Bàn luận về sắc đẹp của phụ nữ, chúng ta thường được nghe những mại viên của ngành cosmetics cũng như các chuyên viên trang điểm cho phụ nữ cho rằng: “Không có phụ nữ nào xấu cả, chỉ có những người chưa được đẹp vì họ chưa biết trang điểm”.
Phản bác một phần của nhận định này , cá nhân người viết bài này cho rằng: “thực tế có một số phụ nữ thật sự xấu không phải vì họ không biết trang điểm mà là vì họ đã trang điểm nhiều rồi mà nhan sắc của họ vẫn chưa thể đẹp lên được chút nào cả. Thí dụ: Thị Nở - girl friend của Chí Phèo trong tác phẩm của nhà văn Nam Cao hay hoặc Chị Doãn được nhà văn Vũ Trọng Phụng mô tả “Chị Doãn có cái nhan sắc của một người đàn ông không đẹp giai”.
Ông bạn thân của tôi – nhà văn Trần Văn Giang – còn chua chát hơn khi cho rằng: “thực tế có một số phụ nữ thật sự xấu nhưng vẫn chưa chịu nhìn nhận là mình xấu !!!”
Thời gian gần đây, nhà báo Huy Đức đã phóng lên mạng phổ biến quyển sách với tựa đề BÊN THẮNG CUỘC và “phe ta” đã lên tiếng đáp trả khá sôi động. Tôi viết bài viết này để chứng minh BÊN THẮNG CUỘC không phải là phía Việt Cộng mà nhà báo Huy Đức được các “bề trên “của ông ủy thác tâm sự hay nhà báo Huy Đức ghi nhận các sự kiện theo cách riêng của ông. Cũng như các phụ nữ thật sự xấu nhưng vẫn chưa chịu nhìn nhận mình là xấu, Việt Cộng chưa bao giờ nhìn nhận họ là BÊN THUA CUỘC. Sử Ký là ghi lại những sự kiện (facts), không ai có quyền và không ai có tư cách để sửa đổi sự kiện lịch sử, nhưng những thông tin tôi đưa vào bài viết này là những facts mà không thấy “phe ta” nêu ra trên diễn đàn, và tôi tin chắc rằng phía Việt Cộng sẽ thay đổi ý kiến (opinion) hoặc im lặng để ngậm ngùi cho thân phận “con ếch mà cứ muốn to bằng con bò”.
1.- Chiến tranh Triều Tiên 1950 – 1953 , khi Thống Tướng Mac Arthur chỉ huy 280,000 quân Liên Hiệp Quốc (trong đó có 250,000 binh sĩ Hoa Kỳ) đổ bộ Inchon bắt được hơn 130,000 quân Bắc Hàn và đẩy lui quân Bắc Hàn đến tận sông Áp Lục, Mao Trạch Đông chỉ thị nguyên soái Bành Đức Hoài chỉ huy 1 triệu chí nguyên quân Trung Hoa tràn sang Triều Tiên đẩy lùi quân Liên Hiệp Quốc xuống vĩ tuyên 38. Thống Tướng Mac Arthur trình kế hoạch tấn công Trung Cộng vào sâu trong lục địa, Tổng Thống Harry Truman biết kế hoạch của tướng Mac Arthur chỉ đúng về mặt quân sự, ông cất chức tướng Mac Arthur triệu hồi về Mỹ và bổ nhiệm tướng Ridgway lên thay vì ông không muốn sa lầy vào chiến trường Triều Tiên (kinh nghiệm 1 triệu quân Quan Đông của Nhật Bản rải vào Trung Hoa chả thấm vào đâu mà chỉ giữ được một số tỉnh ven biển) và khi sa lầy ở Trung Hoa thì Hoa Kỳ sẽ mất Âu Châu vào tay Staline. Cù cưa mà chả bên nào lấn chiếm thêm được nữa nên Hiệp Định ngưng chiến Bàn Môn Điếm ra đời. Cả 2 nước Nam – Bắc Triều Tiên khi ngưng bắn vào năm 1953 vẫn còn trong tình trạng chiến tranh cho đến tận bây giờ (2012). Mao Trạch Đông và Chu Ân Lai cũng như Đảng Cộng Sản Trung Hoa cảm thấy thất vọng vì Hoa Kỳ vẫn không công nhận Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa. Và cũng không thèm đối thoại với các lãnh tụ Trung Cộng trên bình diện ngoại giao chính thống.
2.- Chiến tranh Việt Pháp từ năm 1946 đến 1954 đưa Trung Cộng đến Hội Nghị Geneve , nhưng Trung Cộng vẫn không tiến triển thêm được bước nào trong mục tiêu được Hoa Kỳ công nhận.. Tháng 5/1972 khi Tổng Thống Richard Nixon đến Bắc Kinh, chính Thủ Tướng Chu Ân Lai tiết lộ chi tiết bị người Mỹ coi thường vào năm 1954 ở Hội Nghị Geneve: Chu Ân Lai lúc đó là Thủ Tướng kiêm Ngoai Trưởng của Trung Cộng đến phòng họp trước Ngoại Trưởng Dulles của Hoa Kỳ, khi Dulles đến, Chu Ân Lai tươi cười dơ tay trước. Ngoại Trưởng Dulles mặt nghiêm bước vào phòng họp mà không bắt tay Chu Ân Lai, khi đi ngang Chu Ân Lai ông này quay mặt nhìn ngang sang Chu Ân Lai rồi bước vào phòng họp nói chuyện với Ngoại Trưởng Liên Sô là Molotov và Ngoại Trưởng Anh là Sir Anthony Eden: Chu Ân Lai thừa hiểu là Dulles coi Trung Cộng là tay sai của Liên Sô nên Dulles chỉ nói chuyên với boss của Chu Ân Lai là Molotov . 10 năm sau, Tổng Thống Pháp là tướng Charles De Gaulle vì kèn cựa với Hoa Kỳ nên năm nào cũng đề nghị cho Trung Cộng gia nhập Liên Hiệp Quốc (với sự đồng thuận và hỗ trợ của Liên Sô) nhưng Hoa Kỳ vẫn nói KHÔNG. Và Trung Cộng cũng đành bó tay không có cách nào khác.
3.- Chiến tranh Việt Nam từ năm 1965 (tôi lấy thời điểm này làm mốc vì quân đội Hoa Kỳ chính thức vào Việt Nam qua văn thư yêu cầu của Thủ Tướng Phan Huy Quát) đã khiến Tổng Thống Richard Nixon và Cố Vấn Hội Đồng An Ninh Quốc Gia Hoa Kỳ là Henry Kissinger đến Bắc Kinh. Mao Trạch Đông , Chu Ân Lai và Đảng Cộng Sản Trung Hoa vui mừng “không còn chỗ nói”, vì qua bản thông cáo Thượng Hải 1972 Trung Cộng đạt được 3 mục tiêu chiến lược:
A ) Được Hoa Kỳ thừa nhận là một “thực thể quốc gia” (trước đó Hoa Kỳ chỉ coi chính quyền Trung Cộng là một “thực tế” ) cho nên sẽ có thiết lập bang giao với sứ thần đàng hoàng chứ không còn nhờ một quốc gia khác đại diện bảo vệ quyền lợi .
B ) Hoa Kỳ đồng ý cho Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa gia nhập Liên Hiệp Quốc thay thế cho Trung Hoa Dân Quốc, có quyền phủ quyết như trong Hiến Chương San Francisco quy định (mục tiêu này mãi tới 21 năm kể từ 1949, Trung Cộng mới đạt được ) .
C ) Hoa Kỳ công nhận chỉ có một nước Trung Hoa duy nhất ( nhiều người tưởng là Hoa Kỳ ngu dại khi công nhận điều khoản này, trong khi Hoa Kỳ thừa biết là Trung Cộng muốn tiến đánh Đài Loan bằng vũ lực thì phải có một hải lực cực mạnh, mặt khác vì Tổng Thống Tưởng Giới Thạch dù thực tế chỉ giữ được Đài Loan nhưng ông vẫn có một Quốc Hội đại diện cho 18 tỉnh của Trung Hoa Lục Địa và ông cho rằng chiếc ghế của Trung Hoa Dân Quốc đại diện cho nước Trung Hoa. – [nên nhớ rằng năm 1943, khi họp tại Yalta, các lãnh tụ phe Đồng Minh bàn định về kế hoạch chấm dứt Thế Chiến II và tương lai của thế giới sau khi chiến tranh chấm dứt, 4 lãnh tụ đó là: Tổng Thống Roosevelt của Hoa Kỳ , Thủ Tướng Churchil của Anh Quốc, Chủ Tịch Staline của Liên Sô và Tổng Thống Tưởng Giới Thạch của Trung Hoa , nước Pháp không có đại diện vì không được mời họp ] ) Khi Tổng Thống Lý Đăng Huy của Quốc Dân Đảng là người Đài Loan lên cầm quyền, thì thế hệ của Tưởng Giới Thạch – Tưởng Kinh Quốc đã qua đời, nếu Trung Cộng tiến đánh Đài Loan bằng vũ lực thì danh hiệu Trung Hoa Dân Quốc sẽ không còn và sẽ trở thành Cộng Hòa Đài Loan đồng thời Cộng Hòa Đài Loan sẽ chính thức xin gia nhập Liên Hiệp Quốc và Hoa Kỳ sẽ can thiệp vì Trung Cộng đã xâm lăng một quốc gia khác) .
Tuy tự công nhận là BÊN CHIẾN THẮNG trong chiến tranh Việt Nam, nhưng Trung Cộng không ồn ào khoe rùm beng như phía Việt Cộng vì cả Mao Trạch Dông và Chu Ân Lai đều hiểu rằng 2 kẻ chơi cờ đấu trí với nhau trên bàn cờ thế giới lúc bấy giờ là Hoa Kỳ và Liên Sô. Việc Hoa Kỳ không phải tự nhiên ban cho Trung Cộng nhiều đặc ân mà chính là Hoa Kỳ đã sử dụng Trung Cộng như một con cờ nhằm “chiếu bí” Liên Sô và Mao Trạch Đông + Chu Ân Lai chấp nhận vai trò ấy trong tinh thần “đôi bên cùng có lợi”.
Phía Việt Cộng do các đàn anh “phỉnh gạt” và cũng hay “nổ bậy để dương oai” để lòe và lường gạt dân Việt nên lúc nào cũng rêu rao là “Cách Mạng Việt Nam đi hết từ thắng lợi này đến thắng lợi khác” (khi xưa, thất bại thì hô lên do Mỹ - Ngụy phá hoại , bây giờ thì nói bâng quơ là do “thế lực thù địch” không dám nêu đích danh quốc gia hay chính phủ nào cả ). Tôi liệt kê vào bài viết này những mất mát và thua thiệt của Việt Cộng để chứng minh rằng Việt Cộng chỉ là những kẻ THUA CUỘC trên bàn cờ thế giới. Dĩ nhiên phía Việt Cộng (trong đó có nhà báo Huy Đức) và cả “phe ta” đều thắc mắc là chính phủ VNCH sụp đổ , quân nhân cán bộ và viên chức chính quyền VNCH bị cầm tù đày đọa trong nhiều năm trời (trong đó có cá nhân người viết bài này cũng bị cầm tù 8 năm), dân chúng của miền Nam bị kỳ thị, bị xua đuổi ra khỏi thành phố và phải vượt thoát khỏi sự cai trị hà khắc của Việt Cộng…thì không phải là PHÍA THUA CUỘC thì là phía gì ?
Việt Nam Cộng Hòa (bao gồm chính phủ và nhân dân VNCH) không phải là phía “play game” trong chiến tranh Việt Nam 1954 – 1975, chúng ta bị buộc phải tham chiến để bảo vệ lãnh thổ và sinh mạng người dân như Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu tuyên bố trước lưỡng viện Quốc Hội VNCH khi ông từ chối bước vào hòa đàm Paris năm 1968 dưới thời Tổng Thống Lyndon Johnson: “chúng ta thà rằng chết bây giờ để hy vọng rằng con cháu chúng ta được sống…”. Ba cuộc tấn công lớn trong những năm 1968 Tết Mậu Thân, Mùa Hè Đỏ Lửa trong năm 1972, cũng như cuộc Tổng Tấn Công vào đầu năm 1975 đều hoàn toàn do Bắc Việt chủ trương với sự yểm trợ tối đa về vũ khí của khối Cộng. Và biến cố 30 tháng 4 năm 1975 xảy ra vì Hoa Kỳ không muốn play game nữa, trong khi quân dân VNCH đã chiến đấu tận tình trong khả năng và ý chí của mình.
Những ai trách móc Tổng Thống Ngô Đình Diệm, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu và Thủ Tướng Trần Thiện Khiêm …phải có trách nhiệm để làm mất VNCH là nói bậy, ăn theo bả tuyên truyền của Việt Cộng: vì muốn đem lại hòa bình thật sự cho toàn cõi Việt Nam, thì phải tiêu diệt kẻ đi xâm lược là Bắc Việt, các vị lãnh đạo VNCH không ai có khả năng tiêu diệt Việt Cộng (tức là đánh gục Bắc Việt) cho nên tôi rất thương cảm các vị lãnh đạo của VNCH. Người lãnh đạo giỏi thì chông cự quân xâm lăng được lâu, người lãnh đạo dở thì chống cư với thời gian ngắn hơn. Đối với tôi,khi gặp những kẻ chê trách các vị lãnh đạo VNCH, tôi chỉ hỏi cá nhân hay phe nhóm của những kẻ đó hãy kể cho tôi nghe những nỗ lực giữ nước của họ, thì những kẻ này bỏ đi vì họ và phe nhóm của họ NOTHING TO DO (ấy là chưa kể họ và phe nhóm của họ dấu diếm và chứa chấp Việt Cộng trong nhà như là một hình thức “đâm sau lưng chiến sĩ” ).
Sự thua thiệt thứ nhất: Hồ chí Minh cướp chính quyền trong tay của chính phủ Trần Trọng Kim, tuyên bố độc lập vào ngày 2 tháng 9 năm 1945 nhưng không có một cường quốc nào công nhận cả ( kể cả Liên Sô là nước khai sinh ra chế độ Cộng Sản). Hồ chí Minh và Đảng Cộng Sản Việt Nam khoác lác tuyên truyền và sửa lịch sử rằng họ cướp chính quyền từ tay thực dân Pháp trong khi thực tế cho thấy rằng khi quân đội Nhật đảo chính quân Pháp tại Đông Dương vào tháng 3 năm 1945 thì tất cả viên chính hành chánh và quân đội Pháp đều bị bắt giam hết cả: thực dân Pháp đâu còn nắm chính quyền nữa thì lấy đâu ra chính quyền trong tay thực dân Pháp để cho Hồ chí Minh và Đảng Cộng Sản Việt Nam cướp !!!
Đối với Anh Mỹ , qua cơ quan OSS và tài liệu của Sở Liêm Phóng Đông Dương, họ biết Hồ chí Minh là một tên Cộng Sản đệ tam quốc tế. Còn Staline thì cho rằng Hồ chí Minh là tay sai của Mao Trạch Đông nên Liên Sô không ủng hộ ( Staline nhận định quá chính xác vì quả thực Hồ chí Minh là tay sai của Mao Trạch Đông mặc dù mồm miệng vẫn ca tụng Staline ) . Vả lại hội nghị Postdam xảy ra ngay sau khi Hitler tự sát và nước Đức Quốc Xã đầu hàng vào tháng 5/1945 đã phân định trách nhiệm và địa phận của các nước thắng trận trước khi nước Nhật đầu hàng vào tháng 8/1945.
Vì Việt Nam không được các cường quốc công nhận sự độc lập vừa mới tự xưng nên khi quân đội Trung Hoa của Tổng Thống Tưởng Giới Thạch (do tướng Lư Hán chỉ huy ) vào Việt Nam giải giới quân đội Nhật từ vĩ tuyến 16 trở ra và quân đội Anh (do tướng Gracey chỉ huy) vào Việt Nam giải giới quân đội Nhật từ vĩ tuyến 16 trở vào thì Hồ chí Minh không dám đưa ra bất kỳ lời phản đối nào. Tướng Charles de Gaulle – thủ lãnh của nước Pháp Tự Do – vận động riêng với Thủ Tướng Churchill của Anh cho phép quân Pháp theo chân quân Anh vào Sài Gòn (quân Pháp do tướng Lecler chỉ huy). Tôi không thấy Hồ chí Minh và Bộ Ngoại Giao của nước VNDCCH đưa ra được một công hàm ngoại giao nào để lên tiếng phản đối về sự can thiệp của các lực lượng ngoại nhập vào công việc nội bộ của một nước độc lập tự chủ ? Như vậy chứng tỏ Hồ chí Minh và chính quyền của nước VNDCCH không hề có một thể diện nào trên chính trường thế giới. Khi quân đội Anh làm xong nhiệm vụ giải giới quân đội Nhật, tướng Gracey rút quân Anh ra khỏi Việt Nam thì quân đội Pháp do tướng Lecler chỉ huy vẫn ở lại miền Nam, thì chiến tranh Việt – Pháp là điều không thể tránh được.
Sự thua thiệt thứ hai: năm 1949, sau khi đuổi được phe Quốc Dân Đảng phải chạy ra Đài Loan, Mao Trạch Đông và Đảng Cộng Sản Trung Hoa tiến chiếm toàn bộ Trung Hoa Lục Địa, Trung Cộng liền viện trợ ồ ạt cho binh đội của Việt Minh. Năm 1950, Tướng Võ Nguyên Giáp đã đủ sức mở các cuộc tấn công quân đội Pháp dọc theo biên giới Hoa – Việt: quân khu Lạng Sơn của Pháp bị thất thủ rơi vào tay quân đội Việt Minh và chính phủ Pháp phải đưa Thống Tướng De Lattre Tassigni làm Tư Lệnh Quân Đội Viễn Chinh Pháp tại Đông Dương đồng thời tăng cường thêm viện binh như Thống Tướng De Lattre yêu cầu (không kể lính tráng người Việt Nam, quân số quân đội viễn chinh Pháp dưới thời Thống Tướng De Lattre chỉ huy lên tới 220,000 người).
Là một tướng giỏi, Thống Tướng De Lattre đã đẩy lui quân đội Việt Minh trên nhiều mặt trận kể cả trận Hòa Bình, người con trai duy nhất của ông là Trung Úy Bernard De Lattre bị tử thương tại trận này. Nhưng ông biết rằng nước Pháp không đủ sức để đối đầu với Trung Hoa vĩ đại , nên sau khi biết Đại Tướng Eisenhower đắc cử Tổng Thống Hoa Kỳ nhiệm kỳ 1952 – 1956, ông sang Hoa Kỳ vận động tân Tổng Thống Eisenhower trợ giúp nước Pháp. Về mặt cầu viện Hoa Kỳ, chính phủ Pháp đã tỏ ra là một chính phủ lãnh đạo kém: Ngoại Trưởng hay Thủ Tướng Chính Phủ sao không đi Hoa Kỳ làm công việc ngoại giao mà phải để một ông tướng đương nhiệmTư Lệnh chiến trường Đông Dương phải đi Washington D.C. trong lúc chiến trường đang trong tình trạng dầu sôi lửa bỏng cần sự có mặt liên tục của Thống Tướng De Lattre ? Phải chăng chính phủ Pháp lợi dụng sự thân tình giữa Đại Tướng Eisenhower và Thống Tướng De Lattre trong thời gian Đại Tướng Eisenhower làm Tổng Tư Lệnh quân đội Đồng Minh đánh lại quân của Hitler và Mussolini hồi trước năm 1945 ? Điều đó không sai khi Hoa Kỳ đồng ý viện trợ vũ khi, quân trang, quân dụng cho quân đội Pháp tại chiến trường Đông Dương.
Tổng Thống Eisenhower gợi ý là nước Pháp nên trao trả độc lập cho Việt Nam (dĩ nhiên trao cho người quốc gia chứ không phải trao cho cán bộ Cộng Sản như Hồ chí Minh) và quân đội Pháp – do sự yêu cầu của chính quyền độc lập tự chủ chiến đấu tại chiến trường Đông Dương để ngăn chặn Cộng Sản như Hoa Kỳ đã làm tại chiến trường Cao Ly hồi 1950 – 1953. Thống Tướng De Lattre ghi nhận ý kiến của Tổng Thống Eisenhower, ông cũng cho Tổng Thống Mỹ biết là ông không có ảnh hưởng gì nhiều đến chính trường Pháp, tuy nhiên ông hứa là ông sẽ vận động trong chính giới Pháp. Từ Hoa Kỳ, Thống Tướng De Lattre trở lại Đông Dương ngay, và chỉ một thời gian sau đó ông phải trở về Pháp để chữa bệnh ung thư rồi chết tại Pháp mà chưa có kịp vận động hay thuyết phục chính giới Pháp gì hết !!!
Với các thông tin này, chúng ta thấy rằng nếu Hồ chí Minh là người quốc gia thì nước Việt Nam của chúng ta đã được Hoa Kỳ - Anh – Pháp ủng hộ từ lâu và sẽ không có chiến tranh, đổ vỡ, tan nát và chia rẽ như hiện nay: các nước Đông Nam Á cựu thuộc địa như Indonesia, Malaysia, Philippines …vì không có Cộng Sản nên được trao trả độc lập, an hưởng thái bình và xây dựng quốc gia phú cường. Do đó Đảng Cộng Sản Việt Nam và các đảng viên Việt Cộng lúc nào cũng lớn lối về lòng tự hào “đánh thắng nhiều tên đế quốc” mà không bao giờ tự hỏi “đánh thắng để được cái gì ” chứ ?
( Có lẽ để đạt danh hiệu “anh hùng Xã Hội Chủ Nghĩa” hão huyền chăng, ký giả Huy Đức là người trưởng thành trong XHCN có thể giải thích hiện tượng “thích làm anh hùng” để người Việt tỵ nạn Cộng Sản hiểu thêm về con người Cộng Sản !!!”
Sự thua thiệt thứ ba: khi cầm tù được tướng De Castries và khoảng hơn 10.000 binh sĩ Pháp tại thung lũng Điện Biên Phủ, Đảng Cộng Sản Việt Nam tự ca lên rằng đã đánh gục và đuổi được Đế Quốc Pháp để dành được độc lập cho Việt Nam. Tôi nói quân đội Việt Minh cầm tù được tướng De Castries vì trong bức điện cuối cùng gửi cho Bộ Tư Lênh Quân Đội Pháp đóng tại Hà Nội, tướng Castries cho hay ông đã ra lệnh cho toàn thể binh sĩ dưới quyền trú đóng tại cứ điểm Điện Biên Phủ “ngưng chiến đấu” . 2 bức hình – do phía Việt Cộng chụp – đã minh chứng điều này: một bức hình chụp từ phía sau một cán binh Việt Cộng cho thấy anh này đang cầm cờ trắng chạy lên cắm tại nóc hầm chỉ huy của tướng De Castries chớ tướng De Castries không có cắm cờ trắng trên hầm chỉ huy của ông. Bức hình thứ hai chụp tướng De Castries từ trong hầm chỉ huy bước ra, ông không có dơ 2 tay lên cao khỏi đỉnh đầu thì sao Việt Cộng dám bảo là tướng De Castries đầu hàng ?
Chiến thắng Điện Biên Phủ của Việt Minh không phải là chiến thắng trọn vẹn vì sự sụp đổ của căn cứ Điện Biện Phủ chỉ đánh sập được ý chí chiến đấu của chính phủ Pháp và nhân dân Pháp chứ quân đội Pháp tại chiến trường Đông Dương vẫn giữ vững được các cứ điểm trọng yếu khác. Nhà báo Huy Đức cũng như các “bề trên” trong Đảng Cộng Sản Việt Nam chắc chắn không biết câu châm ngôn danh tiếng của binh đoàn Lê Dương: “nước Pháp không hỏi bạn từ đâu đến, thì bạn cũng đừng bao giờ hỏi nước Pháp sẽ đưa bạn đi đâu”. Một người chú họ xa của tôi, sau năm 1975, vào Sài Gòn có kể một câu chuyện về tính liêm sỉ của một người Đức – nguyên là lính SS của chế độ Quốc Xã sau năm 1945 tình nguyện vào binh đoàn Lê Dương – người lính Lê Dương này dù quân số ít hơn vẫn không chịu đầu hàng, sau cùng bị thương nặng ngất xỉu thì bị bắt làm tù binh. Sau khi được cứu chữa tỉnh dây, sĩ quan quân báo của Việt Minh đến hỏi lý do tại sao không đầu hàng để được sống, người lính Lê Dương gốc Đức này trả lời khiến mọi người ngạc nhiên: “tình nguyện vào binh đoàn Lê Dương tức là lính đánh thuê, tao mà đầu hàng thì về sau ai mà thuê người Đức làm lính đánh thuê nữa”.
Việt Cộng và Trung Cộng thì chê tướng Navarre (cha đẻ ra cứ điểm Điện Biên Phủ) là dở vì 16,000 quân Pháp nằm dưới thung lũng sẽ ăn đạn pháo mà chết không thể phản pháo được. Khi thiết lập căn cứ Điện Biên Phủ, tướng Navarre biết điều đó nhưng đây là chiến thuật “cục đường nhử đàn kiến”, 16,000 quân của Đại Tá De Castries nằm dưới thung lũng Điện Biên Phủ đã quyến rũ được 40,000 quân Việt Minh của tướng Võ Nguyên Giáp (không kể số dân quân đi tải vật liệu và trnag cụ vũ khí). Quân của tướng Võ Nguyên Giáp sẽ bị tiêu diệt bởi lực lượng Không Quân Chiến Lược của …Hoa Kỳ (vì không lưc của Pháp tại Đông Dương yếu lằm) . Khi căn cứ Điện Biên Phủ vừa bị tấn công, quân đội Pháp tại Đông Dương trông chờ tiếp cứu từ Không Lực Hoa Kỳ nhưng vì chính phủ Pháp vẫn còn đầu óc thực dân không chịu trao trả độc lập cho người quốc gia Việt Nam nên chính phủ Hoa Kỳ không muốn ủng hộ Đế Quốc Pháp để duy trì tình trạng thuộc địa tại Đông Dương.
Các hồ sơ được giải mật sau này cho thấy là Tổng Thống Eisenhower đã nói với đại diện chính phủ Pháp là Hoa Kỳ sẽ tham chiến nếu đồng minh Anh Quốc cũng đồng ý như vậy, trong khi đó Thủ Tướng Churchill trả lời với Thủ Tướng Daladier là: “nước Anh đã trao trả độc lập cho thuộc địa Ấn Độ từ năm 1947, thì không có lý do gì lại đi giúp nước Pháp để duy trì thuộc địa tại Đông Dương” . Như vậy sự sụp đổ của cứ điểm Điện Biên Phủ là do chính phủ Pháp chứ không phải do tướng lãnh và quân đội Pháp. Sau khi căn cứ Điện Biên Phủ sụp đổ, Thủ Tướng Daladier từ chức và chính khách Mendes France lên thay thế với khẩu hiệu “phải ký cho được một thỏa ước ngưng chiến với Việt Minh trong tháng 7/1954, nếu không được, chính phủ của tôi sẽ ra đi”.
Sự thua thiệt thứ tư: Tình hình căn cứ Điện Biên Phủ sắp tới hồi kết thúc, thì Thủ Tướng Bửu Lộc của chính phủ Quốc Gia Việt Nam từ chức, ông Ngô Đình Diệm lên thay thế. Tại hội nghị Geneve 1954, trưởng phái đoàn của chính phủ Quốc Gia Việt Nam lúc bấy giờ là luật sư Nguyễn Quốc Định được thay thế bởi ngoại trưởng Trần Văn Đỗ ( bác sĩ Trần Văn Đỗ là em trai của Luật Sư Trần Văn Chương, là chú ruột của bà Ngô Đình Nhu nhũ danh Trần Lệ Xuân). Khi mới sang Geneve, ông Phạm Văn Đồng có hỏi ngoại trưởng Trần Văn Đỗ là có nhận chỉ thị gì của chính phủ Sài Gòn về việc chia cắt đất nước Việt Nam hay không ? Ngoại trưởng Trần Văn Đỗ trả lời là ông không có chỉ thị nào về việc này và cũng không nghe dư luận bên ngoài chính phủ bàn tán gì về việc chia cắt đất nước.
Thời gian sau đó, ngoại trưởng Trần Văn Đỗ mới biết là các đại cường đồng ý với việc chia cắt Việt Nam ra làm 2 , chỉ còn bàn cãi là cắt ở đoạn nào mà thôi. Phía Việt Cộng muốn lấy vĩ tuyến 16 làm ranh giới ( tức là toàn thể tỉnh Thừa Thiên tới sát Đèo Hải Vân), phía Pháp muốn lấy vĩ tuyến 17 làm ranh giới hoặc nếu Việt Minh muốn lấy tới vĩ tuyến 16 thì phải nhường hành lang Bùi Chu – Phát Diệm – Nam Định cho Pháp. Molotov cho Chu Ân Lai và Phạm Văn Đồng hay rằng Liên Sô có kinh nghiệm cay đắng về hành lang Tây Đức nối với Tây Bá Linh nên phía Liên Sô cảnh báo là không nên nhận giải pháp này vì “lợi bất cập hại”. Phía Mỹ thì không có ý kiến vì phái đoàn Mỹ đến Geneve trong vai trò giám sát và bảo chứng cho việc ký kết một hiệp định ngưng bắn giữa Pháp và Việt Minh. Ngoại trưởng Trần Văn Đỗ điện về Sài Gòn báo cáo tình hình hình cho Thủ Tướng Ngô Đình Diệm và xin chỉ thị về việc chia cắt đất nước. Thủ Tướng Ngô Đình Diệm chỉ thị cho ngoại trưởng Trần Văn Đỗ phản đối việc chia cắt đất nước Việt Nam và phía chính phủ của Quốc Gia Việt Nam sẽ không ký vào hiệp định Geneve 1954 .
Sau khi Đặng Tiểu Bình dạy cho Việt Cộng một bài học vào năm 1979, Ban Lãnh Đạo của Đảng CSVN mới công bố Sách Trắng về Trung Quốc, thì nhân dân miền Bắc và các đảng viên cấp dưới mới biết rằng chính Chu Ân Lai thúc ép Hồ Chí Minh và Phạm văn Đồng phải nhận Bắc Việt ( nói theo kiểu dân chơi trong giới giang hồ: “thế là mất mẹ miền Nam cho bọn Mỹ - Ngụy). Ông Huy Đức và những người có ăn học hiểu biết trong XHCN có bao giờ thắc mắc đặt câu hỏi là: tại sao đang thắng lớn mà lại không tiếp cuộc chiến để dành hoàn toàn độc lập cho VN ? Tại sao lại chịu nhận làm chủ chỉ có một nửa nước để rồi 6 năm sau phải thành lập MTGPMN và phải đợi tới 15 năm sau mới “giải phóng” toàn bộ VN với tổn thất riêng miền Bắc không thôi cũng đã lên tới con số suýt soát 3 triệu người ? Câu trả lời chắc chắn chỉ có Đảng CSVN mới đủ kích thước và tư cách để trả lời.
Sự thua thiệt thứ năm: từ năm 1969, phái đoàn Bắc Việt cãi chầy cãi cối, cãi lòng vòng rất mất thì giờ về bàn vuông, bàn tròn, bàn hình chữ nhật… với mục đích là để được nói chuyện tay đôi với Hoa Kỳ nhằm chấm dứt chiến tranh tại Việt Nam .
Nhưng tới năm 1972, Tổng Thống Richard Nixon và Cố Vấn của Hội Đồng An Ninh Quốc Gia Hoa Kỳ là Henry Kissinger đi thăm Liên Sô và Trung Cộng,, thì không một ai trong hàng ngũ lãnh đạo của Bắc Việt lại chịu hiểu rằng số phận cả nước Việt Nam được định đọat tại điện Kremlin và khu biệt thự có tên gọi là Trung Nam Hải., chứ không phải được định đoạt tại hòa đàm Paris. Hiệp Định Paris năm 1973 là một “bẫy rập”, nhằm giúp Hoa Kỳ rút chân ra khỏi Đông Dương, miếng mồi béo bở mà Hoa Kỳ đặt trong bẫy này là điều 21B trong bản Hiệp Định: “Hoa Kỳ sẽ viện trợ 3 tỷ dollars cho Việt Nam nếu các bên tuân thủ các điều ký kết. Quyền tự quyết của nhân dân phải do nhân dân Việt Nam quyết định bằng lá phiếu bầu cử…” (hay đại loại gần giống như thế vì tôi không trích nguyên văn điều khoản này )
Khi Việt Cộng dứt điểm VNCH bằng vũ lực, tức là phía Việt Cộng ngang nhiên xé bỏ bản Hiệp Định Paris 1973 do chính họ đặt bút ký thì Hoa Kỳ đã có lý do để “xù nợ” tức là không viện trợ cho Việt Nam một xu nào hết mà bọn lãnh tụ Việt Cộng không thể kiện cáo vào đâu được. Nên nhớ là vào năm 1976, sau khi thống nhất 2 miến, chính quyền Việt Cộng kiểm kê dân số Việt Nam được 45 triệu người và tổng sản lượng quốc gia là 4 tỷ dollars, do vậy số tiền 3 tỷ dollars đối với chính quyền Việt Cộng là một số tiền rất lớn ( Cũng qua tờ báo Nhân Dân in tại Hà Nội, trong trại tù chúng tôi được biết rằng dòng họ Morgan có tích sản 170 tỷ dollars, được xếp hạng nhất tại Hoa Kỳ, dòng họ Rockefeller có tích sản 127 tỷ dollars được xếp hạng nhì, trong khi tồng sản lượng quốc gia GNP của Hoa Kỳ là 2,000 tỷ dollars. Nêu ra chi tiết để ký giả Huy Đức và các “bề trên” trong Đãng CSVN thấy rằng, tổng sản lượng quốc gia của Việt Nam không bằng số lẻ của tích sản dòng họ Rockefeller)
Nếu ký giả Huy Đức và các đảng viên Đảng CSVN cứ ngoan cố cho rằng Việt Cộng là BÊN THẮNG TRẬN thi tôi yêu cầu ký giả Huy Đức hãy đưa ra những thành quả cụ thể mà phía Việt Cộng thủ đắc được sau khi cướp đoạt được miền Nam bằng vũ lực, dĩ nhiên thành quả cụ thể phải tính bằng tiền chứ nói thành quả chung chung như Việt Cộng đã nói từ hơn 50 năm qua, là điều người đọc không chấp nhận được.
Trung Cộng sẽ xâm chiếm Việt Nam và nếu họ chiến thắng Việt Cộng và cai trị toàn cõi Việt Nam, liệu ký giả Huy Đức và những “bề trên” cao cấp trong Đảng CSVN có đủ liêm sỉ để ca ngợi mấy anh Ba Tàu Đỏ là BÊN THẮNG CUỘC hay không ? Nếu có thì tiếp tục giữ tựa đề quyển sách này, nếu không thì có lẽ tựa đề VIỆT NAM ƠI ! HÃY KHÓC LÊN ĐI QUÊ HƯƠNG YÊU DẤU là thích hợp nhất.
Trần Trung Chính
San Jose ngày 25 tháng 12 năm 2012-AI THẮNG? AI THUA?-– T. Vấn – Ghi chép vụn cuối năm: Từ vụ thảm sát ở Newton tới sách Bên Thắng Cuộc(Dân Luận).T.Vấn
Ông T.Vấn lâu nay là một cây bút quen thuộc đối với cộng đồng người Mỹ gốc Việt vùng Oklahoma-Kansas-Texas. Trước kia Ông là một cựu sĩ quan QLVNCH, sau 1975 từng bị đưa ra Bắc "cải tạo" tới 10 năm.
Nhân cuối năm, ông T.Vấn ghi vài cảm nghĩ của mình liên quan đến hai sự kiện xảy ra gần đây: vụ thảm sát ở Newtown, bang Connecticut; và sự ra mắt quyển sách Bên Thắng Cuộc của Huy Đức.
Đối với quyển Bên Thắng Cuộc, ông T.Vấn đã đón nhận nó với thái độ vô tư, ôn hoà, bao dung, và trân trọng. Ông khuyên những đồng đội ngày xưa của Ông nên quên đi thù hận, một loại lò thuốc súng nguy hiểm, và không nên " thẳng tay chối bỏ mọi tín hiệu có nguồn gốc từ trong nước, bất kể tốt hay xấu, bất kể là thù địch hay anh em". Ông cũng cho rằng thế hệ của Ông ở hải ngoại nên can đảm tự nhìn thẳng vào sự thất bại trước đây, từ đó góp phần còn lại của đời mình vào nổ lực kiến quốc bằng cách gạt bỏ mọi thiên kiến, quan tâm hơn đến người dân trong Nước, đặc biệt là ủng hộ lớp trẻ, những người sẽ cầm vận mạng Đất Nước trong tương lai, giúp họ tìm ra một con đường tốt hơn cho Quê Hương mai sau.
1.
Hôm nay là thứ sáu cuối cùng của năm 2012.
Tuần trước, lịch cổ Mayan chấm dứt vào ngày thứ sáu 21 tháng 12 năm 2012. Nhiều người tin rằng đó là ngày thứ sáu cuối cùng của nhân lọai.
Điều đó đã không xẩy ra. Vì thế, tôi còn có dịp ngồi đây, ba điều bẩy chuyện với trang ghi chép dang dở, gián đọan từ nhiều tháng nay.
Chữ nghĩa đôi lúc trông trơ trẽn, vô duyên một cách thật đáng ghét. Vì chúng chưa bao giờ, không bao giờ theo kịp được với những gì xẩy ra trong cuộc sống ngòai kia. Thế nên tôi câm nín. Mọi sự khua môi múa mỏ chỉ thêm buốt lòng mình, xao xuyến lòng người.
Hôm 20 đứa trẻ và 6 cô giáo của một trường tiểu học ở Newtown, tiểu bang Connecticut bị một gã khùng trang bị súng ống đến tận răng bước vào phòng học bắn chết, tôi tưởng mình có thể nhỏ được vài giọt nước mắt lặng lẽ trên những hàng chữ. Nhưng không. Mắt tuy không ráo hỏanh nhưng chữ cứ biến đi đâu mất biệt. Lệ không rơi được nên cứ chảy ngược vào trong. Những ngày sau đó thật khó sống. Kể cả khi hình hài lỗ chỗ đạn của đứa trẻ cuối cùng được đưa về đất yên nghỉ, tôi vẫn chỉ có thể mở mắt nhìn và tim thắt lại.
Mặt đất này còn có chỗ nào gọi là an tòan không? Thế giới này có còn những điều tốt lành để cư dân của nó còn dám tự nhận mình là con người không?
Ai là người đủ tư cách trả lời khi tất cả đều hoặc là thủ phạm, hoặc là đồng lõa làm cho thế giới trở nên đầy bất trắc, tiếp tay cho sự hủy diệt những điều tốt lành?
Vì đâu nên nỗi? bà mẹ của gã tâm thần 20 tuổi ở Newtown là một người say mê sưu tập súng đạn. Nhà của bà là một thùng thuốc nổ đợi mồi lửa vô tình. Và mồi lửa ấy chính là con trai bà. Cái chết của bà đã được báo trước, đã được sửa sọan bởi chính bàn tay của mình. Những cái chết trẻ thơ khắp nơi trên “mảnh đất của súng đạn” (land of guns) đều đã được báo trước. Người ta đã không chịu lắng nghe, không chịu mở mắt nhìn, hoặc quá cố chấp không chịu để mất quyền tự do mà hiến pháp nước Mỹ đã quy định cho mọi công dân (Đệ nhị Tu Chính Án).
Nếu như bà mẹ gã tâm thần không lưu trữ những thứ vũ khí giết người trong nhà, thì cùng lắm gã con trai của bà chỉ có thể tìm thấy con dao bếp đâu đó và chỉ có thể đâm chết được người mẹ của mình. Chắc chắn gã không thể thi hành những mưu tính khủng khiếp khiến 20 trẻ thơ và 6 cô giáo một trường tiểu học chết thảm thiết làm rúng động cả xã hội tự nhận là văn minh nhất thế giới.
Bạo lực đã dẫn xã hội con người đến cực điểm của băng họai. Khi xã hội băng họai thì trái tim con người chỉ còn chỗ để chứa những thùng thuốc nổ. Và khi những thùng thuốc nổ ấy gặp một mồi lửa, thế giới sẽ đối diện với ngày tận thế mà chẳng cần phải suy đóan, tin tưởng vào ngày cuối cùng của nhân lọai dựa trên lịch cổ Mayan.
Với những trái tim mong manh dễ vỡ, ngày cuối cùng của nhân lọai đã xẩy ra. Những người công chính đang phải đối diện với sự phán xét của chính lương tâm của mình. Có đấm ngực ăn năn thì đã muộn.
Ai là người không có tội khi đã cho phép sự tàn sát những trẻ thơ xẩy ra?
2.
Hôm nay là thứ sáu cuối cùng của năm 2012.
Con số 2012 vô tri vô giác nhưng lại có sức mạnh buộc tôi nhìn lại mái tóc trên đầu của mình, của anh em bằng hữu chung quanh. Thời gian còn lại của mỗi anh em chúng tôi chẳng còn bao nhiêu. Kể từ cái ngày cuối cùng của tháng Tư 37 năm về trước, chúng tôi đã đi qua nhiều, rất nhiều, những chặng gian khổ nhất của đời người. Kẻ chết thì đã chết. Người còn sống thì đang toan tính những dọn mình.
Nhưng liệu chúng ta đã có đủ bình tâm để dọn mình chưa? Tôi cho rằng chưa. Thế giới này còn quá nhiều bất trắc, nên những điều tốt đẹp cứ ngày một biến mất. Không có sự tồn tại của những điều tốt đẹp, làm sao có thể nói đến sự bình yên? Không có sự bình yên, làm sao nói đến dọn mình để chết?
Vì đâu nên nỗi? 37 năm sau cuộc chiến mà thùng thuốc súng vẫn cứ âm ỉ chờ một mồi lửa định mệnh. Như bà mẹ gã tâm thần ở Newtown, tiểu bang Connecticut, dường như chúng ta cũng say mê tích lũy quanh mình những thứ vũ khí giết người. Nỗi đau không thể quên của 37 năm thua cuộc lớn quá, sâu quá, nặng nề quá nên nó thống trị cả hồn lẫn xác người trong cuộc, không cho chúng ta còn chút tự do nào để nhìn sự vật, sự việc, con người như chúng vốn là thế, phải là thế. Chúng ta muốn mọi người, bất kể già trẻ lớn bé, đều phải đau nỗi đau của chúng ta, đều phải thù ghét kẻ thù của chúng ta, đều phải chết đuối trong biển nước mắt của chúng ta như chúng ta đã từng đau, từng thù hận, từng chết đuối.
Như bà mẹ gã tâm thần ở Newtown, cái chết của chúng ta đã được báo trước. Nhưng dường như không một ai trong chúng ta đủ can đảm thú nhận điều đó. Vậy thì làm sao chúng ta có được sự bình an, thanh thản mà dọn mình?
Tích lũy quanh mình những thứ vũ khí có khả năng tàn sát khủng khiếp hơn cả súng đạn, làm sao người ta có thể tránh khỏi cái chết do chính mình gây ra?
Những người trẻ sinh ra sau khi chiến tranh chấm dứt, có thể đang nhìn chúng ta bằng đôi mắt của thế giới nhìn bà mẹ gã tâm thần ở Newtown. Họ có thể ngạc nhiên tại sao chúng ta có được sự tự do để lựa chọn một thái độ sống không thiên kiến, một thái độ sống thóat khỏi sự kiềm tỏa của thù hận, của đau thương mà lại vẫn tự nguyện làm nô lệ cho những thứ lẽ ra phải tống khứ chúng đi cho rảnh nợ. Họ ngạc nhiên, thắc mắc nên đi tìm câu trả lời. Họ chỉ nhận được những lời mạt sát, dậy đời, kẻ cả. Kết quả, chúng ta trở thành những người hùng cô đơn. Có lẽ mặt đất này sẽ thóang đãng hơn khi chúng ta bị buộc phải lìa khỏi trần gian. Ngày ấy không xa lắm đâu, chỉ sợ kẻ tỉnh táo nhất trong chúng ta cũng không có đủ thời gian để dọn mình. Khi ấy, thế hệ trẻ sẽ không bận tâm nữa đến những hệ lụy của chúng ta nữa. Họ sẽ thở phào nhẹ nhõm.
Nhiều người trong chúng ta đang tự nghĩ mình mang trên vai gánh nặng vì dân vì nước, vì sự diệt vong của chế độ cộng sản, tai họa của lòai người thế kỷ 20, mà Việt Nam là một trong vài quốc gia hiếm hoi kém may mắn vẫn còn phải chịu đựng dù thế giới đã bước vào thế kỷ 21.
Có ai trong chúng ta thành thật tự hỏi cái hình thức tranh đấu mà chúng ta đang kiên trì phát động có thực sự vì hạnh phúc, vì no ấm, vì tự do của 85 triệu người dân trong nước hay chỉ để thỏa mãn lòng thù hận đối với nhóm người đã từng gieo đau khổ tang tóc cho chúng ta?
Mỗi mục đích của cuộc tranh đấu đòi hỏi những phương thức, những sách lược khác nhau.
Từ 37 năm nay, chúng ta chỉ có một phương thức, một sách lược. Chúng ta không có tổ chức, chúng ta không có lãnh đạo, chúng ta chỉ có những nhóm người ô hợp, mạnh ai nấy làm, tự cho phương thức tranh đấu của mình là đúng, ai làm khác đi thì chửi bới, mạt sát, chụp cho đủ thứ mũ. Trong khi đó chế độ cầm quyền trong nước tìm đủ mọi cách thích nghi với tình hình thế giới để tồn tại, để tiếp tục cưỡi đầu cưỡi cổ nhân dân. Còn chúng ta chỉ biết nung nấu lòng thù hận, thứ nước cường toan làm chết dần mòn sáng kiến, làm mờ đôi mắt cần mở lớn để quan sát tìm chất liệu cho suy nghĩ, làm ù đôi ta để không thể nghe nguyện vọng của đám trẻ đang lớn lên muốn tìm con đường khác ngắn hơn, hữu hiệu hơn để nếu không đẩy được nhóm cầm quyền ra khỏi những địa vị quyền lực thì cũng ít nhất khiến chúng phải tự thay đổi nếu muốn tồn tại, những thay đổi khiến đời sống người dân trong nước có thể dễ thở hơn.
37 năm sau cuộc chiến tranh, nhìn lại, bi kịch lớn nhất của bên thua cuộc là chúng ta đã sống quá lâu, quá đầy đủ trên những mảnh đất ngòai quê hương. Nhớ lại những năm tháng trong tù, nỗi bận tâm hàng ngày là cái bụng lúc nào cũng đói kinh niên. Lúc ấy, nỗi nhớ nhung gia đình, niềm ưu tư về vận nước chỉ đóng vai trò thứ yếu. Nay, trên những mảnh đất no đủ xứ người, đối với đa số dân chúng nghèo trong nước, chúng ta đã ở địa vị anh nhà giàu ăn trắng mặc trơn, nhà cửa xe pháo xênh xang. Chúng ta quên mất hẳn cảm giác đói cồn cào gan ruột, quên mất hẳn cảm giác lạnh tím gan tím thịt của những ngày bỉ cực năm xưa. Với tư thế đó, chúng ta không còn thuộc về khối quần chúng nhân dân đói khổ trong nước mà chúng ta tin rằng mình đang nỗ lực giải phóng họ thóat khỏi sự áp bức của chế độ độc tài đảng trị. Vì chúng ta không còn thuộc về họ, nên chúng ta không cảm được cái đói, cái lạnh, cái thiếu thốn nó thống trị cuộc sống hàng ngày của họ.
Chính sự tách rời đầy định mệnh ấy, đã khiến chúng ta không hề có một sách lược tranh đấu phù hợp với nhu cầu thực tế trước mắt là ăn no, mặc ấm cái đã, rồi hãy nói những chuyện khác sau. Chúng ta đi trên mây và bàn với nhau chuyện chống cộng ở quê nhà.
37 năm trôi qua, ngược với sự suy đóan – và mong đợi của chúng ta – đảng cộng sản vẫn chễm chệ ở địa vị thống trị. Kết quả ấy có phần đóng góp của chính chúng ta. Chúng ta tiếp tục thua cuộc, đã bất lực lại ngày càng thêm bất lực. Kẻ thức thời thì chỉ biết dằn vặt mình. Kẻ khác thì lại càng thêm quay quắt vì thù hận.
Những ngày cuối năm dư luận trong và ngòai nước ồn ào sôi nổi về một quyển sách mà tác giả là một người sinh năm 1962 ở miền Bắc, không dính líu gì đến những hệ lụy của cuộc chiến tranh cả trước ngày 30 tháng 4 năm 1975 lẫn sau đó.
Trong khi phản ứng của hầu như mọi người – nhất là tuổi trẻ – cả ở trong nước lẫn ngòai nước đều ghi nhận phần ưu điểm của quyển sách trong việc ghi lại những sự kiện lịch sử từ 1975 đến nay giúp mọi người nhận định rõ hơn công tội của những người cộng sản thì một số người trong anh em chúng ta lại tiếp tục đem lăng kính của định kiến, của hận thù ra soi rọi, bắt bẻ, chê bai, chỉ trích và kết luận đây lại là một đòn chí mạng của cộng sản đánh vào cộng đồng người Việt hải ngọai.
Dường như chúng ta muốn tác giả phải viết sử theo cách nhìn của chúng ta, theo cách diễn đạt của chúng ta, chúng ta muốn tác giả phải mạnh mẽ buộc tội đảng cộng sản Việt Nam vì những con người của cái đảng độc tài ấy là tội đồ của dân tộc, chúng ta muốn tác giả viết sử theo lối phê phán đúng sai chứ không phải ghi nhận những sự kiện. Và tất nhiên, không thể không nhận ra một điều đáng sợ, nó ngăn chặn chúng ta mở vòng tay thân ái với những người anh em đích thực không chấp nhận chủ nghĩa cộng sản dù sinh sống trong nước: não bộ chúng ta đã bị điều kiện hóa để thẳng tay chối bỏ mọi tín hiệu có nguồn gốc từ trong nước, bất kể tốt hay xấu, bất kể là thù địch hay anh em.
Một lần nữa, chúng ta lại tự tách mình ra khỏi thế giới những người trẻ – trong lẫn ngòai nước – những người sẽ cầm vận mạng đất nước trong một tương lai không xa.
Những người hùng cô đơn, thần tượng của tuổi trẻ Việt Nam 37 năm về trước, đã cô đơn nay lại càng thêm cô đơn. Chúng ta chỉ còn biết thu mình lại trong thế giới của những người già nua, bất lực, nói thay cho làm, nuôi ảo tưởng để tự đánh lừa mình,đánh lừa nhau và tuyệt vọng chờ đợi một ngòi nổ làm nổ tung thùng thuốc súng thù hận.
Chúng ta sẽ chết trước khi kịp nghe tiếng thở phào nhẹ nhõm của thế hệ trẻ hôm nay.
3.
Hôm nay là thứ sáu cuối cùng của năm 2012.
37 năm qua, lịch sử đã xẩy ra như nó phải xẩy ra và đã được viết như nó phải được viết. Nỗi đau của lịch sử, 37 năm qua, hay 50 năm qua, hay 100 năm qua, hay 1000 năm qua đều đã trở thành chính lịch sử. Chúng ta đã không đem nỗi đau một ngàn năm Bắc thuộc ra ngậm nhấm mà quên đi bổn phận với tương lai, thì ngày nay, không lý gì chúng ta vẫn ôm canh cánh bên lòng nỗi đau của 37 năm để không thể thóat ra khỏi vòng kềm tỏa của nó mà làm những việc cần thiết cho tương lai. Phải chăng, một ngàn năm Bắc thuộc là nỗi đau của cha ông, không phải của chính chúng ta, nên có thể quên đi dễ dàng, còn nỗi đau của ba mươi bẩy năm là của chính chúng ta, làm sao dễ dàng bỏ qua một bên như hạt cát vướng trong chiếc giầy? Nếu thế thì có phải chúng ta đã tự thú nhận rằng cuộc chiến hôm nay là để thỏa mãn lòng thù hận tích lũy 37 năm dài đằng đẵng, chứ không phải vì manh áo ấm, bữa cơm no cho mỗi một con người nhỏ bé của 85 triệu đồng bào khốn khổ ở bên kia bờ đại dương?
Trước đây, chúng ta đã không làm tròn trách nhiệm trong cuộc chiến gìn giữ miền Nam để một ngày nào sau đó tiến ra giải phóng miền Bắc. 37 năm sau chúng ta tiếp tục không chu tòan nổi trách nhiệm của mình, dù ở mức độ thấp nhất.
Có bao nhiêu người trong chúng ta dám nhìn thẳng vào thất bại ấy của đời mình trong giây phút chuẩn bị nói lời tiễn biệt với trần gian ?
4.
Hôm nay là thứ sáu cuối cùng của năm 2012.
Lặng lẽ trong căn phòng tĩnh mịch chờ trời sáng, tôi làm dấu thánh giá cầu nguyện cho 20 thiên thần nhỏ bé của Newtown tìm được sự bình an vĩnh viễn trên vùng trời không còn súng đạn, không còn bạo lực. Tôi tin rằng những thiên thần nhỏ bé của chúng ta không chết, các em chỉ ra khỏi tầm nhìn thiển cận của trần gian này mà thôi.
Tôi cũng không quên lời cầu nguyện cho bà mẹ gã tâm thần, cho linh hồn tội nghiệp của bà chưa kịp nhận ra mình phải nói lời thống hối thì đã bị định mệnh cuốn đi. Khi đưa tay lên làm dấu thánh, tôi cũng tin rằng lời cầu nguyện ấy cũng là dành cho tôi và những anh em của mình, những người bị vây bủa bởi đớn đau và thù hận, để ít nhất, trước khi ra đi thì ánh bình minh rực rỡ của một ngày mới sẽ giúp chúng tôi nhìn thấy con đường thực sự dẫn đến sự cứu rỗi, nếu không được cho cả dân tộc khốn khổ thì cũng là cho chính mình.
Amen!
T.Vấn © 2012