Lữ Giang
Ngày 29.11.2012, khi Đại Hội Đồng LHQ biểu quyết chấp thuận cho Palestine được hưởng “quy chế quan sát viên không phải là quốc gia” tại LHQ, Thủ Tướng Mahmoud Abbas của chính quyền Palestine khu West Bank tuyên bố:
"Sáu mươi lăm năm trước đây vào ngày này, Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua nghị quyết 181, phân vùng đất của lịch sử Palestine thành hai quốc gia và nó đã trở thành giấy khai sinh của Israel.
"Đại hội đồng được triệu tập họp ngày hôm nay để cho ra một giấy khai sinh của Nhà nước Palestine, vốn đã tồn tại trên thực tế,"
“Chúng tôi không công nhận Israel cũng như việc phân chia Palestine, và Israel không có quyền gì ở Palestine. Công nhận tư cách hội viên của chúng tôi trong cơ chế LHQ là quyền của chúng tôi, nhưng chúng tôi không bỏ một tấc đất nào của Palestine.”
Thủ Tướng Benjamin Netanyahu của Israel nói: “Ai đó muốn hoà bình đừng nói như vậy” (Someone who wants peace does not talk in such a manner.)
Cuộc đấu khẩu qua lại nói trên cho thấy vấn đề vẫn chưa ngã ngũ, mặc dầu lúc này lực lượng của khối A-Rập hậu thuẩn cho Palestine đang bị “cách mạng hoa lài” xé nát. Các diễn biến cho thấy “cuộc cách mạng” này không đưa tới mục tiêu mà nhiều người Việt chống cộng mơ ước hay lầm tưởng. Nó được thực hiện theo một mục tiêu chiến lược hoàn toàn khác hẵn.
Mùa Giáng Sinh lại đến nhắc cho mọi người nhớ đến Bethlehem nơi Chúa Jesus sinh ra cách đây 2012 năm. Lúc đó Bethlehem là một làng nhỏ bé của Do Thái nằm cách Jerusalem khoảng 5 dặm về hướng nam, đặt dưới quyền cai trị của đế quốc La Mã. Ngày nay Bethlehem là một thành phố nằm trên lãnh thổ của Palestine, có diện tích 575 km2 với khoảng 180.000 dân.
Nhân dịp này, chúng tôi xin trình bày thêm về tổ phụ của hai dòng tộc Israel và Palestine, và những diễn biến lớn liên quan đến cuộc tranh chấp giữa Israel và Palestine. Nó có thể giúp chúng ta thấy rõ hơn các biến cố đang diễn ra ở Trung Đông và Biển Đông.
LÀM SÁNG TỎ NGUỒN GỐC
Theo sách Sáng Thế (Genesis), sau khi ông Noah và gia đình thoát khỏi cơn Đại Hồng Thủy, Thiên Chúa đã chúc lành cho ông và con cháu ông:
“Hãy sinh sôi nảy nở thật nhiều cho đầy mặt đất. Mọi dã thú, mọi chim trời, mọi giống vật bò dưới đất và mọi cá biển sẽ phải kinh sợ các người: chúng được trao cho các ngươi...”
Ông Noah có ba người con là HAM, SHEM và JAPHETH. Mỗi người con sinh một dòng tộc khác nhau.Ham là tổ phụ của dòng tộc Hamitic ở hướng nam. Shem là tổ phụ của dòng tộc Semitic ở vùng trung, còn Japheth là tổ phụ của dòng tộc Japhetic ở hướng bắc.
Vậy người Do Thái và người Palestine thuộc dòng tộc nào? Kinh Thánh cho biết:
HAM là cha của 4 người con là Cush, Mizraim, Phut và Canaan. Palestine thuộc dòng tộc củaMizrain.
SHAM có 5 người con là Elam, Asshur, Arpachshad, Lud và Aram. Abraham là một trong những con cháu của Arpachshad và là tổ phụ của người Do Thái và người A-rập.
Tất cả đã phát xuất từ vùng Mesopotami, tức vùng nằm giữa hai con sông Tigres và Euphrates ở Thổ Nhĩ Kỳ. Đây là vùng nổi tiếng phì nhiêu. Nhưng con cháu của Noah càng ngày càng đông nên họ phải tản mác đi bốn phương để tìm đất sinh sống.
1.- Dòng tộc Do Thái: Theo lệnh của Thiên Chúa, vào khoảng năm 1800 (có tài liệu nói năm 2100)trước CN, ông Abraham đã dẫn dòng tộc Do Thái từ thành Ur ở phía nam (ngày nay thuộc Iraq), đi theo bờ tây sông Euphrates lên đến Haran. Thân phụ của ông là Terah đã qua đời tại đây lúc 205 tuổi. Sau đó Abraham dẫn đoàn lữ hành đi về hướng tây, vòng lên trên sa mạc Syria để tới Chechem. Con đường này dài khoảng 1600 km. Chechem hay Sichem là một thành phố của người Canaan nằm giữa sông Jordan và bờ đông Địa Trung Hải. Thành phố này đã trở thành thủ đô đầu tiên của vương quốc Israel. Ngày nay nó nằm ở Bờ Tây (West Bank) sông Jordan, trong vùng Balata al-Balad.
2.- Dòng tộc Palestine: Vấn đề này khá rắc rối. Thánh Kinh cho biết người con thứ ba của Ham làMizraim đã sinh ra 7 người con là Ludim, Anamim, Lehabim, Naphtuhim, Pathrusim, Casluhimvà Caphtorim. Casluhim, người con thứ 6 của Mizraim được nói là tổ phụ của người Palestine. Nhưng tài liệu không cho biết ông Casluhim đã dẫn người Palestine đến Địa Trung Hải lúc nào. Sách chỉ nói người Palestine bị đánh đuổi khỏi Caphtor hay Crete, nên năm 1175 trước CN họ phải bỏ nơi này đến sinh sống ở dãi Gaza. Chúng ta biết Crete là một hòn đảo lớn ở phía nam của biển Aegean trong Địa Trung Hải, nhưng không biết Caphtor ở đâu. Vì họ từ vùng biển đến nên được gọi là “sea people” (người vùng biển).
Như vậy, người Do Thái đã đến đất Canaan trước người Palestine. Nhưng qua nhiều biến cố lịch sử, chủ quyền của mãnh đất này cũng đã biến đổi. Hoa Kỳ và các cường quốc Tây Phương tiên đoán sự vùng dậy của người A-Rập theo Hồi Giáo trong một giai đoạn lịch sử sắp đến, nên đã phục hồi nước Do Thái như một tiền đồn để chế ngự. Các diễn biến này khá phức tạp, nhưng chúng tôi cố gắng tóm lược và trình bày những nét chính.
SỰ PHÂN CHIA CỦA ANH
Năm 638, khi người Hồi Giáo chiếm trọn vùng Canaan và ra lệnh cho người Do Thái “Hoặc theo Hồi Giáo và nộp cống hay là chết”, người Do Thái đành phải ra đi để bảo vệ tôn giáo và truyền thống của mình, phần đất Canaan trở thành lãnh thổ của người A-Rập Hồi Giáo. Chỉ một số nhỏ người Do Thái ở lại. Đa số người Do Thái lang thang trên khắp thế giới, bị kỳ thị, bị ghét bỏ, bị đày đọa, bị thanh toán đẩm máu... nhưng lúc nào họ cũng quyết tâm trở về lại đất hứa của mình.
Sau thế chiến thứ nhất (1914 - 1918), nước Anh đánh bại đế quốc Ottomans, đuổi Thổ Nhĩ Kỳ ra khỏi vùng A-Rập và đặt vùng này dưới quyền đô hộ của Anh. Qua nhiều cuộc vận động ráo riết của người Do Thái lang thang, ngày 2.11.1917 Ngoại Trưởng Anh là Arthur James Balfour tuyên bố lập trên đất Palestine một quốc gia cho người Do Thái (the establishment in Palestine of a national home for the Jewish people).
Ngày 24.7.1922, Hội Quốc Liên (League of Nations) đã trao trao quyền ủy trị (mandate) vùng đất của người A-Rập cho Anh. Chính phủ Anh đã chia vùng đất mà người A-Rập và người Do Thái đang cư ngụ ở bờ phía đông Đại Trung Hải và hai bên bờ sông Jordan ra làm 2 vùng:
(1) Vùng phía tây sông Jordan (West Bank) kéo ngang qua tới Địa Trung Hải được giao cho người Do Thái.
(2) Vùng phía đông sông Jordan (East Bank), được trao cho người A-rập để thành lập một quốc gia lấy tên là Transjordan. Đó là phần đất dành cho người Palestine, được gọi là nước Palestine-A-Rập. Sau đó, người Anh đưa Abhulah lên làm lãnh tụ người A-Rập, cai quản vùng này.
Người A-Rập không chấp nhận sự phân chia này. Họ đòi mở “Jihad”, tức thánh chiến, để đuổi người Do Thái ra khỏi vùng Canaan.
SỰ PHÂN CHIA CỦA LHQ
Không giải quyết được sự tranh chấp giữa A-Rập và Do Thái, Anh đưa nội vụ ra Đại Hội Đồng LHQ xin giải quyết. Ngày 29.11.1947, Đại Hội Đồng LHQ đã họp và biểu quyết nghị quyết số 181, phân chia lại lãnh thổ của người Do Thái và người Palestine như sau:
(1) Quốc Gia A Rập (The Arap State): Gồm những phần lãnh thổ sau đây:
- Vùng Judea và Samaria nằm ở trung nguyên, sát với bờ tây sông Jordan, tức West Bank.
- Một dãi đất nằm trên chóp phía bắc của West Bank, trên thành phố Jenin.
- Dãi Gaza nằm phía tây nam, sát Địa Trung Hải, giáp với bán đảo Sinai của Ai Cập.
(2) Quốc Gia Do Thái (The Jewish State): Gồm những phần đất còn lại nằm giữa bờ đông Địa Trung Hải và bờ tây sông Jordan. Tính lại lãnh thổ của Do Thái được LHQ cấp chỉ bằng khoảng 22% phần lãnh thổ mà Anh đã chia cho trước đây.
Riêng thành phố Jerusalem, Liên Hiệp Quốc đặt dưới một quy chế đặc biệt (special regime) và do Liên Hiệp Quốc quản trị.
LHQ đã gởi quân đến vùng này để giám sát việc phân chia và gìn giữ hòa bình.
Lãnh thổ Israel (vàng) và Palestine (tím) do LHQ phân chia năm 1947
Nhìn lên bản đồ, chúng ta thấy đây là lối phân chia theo kiểu “vùng xôi đậu”, đất của Palestine và Do Thái nằm xen lẫn nhau. Vì thế, việc gìn giữ an ninh và di chuyển từ vùng này qua vùng kia gặp rất nhiều khó khăn.
CHIẾN TRAH PHẢI XẨY RA
Có tất cả 5 nước bao quanh lãnh thổ của Do Thái, đó là Libanon ở phía bắc, Syria và Jordan ở phía đông, Saudi Arabia ở phía nam, và Ai Cập ở phía tây nam. Phía tây là Địa Trung Hải. Trong 5 quốc gia này, có 3 quốc gia cương quyết ăn thua đủ với Do Thái, đó là Ai Cập, Jordan và Syria. Ngày 23.6.1956, Tướng Gamal Abdel Nasser chính thức lên làm Tổng Thống Ai Cập. Ông quyết tâm đánh bại Do Thái. Năm 1964, ông thành lập Phong Trào Giải Phóng Palestine (PLO) và đưa Caoukeiri làm lãnh tụ đầu tiên với mục tiêu dùng đoàn quân này để quấy rối Do Thái. Chỉ trong 2 năm, Phong trào này đã tuyển mộ được 16.000 dân quân.
Đầu tháng 5 năm 1967, Ai Cập yêu cầu quân LHQ rút khỏi vùng biên giới giữa dãi Gaza và bán đảo Sinai. Do Thái và Hoa Kỳ hiểu rằng Tướng Nasser đang chuẩn bị khai chiến nên Do Thái ra tay trước.
Khoảng 8 giờ sáng ngày 5.6.1967, Do Thái bất thần mở cuộc tấn công vào bán đảo Sinai của Ai Cập ở phía tây nam và các vùng đóng quân của Jordan và Syria ở phía đông và đông bắc. Ở phía nam, chỉ trong 80 phút đầu, phi cơ Do Thái đã phá tan hết các phi cơ chiến đấu và chuyên chở của Ai Cập trên bán đảo Sinai. Với ưu thế tuyệt đối về tình báo, không quân và hoả lực, trong 6 ngày Israel đã phá huỷ 340 máy bay của đối phương và gây thương vong cho hơn 10.000 lính A-Rập.
Nghị quyết số 233 ngày 6.6.1967 của HĐBA/LHQ đã cứu khối A-Rập. Nhưng Do Thái đã lấy lại được cả vùng đất mà ngày xưa Anh đã phân chia cho Do Thái, trong đó có thành phố Jerusalem và toàn vùng đất phía tây sông Jordan (West Bank), Ngoài ra, Do Thái còn chiếm thêm Đồi Golan của Syria, bán đảo Sinai của Ai Cập và làm chủ vùng kinh đào Suez.
Ngày 22.11.1967 HĐBA/LHQ lại ra nghị quyết số 242 kêu gọi Israel rút ra khỏi các vùng chiếm đóng và các bên chấm dứt tình trạng hiếu chiến.
TRẢ THÙ BỊ THẢM BẠI
Ngày 19.6.1967, Chính phủ Israel đã họp và bỏ phiếu kín đồng ý hoàn trả Sinai cho Ai Cập và Cao nguyên Golan cho Syria để đổi hòa bình. Quyết định này được Israel nhờ chính phủ Hoa Kỳ chuyển đến cho các quốc gia A-Rập. Nhưng không hiểu tại sao Hoa Kỳ không chuyển.
Một Liên Minh A Rập được thành lập gồm Ai Cập, Syria, Iraq và Jordan. Ai Cập và Syria đóng vài trò chính. Họ tổ chức lại quân đội, trang bị vũ khí đầy đủ để phục thù.
Họ chọn Ngày Yom Kippur, tức Ngày Thống Hối của người Do Thái để tấn công, vì Sách Levi dạy trong ngày đó mọi người phải ăn chay hãm mình và không được làm việc gì (Leviticus 16:29).
Ngày 6.10.1973, quân Ai Cập và Syria vượt tuyến ngưng bắn, tấn công vào bán đảo Sinai và Cao nguyên Golan. Trong 48 tiếng đầu, quân Liên Minh A-Rập chiến thắng. Nhưng vì quân của Liên Minh yếu kém về cả chỉ huy lẫn tác chiến nên sau đó quân Israel phản công lại, đánh bật quân Syria ra khỏi Cao nguyên Golan, đồng thời vượt kinh đào Suez cắt đứt quân đoàn 3 của Ai Cập. Liên Minh thảm bại. Quân Ai Cập bị 12.000 người chết, 35.000 bị thương, 8.400 bị bắt; mất 1.000 xe tăng, 235 máy bay và 42 trực thăng. Syria có 3.100 chết, 6.000 bị thương và mất 1.150 xe tăng.
Israel (trắng) và Palestine (xanh) ngày nay
Ngày 22.10.1973 HĐBA/LHQ ra nghị quyết số 338 kêu gọi các bên ngưng chiến trong vòng 12 tiếng đồng hồ và thi hành nghị quyết 242 năn 1967, thương thuyết để thiết lập một nền hòa bình công chính và lâu dài tại Trung Đông.
CHIẾN LƯỢC CỦA HOA KỲ
Sau trận đại bại nói trên, Liên Minh A Rập tan rã. Palestine quay về dùng du kích chiến và khủng bố để quậy phá Israel, nhưng nội bộ có nhiều bất hòa và xung đột. Israel gia tăng các hoạt động định cư tại Bờ Tây và Dải Gaza để chống lại.
Chính sách của Hoa Kỳ và các quốc gia Tây phương là triệt hạ dần các nhà lãnh đạo các quốc gia Hồi Giáo ủng hộ Palestine, khiến các thành phần hiếu chiến Palestine không còn nơi nương tựa, phải chấp nhận nghị quyết của Đại Nội Đồng LHQ năm 1947. Nhóm Fatal đang chọn con đường này, nhưng nhóm Hamas vẫn còn kháng cự. Con chồn đang bị lùa vào hang.
Khi Palestine không còn vấn đề nữa, Do Thái sẽ trở thành một tiền đồn vững chắc của Hoa Kỳ và các quốc gia Tây phương tại vùng Trung Đông để đối phó với sự vùng dậy của các quốc gia Hồi Giáo. Đây là vấn đề sẽ được chúng tôi bàn sau.
Ngày 13.12.2012
--Nhìn lại lịch sử
Lữ Giang
Friday, December 7, 2012 10:49 AM
Cuộc chiến giữa người Palestine với người Do Thái có nhiều nét giống cuộc chiến giữa “người Việt chống cộng” với “người Việt cộng sản”, nó khởi sự từ khi Thế Chiến II vừa chấm dứt và kéo dài cho đến ngày nay, nó biểu lộ tính chất bất khả giải hòa, bị thời cuộc đẩy đưa và dẫm nát, và khó ai biết được lúc nào nó sẽ chấm dứt. Nhìn vào cuộc chiến này, người Việt có thể học thêm được nhiều bài học hữu ích. Trước 1975, “người Việt chống cộng” rất mê các Kibbutz (làng cộng đồng) của Do Thái và tin rằng nếu VNCH làm được như vậy có thể loại bỏ được Cộng Sản. Thủ Tướng Ben Gurion của Do Thái đã từng tuyên bố: "Hằng ngàn bài diễn văn, hằng trăm đại hội cũng không bằng lập được một làng cộng đồng Kibbutz."
ĐỂ LÀM GÌ ĐÂY?
Hôm 29.11.2012, Đại Hội Đồng LHQ đã biểu quyết với 138 phiếu thuận, 9 phiếu chống và 41 phiếu trắng, một nghị quyết cho phép Palestine được hưởng quy chế “quan sát viên không phải là quốc gia hội viên” (non-member observer state) tại Đại Hội Đồng LHQ.
Tổng thống Palestine Mahmoud Abbas tuyên bố: "Cộng đồng quốc tế nay đứng trước cơ hội cuối cùng để cứu giải pháp hai quốc gia." Nhưng một vài người đã hỏi chúng tôi: “Quan sát viên không phải là quốc gia hội viên” là gì? Với quy chế mới được cấp đó, liệu rồi Palestin sẽ có thêm những thuận lợi nào? LHQ đã chia đất cho Do Thái và Palestine từ 1947, tại sao Do Thái được công nhận là thành viên Đại Hội Đồng LHQ, còn Palestin thì không?
Một số người khác lại hỏi: Hiện nay, tại thủ đô VNCH nối dài ở Little Saigon, có ba chính phủ đang “lãnh đạo quốc gia”, đó là Chính Phủ Việt Nam Tự Do của Nguyễn Hữu Chánh, Chính Phủ Quốc Gia Việt Nam Lâm Thời của Đào Minh Quân và Chính Phủ VNCH nối dài của Hồ Văn Sinh (kế vị Nguyễn Bá Cẩn). Vậy các chính phủ nầy có thể xin hưởng quy chế “quan sát viên không phải là quốc gia hội viên” tại LHQ được không?
Đây là những vấn đề khá phức tạp và lẩm cẩm, nó lẫn lộn giữa quốc tế công pháp với chính trị. Do đó, trước khi có ý kiến về việc LHQ cấp cho Palestine quy chế “quan sát viên không phải là quốc gia hội viên”, là một giải pháp hay là một trò ảo thuật, chúng tôi xin nói qua về lịch sử hai nước Do Thái và Palestine.
VÙNG ĐẤT TRANH CHẤP
Vùng đất tranh chấp hiện nay giữa Do Thái và Palestine là vùng đất nằm giữa bờ đông Địa Trung Hải và sông Jordan, ngày xưa gọi là vùng Canaan. Theo Thánh Kinh, Canaan là Đất Hứa Thiên Chúa dành cho dân Do Thái (Gen. 17:8; Ex. 6:4).
1.- Vùng Đất Hứa
Cái tên Canaan phát xuất từ đâu? Nhiều nhà nghiên cứu lịch sử tin rằng đó là tên của cháu nội ông Noah, người đóng tàu để thoát qua trận Đại Hồng Thủy tiêu diệt toàn thể nhân loại. Theo Thánh Kinh, ông Noah có 3 người con trai là Shem, Ham and Japheth. Canaan là con trai của Ham, vì bị chúc dữ nên phải đi lưu đày, họ đã đến lập nghiệp tại vùng này và đặt tên là Canaan. Vùng Canaan trong tiền sử gồm vùng mà Do Thái và Palestine đang chiếm cứ, Lebanon, tây Jordan và tây Syria ngày nay.
2.- Nước Palestine
Các nhà nghiên cứu tin rằng người Palestine là người Philistine được nói đến trong Thánh Kinh. Họ là dân du mục bị đuổi khỏi quê hương họ là đảo Crete, một đảo lớn nhất ở Hy Lạp.
Họ đến Canaan qua nhiều giai đoạn từ 1175 đến 1100 trước CN. Trong thế kỷ 12 trước CN, họ bắt đầu chiếm một vùng nhỏ ở bở biển phía nam của Canaan, giữa Tel Aviv–Yafo và dải Gaza ngày nay. Họ xây dựng 5 thành phố là Gaza, Ashkelon, Ashdod, Ekron và Gath. Người Hy Lạp gọi đó là vùng Philistia. Đến thế kỷ thứ hai, vùng đó được gọi là “Syria Palestina” để chỉ phần phía nam của tỉnh Syria. Đất nước Palestine đã thay đổi qua nhiều biến cố khác nhau trong lịch sử.
3.- Nước Do Thái
Theo Do Thái giáo, Kitô giáo và Hồi giáo, Abraham là tổ phụ của dân Do Thái và dân A-rập. Trong số các con cháu của Abraham, có Ismael là thủy tổ dân A Rập, và Jacob là thủy tổ dân Do Thái. Quê hương của Abraham ở xứ Ur phía bắc vùng Mesopotamia, nay là đông nam Thổ Nhĩ Kỳ.
Thiên Chúa đã hiện ra trước Abraham và ra lệnh:
“Hãy đi khỏi nơi sinh trưởng, đến vùng đất mà ta chỉ cho ngươi. Ta sẽ tạo cho con cháu ngươi một đất nước vĩ đại.”
Abraham cùng vợ là Sarai, người cháu tên Lot và các tôi tớ đi đến xứ Canaan vào khoảng năm 1800 trước CN, sống phiêu bạt trong vùng mà ngày nay Israel, Palestine và Jordan đang sống.
Nhân mùa đói kém, con của Jacob là Joseph dẫn dân Do Thái qua Ai Cập định cư. Nhưng định cư được ít lâu, Ai Cập biến họ thành nô lệ. Thiên Chúa bảo Moses dẫn dân Do Thái ra khỏi Ai Cập và đi đến vùng đất hứa. Cuộc lữ hành qua sa mạc kéo dài đến 40 năm. Đến khoảng năm 1250 Do Thái mới bắt đầu chinh phục vùng Canaan và xây dựng một vương quốc, lấy Jerusalem làm thủ đô.
Vương quốc Do Thái cực thịnh dưới hai triều David và Solomon (961-922 trước CN), sau đó vương quốc Do Thái bị cắt làm hai, vương quốc Israel ở phía bắc và vương quốc Judah ở phía nam. Qua các cuộc xâm lăng của Assyria, Babylon, Ba Tư, Ai Cập, rồi đến La Mã, Ả Rập, Thổ Nhĩ Kỳ…, người Do Thái bị nô lệ hóa, bị tiêu diệt, bị đuổi khỏi quê hương, chỉ còn một số nhỏ ở lại. Đất nước họ bị người Palestine chiếm ngụ. Đến cuối thế kỷ 19, phong trào Zion đã lôi kéo được nhiều người Do Thái trở về quê cũ ở Canaan.
Cuối Thế Chiến I, Anh chiếm được vùng Canaan từ tay đế quốc Ottoman của Thổ Nhĩ Kỳ. Năm 1917, Ngoại trưởng Anh Arthur Balfour đã tích cực xúc tiến việc tái lập quốc gia Do Thái ở vùng của Palestine đang cư ngụ. Sự kiện 6 triệu người Do Thái trên khắp châu Âu bị Phát xít Đức đưa vào các trại tập trung để giết, người Do Thái mới quyết định phải trở về tái lập quốc gia Israel.
Năm 1947, Anh là nước được Hội Quốc Liên ủy thác quản trị vùng Palestine từ năm 1920, đã trao trách nhiệm giải quyết vấn đề tranh chấp giữa người Do Thái và Ả rập lại cho LHQ. Ngày 29.11.1947, 33 quốc gia thành viên Đại Hội Đồng LHQ đã bỏ phiếu thông qua kế hoạch trao 56,47% lãnh thổ Palestine để thành lập nước Do Thái, 43,53% để thành lập nước A-rập và một khu vực quốc tế bao quanh thành Jerusalem. Do Thái chấp nhận, nhưng Palestine bác bỏ. Đây là vấn đề sẽ được chúng tôi bàn trong bài tiếp theo.
MỘT CUỘC TRỞ VỀ NGHIỆT NGÃ
Để độc giả có thể hình dung được việc hình thành một vương quốc Do Thái đầu tiên trên đất Canaan, người Do Thái đã phải chịu những gian khổ như thế nào, chúng tôi xin tường thuật lại dưới đây đoạn nói về người Do Thái tiến vào Canaan sau 40 năm lưu lạc trong sa mạc:
Khi dân Israel đến vùng hoang dã của Paran, họ đã đến rất gần với đất Thiên Chúa đã hứa cho họ. Một cuộc diễn hành sẽ đưa họ qua biên giới vào đất nước xinh đẹp. Và Chúa nói với Moses: "Gởi mười hai người vào đất Canaan để do thám đất".
Moses chọn mười hai người đàn ông tốt và nói với họ: "Băng qua đồng bằng và đi lên những ngọn đồi, xem đất như thế nào. Xem loại người nào sống ở đó, cho dù họ là yếu hay mạnh, ít hoặc nhiều. Tìm hiểu xem đất là tốt hay xấu, cho dù có rừng trên đó. Chú ý họ có những thành phố loại nào, cho dù họ sống trong lều bạt hoặc các trong các thành trì. Hãy đem về trái cây từ đất đó. Các chùm nho đầu tiên mới chín. Cuối cùng, hãy ra đi với sự can đảm hoàn toàn".
Trong bốn mươi ngày, các điệp viên đã đi đây đó qua Đất Hứa. Họ đã nhìn thấy các thành phố vững mạnh và các thị trấn nhỏ. Họ đã nhìn thấy các cánh đồng ngũ cốc và các vườn nho lớn. Đất đẹp và đầy đủ các loại thực phẩm. Trên vùng đất này, họ không thiếu thịt, trái cây, hoặc rau.
Khi các điệp viên trở về trại của Israel, họ mang các mẫu trái cây tăng trưởng trong xứ Canaan. Hai người đàn ông khiêng bằng một cái đòn một buồng nho lớn. Chưa bao giờ người dân được xem trái cây tuyệt vời như vậy.
Sau đó, mười trong số các điệp viên nói về Canaan:
"Đây là một vùng đất giàu có. Chúng tôi mang đến cho quý vị một số trái cây mọc ở đó. Nhưng dân chúng sống ở các thành phố lớn có tường bao quanh".
Dân Israel đã bàn chuyện với nhau về báo cáo này. Cuối cùng Caleb, một điệp viên khác, bảo mọi người im lặng và nói với họ:"Chúng ta hãy đi ngay và chiếm đất, vì chúng ta có thể thắng nó dễ dàng."
Nhưng mười điệp viên không đồng ý. Họ nói: "Chúng ta không thể đi vào vùng đó, vì dân chúng mạnh hơn chúng ta." Mọi người hoảng sợ khi các điệp viên cho biết: "Những người đàn ông của vùng đó rất lớn, họ giết chúng ta trông giống như giết châu chấu".
Dân chúng thất vọng và la khóc cả đêm. Sáng hôm sau, họ phàn nàn chống lại Moses và Aron:
"Chúng tôi muốn chúng tôi ở lại tại Ai Cập. Chúng tôi muốn chúng tôi chết trong vùng hoang dã hơn là bị giết bởi những người khổng lồ của Canaan. Tại sao Thiên Chúa đem chúng ta ra đây để chết? Vợ và của con chúng ta sẽ bị bắt làm tù nhân".
Thậm chí dân chúng còn lập kế hoạch và chọn một đội trưởng để dẫn họ trở lại Ai Cập.
Khi Moses và Aron nghe về kế hoạch đó, họ sụ mặt xuống và cầu xin mọi người vâng lời Thiên Chúa. Làm thế nào mà dân chúng này nghi ngờ quyền năng của Thiên Chúa sau khi người đưa họ ra khỏi Ai Cập, dẫn họ qua Biển Đỏ trên đất khô cằn, cho họ nước từ một tảng đá cứng, mưa thức ăn từ trên trời xuống và bảo vệ họ khỏi kẻ thù của họ?
Caleb và Joshua, hai thám tử có đức tin vào Thiên Chúa, đã xé quần áo của họ ra vì người dân không tin tưởng Thiên Chúa đã ban cho họ đất Canaan. Họ xác nhận với mọi người:
"Đất chúng tôi tìm kiếm là một vùng đất tuyệt vời. Thiên Chúa đã hứa ban nó cho chúng ta. Đừng quay trở lại hoặc sợ hải. Chúa ở với chúng ta. Chúng ta hãy đi tới!"
Dân chúng không muốn nghe lời Caleb và Joshua. Thay vào đó, họ muốn giết chết hai điệp viên trung thành này. Tuy nhiên, khi mọi người tìm những viên đá để ném vào Caleb và Joshua, họ nhìn thấy vinh quang của Thiên Chúa đi xuống trên nhà tạm (nhà đựng hòm bia Thiên Chúa).
Chúa đã phán cùng Moses: "Những người này sẽ còn thách thức ta bao lâu nữa? Còn bao lâu nữa trước khi họ có niềm tin vào ta?" Chúa đã rất tức giận với con cái Israel. Ngài nghĩ rằng Ngài không thể chịu đựng chúng nữa.
Moses cầu nguyện tha thiết cho người dân của mình. Ông nhắc nhở Chúa: "Nếu mọi người của chúng tôi chết ở đây trong vùng hoang dã, người Ai Cập sẽ nói Ngài không thể để dân Israel đến Canaan." Moses cầu xin: "Tôi cầu xin Ngài, xin tha thứ tội lỗi của dân này theo lượng khoan dung của Ngài, ngay cả khi Ngài đã tha thứ cho họ từ ngày họ rời Ai Cập cho đến bây giờ."
Vì Moses, Thiên Chúa đã tha thứ cho dân Israel, nhưng Ngài từ chối để cho họ thay đổi suy nghĩ của họ và đi vào Canaan ngay bây giờ. Thiên Chúa phán: "Tất cả các ngươi đã hai mươi tuổi trở lên sẽ không bao giờ sống trong xứ Canaan, bởi vì các ngươi đã phàn nàn chống lại ta." Để trừng phạt họ, Thiên Chúa truyền cho họ quay trở lại vùng hoang dã và đóng trại cho đến khi những người phàn nàn đã chết.
Sau bốn mươi năm lang thang trong hoang địa, người Do Thái đến đồng bằng Moab. Moses trở nên già và biết rằng ông sẽ không được ở với người dân của ông khi cuối cùng họ đến Đất Hứa Canaan. Giờ đây, công việc của ông đã được thực hiện.
Moses gọi Joshua đến trước tất cả người Do Thái nói với ông:"Hãy mạnh mẽ và can đảm. Bạn phải dẫn những người này đến vùng đất của cha ông họ. Thiên Chúa sẽ ở với bạn. Ngài sẽ không bỏ rơi bạn, do đó, đừng sợ hãi." Và ông đã đưa cho Joshua cuốn sách về pháp luật để đặt vào hòm bia bằng đá.
Moses đi lên trên núi Nebo, từ Jericho qua Jordan, và từ đó Chúa chỉ cho ông ta vùng đồng bằng của thung lũng Jericho, thành phố của những cây cọ, và tất cả những đất trải ngang giữa thung lũng và sông Jordan mà họ sẽ phải vượt qua. Và Chúa nói với ông:
"Hãy nhìn đất Canaan. Ta đã thề với Abraham, Isaac và Jericho rằng ta sẽ cho con cái của họ đất đó. Ngươi đã thấy nó với đôi mắt của ngươi, nhưng ngươi sẽ không vượt qua trong nó".
Moses đã gọi con cái của Israel lại với mình và chúc lành cho họ. Moses qua đời một thời gian ngắn sau đó, và được chôn trong đất Moab. Con cái của Israel khóc thương ba mươi ngày, vì ông là một vị tiên tri rất lớn, và đã dẫn dắt dân Israel ra khỏi ách nô lệ của Ai Cập.
Joshua là một nhà lãnh đạo tốt, đầy đủ tinh thần của sự khôn ngoan, nhưng không bao giờ trong Israel lại xuất hiện một tiên tri giống như Moses, người mà Thiên Chúa mặt đối mặt.
Người Do Thái ngày nay cũng đang phải chịu những gian khổ khi trở lại Đất Hứa như họ đã phải chịu khi từ Ai Cập trở về Canaan ngày xưa. Nhiều người cho rằng trong các dân tộc trên thế giới, người Do Thái là một trong những dân tộc có lịch sử đáng kinh ngạc và đáng thán phục nhất.
Ngày 6.12.2012
Lữ Giang-Nhìn lại lịch sử