Thứ Hai, 19 tháng 5, 2014

CHÍNH ĐỀ VIỆT NAM

-- - 
Trang bià ấn bản 1965 CHÍNH ÐỀ VN – Ngô Ðình Nhu
(Mời bạn nhấn vào chủ đề trên để tải xuống đọc với dạng PDF).
Chính đề Việt Nam(scribe format) đọc thêm giaocam
1- CHÍNH ĐỀ VIỆT NAM : Một viên ngọc quý trong kho tàng tư tưởng, một đóng góp lớn về soi sáng vấn đề phát triển (Gs Tôn Thất Thiện)
Từ lúc tôi bắt đầu suy tư về tình trạng Việt Nam, vào những năm cuối giai đoạn Trung Học, 1942-1944, rồi qua những năm học hỏi, sưu tầm, giảng dạy ở Đai Học, từ năm 1947 cho đến nay, 2009, đã 85 tuổi, hưu trí được liệt vào hạng bố lão, tôi không ngớt suy tư, sưu tầm, nghiên cứu, tìm hiểu về vấn đề canh tân, cải tiến Việt Nam để đưa dân tộc ra khỏi tình trạng chậm tiến, khổ cực được dàn ra hàng ngày trước mặt mọi người.

Danh từ “canh tân’’ rất thông dụng trong thời Nho Học còn thịnh, nay được thay thế bằng những danh từ mới như: “phát triển’’, “hiện đại hóa’’….Sự thay đổi danh từ không làm thay đổi vấn đề căn bản của rất nhiều nước Á, Phi, Nam Mỹ Châu, trong đó có Việt Nam, là những nước ở tình trạng chậm tiến.
“Chậm tiến’’ là dẫm chân, thua xa về đời sống yên ổn, sung túc so với dân các nước Tây Phương, và so với tình trạng khoa học kỹ thuật của nhân loại trong giai đoạn hiện đại. Cho nên “canh tân’’ cũng có nghĩa là “Tây phương hóa’’ và “hiện đại hóa’’.
Tôi đã được học hỏi ở những Đại Học có tiếng là đứng hàng đầu thế giới về các môn Chính Trị, Kinh Tế, Xã Hội Học, tôi đã đọc rất nhiều sách, báo, về vấn đề phát triển, tôi đã dành rất nhiều thì giờ quan sát, suy tư về vấn đề, và cũng đạt được một số nhận xét có thể coi là chính xác, nhưng tôi không mãn nguyện, trí tôi vẫn không yên, vì tôi chưa thấy thật rõ ràng và toàn bộ giải pháp dẫn đến sự phát triển mà tôi mong muốn. Điều này cũng có nghĩa là tôi chưa tìm ra được một cách tiếp cận hiệu nghiệm để thấy con đường đó. Mãi đến năm 2004 tôi mới được cái may mắn này.
Năm 2004 là năm tôi được nghe nói đến, rồi được đọc, tác phẩm Chính Đề Việt Nam.
Trong trường hợp nào tôi đã được cái may mắn đó, tôi đã kể lại trong Đặc San về Lễ Tưởng Niệm Tổng Thống Ngô Đình Diêm năm 2004. Trong bài này tôi sẽ nhắm vào những điểm sau đây:
1.- Nói lên phản ứng của tôi sau khi đọc hết tác phẩm này, trong tư thế là một học giả đã để nhiều thì giờ, nhiều công và tâm trí vào việc tìm hiểu vấn đề.
2.- Bàn về một số khía cạnh nhưng không phân tách, nhận xét về toàn bộ của tác phẩm, môt điều vượt khung cảnh của bài, thay vào đó, phần Phụ Bản đăng nguyên văn chương đầu “Bối cảnh của vấn đề’’ và chương cuối “Kết luận: Trụ mà không trụ’’ để giúp các độc giả không có đủ thì giờ, hoặc không quen với lối hành văn lập luận trừu tượng, hoặc không có được tác phẩm trong tay, để đọc toàn bộ tác phẩm, ít nhứt có một ý niệm khá rõ ràng về những khía cạnh của vấn đề được các tác giả bàn đến, và tóm tắt, họ chủ trương gì ?
II 
Đọc xong Chính Đề Việt Nam, tôi thấy ngay tầm quan trọng của tác phẩm và tôi đã đề xướng tái bản nó. Nhưng, lúc đó, vấn đề gặp một số trở ngại về danh tánh của tác giả. Trong phần “Phụ Giải về tái bản Chính Đề Việt Nam’’ trong Đặc San năm 2007, tôi có nói rằng ai là tác giả của tác phẩm cũng không quan trọng. Điều quan trọng là phổ biến rộng rãi một công trình đóng góp rất lớn của những người lãnh đạo Cộng Hòa Việt Nam Đệ I vào sự soi sáng vấn đề phát triển Việt Nam, để những ai cứu xét vấn đề có thêm dữ kiện để suy ngẫm. May thay, nay những trở ngại đó không còn nữa và tác phẩm đã được tái bản (dưới hình thức một tài liệu học tập nội bộ của những người thuộc Đệ Nhất Cộng Hòa, đúng như tác dụng nguyên thủy của nó).
Ở đây, tôi xin mở một dấu ngoặc để đính chính một điểm: trong “Phụ Giải’’ tôi đã nói lầm rằng Ông Lê Văn Đồng đã là Bộ Trưởng Bộ Canh Nông năm 1957 thật ra, Ông là Đổng Lý Văn Phòng Bộ Lao Động, mà Bộ Trưởng là Ông Huỳnh Hữu Nghĩa. Hai ông này đều thuộc nhóm thân hữu của ông Ngô Đình Nhu. Nhân tiện cũng để ghi nhận rằng theo “Lời Trần Tình’’ trong tái bản, tài liệu xuất bản năm 1964 ở Việt Nam được tái bản tại Hoa Kỳ năm 1988 “do một nhóm thân hữu đã cùng sát cánh bên nhau trong nhiều năm, trong ấy phải kể các ông Cao Xuân Vỹ, Lê Văn Đồng, Phan Xứng, Đỗ La Lam, và một số thân hữu khác’’, và “dù gặp muôn vàn khó khăn, nhóm chủ trương quyết định ấn hành tài liệu này nhằm khởi động sức phấn đấu của dân tộc trong giai đoạn cấp bách hiện nay’’. Và để nói rõ và lớn lên một điều rất đúng đã được dân chúng Miền Nam truyền miệng rộng rãi vào khoảng năm 2007: (trong khi “Xã Hội Chủ Nghĩa’’ đã chết nhưng chưa chôn) thì “Việt Nam Cộng Hòa đã chôn nhưng chưa chết’’….
Đúng vậy.
Với sự phổ biến rộng rãi của tác phẩm Chính Đề Việt Nam, những tư tưởng, suy luận trong đó, và nhứt là phương pháp tiếp cận đưa đến những giải pháp rất hay được trình bày trong đó, uy tín của chế độ Đệ Nhất Cộng Hòa và sự đóng góp của những nhà lãnh đạo của chế độ sẽ được công nhận. Đối với các nhà lãnh đạo chính trị và những nhà nghiên cứu về vấn đề chậm tiến của các quốc gia thuộc vế khối gọi là “Đệ Tam Thế Giới’’, tác phẩm này sẽ được coi như là một tác phẩm hết sức độc đáo, một đóng góp lớn, một viên ngọc quý trong kho tàng tư tưởng của nhân loại. Ở đây tưởng nên nhắc đến những người đóng góp lớn nhứt vào công trình này.
“Lời Trần Tình’’ trong tái bản của tác phẩm tiết lộ:
“Tập tài liệu bạn có trong tay là kết tụ những nghiên cứu và phân tích dựa trên kinh nghiệm lịch sử của Cố Vấn Ngô Đình Nhu cùng một số Phụ Tá thân cận nhằm giúp những Cán Bộ Quốc Gia nắm vững con đường phát triển dân tộc…”Một phần những đề tài này đã được thảo luận trong hàng ngũ cán bộ lãnh đạo dưới thời Đệ Nhất Cộng Hòa,…nhất là công cuộc xây dựng tầng lớp lãnh đạo có đủ khả năng gánh vác trọng trách trong giai đọan mới cần nhiều thời gian chuẩn bị, nên lược đồ xây dựng cho tương lai dân tộc bị gián đoạn từ đó…một số chiến hữu trung kiên đã cho in tập tài liệu này, nhưng tình hình chính trị bất ổn, và chính quyền quân sự lúc đó đang bị nhiều áp lực từ nhiều phía, vì vậy tập tài liệu quí hiếm này bị coi là di sản của “chế độ cũ’’ nên “bị chôn vùi và quên lãng.’’
Nhưng tác phẩm Chính Đề Việt Nam đã không bị quên lãng. Nó xuất hiện lại, và sự xuất hiện ấy là một nhắc nhở rằng Chế Độ Việt Nam Cộng Hòa, qua thời gian, tuy đã bị chôn vùi, nhưng vẫn chưa chết. Ngày nay nó lại tỏ ra vẫn còn sống mạnh và được hãnh diện thấy những cống hiến lớn của nó cho xứ sở được càng ngày càng nhiều người ghi nhận và thẳng thắn công nhận. Trong đó, sự đóng góp về cách tiếp cận và đề xướng một giải pháp thích nghi và hữu hiệu vào vấn đề phát triển các quốc gia chậm tiến là một biểu chứng cụ thể.
III
Sau khi đọc xong Chính Đề Việt Nam, phản ứng đầu tiên của tôi là: “Trời! Sao mình không được biết đến tài liệu này sớm hơn! Tất cả những gì mình tìm kiếm đều có trong đó. Mình đã mất gần 50 năm (1960-2007) tìm kiếm những gì mà đã có người Việt Nam đã viết lên rồi’’. Và chắc chắn đây cũng là trường hợp của rất nhiều người Việt Nam khác. Nói chung, Việt Nam đã mất đi 50 năm quý báu. Một phần không nhỏ vì những cuộc xáo trộn năm 1963 và những năm tiếp theo. Những tư tưởng chứa đựng trong Chính Đề Việt Nam chưa được phổ biến và áp dụng thì chế độ Cộng Hòa Đệ I bị lật đổ, với những hậu quả rất tai hại cho sự phát triển của Dân Tộc Việt Nam.
Trong tư cách là một học giả chuyên nghiên cứu về vấn đề phát triển các quốc gia châm tiến, tôi không ngần ngại quả quyết rằng Chính Đề Việt Nam là tài liệu xuất sắc nhứt mà tôi đã được đọc trong suốt thời gian gần 70 năm qua. Không những nó sẽ giúp cho những người liên hệ với vấn đề phát triển các quốc gia chậm tiến thấy rõ tại sao các chương trình kế hoạch viện trợ các quốc gia này đã thất bại, mà còn cung cấp cho họ một lối tiếp cận có nhiều triển vọng thành công hơn. Riêng về Việt Nam, nó là tài liệu đầu tiên mà tôi được biết đến chỉ rõ con đường dẫn Việt Nam ra khỏi tình trạng bi đát của hơn 100 năm qua. Tác phẩm đã đặt đúng vấn đề và đã soi chiếu ánh sáng vào những yếu tố then chốt và riêng biệt của các quốc gia chậm tiến, và phân tách tường tận những yếu tố đó. Phần khác, tác phẩm cũng khảo xét tình trạng các quốc gia lớn đã thực nghiệm những chương trình phát triển, như Nga, Nhật, Trung Hoa, Ấn Độ, hoặc những quốc gia tương tự Việt Nam, và đưa ra những nhận xét rất hữu ích cho người Việt. Riêng về Nga, Trung Hoa, và Việt Nam những kết luận của Tùng Phong đưa ra lúc soạn tài liệu này, vào khoảng những năm 1957-1960, ngày nay, 2009, có thể nói là tiên tri.
Những điều trên đây, từ điểm quan sát 2009 nhìn lui, tôi thấy rõ, vì đó là những điều tôi đã được nghe, đọc, thấy, suy ngẫm, từ những năm 1949-1952, lúc tôi học ở Trường L.S.E. (London School of Economics). Trường này được coi là lớn hạng nhất của Liên Hiệp Anh (Commonwealth). Tuy mang tên ngắn gọn là L.S.E., nhưng tên đúng của nó là “London School of Economics and Political Science’’. Thực ra, nó được coi là một trường chuyên về Xã Hội Học. Dù sao Kinh Tế/Economics cũng là môn chính trong chương trình giảng dạy của nó. Do đó nó chú tâm về môn “Economic Development’’ (Phát triển Kinh Tế) là một điều tự nhiên. Sự chú tâm này phản ảnh những lo âu của các giới chính trị kinh tế Tây phương trong những năm đầu sau Chiến Tranh Thế Giới II, phải đương đầu với vấn đề tái thiết và lập lại ổn định, và với những đòi hỏi cải thiện gấp rút đời sống của các quốc gia Á, Phi, Nam Mỹ. Thêm vào đó lại khởi phát một cuộc tranh chấp giữa Hoa Kỳ và Nga Sô trong một chiến tranh lạnh bao trùm thế giới.
Hậu quả của những chuyển biến trên đây là thế giới cần một sự phát triển kinh tế quy mô và nhanh chóng. Lúc đó, chỉ Hoa Kỳ có khả năng trợ giúp các quốc gia khác đồng minh đương nhiên vì đồng chế độ, hoặc thuộc khối “không liên kết’’ cần lôi kéo về phía mình vì Hoa Kỳ là quốc gia duy nhất không bi tàn phá, kinh tế phát triển vượt bực để phục vụ nhu cầu không những của mình, mà của toàn thể khối Đồng Minh. Phần khác, Hoa Kỳ cũng cần duy trì sản xuất kinh tế để tránh những xáo trộn do một cuộc giảm sút kinh tế lớn gây ra.
Vì những lý do nêu trên, các Đại Học, các học giả trứ danh về kinh tế học, các chuyên gia kinh tế, các giới kinh tế-tài chánh, các giới truyền thông, chính trị gia, nhất là ở Hoa Kỳ, đổ xô vào việc nghiên cứu, bàn luận, đề xuất lý thuyết về phát triển. Các Chính Phủ Hoa Kỳ đưa ra những chương trình ngoại viện lớn, các kế hoạch này được Quốc Hội thông qua dễ dàng và được dân chúng ủng hộ rộng rãi.
Có hai loại ngoại viện:
1.- Viện trợ các quốc gia đồng minh cũ, thuộc Tây Âu.
2.- Các quốc gia chậm tiến, hoặc thuộc ảnh hưởng Hoa Kỳ, hoặc “không liên kết’’. Loại đầu là Chương Trình Marshall, loại thứ hai là “Point IV’’ Điểm thứ tư, được gọi như vậy vì đó là điểm thứ tư trong môt bài diễn văn lớn của Tổng Thống Truman năm 1947 tuyên bố quyết tâm Hoa Kỳ trợ giúp các quốc gia chậm tiến.
Chương trình Marshall không quan hệ gì đến các nước chậm tiến vì nó nhằm trợ giúp các quốc gia Tây Âu tái thiết, không thuộc về lãnh vực phát triển, nên không bàn đến ở đây. Chương trình “Point IV’’ Điểm thứ 4, trái lại, không những nói lên quyết tâm Hoa Kỳ trợ giúp các quốc gia chậm tiến phát triển, cung cấp phương tiện dồi dào, mà vạch ra cả một lý thuyết, và các phương thức thực hành cuộc phát triển này.
Những điều chứa đựng trong “Point IV’’ Điểm IV của Tổng Thống Truman này là thâu tóm quan điểm của những tư tưởng gia Hoa Kỳ về vấn đề phát triển. Theo quan niệm này, lý do chính của sự chậm tiến của các quốc gia chậm tiến là họ thiếu vốn và “know how’’ (kỹ thuật). Nếu các quốc gia này được cung cấp dồi dào cho không, hay cho vay nhẹ lãi vốn, và kỹ thuật qua các chương trình cung cấp chuyên viên, huấn luyện người bản xứ tại chỗ hay trong các Trường Đại Học Hoa Kỳ thì trong một thời gian ngắn, họ sẽ phát triển, trở nên giàu có, không bị cộng sản quyến dỗ nữa. Qua thực nghiệm sau mấy chục năm áp dụng, nó tỏ ra không hiệu nghiệm, không đạt được mục đích. Vì sai lầm.
Trước hết là về thực chất của vấn đề. Như Tùng Phong nhấn mạnh và nhắc đi nhắc lại rất nhiều lần, muốn giải quyết một vấn đề, phải thấu triệtvấn đề đó. Vấn đề Việt Nam là một vấn đề liên quan đến cộng đồng và lãnh đạo Việt Nam: “…các biến cố xảy ra ở Việt Nam từ hơn hai mươi năm nay [1940-1960] là một ví dụ cụ thể minh xác tính cách thiết yếu của sự hiểu biết vấn đề cộng đồng cần phải giải quyết đối với đa số lãnh đạo….’’
Đối tượng của quyển sách nầy là tìm xem vấn đề cần phải giải quyết của cộng-đồng Quốc-Gia Việt Nam trong thời kỳ nầy là vấn đề gì ’’ (Chính Đề Việt Nam, trang 42). Và tác giả đã giải thích tường tận, chi tiết, vấn đề sống còn của Việt Nam, trong hoàn cảnh đặc biệt của Việt Nam, là phát triển để thoát khỏi tình trạng thua kém về khoa học kỹ thuật bằng một cuộc Tây phương hóa, “không e dè, không rụt rè, không ngần ngại’’ (Chính Đề Việt Nam, trang 76). Cuộc Tây phương hóa đó là “một cuộc Tây phương hóa tự ý muốn, do đó, có đường hướng và có mục đích’’. Nó cũng phải là một cuộc Tây phương hóa toàn diện… nghĩa là trên lĩnh vực quân sự, chính trị, xã hội, và theo đó kinh tế và văn hóa’’ (Chính Đề Việt Nam, trang144)
Về mục đích của công cuộc Tây phương hóa, Tùng Phong viết:
“Chúng ta sẽ chủ động cuộc Tây phương hóa nầy và sẽ đưa nó đến một mức độ đủ cao để xã hội chúng ta tìm được những tiêu chuẩn giá trị mới khả dĩ tạo cho nó một trạng thái điều hòa mới’’. (Chính Đề Việt Nam, trang 137) Câu ngắn ngủi này chứa đựng những ý niệm căn bản rất độc đáo của tác phẩm. Các ý niệm này sẽ được bàn đến trong phần dưới đây: “Tây phương hóa, “chủ động’’, “mức độ cao’’, “tiêu chuẩn giá trị mới’’, “trạng thái điều hòa’’…Cần nhấn mạnh rằng tác phẩm đề cập đến nhiều ý niệm độc đáo khác, nhưng không thể bàn trong bài này vì quá nhiều.
Vấn đề cần được đặt trong bối cảnh riêng biệt của nó. Việt Nam có ba bối cảnh:
1.- Tình hình chính trị thế giới.
2.- Các nước trong thế giới đang ứng phó với một thử thách tương tự.
3.- Các Quốc Gia thuộc về một khối văn hóa với Việt Nam: Các nước láng giềng ở Đông Á và Đông Nam Á (Chính Đề Việt Nam, trang 43).
Cuối cùng là phương thức nghiên cứu. Về điểm này, tính chất vô tư và khoa học của công trình nghiên cứu cần được bảo đảm, nên tác giả Tùng Phong đã cương quyết chọn vị trí lịch sử, vì “thực tế lịch sử không có thể phủ nhận được. Và trên nền tảng vững chắc đó mới có thể lấy óc khoa học mà suy luận không sợ phạm vào những lỗi lầm căn bản’’. Tác giả cũng nhấn mạnh rằng không bao giờ tác giả đứng vào các vị trí triết lý, tôn giáo, và lý thuyết vì “đó là những lĩnh vực mà sự đối chọi giữa hai chủ trương trái ngược có thể kéo dài vô cùng tận’’. Bất cứ trong lãnh vực nào (chính trị, văn hóa và kinh tế) “sự nhận xét phân tách và suy luận của tác giả đều căn cứ trên những sự kiện lịch sử và để một bên các lý thuyết…để tránh tất cả những sự biện luận không thiết thực và do đó không thích hợp với mục đích của quyển sách’’ (Chính Đề Việt Nam, trang 45-46).
IV
Cách tiếp cận nêu trên cần thiết để bảo đảm sự lựa chọn những giải pháp thích nghi cho việc thực hiện những mục đích mong muốn. Những mục đích này minh định do vị trí của Việt Nam trong thế giới ngày nay, vừa trong lãnh vực địa dư, vừa trong lãnh vực tiến hóa chung của nhân loại. Cùng với những điều kiện nội bộ riêng cho Việt Nam, các điểm này chi phối mọi đường lối chính trị của chúng ta “ít lắm là vài thế kỷ’’ (Chính Đề Việt Nam, trang 68).
Những mục đích tùy thuộc vị trí quốc tế hiện tại của Việt Nam do các điểm sau đây minh định:
1.- Việt Nam là một nước nhỏ kém mở mang.
2.- Theo truyền thống văn hóa, Việt Nam thuộc vào xã hội Đông Á.
3.- Việt Nam thuộc vào khối các nước Á Châu vừa thoát khỏi ách thực dân Đế quốc.
4.- Việt Nam phải cần Tây phương hóa như tất cả các nước không thuộc khối Tây phương để:
a.- Tồn tại, bảo vệ độc lập.
b.- Phát triển đời sống kinh tế hầu xây dựng hạnh phúc cho nhân dân. (Chính Đề Việt Nam, trang 68)
Trong nhãn quan của Tùng Phong, trong hai mục đích này,  “Độc lập không phải là mục đích chính’’. Phải độc lập vì độc lập là “điều kiện tiên quyết và thiết yếu khẩn thiết để thực hiện cho được cuộc Tây phương hóa…Có độc lập, chúng ta mới chủ động được vận mạng của chúng ta và lãnh đạo được cuộc Tây phương hóa mà sự thành hay bại quyết định tương lai của chúng ta trong mấy thế kỷ sắp tới đây’’ (Chính Đề Việt Nam, trang. 158).
Vấn đề chính của Dân Tộc Việt Nam là vấn đề phát triển, và cuộc phát triển đó thực hiện qua một cuộc Tây phương hóa. Sự thành bại của cuộc Tây phương hóa này quyết định tương lai của Việt Nam, không những gần, mà trong mấy thế kỷ sắp đến. Cho nên vấn đề được bàn đến trong Chính Đề Việt Nam là vấn đề phát triển Tây phương hóa. Vấn đề độc lâp được bàn đến, và rất chi tiết, như là một vấn đề dính liền với nguy cơ tái lệ thuộc Trung Hoa nếu Việt Nam chọn con đường cộng sản trong công cuộc phát triển.
Theo Tùng Phong “công cuộc phát triển Dân Tộc bằng cách Tây phương hóa là một công cuộc liên hệ đến sự sống còn của Dân Tộc…một sự kiện lịch sử dĩ nhiên, không thể tránh được, và ngoài công cuộc phát triển ấy ra, Dân Tộc chúng ta không còn một lối thoát thứ hai’’ (Chính Đề Việt Nam, trang 134-35).
Kháí niệm “Tây phương hóa’’ là khái niệm then chốt của tác phẩm này nên chúng ta cần minh định nghĩa của danh từ và nội dung của khái niệm để tránh ngộ nhận. Danh từ “Tây phương hóa’’, “Westernization’’ (theo Anh văn), hay “Occidentalisation’’ (theo Pháp văn) là một danh từ thông dụng trong giới học giả và báo chí Tây phương trong những năm trước 1950. Nhưng các giới chính trị, trí thức Á Đông, đặc biệt là Ấn Độ và Trung Hoa, chống việc sử dụng danh từ này vì họ cho rằng nếu Á Đông thua kém Tây phương về kỹ thuật khoa học họ lại hơn Tây phương về phương diện triết lý, tinh thần, và nếu họ muốn kỹ nghệ hóa họ không muốn mang luôn văn hóa Tây phương. Do đó, một danh từ khác, trung lập hơn, được dùng. Đó là “hiện đại hóa’’. Cho nên, trong bài này, “Tây phương hóa’’ nên hiểu là “hiện đại hóa’’. Thật ra, danh từ này rất sát nghĩa khái niệm “Tây phương hóa’’ của Tùng Phong.
“Tây phương hóa’’, theo Tùng Phong, là thế nào ?
“Tây phương hóa là việc thâu nhận các kỹ thuật, lối suy luận và nhiều tập quán của Âu-Mỹ, không làm cho chúng ta mất được bản chất của Dân Tộc…Bản Chất Dân Tộc chúng ta sẽ bộc lộ ra trong các sáng tạo của chúng ta, và phương pháp sáng tạo của chúng ta, khi nào chúng ta đã chủ động được các phương tiện và phương pháp sáng tạo Tây phương. Và đây là mục đích chính của công cuộc Tây phương hóa mà chúng ta đang theo đuổi…chúng ta cần phải dốc hết nỗ lực vào công cuộc ấy, không e dè, không rụt rè, không ngần ngại’’ (Chính Đề Việt Nam, trang76).
Hai điểm then chốt trong ý niệm trên là ta phải chủ động công cuộc Tây phương hóa, và phải đi đến mức sáng tạo. Cuộc Tây phương hóa này phải là một cuộc Tây phương hóa tự ý, không ép buộc, vì “nếu chúng ta không tự ý Tây phương hóa, thì trước hết ta sẽ mất chủ quyền định đoạt vận mạng của Dân Tộc chúng ta. Sau đó cuộc Tây phương hóa vẫn sẽ thực hiện đối với chúng ta, nhưng không phải chúng ta lãnh đạo và hướng dẫn. Một cuộc Tây phương hóa không được hướng dẫn sẽ mang đến sự tan rã của xã hội chúng ta…Như vậy, giữa hai thái độ tự ý Tây phương hóa và bắt buộc Tây phương hóa thế nào cũng phải lựa chọn thái độ tự ý Tây phương hóa’’ (Chính Đề Việt Nam, trang 166).
Điểm thứ hai, đi đến mức sáng tạo, một mức cao, cũng là một đặc điểm của cuộc Tây phương hóa mà Tùng Phong chủ trương. Theo ông, “công cuộc Tây phương hóa chỉ hữu hiệu khi nào thực hiện đúng đến mức độ cao’’ (Chính Đề Việt Nam, trang 153).
Thế nào là “mức độ cao ?’’ Ông ta giải thích:
“Tây phương hóa đến mức độ cao có nghĩa là Tây phương hóa đến khi nào chúng ta chế ngự được khả năng sáng tạo khoa học của Tây phương. Cho đến khi nào chưa ra khỏi giai đoạn hấp thụ khoa học và kỹ thuật Tây phương, thì chúng ta vẫn chưa thoát lên đến mức độ cao. Chỉ khi nào chúng ta sử dụng được, chẳng những là khoa học và kỹ thuật Tây phương, mà lại còn cả phương tiện sáng tạo khoa học và kỹ thuật, thì chúng ta mới đạt đến mức độ đủ cao trong công cuôc Tây phương hóa…Chỉ khi nào các chuyên viên của chúng ta, sau khi hấp thụ được các kỹ thuật và khoa học của ngành mình, lại ý thức rõ rệt rằng chỉ vừa bước đi qua một giai đoạn sơ khởi, và còn cần nỗ lực để đạt đến chỗ chế ngự được khả năng sáng tạo trong ngành của mình, thì lúc bấy giờ cuộc Tây phương hóa của chúng ta mới đi đúng đường và có hy vọng thành công’’ (Chính Đề Việt Nam, trang 172)
“Chế ngự khả năng sáng tạo’’ là một ý niệm trừu tượng, tế nhị, có thể gây hiểu lầm rằng “Tây phương hóa’’ đồng nghĩa với làm mất “bản sắc Dân Tộc’’. Chúng ta sẽ bàn về vấn đề này ở đoạn sau. Ở đây cần nhấn mạnh rằng Tùng Phong rất ý thức điều này, nên ông ta đã đưa ra những giải thích rất chi tiết và rõ ràng. Ông viết:
“Một cuộc Tây phương hóa, đến mức độ cao, chỉ thực hiện được khi nào sự hấp thụ kỹ thuật Tây phương được thành tựu đến mức độ người hấp thụ chế ngự kỹ thuật đó, để đến phiên mình sáng tạo. Và muốn chế ngự được kỹ thuật đó, trước tiên phải thấu triệt được những nguyên lý của khả năng sáng tạo và luyện được cách sử dụng khả năng đó’’ (Chính Đề Việt Nam, trang. 463-464).
Có một quan niệm thông thường cho rằng Tây phương mạnh nhờ khoa học của họ, và nếu chúng ta học được khoa học của họ thì chúng ta cũng mạnh như họ. Nhưng, thật ra, nếu chúng ta học được khoa học của Tây phương thì chúng ta cũng chưa mạnh bằng Tây phương. Bởi vì: “khoa học cũng như tất cả các sáng tạo của Tây phương là những hiện tượng nhìn thấy được của kỹ thuật Tây phương, chớ chưa phải là kỹ thuật của Tây phương. Các sáng tạo kỹ thuật là sóng, nhưng chính kỹ thuật mới là gió.
“Kỹ thuật Tây phương đẻ ra khoa học, chớ không phải khoa học đẻ ra kỹ thuật. Như vậy thì sự thâu thập khoa học chưa đủ để giúp cho người thâu thập chế ngự được kỹ thuật Tây phương’’. (Chính Đề Việt Nam, trang 463-464)
Vậy nguyên do của khả năng sáng tạo của kỹ thuật Tây phương là cái gì ?
Tùng Phong cho rằng câu hỏi này “vô cùng quan trọng cho công cuộc Tây phương hóa’’. Có trả lời được, chúng ta mới thỏa mãn được một điều kiện của công cuộc Tây phương hóa đến mức đô đủ cao. Điều kiện thứ hai là thực hiện được những điểm mà câu hỏi sẽ nêu lên: (Chính Đề Việt Nam, trang 463-464)
Và giải đáp mà Tùng Phong đưa ra là một giải đáp có thể nói là độc đáo, mới, mà riêng tôi, xin thú thực là chưa hề được nghe nói đến: Kỹ thuật Tây phương hùng mạnh nhờ hai đức tính, xin nhấn mạnh đức tính, vô cùng quý báu:
1.- Chính xác về lý trí.
2.- Ngăn nắp và minh bạch trong tổ chức.
Tùng Phong nhấn mạnh rằng hai đức tính này là hai đức tính của văn minh cổ Hy Lạp và La Mã. Nó là nguồn sinh lực của kỹ thuật Tây phương. Nó có trước mọi phát minh khoa học và đã phát sinh ra khoa học. Và nó phải có nếu ta muốn đạt đến mức độ sáng tạo như Tây phương. Một sự thu thập khoa học Tây phương dù có mười phần kết quả cũng vẫn chưa giúp cho ta chế ngự được kỹ thuật Tây phương.
“Một công cuộc Tây phương hóa chỉ chú trọng vào sự thu thập khoa học Tây phương sẽ mãi mãi là một cuộc Tây phương hóa không đúng mức, và cộng đồng nào chỉ nhắm vào mục đích thu thập khoa học Tây phương thì, mãi mãi, sẽ lệ thuộc vào các sáng tạo kỹ thuật của Tây phương, và không khi nào lên đến mức độ sáng tạo như Tây phương’’. (Chính Đề Việt Nam, trang 468).
Vấn đề đã trở nên rất rõ: Nếu chúng ta muốn chế ngự được kỹ thuật Tây phương chúng ta phải rèn luyện để có được hai đức tính:
1.- Chính xác về lý trí.
2.- Ngăn nắp và minh bạch trong tổ chức.
Muốn rèn luyện hai đức tính trên đây, “chúng ta phải chỉnh đốn đời sống hằng ngày cho ngăn nắp và minh bạch, và ngôn ngữ của chúng ta cũng phải được chỉnh đốn cho ngăn nắp và minh bạch…đời sống hằng ngày của chúng ta, và ngôn ngữ hằng ngày của chúng ta sẽ trở thành những dụng cụ sắc bén để giúp cho chúng ta rèn luyện chính xác về lý trí và ngăn nắp và minh bạch trong tổ chức. Và ngôn ngữ đã chỉnh đốn lại trở thành một khí cụ suy luận để chúng ta soi thấu vũ trụ vật chất và vũ trụ tinh thần’’ (Chính Đề Việt Nam, trang 468).
Về vấn đề Tây phương hóa có làm mất bản sắc Dân Tộc, “mất quốc hồn quốc túy’’ hay không, Tùng Phong nói:
“Các Dân Tộc Tây phương đều sử dụng một kỹ thuật và tôn sùng một khoa học như nhau. Tất cả đều có một lối suy luận lấy sự chính xác của lý trí làm nền tảng. Và tất cả đều sống trong một khuôn khổ minh chiết như nhau sự sinh sống và ăn mặc đều như nhau thế mà họ vẫn khác nhau trong sáng tác. Như vậy là bản chất Dân Tộc họ vẫn giữ…Biết như thế rồi chúng ta mới thấy tánh cách vô ích của sự nơm nớp lo sợ mất quốc hồn và quốc túy…’’ (Chính Đề Việt Nam, trang 76)
Phần khác, “… nếu thực sự một cuộc Tây phương hóa tự ý và có lãnh đạo không làm tan rã xã hội lại có thể làm mất bản chất Dân Tộc, thì chúng ta có thể quả quyết rằng một cuộc Tây phương hóa bắt buôc và không hướng dẫn, [không làm] tan rã xã hội, chắc chắn sẽ làm mất mười lần hơn bản chất Dân Tộc của chúng ta.’’ (Chính Đề Việt Nam, trang 166)
V
Trong những trang trên đây, ta thấy tác giả đề cập rất nhiều đến những danh từ như: “xã hội’’, “nỗ lực’’, “rèn luyện’’, “chế ngự’’, “chỉnh đốn’’, “đức tính’’, “lý trí’’, “suy luận’’…Đây là những danh từ mang ý niệm trừu tượng thuộc về lãnh vực văn hóa. Điều này nói lên sự khác biệt căn bản của lối tiếp cận vấn đề của Tùng Phong với lối tiếp cận kinh tế, thống kê, chính trị của những học giả, chuyên gia chủ trương Point IV-Điểm 4 về vấn đề phát triển. Lối tiếp cận của Tùng Phong là một lối tiếp cận chú tâm vào các khía cạnh xã hội và tâm lý, nghĩa là văn hóa. Đây là một lối tiếp cận đòi hỏi môt sự thấu triệt hoàn cảnh và tâm lý của dân tộc muốn phát triển, một điều rất khó khăn và đòi hỏi nơi người nghiên cứu, cũng như nơi người thực hành, những kiến thức rất sâu rộng, và một khả năng dùng linh tính mà tâm lý học gọi là “introspection’’, một khả năng mà người ngoại quốc không có, mà ít người bản xứ dùng đến trong việc nghiên cứu vì cho rằng nó
“không khoa học’’. Nhưng, nếu phối hợp với kỹ thuật ở mức độ cao, như đã trình bày ở trên, nó là lối tiếp cận hữu hiệu nhất, và đưa đến sự phát giác những giải pháp độc đáo và thích nghi nhứt, như ta sẽ thấy dưới đây.
Mục tiêu của Tây Phương hóa là phát triển, và như đã nói ở trên, phát triển để có điều kiện bảo đảm sự tồn tại và độc lập, và xây dựng hạnh phúc cho nhân dân. Công cuộc chính của phát triển là xây dựng lại xã hội Việt Nam sau 80 năm thống trị của người Pháp.
Cuộc thống trị đó đã để lại một di sản mà ngay nay dân Việt đang còn phải mang những hậu quả rất tai hại: Ba gánh nặng nhứt là:
1.- Một công cuộc hóa Tây phương bắt buộc.
2.- Một xã hội tan rã.
3.- Một sự gián đoạn trong vấn đề lãnh đạo.
Công cuộc Tây phương hóa bắt buộc làm cho chúng ta mất tin tưởng vào các giá trị tiêu chuẩn cũ, và miễn cưỡng thâu thâp nền văn minh mới. Vận mạng của chúng ta không phải do chúng nắm. Vì vậy, cuộc Tây phương hóa mà chúng ta phải chịu đựng từ môt thế kỷ nay là một cuộc Tây phương hóa bắt buộc, không mục đích, không được hướng dẫn’’. Dân chúng bị lôi cuốn vào một phong trào Tây phương hóa, “mà không hiểu Tây phương hóa để làm gì, Tây phương hóa đến mức nào là đủ, và Tây phương hóa sao là đúng’’. (Chính Đề Việt Nam, trang 268).
Tình trạng trên đây đã dẫn dắt đến sự tan rã của xã hội của chúng ta. Các giá trị tiêu chuẩn cũ đã mất hết hiệu lực, mà các tiêu chuẩn mới thì không có. Do đó, tín hiệu tập hợp các phần tử đã mất.
“Đó là một điều vô cùng bất hạnh’’ vì chính là lúc này, lúc ta cần nhiều nỗ lực liên tục của toàn dân và nhiều hy sinh lớn lao của mọi người, “sự có một tín hiệu tập hợp vô cùng cần thiết để toàn dân trông vào và tin tưởng, mới có đủ nghị lực mà cung cấp cố gắng trong một hoàn cảnh khổ hạnh’’. (Chính Đề Việt Nam, trang 268)
Về vấn đề lãnh đạo, chúng ta đã lâm vào một sự gián đoạn lãnh đạo “đến một trình độ trầm trọng nhứt’’. Sự chuyển quyền không thực hiện được giữa lớp người trước và lớp người sau. Các bí mật [bí quyết] Quốc gia và bí mật [bí quyết] lãnh đạo đều mất. Thuật lãnh đạo không truyển lại được. Người lãnh đạo không có đủ, di sản dĩ vãng không bảo tồn được, văn khố thất lạc và bị cướp bóc. (Chính Đề Việt Nam, trang 268) Đặc biệt là sự thiếu hụt lãnh đạo này có môt ảnh hưởng tai hại: Sự điều hòa giữa thiểu số lãnh đạo và đa số chịu lãnh đạo để bảo đảm một trạng thái thăng bằng cần thiết cho sự ổn định và tiến lên của xã hội không còn nữa.
Tái lập sự thăng bằng này là nhiệm vụ chính trong công cuộc phát triển, và nó được Tùng Phong cứu xét rất tường tận. Những tư tưởng rất mới mẻ, độc đáo và sáng suốt về vấn đề này là những đóng góp lớn vào sự soi sáng vấn đề phát triển của các nước chậm tiến.
Theo nhận xét, rất đúng, của Tùng Phong, xã hội gồm hai khối: Thiểu số lãnh đạo, và đa số chịu lãnh đạo. Xã hội nào cũng có mâu thuẫn nội bộ, giữa những nhu cầu cá nhân và những nhu cầu của cộng đồng, giữa những nhu cầu ngằn hạn và những nhu cầu dài hạn của cộng đồng, giữa những mức độ đóng góp hy sinh mà lãnh đạo thấy cần và đa số chịu lãnh đạo chịu chấp nhận…Những mâu thuẫn này phải được điều hòa thì xã hội mới ổn định và tiến được. Tùng Phong đã phân tách vấn đề một cách chi tiết như sau:
“Một cộng đồng trong toàn bộ gồm nhiều phần tử cá nhân hợp thành, chia làm hai khối, thiểu số lãnh đạo và đa số chịu lãnh đạo. Thiểu số lãnh đạo có trách nhiệm với vận mạng của cộng đồng.
Cộng đồng có tồn tại mới bảo đảm được phát triển của cá nhân. Cộng đồng tồn tại nhờ cố gắng và hy sinh của cá nhân, tình nguyện hay cưỡng bách, đóng góp. Nhưng lý do của cuộc sống là sự thoả mãn ước vọng của cá nhân.
Nói một cách khác lý do của cuộc sống là lý do cá nhân. Mà điều kiện của cuộc sống là điều kiện cộng đồng. Vì thế cho nên, ngay trong bản chất đã có sự mâu thuẫn giữa quyền lợi của cộng đồng và quyền lợi của cá nhân trong cộng đồng. Một mâu thuẫn như thế thuộc vào loại mâu thuẫn lúc nào cũng có ở trong nội tâm của mọi phối hợp sáng tạo giữa hai lực lượng tương phản.
Cứu cánh của sự lãnh đạo là thực hiện một trạng thái điều hòa tuyệt đối giữa hai hình thức của một sự thăng bằng đồng tiến, nghĩa là hai lực lượng tương phản sẽ dựa nhau và kích thích nhau để tiến, thì toàn thể cộng đồng sẽ tiến triển. Nếu sự điều hòa được thực hiện dưới hình thức một sự thăng bằng tỉnh chỉ, nghĩa là hai lực lượng tương phản sẽ đóng khung và kềm giữ nhau, toàn thể cộng đồng sẽ mất đà tiến và trở thành trụ đóng. Nếu sự điều hòa không được thực hiện, cộng đồng sẽ tan vỡ’’. (Chính Đề Việt Nam, trang 18)
Những mâu thuẫn giữa hai quyền lợi cá nhân và cộng đồng có khi nặng, khi nhẹ. Trong những thời kỳ bình thường, cộng đồng không đứng trước một thử thách khó khăn, và không đòi hỏi sự đóng góp nhiều của cá nhân. Nhưng cũng có những thời kỳ mà cộng đồng phải đương đầu với một cuộc thử thách nghiêm trọng, và sự sống còn của cộng đồng đòi hỏi nhưng sự đóng góp to tát. Ngoài sự bảo vệ trật tự xã hội còn phải quy tụ những phương tiện vật chất và nhân sự vượt quá thông thường để đưa cộng đồng lướt qua các trở lực.
Sự mâu thuẫn khi nào cũng có. Nhưng trong trường hợp trầm trọng, trạng thái điều hòa rất khó thực hiện, sự tan vỡ của cộng đồng có thể đến bất cứ lúc nào, và trong thực tế, nó trở thành một vấn đề cho lãnh đạo vì “sự mâu thuẫn giữa hai quyền lợi cộng đồng và cá nhân sẽ biến hình thành sự mâu thuẫn giữa thiểu số lãnh đạo và đa số chịu lãnh đạo, vì đa số lãnh đạo, nhân danh cộng đồng đòi hỏi sự đóng góp của đa số chịu lãnh đạo’’ (Chính Đề Việt Nam, trang19)
Sự mâu thuẫn càng ác liệt nếu đại đa số không có ý thức cộng đồng và không hiểu biết vấn đề cần phải giải quyết của cộng đồng. Trường hợp này dễ xảy ra trong các cộng đồng nghèo nàn về vật chất và ấu trĩ trong tổ chức. Đa số chịu lãnh đạo không được cộng đồng bảo đảm cho những cần thiết tối thiểu và sơ đẳng nên không có lý do tâm lý để biết đến cộng đồng, và mãi bận tâm giải quyết các vấn đề của đời sống hàng ngày, không có thì giờ để hiểu biết vấn đề của cộng đồng.
Ở đây ta thấy rõ tầm quan trọng của lãnh đạo và sự tham gia tự ý của đại đa số. Trong thời kỳ bình thường có thể cưỡng bách đại đa số tôn trọng luật lệ của cộng đồng. Nhưng trong thời kỳ thử thách, uy tín vững chắc của một lãnh tụ, hay sự cưỡng bách bằng võ lực không thay thế được sự đóng góp có ý thức vào nhu cầu của cộng đồng. Điều kiện thiết yếu để thực hiện sự tự giác đóng góp như vậy là “đa số chịu lãnh đạo phải ý thức cộng đồng và hiểu biết vấn đề cần giải quyết cần phải giải quyết của cộng đồng’’. Và có như vậy thiểu số lãnh đạo và đa số chịu lãnh đạo mới “điều hòa và tạo cho cộng đồng sinh lực cần thiết để vượt qua các thử thách quyết liệt đang đợi chờ’’. (Chính Đề Việt Nam, trang 20)
Cần nhấn mạnh ở đây rằng sự đa số chịu lãnh đạo cũng phải ý thức vấn đề của công đồng rất quan trọng vì như vậy nó mở rộng địa bàn xoay xở của thiểu số lãnh đạo cho họ tránh được nhiều lỗi lầm chiến thuật do sự tranh đấu gay go gây ra. Nhờ đó mà sự phối hợp giữa thiểu số lãnh đạo và đa số chịu lãnh đạo sẽ không sứt mẻ, và của các quyết định chiến thuật không mất hữu hiệu.
Qua những điều vừa trình bày ở trên, ta thấy Tùng Phong coi vấn đề lãnh đạo là chính yếu, và, thực ra, Chính Đề Việt Nam là một tài liệu được soạn đặc biệt như là một tài liệu học tập để huấn luyện cán bộ cao cấp của chế độ về nghệ thuật trở thành những người
“lãnh đạo xứng danh’’. Tuy nhiên, như ta đã thấy, tài liệu này có một tầm quan trọng vượt xa không những chế độ Cộng Hòa I, mà ngay cả Việt Nam: Nó có giá trị một tài liệu học tập quý báu cho cán bộ các nước chậm tiến muốn hiện đại hóa.
Những nhận xét trên đây cho thấy rằng, đối với người lãnh đạo “xứng danh’’, các vấn đề tổ chức và giáo dục quần chúng cũng rất hệ trong. Nó cũng được Tùng Phong soi sáng, nhưng ta không thể bàn đến trong khung khổ của bài này.
Vấn đề then chốt kế tiếp cần được soi sáng, sau khi đã được thấy rõ vấn đề chính của Việt Nam, lối tiếp cận hữu hiệu, và một giải pháp thích nghi để giải quyết vấn đề, là vấn đề lựa chọn dụng cụ để thực hiện giải pháp đó: Vấn đề “khung cảnh chính trị’’.
VI
 Vấn đề “khung cảnh chính trị’’ là vấn đề tìm cho Việt Nam “một chính thể thích nghi cho Dân Tộc’’. Chính thể đó “không phải định đoạt do một sự lựa chọn căn cứ trên những lý thuyết chính trị hay là những nguyên nhân triết lý, mà sẽ được quy định một cách rõ rệt bởi hoàn cảnh địa dư và lịch sử của chúng ta, cùng với trình độ phát triển của Dân Tộc…’’ Đặt vấn đề như vây là xét vấn đề phát triển từ góc độ địa lý chính trị và văn hóa, một lối tiếp cận vấn đề phát triển mới và độc đáo.
Một điều độc đáo và mới nữa là trong sự tìm một con đường thích nghi cho sự phát triển Việt Nam, Tùng Phong chú tâm vào nguy cơ Việt Nam bị xâm lăng, và đặc biệt nguy cơ bị lệ thuộc Trung Hoa. Trong sự cứu xét kỹ vấn đề này ông đã đưa ra những cảnh báo có tính cách tiên tri, vì tuy đưa ra cách đây 50 năm, ngày nay nó đang xảy ra ngay dưới mắt chúng ta.
Tùng Phong đặt sự phân tách vấn đề trên hai dữ kiện:
1.- Hoàn cảnh địa dư lịch sử của Việt Nam.
2.- Tình trạng nội bộ của Việt Nam.
Ngay trong trang mở đầu của tác phẩm, ông đã đặt vấn đề như sau:
“Việt Nam là một nước nhỏ về dân số, về lãnh thổ, về kinh tế kém phát triển, về phần đóng góp vào văn minh nhân loại. Cho nên lúc nào cũng bị các nước lớn chi phối, lúc nào cũng sống dưới sự đe dọa liên tục của ngoại xâm, và “và lúc này hơn lúc nào hết, nạn ngoại xâm vẫn đe dọa Dân Tộc Việt Nam’’. (Chính Đề Việt Nam, trang 13) Ở một đoạn dưới Tùng Phong cảnh báo: “bao giờ yếu tố đó chưa thay đổi thì họa xâm lăng vẫn còn’’.(Chính Đề Việt Nam, trang 236).
Nói đến “địa dư’’ là nói đến sự kiện Việt Nam nằm sát biên giới Trung Hoa. Nói đến “tình trạng nội bộ của chúng ta’’ là nói đến tình trạng Bắc Việt đã chọn con đường cộng sản, nghĩa là chế độ độc tài đảng trị như Trung Hoa.
Phương pháp độc tài đảng trị là một phương pháp hấp dẫn đối với nhiều người lãnh đạo khi có một chương trình vĩ đại cần được thực hiện trong một thời gian ngắn vì nó dưạ trên căn bản chặt hết các dây liên hệ của từng cá nhân bất cứ dưới hình thức gia đình, xã hội, tôn giáo và văn hóa, và thay vào đó bằng những liên hệ duy nhứt với một đảng chính trị duy nhứt nắm chính quyền. Nó biến mỗi cá nhân thành ra một bộ phận rất dễ sai khiến, dễ uốn nắn của bộ máy khổng lồ nhiều khả năng nhưng cũng dễ sử dụng trong tay người lãnh đạo. (Chính Đề Việt Nam, trang 302-04)
Nhưng, về phần miền Nam thì Tùng Phong quả quyết: Nếu bây giờ chúng ta chưa có ý thức rõ rệt chính thể ấy phải thế nào, thì ngay bây giờ chúng ta có thể quan niệm được rằng “chính thể đó không thể là một chính thể chuyên chế hay độc tài được. Đó là một thái độ rất rõ rệt’’ (Chính Đề Việt Nam, trang 244-245).
Lý do của thái độ dứt khoát trên đây là một chế độ độc tài đảng trị không thể đưa đến một trạng thái điều hòa mới trong đó tiêu chuẩn mới sống chung với tiêu chuẩn cũ, “vì [nó] phủ nhận quyền tư hữu, bài trừ tôn giáo, vân vân, đã nhân danh quyền lợi của cộng đồng mà bóp chết cá nhân, do đó tiêu diệt trạng thái thăng bằng động tiến căn bản trong một cộng đồng, giữa quyền lợi cá nhân và quyền lợi cộng đồng. Trạng thái thăng bằng biến mất, vì hai lực lượng tương phản không còn để tạo ra một cuộc phối hợp sáng tạo. Sinh lực sáng tạo không có thì sự tiến hóa trong tương lai của cộng đồng không bảo đảm’’ (Chính Đề Việt Nam, trang 305).
Không có một quốc gia Tây phương nào thực hiện phát triển bằng độc tài đảng trị. Ngay cả Nga Sô cũng phải từ bỏ chế độ đó và trở về với những giá trị tiêu chuẩn có tính cách di sản của nhân loại. Bài học của Nga Sô chứng minh rằng phương pháp độc tài đảng trị cộng sản không thế nào bảo đảm được sự thành công của một công cuộc phát triển Dân Tộc toàn diện. Nó đòi hỏi phải thay thế các giá trị tiêu chuẩn, và đả phá tận nền tảng Mác-Lê. Lãnh đạo Nga Sô không muốn vậy, nhưng “thực tế lịch sử đã dồn họ vào cái thế không làm sao không thay đổi được’’. Điều nhận xét nay được đưa ra năm 1960, 40 năm trước khi khối cộng sản tan rã, và Liên Bang Nga Sô và đảng cộng sản liên sô bị giải thể…
Trong bối cảnh trên đây, câu hỏi được đặt ra là: Sau khi độc lập đã khai phục, Dân Tộc chuyển qua giai đoạn phát triển, đường lối cộng sản còn thích hợp hay không ? Giải đáp cho câu hỏi này liên quan đến sự bang giao giữa Trung Hoa và Việt Nam.
Về phía Trung Hoa, Tùng Phong nhận xét:
“Trong quá khứ, ngay những lúc ta chiến thắng Trung Quốc, các nhà lãnh đạo Việt Nam cũng khôn ngoan hòa thuận với Trung Quốc và tự đặt mình vào chế độ thuộc quốc. Nhưng điều mà Trung Quốc muốn không phải là Việt Nam chỉ thần phục và triều cống Trung Hoa, suốt thời gian gần một ngàn năm lịch sử, lúc nào cũng muốn lấy lại mảnh đất mà Trung Hoa coi như tạm mất’’ (Chính Đề Việt Nam, trang 235)
Tùng Phong nhắc lại rằng trong 900 năm (939-1840) Trung Hoa đã bảy lần toan chiếm Việt Nam.
“Một hành động liên tục như vậy nhứt định có nghĩa là tất cả các triều đại Trung Hoa đều theo đuổi một chính sách, đặt nền thống trị trên lãnh thổ Việt Nam. Chính sách này do một điều kiện địa dư và kinh tế định: Lưu vực sông Hồng Hà là đường thoát ra biển thiên nhiên của các Tỉnh Tây Nam của Trung Hoa. Đã như vậy, ngay từ bây giờ [1960], ý định của Trung Hoa vẫn là muốn thôn tính, nếu không phải hết nước Việt Nam, thì ít ra cũng Bắc phần…’’ (Chính Đề Việt Nam, trang 235)
Thế còn dữ kiện Trung Cộng ủng hộ viện trợ cho Việt Nam, và đặc biệt đã giúp Việt Nam thắng trong trận Điện Biên Phủ ? Tùng Phong giải thích: Trung Cộng đã viện trợ cho Bắc Việt vì trong hoàn cảnh phát triển nghiêm khắc của họ, họ phải nỗ lực vận động một mặt trận đồng minh thế giới làm hậu thuẫn cho chương trình phát triển của họ. Vả lại ta phải tự hỏi: Họ đã giúp khí giới kỹ thuật và phương tiện cho Việt Nam chiến thắng vì họ thân Việt Nam hay vì họ bài Mỹ, và khi viện trợ như vậy họ coi Việt Nam là một đồng chí cộng sản hay là một phần đất cũ xưa kia, và nay sắp gần được gồm thâu vào lãnh thổ của họ ?(Chính Đề Việt Nam, trang 235)
Với cuộc phát triển đang thực hiện “nước Tàu của Mao Trạch Đông còn cần dùng con đường ra biển “hơn cả các triều đại trước đây của Trung Hoa’’. Viện trợ cho Bắc Việt, trên quan điểm đó, là để dành quyền sử dụng con đường ra biển “khi thời cơ đến’’ (Chính Đề Việt Nam, trang 29). Cho nên “Đối với Dân Tộc Việt Nam, Trung Hoa của Mao trạch Đông, cũng như của các triều đại Nguyên, Tống, Minh, Thanh là một đe dọa truyền kiếp’’ (Chính Đề Việt Nam, trang 286).
Những nhận xét trên đây được đưa ra vào khoảng năm 1960. Ngày nay, 50 năm sau, trong bối cảnh Trung Hoa cưỡng chiếm các Đảo Trường Sa, Hoàng Sa, Ải Nam Quan, Thác Bản Giốc, Hải phận Vịnh Bắc Việt, v.v…,nó nói lên sự sáng suốt của những người lãnh đạo Cộng Hòa Đệ I, và sự thất thiệt lớn lao cho xứ sở do sự mất những người lãnh đạo này do những biến cố năm 1963 gây nên.
VII
Những điều vừa trình bày trên đây cho phép trả lời một cách dứt khoát câu hỏi: Ngày nay, đường lối cộng sản còn thích hợp không ? Giải đáp là: Không. Không nhưng đúng cho thời gian 1960, mà hiện nay 2009, lại còn đúng hơn nữa. Nhưng điều quan trọng là ta phải hiểu cho thật rõ: Tại sao, như Tùng Phong giải thích dưới đây.
Chủ trương cộng sản chẳng những không giải quyết được vấn đề của Quốc Gia Việt Nam trong thời kỳ này [1960] của cộng đồng, mà lại “sẽ đưa Dân Tộc vào một con đường đen tối cho nhiều thế hệ tương lai’’ (Chính Đề Việt Nam, trang 27) và “sự gắn liền vận mạng của chúng ta vào vận mạng Trung Cộng là một hành động di hại cho Dân Tộc’’ (Chính Đề Việt Nam, trang 290).
Tùng Phong nhận xét: Mối liên hệ giữa cộng sản Việt Nam với Trung Quốc làm “tái hiện dũng mãnh’’, sau một trăm năm vắng mặt, “ký ức thời kỳ thống trị tàn khốc của Tàu đối với chúng ta’’, và cảnh báo:
“Các nhà lãnh đạo miền Bắc, khi tự đặt mình vào sự chi phối của Trung Cộng, đã đặt ta trước một viễn ảnh nô lệ kinh khủng. Hành động của họ, nếu có hiệu quả, chẳng những sẽ tiêu diệt mọi cơ hội phát triển của chúng ta, mà còn đe dọa sự tồn tại của Dân Tộc…’’
“Sở dĩ ngày nay [1960], sự thống trị của Trung Cộng đối với Việt Nam chưa thành hình, là vì hoàn cảnh chính trị thế giới chưa cho phép, và sự tồn tại của miền Nam dưới ảnh hưởng của Tây phương là một trở lực vừa chính trị vừa quân sự cho sự thống trị đó. Giả sử mà Nam Việt Nam bị Bắc Việt thôn tính, thì sự thôn tính Việt Nam chỉ là một vấn đề thời gian’’ (Chính Đề Việt Nam, trang 301).
Ngày nay, năm 2009, những cảnh báo trên đây không còn là cảnh báo nữa, mà đã thành hiện thực: Sự thôn tính Nam Việt bởi Bắc Việt đã mở đường cho Trung Quốc thôn tính toàn Việt Nam.
Tùng Phong viết: “các nhà lãnh đạo phía Bắc vẫn chưa nhận thức được nguy cơ đang đe dọa Dân Tộc và những ngày đen tối của chúng ta vẫn còn tiếp tục’’ vì “những người lãnh đạo này đang còn say mê thuyết cộng sản và đương nhiên đưa nó lên hàng một chân lý’’ trong khi Nga Sô và Trung Cộng chỉ coi nó là một phương tiện. Đưa một phương tiện của ngưòi lên làm chân lý của mình là mặc nhiên hạ mình xuống thấp hơn một bực đối với các lãnh tụ cộng sản quốc tế, “và tự biến mình thành một thứ nô lệ trí thức cho người sai khiến’’. Vì vậy cho nên, trong nhiều hành động chính trị của các nhà lãnh đạo phía Bắc “lý thuyết được để lên trên quyền lợi Dân Tộc’’ (Chính Đề Việt Nam, trang 290).
Vì sự lệ thuộc về lý thuyết, các lãnh đạo cộng sản Việt Nam đã hy sinh quyền lợi Dân Tộc Việt Nam cho quyến lợi của Dân Tộc Trung Hoa. Nếu đặt quyền lợi của Dân Tộc trên hết, “thì không có lý do gì để binh vực sự gắn liền vận mạng công cuộc phát triển của chúng ta với vận mạng công cuộc phát triển của Trung Cộng’’ (Chính Đề Việt Nam, trang 338).
Tùng Phong nói: “sự gắn liền vận mạng của chúng ta vào vận mạng Trung Cộng là một hành động di hại cho Dân Tộc’’. (Chính Đề Việt Nam, trang 290) Sự áp dụng các phương pháp huy động nhân lực Trung Cộng vào trường hợp Việt Nam, mặc dầu hoàn cảnh phát triển của chúng ta không hề đòi hỏi những phương tiện như vậy, là “làm sống lại tâm lý thuộc quốc gần như đã chết trong thế kỷ, của những người tự ty mặc cảm trước “Trung Hoa vĩ đại’’, lúc nào cũng xem Việt Nam là “một Trung Hoa con con’’ (Chính Đề Việt Nam, trang 342). Nếu Trung Hoa diễn tuồng trên sân khấu 100 m2, Việt Nam cũng phải diễn cùng một tấn tuồng trên 1 m2 .  “Ngày nay, vì nước Tàu thi hành phương pháp độc tài đảng trị kinh khủng một cách rộng lớn, thì Bắc Việt cũng phải thi hành phương pháp độc tài đảng trị kinh khủng một cách nho nhỏ’’ (Chính Đề Việt Nam, trang 342)
Sự quy phục thuyết cộng sản “sẽ đương nhiên biến sự đe dọa thống trị của nước Tàu đối với Việt Nam thành thực tế…’’, các nhà lãnh đạo cộng sản áp dụng phương pháp độc tài đảng trị ở Việt Nam “sẽ đương nhiên tạo điều kiện thuận lợi cho Trung Cộng xâm chiếm Việt Nam’’ vì phương pháp đó “sẽ suy nhược hóa sức đề kháng của Dân Tộc đối với kẻ xâm lăng’’ (Chính Đề Việt Nam, trang 373).
“Trong tình thế chính trị chúng ta được mục kích, sự quy phục thuyết cộng sản của các nhà lãnh đạo Bắc Việt tự nó là một sự thần phục Trung Cộng, như các triều đại xưa của chúng ta thần phục Trung Hoa…’’ (Chính Đề Việt Nam, trang 374).
“Sự quy phục lý thuyết cộng sản sẽ đương nhiên gắn liền vận mạng công cuộc phát triển Dân Tộc chúng ta vào vận mạng công cuộc phát triển của Trung Hoa…Như vậy có nghĩa là “chúng ta tự ý bỏ công cuộc phát triển của chúng ta’’ (Chính Đề Việt Nam, trang 374)
Sự lệ thuộc trên đây là một lệ thuộc nặng nề của Việt Nam đối với văn hóa Tàu.
Từ ngày lập quốc, cách đây hơn một ngàn năm, sự chi phối của Trung Hoa đối với Việt Nam nặng nề đến đỗi tâm lý thuộc quốc bao trùm mọi lĩnh vực của đời sống của Dân Tộc.
Tâm lý này xuất phát từ hai sự kiện: Tự ty mặc cảm đối với “Trung Hoa vĩ đại’’, và sự lệ thuộc của ta đối với văn hóa Tàu. Những lời ca tụng “Trung Hoa vĩ đại’’ của miền Bắc, những điệu âm thanh Trung Cộng của đài phát thanh Hà Nội, những điệu vũ nữ hòa bình, và những y phục theo Tàu đều là “những biểu lộ thiết thực của một sự lệ thuộc văn hóa càng ngày càng sâu đậm của miền Bắc đối với Trung Cộng’’ bởi vì “các nhà lãnh đạo miền Bắc đã chấp nhận một sự lệ thuộc tư tưởng’’ (Chính Đề Việt Nam, trang 375).
Mà cũng vì lệ thuộc chủ nghĩa cộng sản mà cuộc chiến đấu dành độc lập của chúng ta tiêu hao bao sinh lực Dân Tộc, mà xảy ra tình trạng chia đôi đất nước, mà chiến tranh tàn phá cái vốn nhân lực và tài nguyên của chúng từ hai mươi năm nay. (Chính Đề Việt Nam, trang 376). Từ mười năm nay [1954] Bắc Việt chưa thực hiện được những mục tiêu đáng kể, trong khi các thực hiện của Nam Việt đều bị du kích quân Bắc Việt phá hoại. Bao nhiêu sinh lực của Dân Tộc đã bị phí phạm.
Tùng Phong nhận xét rằng:
“Chưa có một triệu chứng nào chứng tỏ rằng các nhà lãnh đạo miền Bắc hiện nay đã nhận thức những điều kiện trên. Thư lại chính trị miền Bắc vẫn còn đang ca tụng như những chân lý những giá trị tiêu chuẩn và giai đoạn mà Nga Sô đã bỏ’’ (Chính Đề Việt Nam, trang 287). Và cũng vì các lý do trên đây, Tùng Phong nói, “chúng ta có thể quả quyết rằng các nhà lãnh đạo phía Bắc chưa nhận thức nguy cơ đang đe dọa Dân Tộc, và những ngày đen tối của chúng ta vẫn còn tiếp tục’’ (Chính Đề Việt Nam, trang 217).
Những nhận xét và cảnh báo trên đây là những nhận xét và cảnh báo thốt ra năm 1960. Những gì xảy ra từ 1975 chứng tỏ rằng tình hình càng ngày càng trầm trọng hơn thêm, và lại còn đen tối hơn là Tùng Phong đã dự đoán. Ngày nay 2009, Trung Hoa không những đe dọa sự tồn tại của Việt Nam, mà đang thực sự thôn tính Việt Nam. Nhân danh xã hội chủ nghĩa và cách mạng thế giới cộng sản Trung Hoa đã cỡi lưng cộng sản Việt Nam bành trướng ách thống trị của Trung Hoa qua vĩ tuyến 17, bao luôn Cao Nguyên Nam Phần, xuống tận Cà Mau.
Năm 1960, Tùng Phong còn hy vọng rằng “sự tồn tại miền Nam là một bảo đảm cho Dân Tộc thoát khỏi ách thống trị Trung Cộng, vừa là bảo đảm cho cơ hội phát triển của chúng ta, và vừa là một lối thoát cho các nhà lãnh đạo Bắc Việt khi họ ý thức nguy cơ họ đang tạo cho Dân Tộc…sự mất còn của miền Nam, ngày nay, lại trở thành một sự kiện quyết định sự mất còn trong tương lai của Dân Tộc’’. (Chính Đề Việt Nam, trang 301-302).
Không may cho Dân Tộc Việt Nam, hy vọng lớn trên đây đã không thành. Cuộc đảo chánh tháng 11, năm 1963, và những sự xáo trộn nó gây ra, tạo ra một tình trạng miền Nam vô chính phủ, vô lãnh đạo, sinh lực sút giảm, đồng thời những xáo trộn do những lực lượng phản chiến Hoa Kỳ áp lực chính phủ Mỹ phải bỏ rơi Việt Nam, tạo ra một tình trạng hỗn loạn, suy sụp, tạo điều kiện cho cộng sản chiến thắng và thôn tính miền Nam. Đặc biệt là lúc đó, họ càng tin là họ đã đúng đường. Nhưng, ngày nay, sau những gì đã xảy ra từ lúc cộng sản xâm chiếm miến Nam, càng ngày càng rõ rằng những gì Tùng Phong nói lên trên đây trong Chính Đề Việt Nam là đúng: Sự mất còn của miền Nam là một bảo đảm cho Dân Tộc thoát khỏi ách thống trị Trung Cộng, vừa là lối thoát cho các nhà lãnh đạo Bắc Việt khi họ ý thức nguy cơ họ đang tạo cho Dân Tộc…
Điều vừa nêu lên giúp làm sáng tỏ một vấn đề đã làm dư luận bàn tán nhiều năm 1963, và trong thờì gian qua, vẫn còn được nhiều người đề cập đến. Năm 1963 có những tin đồn rằng ông Ngô Đình Nhu (Tùng Phong) liên lạc với cộng sản. Điều này nay đã được những người thân cận xác nhận. Nhưng điều quan trọng nhất (để làm gì) thì ngoài ông Nhu ra, không ai biết ông Nhu và những người bên kia bàn gì với nhau. Nay ông Nhu đã mất, điều này vẩn chưa được soi sáng vì không có, và không còn nhân chứng, trừ anh Cao Xuân Vỹ, mà chính anh Cao Xuân Vỹ cũng không được biết.
Nay, chỉ còn tôi là người nhân chứng duy nhứt. Nhưng tôi chỉ làm nhân chứng những điều sau đây do chính ông Nhu đã tiết lộ trong một cuộc họp báo với ký giả ngoại quốc vào cuối tháng 9 năm 1963. Tôi là thông dịch viên trong buổi họp báo đó, (xin xem hình kèm) và tôi đã nghe và thông dịch hai điều sau đây:
1.- Ông đã tiếp Trần Độ ngay “trong phòng này’’, văn phòng của ông, nơi mà ông đang tiếp các ký giả.
2.- Trần Độ có hỏi ông: “Nếu chúng tôi buông súng thì Việt Nam sẽ thế nào ?’’
Như vậy nghĩa là:
1.- Ông Nhu đã có tiếp xúc với phía cộng sản.
2.- Ông Nhu đã có đề cập đến vấn đề phía cộng sản ngưng chiến.
Với những lý luận gì ? Nay Chính Đề Việt Nam -ta nên nhớ rằng tác phẩm này được hoàn tất vào năm 1962 cho phép ta nghĩ rằng Ông Nhu đã nói với phía bên kia như sau:
1.- Chuyên chế độc tài đảng trị không thể chấp nhận được, và khư khư ôm lấy thuyết cộng sản, như các nhà lãnh đạo miền Bắc đang làm, là sai, vì nó không thich nghi với hoàn cảnh đặc biệt của Việt Nam và không giải quyết được vấn đề phát triển hiện đại hóa của Dân Tôc Việt Nam được.
2.- Áp dụng thuyết cộng sản là thần phục Trung Hoa, tái lập sự lệ thuôc của Dân Tộc Việt Nam đối với Trung Hoa như dưới các triều xưa, và tạo điều kiện cho Trung Hoa xâm chiếm Việt Nam.
3.- Sự tồn tại của miền Nam là một lối thoát cho lãnh đạo miền Bắc khỏi mang tiếng là đã hy sinh quyền lợi của Dân Tôc Việt Nam, và phục vụ quyền lợi Trung Hoa.
Như ta đã thấy ở đoạn trên, Ông Nhu than phiền rằng các nhà lãnh đạo miền Bắc đã mù quáng không chịu bỏ thuyết cộng sản, vẫn cho đó là chân lý, nhất quyết
“trụ’’ với giải pháp độc tài đảng trị, và quy phục Trung Cộng.
Đó là năm 1962. Bây giờ, năm 2009, tình trạng lại trầm trọng và khẩn trương hơn. Và không biết bao giờ lại mới có cơ hội, và một sự lãnh đạo sáng suốt để bảo đảm công cuộc phát triển để giải quyết vấn đề đặt ra cho Dân Tộc Việt Nam từ một ngàn năm: “cởi bỏ cho Dân Tộc tâm lý thuộc quốc đối với Trung Hoa’’, như Lý ThườngKiệt và Nguyễn Huệ đã làm. (Chính Đề Việt Nam, trang 342)
Dù sao, ngày nay, với Chính Đề Việt Nam, lối tiếp cận và giải pháp đã có, ngoài hai điều kiện vừa nêu trên, chỉ cần một điều kiện căn bản hơn cả, mà Tùng Phong đưa ra trong phần kết thúc tác phẩm. Đó là:
“Trong tình hình chính trị thế gới hiện nay, và trong trình độ tiến hóa của nhân loại hiện nay, các vấn đề Dân Tộc Việt Nam, trong thời kỳ này, chỉ có thể tìm ra được một giải đáp nếu chúng ta trụ vào vị trí Dân Tộc’’. (Chính Đề Việt Nam, trang 503)
Và Tùng Phong kết luận vói một lời nhắc và hai lời kêu gọi.
Lời nhắc đề cập đến một thực tế mà ta không thể phủ nhận được. Đó là dưới áp lực của nhân khẩu, Trung Hoa phải bành trướng. Sự bành trướng này đã mở màn.
“Nếu chúng ta không thức tỉnh thì một trong những nạn nhân đầu tiên của sự bành trướng nói trên sẽ là chúng ta. Chỉ tưởng tượng đến viễn ảnh đó cũng đủ làm cho chúng ta khủng khiếp’’.
Và hai lời kêu gọi, một lời hướng về miền Nam, và một lời hướng về miền Bắc:
1.- “công cuộc chống sự xâm lăng của miền Bắc không lúc nào khẩn thiết cho cộng đồng Dân Tộc Việt Nam bằng trong lúc này hết.
2.- Chúng ta mong mỏi các nhà lãnh đạo miền Bắc kịp thời nhận định đã đến lúc, vì sự tiến hóa của Dân Tộc, không nên tiếp tục sự trụ đóng vào phương tiện cộng sản nữa’’. (Chính Đề Việt Nam, trang 505-506)
Ngày nay, miền Nam không còn nữa, mà Tùng Phong cũng không còn nữa, nhưng lời nhắc và những lời kêu gọi trên lại còn thích hợp hơn lúc nào hết.

Viết cho Đặc SanVào dịp Lễ Tưởng Niệm Tống Thống Ngô Đình Diệm
Tháng 11, năm 2009
Tôn Thất Thiện

ethongluan khẳng định Chính đề Việt Nam của Lê Văn Đồng ?

nhưng dcvonline lại khẳng định đây là tác phẩm của ông Nhu : -

   Ai là tác giả cuốn “Chính Đề Việt Nam”? (Kết)

Chính đề Việt Nam(Tùng Phong)

“…Chỉ có sự tôn trọng tinh thần dân chủ mới là một lợi khí sắc bén nhất để cho một nước nhỏ và yếu như nước chúng ta chống lại ngoại xâm…”

Phạm Đỉnh: Thông Luận hân hạnh gửi đến bạn đọc toàn văn quyển Chính Đề Việt Nam của Tùng Phong.

Sách được in lần đầu tại Sài Gòn năm 1964, sau cuộc đảo chính của các tướng lĩnh dẫn đến cảnh tượng khủng hoảng chính trị nghiêm trọng. Chính Đề Việt Nam trình bày quan điểm của tác giả về vấn đề dân chủ và phát triển đất nước trong bối cảnh thế giới vào thời điểm những năm 1960. Đây là một thiên chính luận có tính cách một cương lĩnh chính trị cho miền Nam lúc bấy giờ, nếu được giới lãnh đạo quan tâm chú ý.

Đáng tiếc là sách đã không được chính giới lúc bấy giờ trân trọng. Theo lời tác giả, sách chỉ bán được khoảng 100 quyển trong số 1000 ấn bản năm 1964.

Tác giả trên bìa sách Chính Đề Việt Nam là Tùng Phong, bút danh của Lê Văn Đồng.

Ông Lê Văn Đồng du học luật tại Pháp, quen biết ông Ngô Đình Nhu tại Paris. Khi ông Ngô Đình Diệm về cầm quyền ông Nhu biết ông Đồng là người có bản lĩnh chính tri nên mời ông Đồng làm bộ trưởng Canh Nông và tham gia bộ tham mưu chính tri của ông Diệm do ông Nhu câm đầu. Chẳng bao lâu hai ông Lê Văn Đồng và Ngô Đình Nhu bất đồng ý kiến (ông Đồng là một người dân chủ, ông Nhu chủ trương đôc tài), ông Đồng từ chức năm 1957 và từ đó bị ông Nhu theo dõi như một đối thủ. Hai người thỉnh thoảng cũng gặp nhau như hai người bạn cũ, khi ông Nhu mời, nhưng lạnh nhat.

Từ đó ông Đồng sinh sống bằng cách dạy học và làm những hồ sơ nghiên cứu chính trị cho toà đại sứ Mỹ.

Năm 1964, sau khi ông Diệm và ông Nhu bị lật đổ, ông Đồng mới cho xuất bản tại Sài Gòn cuốn Chính Đề Việt Nam đưới bút hiệu Tùng Phong, trong đó ông dứt khoát trình bày lập trương dân chủ trong cách giải quyết các vấn đề Việt Nam.

Năm 1975 ông Đồng tị nạn sang Mỹ. Ông chuyển sang ngành toán, đậu tiến sĩ toán và trở thành giáo sư toán tại đại học Louisiana.

Năm 1984 ông tình cờ đọc được cuốn Cơ Sở Tư Tưởng, dự án chính trị đầu tiên của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên do ông Ngô Đình Luyện gửi. Ông chia sẻ quan điểm của Cơ Sở Tư Tưởng, và tham gia tích cực trong việc bàn bạc và tu chỉnh bản dự án chính trị dân chủ đa nguyên. Ông đột ngột qua đời vài tháng trước khi dự án chính trị được in ra lần đầu (1992).

Phổ biến chính văn Chính Đề Việt Nam của Tùng Phong, Thông Luận trang trọng gửi một thiên chính luận giàu chất trí tuệ và tính tiền phong đến bạn đọc khắp nơi hằng quan tâm trăn trở về những vấn đề thiết thân của đất nước. Như một của tin của những người dân chủ Việt Nam gửi lại thế hệ đang tới.

Tùng Phong

CHÍNH ĐỀ VIỆT NAM

* VỊ TRÍ CỦA VIỆT NAM TRONG THẾ GIỚI HIỆN ĐẠI
* HOÀN CẢNH LỊCH SỬ CỦA CỘNG ĐỒNG QUỐC GIA
* CỘNG SẢN VÀ SỰ PHÂN CHIA LÃNH THỔ
* ĐƯỜNG LỐI PHÁT TRIỂN CỦA DÂN TỘC
SÀI GÒN
NHÀ XUẤT BẢN ĐỒNG NAI
1964
Một dân tộc hùng cường là
Một dân tộc giàu chiến sĩ vô danh

Đức Phú Tô Phong


KÍNH TẶNG CÁC CHIẾN SĨ VÔ DANH
CỦA CỘNG ĐỒNG QUỐC GIA

MỤC LỤC


Bối cảnh của vấn đề
Phần I
Nhận định về thế giới
Phần II
Vị trí của Việt Nam trong khung cảnh vừa trình bày
Phần III
Điều kiện nội bộ
Phần IV
Một lập trường thích hợp với các nhận xét trên
Kết luận
Trụ mà không trụ


Photobucket - Video and Image Hosting

BỐI CẢNH CỦA VẤN ĐỀ

Nước Việt Nam là một nước nhỏ, nhỏ về dân số, nhỏ về lãnh thổ, nhỏ về kinh tế kém phát triển, và nhỏ về sự góp phần của chúng ta vào văn minh nhân loại.

Trong suốt phần lịch sử nhân loại mà chúng ta được biết tới ngày nay, số phận của các quốc gia nhỏ từ xưa vẫn không thay đổi. Lúc nào các quốc gia nhỏ cũng phải bị chi phối bởi những trận phong ba bão táp vô trách nhiệm do các nước lớn gây ra. Và lúc nào cũng sống dưới sự đe doạ liên tục của một cuộc ngoại xâm.

Từ ngày lập quốc, hơn một ngàn năm lịch sử đã chứng minh rằng Việt Nam chúng ta không thoát ra ngoài vận mạng thông thường đó. Hết phải chống Bắc, rồi phải chống Tây, rồi lại phải chống Bắc. Liên tục, và lúc này hơn lúc nào hết, nạn ngoại xâm vẫn đe doạ dân tộc Việt Nam.

Để duy trì ách thống trị của mình, các cường quốc xâm lăng thường áp dụng, đối với các dân tộc bị trị, nhiều biện pháp, tuy có khác nhau về hình thức, nhưng chung quy vẫn thuộc hai loại chính:

* Ngăn ngừa không để cho các quyền lợi kinh tế thuộc vào tay người bản xứ.
* Kiềm hãm không để cho dân trí phát triển.

Các loại biện pháp thứ nhất nhằm mục đích tiêu diệt tất cả các phương tiện vật chất của người bị trị.

Các loại biện pháp thứ hai nhằm mục đích tiêu diệt những người có khả năng sử dụng các phương tiện vật chất trên, nghĩa là các nhà lãnh đạo xứng danh.

Đối với các dân tộc bị trị, hai loại biện pháp trên đều có những hậu quả vô cùng thảm khốc. Tuy nhiên, nếu không có phương tiện của mình thì còn có thể tìm phương tiện khác, chớ nếu không có người lãnh đạo, thì dù có phương tiện cũng không sử dụng được.

Vì vậy cho nên, đối với một quốc gia mà nền độc lập bị đe doạ hay đã mất, thì phương pháp hữu hiệu nhất và điều kiện thiết yếu nhất để chống lại ngoại xâm là nuôi dưỡng và phát triển sự lãnh đạo.

Trong thực tế, nuôi dưỡng và phát triển sự lãnh đạo có nghĩa là tạo hoàn cảnh thuận lợi để cho cái tinh tuý của tập thể hun đúc nên thiểu số lãnh đạo xứng danh.

Như thế nào là lãnh đạo xứng danh?

Thiểu số lãnh đạo và sự thấu triệt vấn đề của cộng đồng

Trong toàn bộ của cộng đồng, gồm có thiểu số lãnh đạo cộng đồng và đại đa số chịu sự lãnh đạo. Cộng đồng lành mạnh khi nào giữa thiểu số lãnh đạo và đa số chịu sự lãnh đạo, sự thông cảm chạy đều, dẫn dắt đến một sự phối hợp hữu hiệu trong mọi công cuộc của cộng đồng.

Thiểu số lãnh đạo xứng danh phải bao gồm những người có đạo đức. Nghĩa là có “Nhân” theo cổ nhân.

Thiểu số lãnh đạo xứng danh phải gồm những người có đủ khả năng vật chất, lý trí và tinh thần để ứng phó với các tình thế. Nghĩa là có “Dũng” và có “Lược” theo cổ nhân.

Thiểu số lãnh đạo xứng danh phải gồm những người thấu triệt vấn đề cần phải giải quyết của tập thể. Nghĩa là có “Trí” theo cổ nhân. Đời sống của một cộng đồng cũng như đời sống của một cá nhân, có thể chia thành từng thời kỳ. Trong đời sống của một cá nhân, một thời kỳ trung bình mười năm. Đối với một cộng đồng, mỗi thời kỳ cố nhiên phải tương xứng với đời sống cộng đồng và có thể là một vài thế kỷ. Trong mỗi thời kỳ của đời sống, mỗi cá nhân phải đương đầu với một ít vấn đề chánh và đặc biệt của thời kỳ đó. Và mỗi cộng đồng cũng phải giải quyết một số vấn đề chánh, thiết yếu cho cộng đồng, trong mỗi thời kỳ.

Thiểu số lãnh đạo xứng danh phải thấu triệt vấn đề đó để hướng dẫn cộng đồng trên đường tiến hoá, thích nghi chẳng những với khung cảnh của thế hệ hiện tại, mà lại còn với đời sống vĩnh cửu của cộng đồng.

Các đức tính “Nhân” “Dũng” “Lược” phát sinh từ một căn bản thiên phú, nếu được hoàn cảnh bên ngoài xã hội và cố gắng bên trong cá nhân nuôi dưỡng và rèn luyện, sẽ phát triển đến đúng mức. Nhưng nếu không gặp được cơ hội rèn luyện và phát triển, các đức tính trên, vì là thiên phú, vẫn tồn tại trong bản chất. Do đó, các đức tính “Nhân” “Dũng” “Lược” là những điều kiện chủ quan. “Trí” nghĩa là thấu triệt vấn đề cần phải giải quyết của cộng đồng, là một điều kiện khách quan. Bởi vì sự thấu triệt vấn đề chỉ có thể được thực hiện bằng cách sưu tầm, khảo cứu, phân tích, lĩnh hội, quan sát và tổng kết những tài liệu bên ngoài liên quan đến vấn đề. Không có tài liệu bên ngoài thì một bộ óc dù thông minh xuất chúng, cũng không làm sao hiểu được vấn đề.

Các đức tính trên đều cần thiết cho một sự lãnh đạo xứng danh. Tuy nhiên, trong thực tế, sự khiếm khuyết một trong các đức tính, không mang đến những hậu quả như nhau.

Một sự lãnh đạo có đủ “Nhân” “Dũng” “Lược” nhưng không thấu triệt vấn đề cần phải giải quyết của cộng đồng không thể đưa con thuyền cộng đồng đến chiến thắng. Một sự lãnh đạo, dù thiếu “Nhân” “Dũng” “Lược”, nhưng lại thấu triệt vấn đề của cộng đồng, vẫn có hy vọng mang thắng lợi về cho cộng đồng, dù rằng thắng lợi đó phải trả bằng những gian lao và tang tóc.

Chúng ta có thể ví trường hợp thứ nhất với trường hợp của một người có xe và đánh xe rất tài, phát tốc độ, kềm cương ngựa tới, kéo ngựa lui, quanh phải, quanh trái vừa mau lẹ, vừa khoan thai không ai bì kịp. Nhưng lộ trình lại không biết. Như thế, dù xe có phóng nước lớn và vượt nghìn dặm cũng không đưa được khách đến nơi cần phải đến, vì chính người đánh xe cũng không biết đó là nơi nào.

Trường hợp thứ hai là trường hợp của một người không xe và cũng không biết đánh xe, nhưng lại thấu triệt lộ trình. Như vậy những người đồng hành với người này, có ngày sẽ đến nơi phải đến, tuy biết rằng cuộc hành trình sẽ đầy gian lao và đòi hỏi nhiều kiên nhẫn.

Suy luận như trên đây không có nghĩa là muốn chứng minh rằng “Nhân” “Dũng” “Lược” không thiết yếu cho sự lãnh đạo. Nhưng để chỉ rõ rằng mặc dù các đức tính “Nhân” “Dũng” “Lược” “Trí” đều cần thiết, tuy nhiên sự thấu triệt vấn đề cần phải giải quyết của cộng đồng là quan trọng hơn cả.

Như thế thì, tới đây, chúng ta đã làm sáng tỏ được ba điểm:

1. Việt Nam của chúng ta là một nước nhỏ và yếu, lúc nào cũng bị nạn ngoại xâm đe doạ.
2. Trong công cuộc chống ngoại xâm, một khí giới hữu hiệu nhất là phát triển lãnh đạo.
3. Trong công cuộc phát triển lãnh đạo, điều kiện thiết yếu cần được thoả mãn là: Thiểu số lãnh đạo phải thấu triệt vấn đề cần phải giải quyết của cộng đồng.

Đa số chịu lãnh đạo và vấn đề cần phải giải quyết của cộng đồng

Sự thấu triệt vấn đề của cộng đồng quan hệ như thế nào đối với thiểu số lãnh đạo, trên đây chúng ta đã thấy.

Một cộng đồng trong toàn bộ gồm nhiều phần tử cá nhân hợp thành, chia làm hai khối, thiểu số lãnh đạo và đa số chịu sự lãnh đạo. Thiểu số lãnh đạo có trách nhiệm với vận mạng của cộng đồng.

Cộng đồng có tồn tại mới bảo đảm được phát triển của cá nhân. Cộng đồng tồn tại nhờ cố gắng và hi sinh của cá nhân, tình nguyện hay cưỡng bách, đóng góp. Nhưng lý do của cuộc sống là sự thoả mãn ước vọng chánh đáng của cá nhân.

Nói một cách khác, lý do của cuộc sống là lý do cá nhân. Mà điều kiện của cuộc sống là điều kiện cộng đồng. Vì thế cho nên, ngay trong bản chất đã có sự mâu thuẫn giữa quyền lợi của cộng đồng và quyền lợi của cá nhân trong cộng đồng. Một mâu thuẫn như thế thuộc vào loại mâu thuẫn lúc nào cũng có ở trong nội tâm [1] của mọi cuộc phối hợp sáng tạo giữa hai lực lượng tương phản.

Cứu cánh của sự lãnh đạo là thực hiện một trạng thái điều hoà tuyệt đối giữa hai quyền lợi mâu thuẫn, cá nhân và cộng đồng. Nếu sự điều hoà được thực hiện dưới hình thức một sự thăng bằng động tiến, nghĩa là hai lực lượng tương phản sẽ dựa nhau và kích thích nhau để tiến, thì toàn thể cộng đồng sẽ tiến triển. Nếu sự điều hoà được thực hiện dưới hình thức một sự thăng bằng tĩnh chỉ, nghĩa là hai lực lượng tương phản sẽ đóng khung và kềm giữ nhau, toàn thể cộng đồng sẽ mất đà tiến và trở thành trụ đóng. Nếu sự điều hoà không được thực hiện, cộng đồng sẽ tan vỡ.

Nhưng sự mâu thuẫn giữa hai quyền lợi cá nhân và cộng đồng không phải lúc nào cũng quyết liệt. Trong những thời kỳ bình thường của cộng đồng, cộng đồng không đứng trước một thử thách khó khăn, và không đòi hỏi nhiều sự đóng góp của cá nhân. Trong những thời kỳ đó, sự mâu thuẫn dịu đi – và công cuộc lãnh đạo chú trọng đến việc giữ cho trật tự xã hội được mọi người tôn trọng, và đời sống của mỗi cá nhân được phát triển.

Nhưng ở vào những thời kỳ mà cộng đồng phải đương đầu với một cuộc thử thách nghiêm trọng, và vì sự sống còn của cộng đồng, đòi hỏi những đóng góp to tát của cá nhân, sự mâu thuẫn trên lên đến cực độ. Sự lãnh đạo ngoài sự bảo vệ trật tự xã hội còn phải quy tụ những phương tiện vật chất và nhân sự vượt quá mức thông thường để đưa cộng đồng lướt qua các trở lực.

Sự mâu thuẫn trở thành cực kỳ trầm trọng. Trạng thái điều hoà rất khó thực hiện và sự tan vỡ của cộng đồng có thể đến bất cứ lúc nào.

Như thế, sự mâu thuẫn, khi nhẹ khi nặng, lúc nào cũng có. Trong thực tế, sự mâu thuẫn giữa hai quyền lợi, cộng đồng và cá nhân, sẽ biến hình thành sự mâu thuẫn giữa thiểu số lãnh đạo và đa số chịu sự lãnh đạo, vì thiểu số lãnh đạo nhân danh cộng đồng đòi hỏi sự đóng góp của đa số chịu sự lãnh đạo. Sự mâu thuẫn càng ác liệt, nếu đại đa số không ý thức cộng đồng và không hiểu biết vấn đề cần giải quyết của cộng đồng. Trường hợp này càng dễ xảy ra trong các cộng đồng nghèo nàn về vật chất và ấu trĩ trong tổ chức. Đa số chịu lãnh đạo không được cộng đồng bảo đảm cho những cần thiết tối thiểu và sơ đẳng nên không có lý do tâm lý để biết đến cộng đồng, và, mải bận tâm giải quyết các vấn đề của đời sống hằng ngày, không có thời giờ mà hiểu biết vấn đề của cộng đồng.

Trong những thời kỳ bình thường, có thể miễn cưỡng thay thế sự tự ý tham gia của đa số chịu sự lãnh đạo vào đời sống của cộng đồng bằng sự cưỡng bách tôn trọng luật lệ của cộng đồng. Nhưng trong những thời kỳ thử thách thì uy tín vững chắc của một lãnh tụ, hay sự cưỡng bách bằng võ lực cũng không thay thế được sự đóng góp có ý thức vào nhu cầu của cộng đồng.

Và điều kiện thiết yếu để thực hiện sự tự giác đóng góp như vậy là đa số chịu sự lãnh đạo phải ý thức cộng đồng và hiểu biết vấn đề cần phải giải quyết của cộng đồng. Có như vậy thiểu số lãnh đạo và đa số chịu sự lãnh đạo mới phối hợp điều hoà và tạo cho cộng đồng sinh lực cần thiết để vượt qua các thử thách quyết liệt đang đợi chờ.

Nhiều hậu quả trực tiếp

Sự liên hệ đương nhiên giữa thiểu số lãnh đạo và đa số chịu sự lãnh đạo trong một cộng đồng cũng đã đặt cho đa số chịu lãnh đạo sự cần thiết phải hiểu biết vấn đề cần phải giải quyết của cộng đồng.

Hơn nữa, trong thực tế, nếu đa số chịu lãnh đạo ý thức vấn đề của cộng đồng, thì cộng đồng còn có thể tránh được nhiều bước lỡ lầm mà hậu quả sẽ rất tai hại cho các công cuộc chung.

Đa số chịu lãnh đạo càng ý thức được vấn đề chung, thì đường đất xoay trở càng rộng cho chiến thuật hành động của thiểu số lãnh đạo. Cuộc tranh đấu càng gay go, chiến thuật càng trở nên khuất khúc và bất ngờ. Và như vậy sự phối hợp giữa thiểu số lãnh đạo và đa số chịu lãnh đạo sẽ không sứt mẻ và cái sắc bén của chiến thuật không bị sờn. Kẻ địch không lợi dụng được hoàn cảnh nghiêm khắc do cuộc thử thách tạo ra để ly gián giữa thiểu số và đa số của cộng đồng.

Mọi sự lãnh đạo đều phải chịu sự phê bình. Có phê bình xây dựng và có phê bình đả phá. Ngay trong lúc bình thường, đa số chịu lãnh đạo cũng không dễ dàng phân biệt được sự phê bình xây dựng với sự phê bình đả phá. Trong những lúc nhiệt độ không khí tranh đấu lên cao và bao trùm mọi việc thì sự nhận định càng dễ bị đánh lạc hướng và thiện chí càng dễ bị lợi dụng bởi những chủ trương phá hoại. Tuy nhiên, nếu đa số chịu lãnh đạo ý thức vấn đề của cộng đồng, thì ít nhiều cũng sẽ có một tiêu chuẩn để nhận xét tính chất của sự phê bình và không bị những chủ trương phá hoại lừa gạt. Ví như hành khách, có thể không thấu lộ trình như người lái xe, nhưng nếu nhiều hành khách có ý thức về lộ trình thì người lái xe khó mà mang một lộ trình lạ vào thay thế cho lộ trình mà nhiều người biết qua.

Một sự lãnh đạo chân thành vì quyền lợi của cộng đồng cũng có lúc phạm vào những lỗi lầm mà hậu quả sẽ có hại cho cộng đồng. Nhiều cuộc đầu cơ khéo ngụy trang có thể lừa gạt đa số chịu lãnh đạo của cộng đồng. Trong hai trường hợp trên đa số có thể bị lôi cuốn vào những công việc tai hại. Và do đó có thể dẫn dắt cộng đồng đến chỗ sụp đổ.

Đa số chịu lãnh đạo dù không thấu triệt vấn đề cần phải giải quyết của cộng đồng, nhưng nếu đã có ý thức, cũng có thể kịp thời nghe theo những lời cảnh tỉnh xây dựng và từ chối không dự vào những công cuộc đưa cộng đồng vào vòng tiêu diệt.

Càng phân tích các trường hợp như trên, chúng ta càng nhận thấy tính cách thiết yếu của sự hiểu biết vấn đề cần phải giải quyết của cộng đồng đối với đa số chịu lãnh đạo.

Nhiều hậu quả gián tiếp

Đối với một cộng đồng quốc gia nhỏ và yếu như quốc gia của chúng ta, lúc nào cũng bị nạn ngoại xâm đe doạ, sự ý thức vấn đề của cộng đồng đối với đa số chịu lãnh đạo còn hàm nhiều hậu quả tuy gián tiếp nhưng rất là quan trọng.

Trong những thời kỳ phải đương đầu với nhiều thử thách quyết liệt, vận mạng của cộng đồng bị đe doạ, thiểu số lãnh đạo bắt buộc phải đòi hỏi ở đa số chịu lãnh đạo nhiều cố gắng phi thường, nhiều hy sinh nặng nề và nhiều đóng góp to tát. Nhưng nếu trong hoàn cảnh đó, đa số chịu lãnh đạo lại không ý thức đúng mức vấn đề của cộng đồng, thì chẳng những sự góp phần của họ sẽ miễn cưỡng và không xứng đáng, mà lại còn sẽ phát sinh một hiện tượng tâm lý rất nguy hiểm cho cộng đồng. Vì tin rằng bị cưỡng bách đóng góp một cách quá đáng vào một công cuộc mà họ không hiểu, đa số chịu lãnh đạo càng ngày càng bất mãn đối với thiểu số lãnh đạo. Và lần lần sự bất mãn biến thành căm thù và cuối cùng vùng lên thành phẫn nộ. Đến cực độ này, đa số chịu lãnh đạo sẽ trở thành một công cụ sắc bén cho bất cứ một kẻ ngoại xâm nào biết thừa cơ hội đứng lên khoác áo nghĩa hiệp giải phóng cho đa số tự cho là bị thiểu số lãnh đạo bóc lột.

Trong lịch sử của chúng ta, sự thất bại của nhà Hồ và cuộc xâm lăng nước ta của quân Minh tiếp theo đó, là một sự kiện lịch sử điển hình cho trường hợp vừa phân tích trên đây. Hồ Quý Ly quyết định thực hiện một cuộc cách mạng toàn diện cho dân tộc Việt Nam. Xét lại sử liệu, cuộc cách mạng theo nhà Hồ quan niệm, nếu thành công đã thay đổi hẳn cuộc tiến hoá của dân tộc. Nghĩa là con đường nhà Hồ đã vạch ra là con đường vô cùng lợi ích cho cộng đồng. Nhưng Hồ Quý Ly, để thực hiện chương trình, đã cưỡng bách đa số chịu lãnh đạo đóng góp nặng nề, trong khi đa số không ý thức được vấn đề của cộng đồng. Và những biến cố đã xảy ra như ta đã biết: Quân Minh đã lấy danh nghĩa giải thoát dân tộc Việt Nam khỏi tay một tên soán ngôi, để cướp cả nước của chúng ta.

Trong ví dụ lịch sử trên đây, nếu đa số chịu lãnh đạo hiểu biết được ít nhiều vấn đề, đã tránh cho chúng ta một trong bảy cuộc xâm lăng mà nước Tầu đã dành cho chúng ta trong một ngàn năm lịch sử.

Nhưng sự hiểu biết vấn đề của cộng đồng đối với đa số chịu lãnh đạo không những có một hiệu quả tiêu cực đối với nạn ngoại xâm, như chúng ta vừa thấy trên đây, mà lại còn có một hiệu quả tích cực trong công cuộc chống lại nạn ngoại xâm lúc nào cũng đe doạ chúng ta. Những lý lẽ để chứng minh sự kiện này lại nằm trong một ngàn năm lịch sử của dân tộc Việt chống lại Trung Hoa.

Kinh nghiệm lịch sử của chúng ta chứng tỏ rằng, rốt cuộc lại, không phải ngoại giao, cũng không phải quân lực đã giúp cho chúng ta mấy lần đánh bại các cuộc xâm lăng của Trung Hoa và mấy lần quật khởi sự thống trị ác nghiệt của họ. Bởi vì, ngoại giao chỉ mạnh khi nào có quân lực mạnh làm hậu thuẫn. Và bởi vì, dù dũng lược có thừa, nhưng tài nguyên vật chất và nhân lực của chúng ta giới hạn thì quân lực của chúng ta cũng giới hạn.

Chúng ta đã đánh bại quân xâm lăng và quật đổ ách thống trị vì chúng ta có người lãnh đạo và ý thức quốc gia được hun đúc và nuôi dưỡng cũng như vấn đề của quốc gia được giải thích sâu rộng trong đa số chịu lãnh đạo. Như vậy thì sự đa số chịu lãnh đạo ý thức cộng đồng quốc gia và hiểu biết vấn đề cần phải giải quyết của cộng đồng là lợi khí sắc bén nhất để cho một quốc gia nhỏ và yếu như chúng ta chống lại nạn ngoại xâm.

Các trường hợp đã phân tích trên đây chứng minh rằng sự đa số chịu lãnh đạo hiểu biết vấn đề cần phải giải quyết của cộng đồng hàm chứa nhiều hậu quả ích lợi thiết yếu cho cộng đồng.

Nếu chúng ta nhìn nhận rằng, sự đa số chịu lãnh đạo hiểu biết vấn đề mặc nhiên sẽ đưa đến sự đa số chịu lãnh đạo tham gia trực tiếp hay gián tiếp vào chính sự của cộng đồng.

Và nếu chúng ta lại nhìn nhận rằng, sự đa số chịu lãnh đạo tham gia trực tiếp hay gián tiếp vào chính sự của cộng đồng là bản chất của tinh thần dân chủ, thì các điểm sau đây lại được sáng tỏ:

1. Chỉ có sự tôn trọng tinh thần dân chủ mới là một lợi khí sắc bén nhất để cho một nước nhỏ và yếu như nước chúng ta chống lại ngoại xâm.
2. Phát huy sự hiểu biết của đa số chịu lãnh đạo đối với vấn đề cần phải giải quyết của quốc gia là góp phần tích cực nhất vào công cuộc xây dựng và củng cố tinh thần dân tộc.

Một ví dụ cụ thể và khắc tín

Trên đây chúng ta đã dẫn chứng để quả quyết hai điều.

* Thiểu số lãnh đạo thấu triệt vấn đề cần phải giải quyết của cộng đồng là một điều thiết yếu cho cộng đồng.
* Đa số chịu lãnh đạo hiểu biết vấn đề cần phải giải quyết của cộng đồng là một điều thiết yếu cho cộng đồng.

Các biến cố dồn dập xảy ra trong lịch sử Việt Nạm từ hai mươi năm nay mà mọi người đều còn ghi nhớ có thể lấy làm một ví dụ cụ thể và minh xác để chú giải hai điều trên đây.

Thiểu số lãnh đạo và vấn đề

Từ hai mươi năm nay và còn trong nhiều năm nữa, các biến cố chính trị ở Việt Nam đều phát sinh từ sự tranh giành ảnh hưởng giữa hai chủ trương Quốc Gia và Cộng Sản. Mặc dù toàn bộ Việt Nam đều bị sự chi phối nặng nề của hai thế giới Tự Do và Cộng Sản, sự hơn kém giữa hai chủ trương vẫn tùy thuộc ở một số yếu tố nội bộ quyết định, trong số đó sự lãnh đạo chiếm một vai trò quan trọng.

Sau này trong phần chính của quyển sách, chúng ta sẽ phân tích với nhiều chi tiết những lý do vì sao chủ trương Cộng Sản chẳng những sẽ không giải quyết được vấn đề của quốc gia Việt Nam trong thời kỳ nầy của cộng đồng mà lại còn sẽ đưa dân tộc vào một con đường đen tối cho nhiều thế hệ trong tương lai.

Mặc dù lý trí của phần đông chưa quan niệm được một cách rõ rệt hiểm hoạ trên, nhưng số người trong mọi tầng lớp ngày càng chống lại chủ trương Cộng Sản càng tăng, vì ghê sợ phương pháp cai trị tàn bạo của họ và ý thức ít nhiều về sự họ từ chối không nhìn nhận lý do cá nhân của cuộc sống.

Đã thế, một sự kiện không khỏi làm cho chúng ta suy nghĩ. Vì sao, trong hoàn cảnh đó, chủ trương Cộng Sản lại càng ngày càng lấn áp chủ trương Quốc Gia?

Các lãnh tụ quốc gia, lo cho vận mạng của nước nhà, đã để nhiều tâm trí tìm câu trả lời.

Lý thuyết tranh đấu

Nhiều người tin rằng, sở dĩ chủ trương Cộng Sản thắng thế là vì nhờ có một lý thuyết tranh đấu. Để đối phó với chủ trương Cộng Sản thì ngược lại chủ trương Quốc Gia không có một lý thuyết tranh đấu. Do đó từ hai mươi năm nay, nhiều lý thuyết đã được tạo ra. Nhiều lý thuyết lấy một học thuyết triết học hay tôn giáo làm căn bản. Một số khác mượn nền tảng của một chủ nghĩa tranh đấu chính trị đã, trong một lúc nào đó và tại một nơi nào đó trên thế giới, chống lại chủ nghĩa Cộng Sản. Đối với một vài lý thuyết, tư tưởng hoàn toàn đóng khung trong giới hạn dân tộc. Một vài lý thuyết khác khoáng đạt hơn dựa trên một hệ thống tư tưởng của các triết học danh gia thế giới.

Có nhiều xu hướng lại mang lập trường Quốc Gia để chọi lại lập trường Quốc tế, xem như là lập trường của Cộng Sản. Và quên đi rằng đối với một quốc gia, ngay cả các quốc gia Cộng Sản, mọi chủ trương đều được nghiên cứu vừa trên lập trường Quốc Gia vừa trên lập trường Quốc tế.

Các lý thuyết đưa ra làm lý thuyết tranh đấu để chống lại chủ nghĩa Cộng Sản đã có nhiều. Và hiện nay vẫn còn có người đang đi tìm một lý thuyết khác nữa với tác dụng trên.

Giá trị tư tưởng các lý thuyết rất khác nhau nhưng tất cả đều bất lực trong vai trò mong mỏi: Giúp cho chủ trương Quốc gia chiến thắng chủ trương Cộng Sản. Chẳng những thế tất cả các lý thuyết đều mang đến một kết quả bất ngờ và trái ngược: Mỗi lý thuyết có một số người tin tưởng, nhất quyết trung thành với lý thuyết của nhóm mình và thành thật hay miễn cưỡng bảo vệ lý thuyết đó. Thành ra khối người theo chủ trương Quốc Gia chia năm xẻ bảy làm cho sinh lực chống lại kẻ địch còn yếu hơn là lúc không có lý thuyết. Thật là không có gì làm cho người Cộng Sản vui sướng bằng tình trạng đó. Và họ chỉ ước mong khối quốc gia tạo ra thêm nhiều lý thuyết tương tự.

Một quan niệm cần chỉnh đốn

Nguyên do của một tình trạng như vậy rất dễ hiểu. Đã là một lý thuyết thì không phải là thực tế. Nếu lý thuyết lại lấy một thuyết học triết lý làm căn bản thì lại càng không thực tế nữa. Như chúng ta đều biết: Hai người chủ trương hai học thuyết triết học khác nhau có thể cãi vã nhau đến tận thế mà không bao giờ đi đến một sự thoả thuận.

Vì thiếu căn bản thiết thực đó cho nên các lý thuyết đưa ra dù có một giá trị tư tưởng khá cao đi nữa, cũng không có năng lực phát quang để thuyết phục ai cả.

Tự đặt cho mình một lý thuyết thiếu căn bản thực tế lại còn mang đến một hậu quả tai hại khác. Những người tin tưởng vào lý thuyết đó tự bắt buộc phải tôn trọng những nguyên tắc thiếu thực tế mà lý thuyết đề ra.

Đến khi hành động và đụng chạm với thực trạng của vấn đề thì phải lâm vào một tình thế không lối thoát. Bởi vì thực trạng của vấn đề đâu có chiều ý của tác giả lý thuyết mà uốn nắn mình vào khuôn khổ các nguyên tắc đã đề ra. Trong trường hợp đó thì, hoặc phản bội lý thuyết mà theo thực tể, hoặc tôn trọng lý thuyết mà phủ nhận thực tế. Trong trường hợp thứ nhất thiểu số lãnh đạo sẽ mất uy tín, dần dần mất tin tưởng của đa số và sẽ đi đến thất bại. Trong trường hợp thứ hai thất bại sẽ đến ngay. Vì thực tế không thể phủ nhận được.

Sức mạnh của sóng và gió

Khi nhìn thấy mãnh lực quy tụ của lý thuyết tranh đấu Cộng Sản và bị mãnh lực đó ám ảnh, các nhà lãnh đạo của khối Quốc Gia mới suy thấu có một nửa đường. Họ chưa nhìn thấy rằng lý thuyết Cộng Sản chỉ là một phương tiện tranh đấu và sở dĩ phương tiện tranh đấu đó có một mãnh lực như chúng ta đều biết, là nhờ có hậu thuẫn của một công trình nghiên cứu sự kiện thực tế lịch sử của nhiều thế hệ tư tưởng gia. Trong trường hợp nào khối Cộng Sản đã lấy lý thuyết đó làm một phương tiện tranh đấu, chúng ta sẽ thấy sau này trong phần chính của quyển sách.

Lý luận trên đây giúp cho chúng ta thấy ngay vì sao một lý thuyết tranh đấu do một nhóm người ngồi lại nạo óc ra viết không thể phù hợp với thực tế được. Đã không phù hợp với thực tế thì làm sao mang đến những kết quả mong mỏi được và sớm muộn gì cũng bị đào thải.

Người ta nhìn thấy mãnh lực của lý thuyết tranh đấu, nhưng không nhìn thấy công trình nghiên cứu thực tế lịch sử làm hậu thuẫn cho mãnh lực đó, cũng như nhìn thấy mãnh lực của lượn sóng mà không nhìn thấy sức mạnh của gió tạo ra lượn sóng.

Cộng Sản và Tây phương

Nếu có thể tạo được một lý thuyết để chống lý thuyết tranh đấu Cộng Sản thì đã lâu rồi, trong cuộc chiến đấu ác liệt giữa xã hội Tây phương và Cộng Sản, Tây phương đã tạo ra thứ khí giới sắc bén đó. Nhưng, biết rằng lý thuyết Cộng sản là một phương tiện tranh đấu chỉ tìm được mãnh lực của nó trong sự nghiên cứu thực trạng xã hội, nên Tây phương nhất là nhữg dân tộc có óc thực tế như Anh, Mỹ đã tìm giải quyết các vấn đề do thực trạng xã hội tạo ra để thắng chủ nghĩa Cộng Sản. Họ đã thành công.

Ngày nay, ở Âu Mỹ, sở dĩ chủ nghĩa Cộng Sản xuống trào, không phải vì giá trị tư tưởng tuyệt đối đã kém. Nhưng vì thực trạng xã hội ở Âu Mỹ hiện nay đã thay đổi khác xưa nhiều và cái lý thuyết mà Cộng Sản dùng làm phương tiện tranh đấu không còn phù hợp với thực trạng hiện nay của xã hội Âu Mỹ nữa. Đây là nguyên nhân chánh của sự tu chỉnh lý thuyết Các-mác Lê-nin mà nhiều lãnh tụ Cộng Sản đang chủ trương. Sự kiện trên lại chứng minh rằng sức mạnh của một lý thuyết tranh đấu không phải ở giá trị tư tưởng của lý thuyết mà ở sự thấu triệt thực trạng của đối tượng.

Như thế thì, khi tạo ra những lý thuyết để chống lại Cộng sản mà không tìm hiểu thực trạng của vấn đề, các nhà lãnh đạo của khối Quốc Gia đã làm một việc của những người lãnh đạo không thấu triệt vấn đề. Và lý thuyết tranh đấu, mặc dù là một khía cạnh đáng để ý của vấn đề, tuyệt nhiên chưa phải là vấn đề.

Vấn đề xã hội

Tây phương đã thắng chủ nghĩa Cộng Sản trong nội bộ xã hội của họ, bằng cách giải quyết các vấn đề xã hội cho lớp người sút kém về kinh tế. Nhân cái gương đó, nhiều lãnh tụ Quốc Gia cũng cho rằng nếu giải quyết các vấn đề xã hội trong nội bộ của chúng ta thì chúng ta sẽ thắng Cộng Sản. Nhận xét trên đúng mà không đúng. Đúng vì vấn đề xã hội cũng chiếm một phần quan trọng trong vấn đề của chúng ta, nhưng tuyệt nhiên chưa phải là vấn đề. Một mặt khác thực trạng của xã hội Tây phương lúc chủ nghĩa Cộng Sản hoành hành không phải là thực trạng của xã hội của chúng ta ngày nay.

Tín ngưỡng

Lại có nhiều chủ trương lấy tín ngưỡng mà chống lại Cộng Sản. Tín ngưỡng là một nhu cầu thiêng liêng của tất cả mọi người. Vì thế khả năng quy tụ của một tôn giáo đối với các tín đồ là một điều kiện không thể phủ nhận được. Tín ngưỡng là một tín hiệu tập hợp hữu hiệu. Các chế độ Cộng Sản đàn áp tôn giáo chính vì khả năng quy tụ nói trên, lúc nào cũng đe doạ sự độc quyền lãnh đạo cộng đồng mà theo họ nhất thiết phải dành cho đảng Cộng Sản.

Nhưng tác dụng thật sự và đương nhiên của sự quy tụ của tín ngưỡng là một tác dụng tôn giáo nghĩa là chú trọng về phần linh hồn, về phần sau của cuộc đời hiện tại. Và nếu không có Cộng Sản thì sụ quy tụ đó cũng vẫn có. Nói một cách khác sự quy tụ đó tự nó không có mục đích chống lại chủ trương Cộng Sản. Chỉ khi nào, ví dụ trong một chế độ Cộng Sản, có sự đàn áp tôn giáo, bởi vì chế độ Cộng Sản không thể dung dưỡng một sự quy tụ nào khác hơn sự quy tụ là đảng Cộng Sản, thì sự quy tụ tôn giáo mới trở thành một hành động chống Cộng Sản. Nhưng sự chống lại vẫn là một hành động tiêu cực, nghĩa là sự chống lại có mục đích tự bảo vệ và nếu đàn áp chấm dứt thì sự chống lại cũng chấm dứt.

Sự quy tụ tôn giáo chỉ có hiệu lực chính trị khi nào cộng đồng tôn giáo đứng vào thế đối lập và tiêu cực chống lại một chủ trương.

Ở trong một trường hợp mà sự kiện Cộng Sản đàn áp tôn giáo vẫn còn là một viễn ảnh chưa thành hình thì sự quy tụ tôn giáo tự nó chưa có điều kiện để chống Cộng Sản. Nếu mà các tín đồ có nhìn được xa và nhất quyết không muốn sống cảnh đàn áp tôn giáo của Cộng Sản, và do đó nhất quyết chống lại Cộng Sản, thì hành động đó cũng vẫn còn là một hành động tiêu cực chưa có thể mang lại thắng lợi.

Muốn cho khả năng quy tụ tôn giáo trở thành một lợi khí chống Cộng Sản thì phải mang cái khả năng quy tụ đó mà dùng vào một công cuộc có mục đích giải quyết vấn đề thiết thực của cộng đồng. Nghĩa là các nhà lãnh đạo chủ trương lấy tín ngưỡng mà chống lại Cộng Sản, phải thấu triệt vấn đề cần phải giải quyết của cộng đồng và sử dụng khả năng quy tụ của tín ngưỡng để giải quyết vấn đề đó.

Nói tóm lại, tín ngưỡng tự nó không phải là một lợi khí chống lại chủ trương Cộng Sản. Tín ngưỡng sẽ trở thành lợi khí chống lại Cộng Sản trong hai trường hợp:

1. Khi bị Cộng Sản đàn áp.
2. Khi khả năng quy tụ của tín ngưỡng được sử dụng trong công cuộc giải quyết các vấn đề do thực trạng xã hội tạo ra.

Lý thuyết Cộng Sản mạnh nhờ có một hậu thuẫn phong phú: Sự nghiên cứu các sự kiện thiết thực lịch sử. Tín ngưỡng sẽ là một lợi khí mạnh chống lại chủ trương Cộng Sản khi cũng có một hậu thuẫn nghiên cứu sự kiện thiết thực lịch sử.

Chủ trương lấy tín ngưỡng để thắng Cộng Sản lại có thể đưa đến một kết quả bất lợi, cũng tương tự như kết quả bất lợi mang đến bởi các lý thuyết chống chủ trương Cộng Sản. Ranh giới các cộng đồng tôn giáo không ăn khớp với các cộng đồng quốc gia. Một quốc gia gồm nhiều cộng đồng tôn giáo và một tôn giáo có thể có tín đồ trong nhiều quốc gia. Thêm vào đó sự kiện đương nhiên là mỗi tín ngưỡng đều có cái phần giáo lý riêng biệt của mình thường không dung nạp các giáo lý khác. Thành ra sự huy động thiếu tinh vi lực lượng tín đồ của nhiều tôn giáo có thể mang đến xung đột và chia rẽ trong nội bộ của cộng đồng quốc gia.

Tiêu cực chống và tích cực chống

Như vậy thì các biến cố chính trị ở Việt Nam từ hai mươi năm nay là một ví dụ cụ thể để minh xác rằng sự thấu triệt vấn đề cần phải giải quyết của cộng đồng rất là thiết yếu cho thiểu số lãnh đạo.

Về phần họ, các nhà lãnh đạo Cộng Sản có phải là một thiểu số lãnh đạo thấu triệt vấn đề cần phải giải quyết của cộng đồng không? Trong phần chính của quyển sách sau này, chúng ta sẽ thấy rằng cường điểm của họ ở chỗ cùng với sự thâu nhận lý thuyết Cộng Sản làm lợi khí tranh đấu, họ đã thừa hưởng của Cộng Sản quốc tế một công trình nghiên cứu sự kiện thực tế lịch sử rất phong phú. Tuy nhiên, nhược điểm của họ cũng ở chỗ họ đã trụ vào một di sản ngoại lai, trong khi thực trạng vấn đề Việt Nam ngày nay không phải là thực trạng vấn đề các quốc gia Cộng Sản mà họ lấy làm gương mẫu.

Tóm lại các điểm dưới đây có thể dùng làm kết luận cho đoạn trên.

Lý thuyết Cộng Sản là một phương tiện tranh đấu của một chủ trương. Sức mạnh của chủ trương này do di sản của cộng sản quốc tế: Một công trình nghiên cứu thực trạng xã hội rất phong phú.

Trên chính trường của Việt Nam từ hai mươi năm nay, chủ trương cộng sản đưa ra làm một giải pháp cho vấn đề cần phải giải quyết của cộng đồng quốc gia Việt Nam. Toàn bộ của vấn đề này do thực trạng lịch sử của cộng đồng Việt Nam trong thời kỳ này tạo ra. Thời kỳ này cố nhiên gồm nhiều thế kỷ vừa qua và sẽ gồm nhiều thế kỷ sắp đến.

Giải pháp Cộng Sản có thích hợp cho cộng đồng hay không, phần chính của quyển sách sẽ trả lời tỉ mỉ câu hỏi này. Nay chỉ biết rằng sức mạnh của chủ trương Cộng Sản ở chỗ chủ trương này đã lấy làm hậu thuẫn sự nghiên cứu đến nơi thực trạng của vấn đề.

Như thế thì, nếu muốn cho chủ trương Cộng Sản thất bại, thì phải làm hai việc:

1. Tìm hiểu rõ thực trạng của vấn đề cần phải giải quyết của cộng đồng.
2. Có một giải pháp khác để thay thế cho giải pháp Cộng Sản.

Nhưng thay vì hai việc thiết thực trên, thì, cho đến ngày nay, các nhà lãnh đạo của khối Quốc Gia chỉ đặt vấn đề chống lại chủ trương Cộng Sản một cách tiêu cực. Tiêu cực ở đây không có nghĩa là không nhiệt thành mà chống lại, nhưng có nghĩa là đặt sự chống làm mục đích. Vì sau cái việc chống không có một giải pháp cho vấn đề cần phải giải quyết của cộng đồng dân tộc.

Nếu vấn đề chưa giải quyết, thì, dù chủ trương Cộng Sản bị đánh bại bằng những phương pháp nào đó trong nhất thời cái nguyên nhân để cho chủ trương Cộng Sản tồn tại vẫn còn.

Hơn nữa, để thực hiện sự chống lại chủ trương Cộng Sản, chẳng những tư tưởng của khối Quốc Gia tiêu cực, mà lợi khí sử dụng lại không sắc bén. Các chủ trương chính trị không có khả năng quy tụ, nhưng một khi quy tụ rồi thì lại không sử dụng được sự quy tụ đó vì thiếu chương trình để giải quyết vấn đề của dân tộc.

Nếu cần một ví dụ để làm sáng tỏ suy luận trên đây, chúng ta có thể ví thiểu số lãnh đạo Cộng Sản với một số người, trước khi xây một ngôi nhà đã thừa hưởng kết quả của một cuộc đào cẩn thận cho đến tận đá, và trên cái khối đá vững chắc đó, họ đã đặt nền móng cho một ngôi nhà theo quan niệm của họ. Nhưng hướng, kích thước, và kiến trúc của ngôi nhà có thích hợp với cộng đồng không? Chúng ta sẽ trả lời sau này. Nay chỉ biết rằng ngôi nhà họ muốn xây dựng, được đặt trên một nền móng vững vàng có thể chịu đựng được sự lay chuyển của biến cố.

Trong khi đó thiểu số lãnh đạo khối Quốc Gia không nỗ lực đào đến đá, không quan niệm trước sẽ xây ngôi nhà ra sao, lại bất cứ trên bùn trên cát cũng hấp tấp xây nhà, cái nhỏ, cái lớn. Nhưng nền móng không vững, các biến cố xảy đến gây sụp đổ lần lượt cái này đến cái khác.

Nếu khối Quốc Gia đánh lại được khối Cộng Sản, làm cho chọ không xây được ngôi nhà mà họ quan niệm, thì sự nghiệp đã đào đến đá mà họ thừa hưởng của Cộng Sản Quốc Tế vẫn còn đó, và quan niệm của họ về ngôi nhà vẫn còn đó.

Vấn đề của thiểu số lãnh đạo Quốc Gia là phải đào cho đến đá, trên đó đặt nền móng cho một ngôi nhà được quan niệm rõ rệt cho thích hợp với cộng đồng. Chỉ có cách đó khối Quốc Gia mới thay thế được và loại hẳn ra được ngôi nhà của chủ trương Cộng Sản.

Sở dĩ khối Quốc Gia lâm vào tình trạng sa lầy như trên chỉ vì thiểu số lãnh đạo không thấu triệt vấn đề.

Như vậy thì các biến cố chính trị ở Việt Nam hai mươi năm nay là một ví dụ rất cụ thể và minh xác cho sự kiện thiểu số lãnh đạo phải thấu triệt vấn đề cần phải giải quyết của cộng đồng.

Đa số chịu lãnh đạo và vấn đề

Thiểu số lãnh đạo đã không thấu triệt vấn đề cần phải giải quyết của cộng đồng, tất nhiên đa số chịu lãnh đạo không làm sao hiểu được vấn đề.

Và như thế những sự kiện khả dĩ làm đổ vỡ sự điều hoà giữa thiểu số lãnh đạo và đa số chịu lãnh đạo, như chúng ta đã biết, sẽ lại xảy ra còn trầm trọng hơn là trong trường hợp mà thiểu số lãnh đạo thấu triệt vấn đề nhưng đa số chịu lãnh đạo không hiểu biết vấn đề.

Giữa hai phần, thiểu số và đa số, của cộng đồng chẳng những không có một sự phối hợp điều hoà, lại còn có một sự đoạn tuyệt kinh khủng. Đối với bất cứ một vấn đề gì, chủ trương của thiểu số lãnh đạo đều không được đa số hiểu biết và tán thành. Do đó, thiểu số lãnh đạo chỉ còn có phương pháp mạnh để bắt buộc đa số phải tuân theo.

Kẻ thù không bỏ lỡ cơ hội, cố tâm nỗ lực đào sâu cái hố giữa thiểu số và đa số. Lúc nào sự bất mãn của đa số đối với thiểu số cũng ngấm ngầm, và bùng nổ dữ dội trong những lúc khủng hoảng.

Thỉnh thoảng uy tín cá nhân của một vài người có thể thực hiện được sự quy tụ cần thiết cho sự tiến triển của quốc gia trong một thời gian. Nhưng vì những yếu tố căn bản của sự điều hoà giữa hai khối thiểu số và đa số không có, nên không bao lâu, việc đâu lại hoàn đấy.

Ôn lại và phân tích các biến cố chính trị đã xảy ra từ hơn hai mươi năm nay trong khối Quốc Gia Việt Nam, tất cả đều có thể hiểu được khi ta biết rằng nguyên do chính ở chỗ không có sự phối hợp giữa đa số chịu lãnh đạo và thiểu số lãnh đạo.

Trong những hậu quả mà sự đoạn tuyệt giữa thiểu số lãnh đạo và đa số chịu lãnh đạo mang đến cho cộng đồng, hậu quả sau đây đã thể hiện một cách rõ rệt trong những biến cố hiện đang tiến diễn.

Chúng ta biết rằng, mâu thuẫn đương nhiên lúc nào cũng có giữa thiểu số lãnh đạo và đa số chịu lãnh đạo, trở nên vô cùng trầm trọng, khi hai điều kiện dưới đây xảy ra một lúc.

1. Có sự đoạn tuyệt giữa thiểu số lãnh đạo và đa số chịu lãnh đạo.
2. Nhu cầu của cộng đồng bắt buộc thiểu số đòi hỏi một sự đóng góp nặng nề của đa số chịu lãnh đạo.

Đa số chịu lãnh đạo không hiểu biết lý do của sự đóng góp của mình và nghĩ rằng bị thiểu số bóc lột. Sự phẫn nộ do đó càng ngày càng lên. Lúc bấy giờ bất cứ một kẻ xâm lăng nào đứng lên phất cờ giải phóng, đa số chịu lãnh đạo sẽ hướng vào một cách mù quáng.

Trường hợp trên đây đã xảy ra một cách điển hình, ít có, gần đây trong khối Quốc Gia của Việt Nam. Vì nhu cầu phát triển, thiểu số lãnh đạo đã đòi hỏi nhiều nỗ lực ở đa số chịu lãnh đạo, nhất là ở thôn quê vào những năm 1958-1959 trong những chương trình gọi là phát triển cộng đồng. Nhưng vì một khiếm khuyết của thiểu số lãnh đạo, cho nên đa số chịu lãnh đạo không ý thức sự cần thiết của những nỗ lực đòi hỏi. Do đó sự bất mãn nhen nhúm và lần lần lan tràn.

Nhà cầm quyền Cộng Sản ở Hà Nội khai thác ngay cơ hội và năm 1960 đã đưa quân xâm lăng vào miền Nam với danh nghĩa quân “Giải phóng”. Cố nhiên là những người tự cho mình bị thiểu số lãnh đạo miền Nam bóc lột hưởng ứng và hiện nay chúng ta còn đang mục kích hiện tượng nói trên.

Ở miền Bắc Việt Nam tình trạng mâu thuẫn giữa thiểu số lãnh đạo Cộng Sản và đa số chịu lãnh đạo cũng không kém gay go.

Thiểu số lãnh đạo Cộng Sản ý thức vấn đề phát triển của cộng đồng, như chúng ta sẽ thấy trong phần chánh sau này. Nhưng phương pháp phát triển của họ đòi hỏi một sự đóng góp tột bực của đa số chịu lãnh đạo. Vì vậy cho nên, mặc dù kỹ thuật dân vận của họ có hiệu quả, sự bất mãn của đa số ngày càng cao và tuy chế độ cảnh sát của họ rất nghiệt, thỉnh thoảng vẫn có những cuộc nổi dậy chứng tỏ sự phẫn nộ của đa số chịu lãnh đạo.

Nếu thời cơ đưa đến, bất cứ một người nào phất cờ giải phóng miền Bắc, sẽ được đa số chịu lãnh đạo hưởng ứng nồng nhiệt.

Như vậy các biến cố xảy ra ở Việt Nam từ hơn hai mươi năm nay là một ví dụ cụ thể, minh xác tính cách thiết yếu của sự hiểu biết vấn đề cộng đồng cần phải giải quyết đối với đa số chịu lãnh đạo.

Đề xuất đối tượng

Thiểu số lãnh đạo thấu triệt vấn đề cần phải giải quyết của cộng đồng là một điều kiện thiết yếu cho cộng đồng.

Đa số chịu lãnh đạo hiểu biết vấn đề cần phải giải quyết của cộng đồng là một điều kiện thiết yếu cho cộng đồng.

Đối tượng của quyển sách này là tìm xem vấn đề cần phải giải quyết của cộng đồng Quốc Gia Việt Nam trong thời kỳ này của cộng đồng là vấn đề gì.

Trong khuôn khổ vài ba trăm trang giấy, và đối với một vấn đề đương nhiên quan hệ cho dân tộc và tự nó phức tạp như vấn đề nêu lên đây, ước vọng của tác giả không làm sao vượt lên quá được cái mức công việc chỉ nêu lên các khía cạnh của vấn đề, và, những dây liên hệ giữa các khía cạnh trong toàn bộ. Mặc dù đã tham khảo một số lớn tài liệu trong nước cũng như ngoại quốc và để tâm nghiên cứu vấn đề trong nhiều năm, tác giả không khỏi lấy làm lo sợ và đắn đo khi phải trình bày kết quả suy luận riêng của mình. Động cơ duy nhất khiến cho tác giả thắng được sự e dè của mình là nỗi lo âu mà tác giả chia sẻ với toàn dân Việt Nam trước tình thế rất bi quan của dân tộc. Vì vậy mà đánh bạo đóng góp một phần nhỏ nhặt vào công cuộc tìm lối thoát cho cộng đồng Quốc Gia.

Ba bối cảnh

Đối tượng chánh vẫn là vấn đề cần phải giải quyết của cộng đồng dân tộc. Nhưng, bao giờ cũng vậy, một phần của toàn bộ lúc nào cũng được sáng tỏ hơn khi được đặt vào toàn bộ. Vì thế nên vấn đề cần phải giải quyết riêng của Việt Nam sẽ được đặt trong ba bối cảnh. Bối cảnh thứ nhất là bối cảnh rộng lớn của tình hình chính trị thế giới. Bối cảnh thứ hai, nhỏ hơn, gồm các nước trong thế giới đang ứng phó với một thử thách tương tự, như thử thách của Việt Nam. Và sau cùng, bối cảnh thứ ba là một bối cảnh hẹp gồm các quốc gia thuộc về một khối văn hoá với Việt Nam: Các nước láng giềng ở Đông Á và Đông Nam Á.

Thị kỳ sở dĩ [2]

Một mặt khác mỗi thời kỳ của cộng đồng dân tộc gồm nhiều thế hệ trước và sau thế hệ hiện tại. Vả lại, thực trạng lịch sử mà chúng ta nhìn thấy trước mắt là hậu quả của những sự kiện đã xảy ra hằng mấy thế kỷ trước và là nguyên nhân của những sự kiện sau này. Vì thế nếu muốn tìm hiểu thực trạng hiện tại và dự đoán các biến cố trong tương lai, bắt buộc phải xét lại lịch sử của nhiều thế kỷ đã qua. Ví như chúng ta hiểu được cốt truyện đang diễn tả trên màn bạc và đoán được ít nhiều những cảnh sắp tới, là khi nào chúng ta đã xem qua các đoạn trước của cuốn phim. Do đó, sẽ có nhiều chương dành cho lịch sử của nhiều quốc gia trong những thế kỷ đã qua.

Giải pháp

Sau khi, nhờ ở những sự phân tích trên, vấn đề cần phải giải quyết của Việt Nam trong thời kỳ hiện tại của cộng đồng đã sáng tỏ, nhiều chương sẽ dành cho sự nghiên cứu một giải pháp mà tác giả nghĩ rằng thích hợp cho dân tộc.

Nhưng trước khi bàn tới giải pháp đề nghị, thì, theo gương các người lữ hành, trước khi lên đường, chúng ta sẽ kiểm điểm lại cái vốn tinh thần và vật chất mà chúng ta có, cũng như những món nợ phải mang theo mình. Vài chương sẽ được dành cho bản mục lục đó.

Cuối cùng vài chương sẽ dành để phác hoạ giải pháp mà tác giả thiển nghĩ rằng thích hợp cho vấn đề. Các khía cạnh chính trị, kinh tế và văn hoá sẽ được đề cập đến.

Như trên đã nói, đối với một vấn đề bao la và phức tạp như vậy và trong khuôn khổ của vài ba trăm trang, ước vọng của tác giả không thể vượt quá cái mức công việc chỉ nêu lên các khía cạnh của vấn đề. Phần nghiên cứu tỉ mỉ và chỉ giáo xin trân trọng dành cho các bậc học giả trong nước.

Vị trí của tác giả

Bất cứ một đối tượng nào cũng có thể được nhìn từ nhiều vị trí. Vị trí khác, kết quả của sự nhìn sẽ khác, nghĩa là hai người từ hai vị trí khác nhau cùng nhìn một vật thể, mỗi người sẽ thấy một vật thể khác.

Trong các đoạn nhận xét, phân tích và suy luận dưới đây, đối với một vấn đề hay nhiều vấn đề, tùy theo hoàn cảnh tác giả sẽ đứng từ những vị trí khác nhau. Ví dụ có nhiều sự kiện sẽ có khi được nhận xét từ một vị trí quốc gia, và có khi từ một vị trí của một cộng đồng ngoài quốc gia. Lúc nào trường hợp đến, người đọc sẽ nhận thấy ngay là vị trí nào.

Tuy nhiên, có hai vị trí cần phải có sự thoả thuận trước giữa tác giả và người đọc. Vì nếu không có sự thoả thuận trước, thì nhiều vấn đề hoặc khía cạnh của vấn đề sẽ không được sáng tỏ, vì tác giả và người đọc sách sẽ đứng vào những vị trí khác nhau.

Vị trí thứ nhất là một vị trí lúc nào tác giả cũng sẽ đứng vào để nhìn tất cả các vấn đề trình bày: Đó là vị trí thực tế lịch sử. Bởi vì thực tế lịch sử không có thể phủ nhận được. Và trên nền tảng vững chắc đó mới có thể lấy óc khoa học mà suy luận không sợ phạm vào những lỗi lầm căn bản.

Vị trí thứ hai là vị trí không bao giờ tác giả dám đứng vào để nhìn bất cứ vấn đề nào được trình bày: Đó là vị trí triết lý tôn giáo, và lý thuyết là những lĩnh vực mà sự đối chọi giữa hai chủ trương trái ngược có thể kéo dài vô cùng tận. Bất cứ trong lãnh vực nào của đời sống của cộng đồng: chính trị, văn hoá, và kinh tế, sự nhận xét phân tách và suy luận của tác giả đều căn cứ trên những sự kiện lịch sử và để một bên tất cả các lý thuyết. Hành động như trên không có nghĩa là phủ nhận sự ích lợi của lý thuyết và giá trị của nhiều lý thuyết. Nhưng cố định đứng ngoài vị trí triết lý và lý thuyết để tránh tất cả các sự biện luận không thiết thực và do đó không thích hợp với mục đích của quyển sách.

Tài liệu tranh đấu

Mấy trăm trang dưới đây không phải là một tài liệu tranh đấu theo nghĩa thông thường của danh từ này. Nghĩa là lời văn sẽ không đanh thép, và ý văn sẽ không đề cao bất cứ cái gì của dân tộc hay của khối Quốc Gia. Hình thức sẽ không cổ võ nhiều người đứng lên dấn thân vào một công cuộc chung và nội dung sẽ không cố tình binh vực một lập trường đã quyết định trước.

Nhưng mấy trăm trang dưới đây có thể là một tài liệu tranh đấu, nếu gọi là một tài liệu tranh đấu, tài liệu nào khả dĩ mang thắng lợi tới cho chủ trương Quốc Gia Dân Tộc.

Bởi vì mấy trăm trang dưới đây là một tài liệu nghiên cứu sự kiện thực tế của lịch sử. Mà thấy được thực trạng của vấn đề, biết mình và biết chung quanh mình là một yếu tố quyết định cho sự thắng lợi.

Chính vì lập trương nghiên cứu sự kiện thực tế của lịch sử cho nên tự ti mặc cảm tuyệt nhiên không có, khi nhận xét rằng Việt Nam là một quốc gia nhỏ và yếu. Nhỏ và yếu vì dân số, vì kinh tế kém mở mang, và vì sự góp phần vào văn minh nhân loại. Trái lại, chính vì không tự ti mặc cảm nên mới có nhận xét như vậy. Cứ gì có một dân số khổng lồ, một kinh tế phong phú mới là một dân tộc lớn. Và chính là khi chúng ta dám nhìn thẳng vào thực trạng của dân tộc, chúng ta mới đủ điều kiện đưa dân tộc vượt lên.

Và cũng vì lý do trên mà tài liệu này không đề cập đến bốn ngàn năm văn hiến của dân tộc, lại chỉ nói đến một ngàn năm lịch sử. Cũng như trên, làm như vậy không phải vì tự ti mặc cảm. Những gì trong lịch sử của chúng ta chỉ có một ngàn năm sau này mới có đủ tài liệu đích xác để làm nền tảng cho suy luận.

Lối hành văn

Sau hết tác giả cố tình sử dụng một lối hành văn dùng nhiều danh từ.

Các ngôn ngữ trên thế giới chia làm hai loại, loại cụ thể và loại trừu tượng. Ngôn ngữ cụ thể dùng nhiều động từ trong câu văn để diễn tả những động tác. Ngôn ngữ trừu tượng dùng nhiều danh từ để diễn tả những khái niệm. Văn hoá của một dân tộc càng tiến bộ, những khái niệm trừu tượng càng nhiều, ngôn ngữ càng trừu tượng. Vì một khái niệm trừu tượng lúc nào cũng diễn đạt một tư tưởng phong phú hơn một tác động cụ thể, nghĩa là một danh từ bao giờ cũng diễn đạt một tư tưởng phong phú hơn một động từ.

Giữa hai câu “Ông A đến Saigon” và “Sự đến Saigon của ông A”, câu thứ nhất chỉ diễn tả hành động cụ thể “Đến Saigon của ông A”, câu thứ hai, trái lại, mô tả chẳng những hành động cụ thể đó mà tất cả các sự kiện dính liền vào hành động trên.

Việt ngữ cũng có lối hành văn với danh từ, nhưng thường thì động từ vẫn quen dùng hơn. Bởi vậy cho nên câu “Ông A đến Saigon” nghe quen tai hơn.

Tuy nhiên, trong một vấn đề bao la và phức tạp như vấn đề được giải trong những trang sau này, tác giả nhận thấy sự cần thiết phải diễn tả cho hết các tư tưởng, vừa để cho cuộc suy luận được bao quát và vững chắc, vừa để cho các tư tưởng diễn tả được phong phú hầu các khía cạnh của vấn đề được sáng tỏ. Các câu văn dùng nhiều danh từ mặc dù có hơi lạ tai, nhưng hàm súc và khúc chiết hơn để diễn tả những ý kiến trừu tượng tổng quát và bao gồm, thay vì những ý kiến cụ thể giới hạn cho từng trường hợp.

Vấn đề hành văn này sẽ được đề cập đến với nhiều chi tiết trong phần văn hoá của đoạn sau cùng của quyển sách.

Đến đây kết thúc các trang giới thiệu vấn đề để bước vào phần trình bày nội dung vấn đề.

Trong suốt một ngàn năm lịch sử từ ngày lập quốc, dân tộc Việt Nam đã vượt qua nhiều thử thách mà sử còn ghi chép. Theo định luật của các sinh vật, mỗi lần vượt qua được một thử thách là mỗi lần vượt lên một nấc thang tiến hoá – một cộng đồng dân tộc là một sinh vật. Cộng đồng của chúng ta trưởng thành trong thử thách. Tuy nhiên, sự tin tưởng nơi tiềm lực của dân tộc không nên làm cho chúng ta xem thường thử thách đang đợi chờ thế hệ của chúng ta.

Trước chúng ta đã có năm thế hệ đã thất bại trước thử thách này. Từ một ngàn năm nay, dân tộc chúng ta chưa có bao giờ gặp phải một thử thách ghê gớm như vậy. Thử thách càng lớn, sự thắng lợi càng đưa dân tộc lên cao, nhưng sự thất bại cũng sẽ bi thảm một cách tương xứng cho các thế hệ sau này.

Trong hai mươi năm nay, các biến chuyển đã đưa lần sự thắng lợi và thất bại của thế hệ của chúng ta đến chỗ chỉ còn cách nhau một đường tơ. Các trang trong phần chính sẽ giải thích vì sao trách nhiệm ứng phó với thử thách hiện tại, ngày giờ này đang đè nặng lên vai của miền Nam Việt Nam. Và chưa bao giờ cộng đồng dân tộc đòi hỏi mỗi phần tử phải tham gia vào một công cuộc đầy kích thích như ngày nay.

Nếu không thấy vấn đề thì trong sự thất bại hay thắng lợi, mười phần trách nhiệm của người là năm và năm phần là vận nước.

Đã thấy vấn đề thì trong sự thắng lợi hay thất bại, mười phần trách nhiệm của người là bảy và ba phần là vận nước.

Đối với một phần tử của cộng đồng, không có sự ước mong nào thiết tha hơn là sự ước mong thấy dân tộc lại vượt qua thử thách, lần nầy cũng như những lần đã qua trong lịch sử.

(còn tiếp)
Tùng Phong Lê Văn Đồng
Chú thích:

[1] loại mâu thuẫn lúc nào cũng có ở trong nội tâm: Mâu Thuẫn Nội Tại.
[2] Cách thức khảo sát của Khổng Tử là "tam khan": "Thị kỳ sở dĩ, quan kỳ sở do, sát kỳ sở an" (xem việc người đó làm, khảo sát quá trình người đó làm, xem xét người đó làm lúc an, lúc nguy).

Tổng số lượt xem trang