW? (BBC). – Kissinger: Trung Quốc có tham vọng lớn (BBC). – Trung Quốc quyết tâm hiện đại hóa quân đội (VNE).
-Ý kiến của một học giả ngành luật: Cải cách thể chế chính trị ởTrung Quốc vẫn sẽ là chủ đề chính trong thập kỷ tới Bauxite Việt Nam
Keiko Yoshioka – Phóng viên tờ Ashi ShimbunPhạm Gia Minh dịch
Giáo sư luật He Weifang – Hạ Vệ Phương贺卫方 – Đại học Bắc Kinh
Chính quyền của Hồ Cẩm Đào đã chứng kiến nền kinh tế TQ tăng trưởng gần gấp 4 lần, thế nhưng nó để lại cho người thừa kế của mình là Tập Cận Bình nhiều mâu thuẫn xã hội, chẳng hạn như tham nhũng và phân hóa giàu nghèo .
Đại hội ĐCS TQ khai mạc hôm 8/11 đánh dấu sự chuyển giao quyền lực từ Chủ tịch họ Hồ sang họ Tập.
He Weifang (Hạ Vệ Phương), một Giáo sư ngành Luật ở Đại học Bắc Kinh, người đã từ lâu ủng hộ quan điểm về nhà nước pháp quyền chấp nhận nhiều tự do ngôn luận hơn đã đề cập đến những thách thức mà chính quyền của Tập Cận Bình sẽ phải đối mặt trong cuộc phỏng vấn dành cho tờ Asahi Shimbun.
Hỏi: Năm 2006 có một cuộc gặp mang tính riêng tư giữa các trí thức ở Bắc Kinh để biên soạn những đề nghị liên quan tới cải cách chính trị sau đó đã được trình lên chính quyền Hồ Cẩm Đào. Tại cuộc gặp đó, ông đã phát biểu rằng các mục tiêu trong tương lai phải là “hệ thống đa đảng, tự do báo chí, dân chủ thực sự và thực thi các quyền tự do cá nhân theo đúng nghĩa của nó”. Ông có thể cho biết thêm chi tiết?
Trả lời: đó là thời điểm mà chính quyền hiện nay bắt đầu bước vào nửa sau nhiệm kỳ của mình. Chúng tôi đã tổ chức cuộc gặp đó với kỳ vọng rằng chính quyền sẽ có thể làm gì đó vì nó cũng đã củng cố được vị thế của mình. Tuy nhiên chẳng hề có một tiến bộ nào. Có hai lý do cho việc này.
Thứ nhất, khi nổ ra cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008 các quyết định (của ĐCS và nhà nước TQ – ND) tức thời được đưa ra nhằm vào những biện pháp kích thích nền kinh tế. Trong ngắn hạn chúng đã đạt được kết quả.
Đó là một ví dụ về sức mạnh của chế độ độc đảng cầm quyền nếu so sánh với các dân tộc tiên tiến nơi mà không có quyết định nào lại có thể được thông qua khi không có các cuộc thảo luận dân chủ.
Bởi lẽ Phương Tây bị ảnh hưởng nặng nề do khủng hoảng tài chính nên TQ đã vượt Nhật Bản về kinh tế. Tận dụng sức mạnh kinh tế tương đối vượt trội hơn trước, TQ đã trở nên hăng hái hơn trên mặt trận ngoại giao. TQ làm chủ nhà Olympic Bắc Kinh và Triển lãm Thương mạiThế giới ở Thượng Hải.
Những diễn biến đó đã tạo lý do để không vội vàng đẩy mạnh cải cách chính trị vốn khó khăn, phức tạp. Kết cục là đã diễn ra một vài bước thụt lùi trong những cải cách trước đây.
Chẳng hạn như các doanh nghiệp nhà nước là những cơ sở nhận trách nhiệm thực hiện những biện pháp kích thích kinh tế khổng lồ đã trở nên mạnh hơn trước.
Một trong những nguyên nhân để xảy ra tình trạng số các vụ hối lộ có liên quan tới các nhà chính trị và quan chức của chính quyền đạt con số hàng tỷ Đôla (tương đương hàng trăm tỷ Yên) chính là sự gia tăng phạm vi can thiệp của nhà nước vào nền kinh tế.
Xu hướng đó đã dẫn đến một khái niệm mang đầy tính mỉa mai mô tả nền kinh tế Trung Quốc không hề là một nền “kinh tế thị trường” mà là “ nền kinh tế thị trưởng ” (tương tự như chức vụ Chủ tịch UBND cấp thành phố ở Việt Nam- ND), nơi mà các quan chức có quyền lực mạnh.
Hỏi:Thế nguyên nhân khác nữa là gì?
Trả lời: Có thể đó còn là sự thay đổi trong mối quan hệ giữa các vị lãnh đạo.
Khi mà Mao Trạch Đông cai trị mối quan hệ đó mang phong cách của một ông nội độc đoán với những đứa cháu của mình. Nếu như Mao nói “làm điều này đi” thì mọi thứ đều trở nên có thể bất kể là tốt hay xấu. Ông ta có quyền lực bao trùm lên những nhà chính trị khác.
Khi Đặng Tiểu Bình nắm quyền, mối quan hệ đó đã trở nên kiểu giữa cha và các con trai. Trong khi vẫn tôn trọng một vài nhân vật lớn tuổi hơn thì sự giám sát vẫn được thực thi trên hầu hết các lĩnh vực ngay cả lúc không đạt được sự đồng thuận ý kiến.
Tuy nhiên, điều đó rõ ràng đã thay đổi dưới thời của Hồ Cẩm Đào. Các lãnh đạo cao nhất ví dụ như họ Hồ cũng chỉ là con trai cả còn những người khác là các em trai của anh ta.
Mỗi một vị lãnh đạo lại chịu trách nhiệm về một lĩnh vực riêng, đó có thể là Đại hội Đại biểu nhân dân toàn quốc hay an ninh công cộng, kinh tế…và họ có những quyền lực mạnh trong các lĩnh vực riêng đó.
Hơn thế nữa, thay vì thảo luận một cách chân thành, thẳng thắn giữa các người anh em trai với nhau thì hình như hệ thống lại vận hành theo lối tránh can thiệp vào công việc của nhau.
Trong khi sự trao đổi có thể giúp ngăn chặn những sai lầm nghiêm trọng , chẳng hạn như Cách mạng Văn hóa mà Mao đã khởi xướng thì nó còn dẫn đến việc tránh được những quyết định sai có ảnh hưởng tới nhiều lĩnh vực cuộc sống.
Điều này có nghĩa là chẳng thể thực hiện được cải cách chính trị nếu như không đi tới tận cốt lõi của cơ cấu hệ thống hiện nay và điều đó có thể sẽ gặp phải sự kháng cự kịch liệt.
Hỏi:Và điều đó đã được thể hiện trong việc lựa chọn người kế nhiệm của họ Hồ?
Trả lời: Nếu như là Mao đã quyết thì mọi thứ coi như đã an bài. Đặng cũng còn có thể chọn Giang Trạch Dân và Hồ Cẩm Đào, còn bây giờ thì khó xác định ai là người ra quyết định. Bởi lẽ không có một cá nhân vượt trội hẳn lên để ra quyết định nên một vài cá nhân khác có thể cảm thấy rằng “ta đây tốt hơn” và sẽ sinh ra chuyện đấu đá chính trị nếu như họ không thỏa mãn với việc lựa chọn được đưa ra.
Hỏi:Phải chăng là điều này đã xảy ra với Bạc Hy Lai, nguyên Bí thư ĐCS Trùng Khánh trước khi bị khai trừ khỏi đảng vì tội nhận những khoản hối lộ khổng lồ và lạm dụng quyền lực?
Trả lời:Mặc dùphẩm chất cá nhân họ Bạc cũng có vai trò ở đây thế nhưng có thể còn do không còn cách nào khác để tham gia vào cuộc chơi chính trị mà lại không phải phô diễn ra rằng bản thân mình là người phù hợp nhất để trở thành một nhà lãnh đạo bằng chiêu thức sử dụng mọi phương tiện có thể để tạo ra sự nổi tiếng trong quần chúng nhân dân và người ngoại quốc.
Nếu như cứ tiếp tục thiếu một nhân vật có quyền uy bao trùm để chọn lựa tầng lớp lãnh đạo trong bí mật thì những cuộc đấu đá quyền lực có thể gây nên một tương lai chính trị hỗn loạn.
Để ổn định nền chính trị, cần phải có nhiều cấp độ đảng viên hơn nữa được tham gia vào quá trình lựa chọn tầng lớp lãnh đạo cao cấp và việc này nhất thiết phải được tiến hành minh bạch hơn.
Hỏi: Hồi tháng 4 năm 2011 ông có công bố bức thư tựa đề “Vì một nền pháp trị và cũng là lý tưởng của tôi” ông đã vạch rõ rằng khi họ Bạc còn giữ trọng trách ở Trùng Khánh chiến dịch làm sạch thành phố khỏi tội phạm có tổ chức đã được tiến hành dẫn đến việc gia tăng các vụ bắt bớ và xét xử coi thường tính pháp quyền.
Ông cũng nghiêm khắc phê phán rằng đó là một sự tái sinh của Cách mạng Văn hóa. Tôi hiểu rằng trong thời kỳ Cách mạng Văn hóa cha đẻ của ông đã từng là mục tiêu đấu tố khiến cụ đã phải tự vẫn.
Trả lời:Chẳng phải riêng mình tôi đã sống qua những biến cố của thời đó.
Sau đấy cuối cùng thì tôi cũng qua được kỳ thi tuyển vào học ngành Khoa học chính trị và Luật của trường Đại học Tây Nam ở Trùng khánh. Các giáo sư và sinh viên, tất cả đều cảm thấy một cách mạnh mẽ rằng nhất định các nhà lãnh đạo không bao giờ lại được phép để trở thành những tên bạo chúa nữa.
Khi mà các bạn tôi và tôi lấy làm sung sướng trước những gì diễn ra sau đó (họ Bạc bị khai trừ khỏi đảng) thì cũng còn một vài việc đáng tiếc xảy ra.
Việc xét xử chẳng là gì khác ngoài trò diễn chính trị và hoàn toàn xa rời nguyên tắc độc lập tư pháp.Không rõ ràng ai phạm tội gì và có ít sự chắc chắn trong cách trình bày chứng cứ và nhân chứng.
Lời tuyên án đã được đưa ra sau một thời gian ngắn cho dù đây là một vụ lớn và nghiêm trọng. Cũng không rõ các ủy viên công tố và luật sư bào chữa phát biểu gì nữa.
Điều đó đã chỉ cho thế giới thấy rằng bộ máy tư pháp ở TQ tồn tại chỉ là để phục vụ chính trị.
Hỏi:Năm nay sẽ có bầu Tổng thống Hoa Kỳ và lựa chọn các lãnh đạo cấp cao TQ, đó là những sự kiện xảy ra đồng thời 20 năm mới có một lần. Người nước ngoài rất quan tâm tới liệu lãnh đạo sắp tới của Hoa Kỳ nghĩ gì, thế nhưng không rõ thế hệ lãnh đạo sắp tới của TQ nghĩ gì?
Trả lời:Có một sự biểu hiện ra bên ngoài của ĐCS cho thấy không có thay đổi gì cả.
Theo truyền thống thì bất cứ một sự khác biệt ý kiến nào sẽ chỉ được công khai ra sau khi đối thủ chính trị đã bị thua. Quá trình tranh luận, kể cả về ngoại giao không bao giờ được công khai hóa.
Trong một hệ thống như vậy khó có thể làm cho người ngoại quốc quan tâm tới việc tìm hiểu người TQ nghĩ gì.
Chỉ khi nào TQ bắt đầu coi trọng việc đánh giá, nhìn nhận trong con mắt của cộng đồng quốc tế, hay còn gọi là quyền lực mềm thì lúc đó mới có nhu cầu đểhiểu rằng hình ảnh của quốc gia trên trường quốc tế có liên quan mật thiết tới cái cách hành xử trong chính sách đối nội.
Hỏi:Sự đối đầu về vấn đề đảo Senkaku đã làm gián đoạn việc trao đổi không chỉgiữa hai chính phủ mà còn hệ lụy đến kinh doanh, văn hóa và thể thao. Các tiểu thuyết dịch của nhà văn Haruki Murakami đã bị đưa ra khỏi quầy ở hiệu sách. Vậy ông có suy nghĩ gì?
Trả lời:Chính phủ TQ sợ tiếng nói công luận cho nên họ lo rằng sẽ bị chỉ trích nếu tiếp tục trao đổi với Nhật Bản.
Vì lẽ các nhà lãnh đạo không có tính chính danh do không được bầu lên bởi nhân dân cho nên họ sợ đối đầu.
Sau các cuộc biểu tình chống Nhật, chính phủ chỉ kêu gọi một sự đáp trả hợp lý khi mà họ nhận thấy có nhiều ý kiến trên mạng Internet phê phán các hành động đốt phá xe ô tô Nhật.
Hỏi:Ông cũng ký tên vào một tài liệu lưu truyền trên Internet do một phụ nữ viết đòi tự do ngôn luận và nhân quyền. Tài liệu đó kêu gọi một sự quay trở lại với lý trí và lẽ phải trong quan hệ Trung – Nhật. Tại sao ông lại phê phán việc đưa sự đối đầu về chính trị sang các lĩnh vực khác như văn hóa và kinh doanh như là một thái độ không khôn ngoan?
Trả lời: Tôi cảm thấy rằng nếu những ý kiến rất khác nhau ở TQ được chuyển tải sang Nhật thì chúng sẽ làm giảm bớt căng thẳng.
Cuộc cải cách của Đặng Tiểu Bình chú trọng vào tăng trưởng kinh tế và hạn chế những tranh luận đã đạt tới điểm giới hạn của nó. Trong khi một cách công khai điều đó đã dẫn tới việc lảng tránh thảo luận về nhân quyền, dân chủ và tự do ngôn luận, báo chí thì hiện nay tranh luận trên mạng Internet đã được khởi động lại.
Hỏi:Có những cuộc biểu tình lớn do người dân bất bình trước những vấn nạn về môi trường và điều kiện lao động, một số cuộc biến thành bạo động và gần đây, quần chúng đã chống lại việc mở rộng nhà máy hóa chất ở Ningbo, tỉnh Zhejiang trong suốt cả một tuần lễ. Sự kiện này lại xảy ra ngay cả khi chính quyền dường như đã cảnh báo mạnh mẽ chống lại các cuộc phản đối trước Đại hội ĐCS TQ.
Trả lời:Đó cũng chính là nguyên nhân vì sao sự phản kháng lại xảy ra lúc này. Với việc chính quyền cảnh báo và sử dụng áp lực lên quần chúng để không xảy ra lộn xộn phức tạp thì quần chúng lại cho rằng cái lý lẽ của họ sẽ được nghe khi chính quyền phải ra tay làm dịu tình hình nếu họ gây nên sự náo loạn (theo lối nghĩ con có khóc thì mẹ mới cho bú – ND) .
Càng ngày càng có nhiều người cho rằng con đường duy nhất để phản đối lại một chính phủ không biết điều là sử dụng các biện pháp không biết điều.
Chính quyền đã nỗ lực kiềm chế những động thái xã hội này bằng cách tăng cường công tác an ninh, tăng ngân sách và lực lượng nhân sự (kế hoạch chi phí cho an ninh nội địa TQ năm 2012 đạt con số 701.8 tỷ NDT trong khi đó chi phí quốc phòng chỉ có 670.3 tỷ – ND. Nguồn:http://viet-studies.info/kinhte/201226_lythanh.pdf hoặc Shijie Ribao .3/5/2012.A4).
Tuy nhiên, tôi cảm nhận thấy rằng không chỉ quần chúng nhân dân mà cả những người trong chính quyền đã bắt đầu cảm thấy lo sợ những lực lượng xã hội sắp trở nên rất hùng mạnh.
Hỏi: Ông nói thế nghĩa là thế nào?
Trả lời:Nếu như các lực lượng an ninh công cộng, cảnh sát và quân đội càng ngày càng trở nên đông đảo thì sức mạnh của nhân dân thường trực trong các lực lượng đó cũng trở nên mạnh hơn rất nhiều.
Có những thứ được lập ra để quản lý xã hội nhưng đang trở nên có khả năng chống đối lại trật tự hiện hành vào một ngày nào đó, thậm chí chúng hướng vào cấp lãnh đạo cao nhất (điển hình là các lực lượng vũ trang Liên Xô thời Goocbachov-Elsin và sau này của Kadaphi và Mubarak khi chính quyền tỏ ra rệu rã đã quay súng và đứng về phía quần chúng – ND).
Con đường duy nhất tránh được nỗi sợ đó là nỗ lực một cách nghiêm túc để thiết lập nên một hệ thống có thể phản ánh tiếng nói của quần chúng đối với lĩnh vực chính trị trong khi vẫn cho phép tồn tại các lực lượng đối lập lành mạnh.
Hỏi:Với mối quan hệ của Tập Cận Bình với các lãnh đạo cấp cao khác theo kiểu quan hệ giữa các anh em thì liệu ông ta có khả năng thúc đẩy cải cách không?
Trả lời: Tôi không dám chắc, bởi lẽ ở TQ những người đã leo lên vị trí cao nhất không bao giờ bày tỏ sớm quá ý nghĩ thực sự của mình.
Tuy nhiên, nếu có một sự khác biệt nào đó của Tập Cận Bình khi so sánh với các vị lãnh đạo khác tính cho đến ngày hôm nay thì họ Tập là vị Tổng bí thư đầu tiên có người cha cũng từng giữ vị trí cao trong ĐCS TQ. Cha của Tập Cận Bình từng nổi tiếng như một nhân vật khai sáng.
Các nguồn lực (hiểu theo nghĩa những mối quan hệ cá nhân) mà người cha của họ Tập để lại có thể sẽ đóng vai trò như một tài sản chính trị.
Một quốc gia được điều hành bởi một đảng mà tính chính danh của đảng đó chỉ dựa trên sự phát triển kinh tế không thôi thì là một quốc gia bấp bênh.
Hơn nữa, sự phát triển kinh tế đó đã đạt tới giai đoạn mà không thể tách rời với cải cách thể chế chính trị là thứ rất cần thiết để đem lại sự phân phối của cải công bằng.
Tôi tin rằng cải cách chính trị sẽ vẫn là chủ đề chính trong 10 năm tới.
Thăng long – Hà nội 12/11/2012
K.Y.
Nguồn: Asahi Shimbun7/11/2012
Dịch giả gửi trực tiếp cho BVN
Bị Trung Quốc lợi dụng , Iran tìm cách nối lại đối thoại với Mỹ- Tham vọng cường quốc (hết) (Spiegel/ Phan Ba). - Trung Quốc hối hả cho tham vọng siêu cường (TVN).
- Trung Quốc tăng tốc xây dựng ở Tam Sa (VOA). – Trung Quốc “không giới hạn” hoạt động hải giám tại đảo tranh chấp (DT).
- Trung Quốc quyết quấy rối Nhật bằng tàu hải giám (TTXVN). - Nhật lo Trung Quốc chơi con bài “tiêu hao sinh lực” (TTXVN). - Tàu sân bay Liêu Ninh thử nghiệm trên biển lần hai (TTXVN).
- Có xác nhận Đài Loan thử tên lửa hạm đối hạm mới (TTXVN). – Đài Loan thử nghiệm tên lửa “diệt” tàu sân bay(RFI). – Đài Loan thử nghiệm “sát thủ diệt tàu sân bay” (NLĐ).
- Việt Nam trong nhiệm kỳ mới của Obama (TVN). – Tổng thống Mỹ đến Cam Bốt dự hội nghị thượng đỉnh Đông Á(RFI). – Hội nghị Bộ Trưởng Úc-Mỹ đánh dấu giai đoạn mới của Washington (VOA). - Cuộc chiến giành giật châu Á giữa Mỹ và Trung Quốc (Kỳ 1) (Petrotimes). - Tàu tấn công đổ bộ mới nhất của Mỹ có sức mạnh ngang tàu sân bay (GDVN).
- Hải quân Philippines cứu 11 ngư dân Việt (BBC).
- Ngừng dự án thủy điện vì dân (PLTP).
America’s Pivot: “Stoking The Fires of Nationalism?” theDiplomat.com
Kissinger: Trung Quốc có tham vọng lớn
Hồ Cẩm Đào sớm thôi chức Quân ủy TW?
-Changing of the Guard: Hu Jintao’s Military Role in China Uncertain as Congress Winds Down
NYT
The question of whether China’s departing president, Hu Jintao, will stay on as the top overseer of military affairs, or retire completely, remains unresolved.
- Nga hiện đại hóa 18 tiêm kích Su-30K cho đối tác Đông Nam Á (Infonet).
- Campuchia công khai nguồn gốc 140 xe thiết giáp mới nhập (ĐV).
Dịch vụ của Google bị gián đoạn ở Trung Quốc
TTO - Google vừa cho biết một số dịch vụ trực tuyến của họ đã bị chặn tại Trung Quốc, trong đó có công cụ tìm kiếm Google và dịch vụ thư điện tử Gmail.
-Bắt giam thẩm phán bị nghi vòi vĩnh
Tuổi Trẻ
Bắt giam thẩm phán bị nghi vòi vĩnh. TT - Sáng 12-11, Cục điều tra Viện Kiểm sát nhân dân tối cao đã thực hiện lệnh khởi tố, bắt giam ông Nguyễn Minh Toàn, thẩm phán Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Cửu (Đồng Nai), để điều tra về tội “lạm dụng chức vụ, ...
Bắt tạm giam thẩm phán chiếm đoạt tài sảnTiền Phong Online
Bắt giam thẩm phán đòi tiền xử ánThanh Niên
Bắt tạm giam một thẩm phán ở Đồng Nai nhận hối lộĐài Tiếng Nói Việt Nam