Thứ Bảy, 21 tháng 5, 2016

Quyền bầu cử trong và ngoài Việt Nam

-5 năm nhìn lại vụ án rải truyền đơn tẩy chay bầu cử


5 năm trước, tại thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An chính quyền cộng sản Việt Nam đã mở phiên tòa xét xử vụ án rải truyền đơn tẩy chay bầu cử Quốc hội khóa XIII và Hội đồng nhân dân các cấp. Vậy những người trong vụ án đó nói gì sau 5 năm nhìn lại?
Những bản án bất công và nặng nề

Trong cuộc bầu cử vào Quốc hội khóa XIII cũng như Hội đồng nhân dân các cấp vào ngày 22 tháng 05 năm 2011, để phản đối cuộc bầu cử “đảng cử dân bầu” tiêu tốn tiền thuế của người dân, thì một nhóm bạn trẻ sinh viên Công Giáo ở thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An đã tổ chức cuộc rải truyền đơn để tẩy chay cuộc bầu cử này với nội dung của các tờ rơi là: “dân là chủ - đất nước của nhân dân”, “Dân là chủ - không đi bầu cử quốc hội do Cộng Sản độc diễn”, “Dân chủ phải có đa nguyên, đa đảng”, “Đa nguyên đa đảng là vững bền”, “Không tín nhiệm quốc hội một đảng”.

Theo chia sẻ của các bạn trẻ trong vụ án đó, thì vào năm 2011 khi mà mạng xã hội nhất là Facebook chưa phát triển cũng như phổ biến rộng rãi như hiện nay, khi lực lượng những người đấu tranh còn ít, thì họ đành phải tổ chức rải truyền đơn dù kết quả của nó không khả quan nhưng đó là tiếng chuông thức tỉnh cho mọi người.
So với quốc tế thì đó là quá nặng, bởi vì đó là quyền lợi của mình, bày tỏ quyền lợi mà họ phạt vậy thì quá nặng, vì mình đòi hỏi quyền lợi đáng lẽ họ phải ủng hộ mình chứ họ lại quy chụp thì tìm mọi cách để làm hại mình.
-Đậu Văn Dương

Nhóm bạn trẻ Công Giáo rải truyền đơn ở thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An năm 2011 gồm 8 người, tuy nhiên chỉ có 4 người bị bắt và bị kết án, với tội danh tuyên truyền chống phá nhà nước, còn 4 người đã may mắn trốn thoát và nay đang phải sống tị nạn chính trị ở nước ngoài. Trong 4 người bị bắt thì người có mức án nặng nhất là 42 tháng tù giam, còn người nhẹ nhất là 18 tháng tù treo.

Chia sẻ với chúng tôi, anh Đậu Văn Dương người bị mức án cao nhất 42 tháng tù giam cho biết, đây là mức án rất nặng nề và bất công.

Anh Dương chia sẻ:

“So với quốc tế thì đó là quá nặng, bởi vì đó là quyền lợi của mình, bày tỏ quyền lợi mà họ phạt vậy thì quá nặng, vì mình đòi hỏi quyền lợi đáng lẽ họ phải ủng hộ mình chứ họ lại quy chụp thì tìm mọi cách để làm hại mình.”

Anh Trần Hữu Đức người bị mức án 39 tháng tù giam cũng cho biết, đây là bản án nặng nề và bất công, bất công trong việc xử án, bất công trong quá trình thẩm vấn.

Anh Đức cho biết:

“39 tháng tù giam là bất công, bởi vì tất cả những việc làm của mình trong khoảng thời gian đó là đang thực thi quyền của một công dân theo hiến pháp đó là điều 25 là quyền tự do ngôn luận, tự do hội họp, tự do báo chí cũng như biểu tình. Trong tất cả mọi hành vi cũng như ra phiên tòa, bên tòa án cũng như bên viện kiểm soát không thể chứng minh đó là hành vi cấu thành tội phạm. Việc mà bày tỏ quan điểm để nói lên trong tinh thần xây dựng, bày tỏ quan điểm của mình trước những vấn nạn trong xã hội. Phản đối theo quyền cá nhân của mình là mình đang thực hiện quyền của một người công dân trong đất nước thôi chứ không thể quy thành đó là tội phạm được mà họ lại đưa ra xét xử và quy cho đó là vi phạm pháp luật thì điều đó là không thể đúng. Cái đó là chưa xét đến vấn đề trong những lúc mà những tình tiết mà xét theo trình tự pháp luật về vấn đề thủ tục bắt người và giam người, xử người thì nó hoàn toàn không đúng với pháp luật.”



Truyền đơn tẩy chay bầu cử Quốc hội khóa XIII và Hội đồng nhân dân các cấp dán trên trụ điện thoại công cộng hồi năm 2011. File photo.

Ngoài 4 người bị bắt và bị kết án, thì có 4 người còn lại họ đã chạy thoát được và hiện đang sống tị nạn chính trị ở Thái Lan, một trong số đó có anh Trịnh Văn Thương, anh cũng cho rằng bản án mà chính quyền cộng sản Việt Nam dành cho những người bạn của anh là bất công, vì theo anh việc làm của anh và của các bạn anh không hề vi phạm pháp luật Việt Nam cũng như luật nhân quyền quốc tế.

Anh Thương cho biết:

“Tôi thấy việc làm của những người bạn của tôi không sai mà trái lại là việc làm tốt, nhằm giúp người dân nhận thấy được sự dối trá lừa lọc của bộ máy chính quyền Việt Nam. nhà cầm quyền cộng sản đã bắt bớ rồi chụp mũ 4 người bạn với tội danh: Tuyên Truyền Chống phá nhà nước, với nhiều năm tù giam và nhiều năm quản chế. Đây là một bản án bất công, hoàn toàn sai trái. Nhà cầm quyền cộng sản VN đã vi phạm vào điều 25 của hiến pháp năm 2013: Điều 25 cho biết: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Đặc biệt nhà cầm quyền còn vi phạm trắng trợn vào điều 19 trong bản tuyên ngôn quốc tế nhân quyền.”

Dù phải chịu những bản án bất công và phải sống khổ sở trong nhà tù cộng sản 42 tháng, nhưng anh Dương cho biết, nếu thời gian có quay trở lại như 5 năm trước thì anh vẫn sẽ tiếp tục làm công việc rải truyền đơn để tẩy chay cuộc bầu cử giả dối của đảng cộng sản Việt Nam.

Anh Dương chia sẻ:

“Cái đó thì tất nhiên thì mình vẫn làm bình thường, bởi vì đó là quyền mình đòi thì bất kể 5 năm trước hay 10 năm trước hay cho dù sau này mình vẫn cứ đòi.”
Tiếp tục đấu tranh?

Dù phải chịu những bản án bất công nặng nề và phải sống trong nhà tù cộng sản với những điều kiện rất khắc nghiệt, nhưng sau khi ra khỏi nhà tù họ vẫn sẽ luôn đi theo con đường đấu tranh cho công lý và sự thật dù phải gặp bất kỳ những khó khăn thử thách nào.
Lý tưởng là sống cho công lý và sự thật, bản thân tôi xác định thì con đường đang đi là con đường sự thật tôi không bao giờ từ bỏ con đường sự thật.
-Trần Hữu Đức

Anh Trần Hữu Đức cho biết, đó là lý tưởng của anh và anh sẽ luôn theo đuổi nó. Anh Đức cho biết:

“Lý tưởng là sống cho công lý và sự thật, bản thân tôi xác định thì con đường đang đi là con đường sự thật tôi không bao giờ từ bỏ con đường sự thật và bản thân xác định là con đường tôi đang đi trên con đường sự thật thì tôi luôn muốn vững bước trên đường đó và không ngần ngại những khó khăn nào cho dù có thiệt thân.”

Anh Dương cũng cho biết đó là trách nhiệm của anh, trách nhiệm của những người đi trước để đòi lại quyền lợi cho những người đi sau:

“Mình đã dấn thân theo con đường sự thật thì mình phải luôn bảo vệ những con đường đó chứ và đó cũng là trách nhiệm của mình. Thì đã sống theo con đường sự thật cho dù mình chết thì mình vẫn sống theo sự thật đó thôi, quyền lợi của mình thì mình đòi hỏi chứ.”

Dù đang sống tị nạn, nhưng anh thương cũng cho biết là bằng cách này hay cách khác anh cũng sẽ luôn đấu tranh cho sự thật, cho nhân quyền ở Việt Nam:

“Qua việc bầu cử hay tôi thấy nhiều bất công trong xã hội, cũng như vấn đề cán bộ tham nhũng tràn lan. Hơn nữa hiện nay chính quyền đang làm ngơ và đánh lạc hướng dư luận trước vụ Formosa. Vụ này đã và đang gây ra thảm khốc rất lớn cho người dân Miền Trung nói riêng và cho cả nước nói chung. Vì vậy tôi cần phải góp phần việc nhỏ bé nhằm làm thay đổi phần nào cho vận mệnh đất nước Việt Nam để ngày càng được tốt hơn.”

Trong vụ án rải truyền đơn để tẩy chay cuộc bầu cử giả dối của chính quyền cộng sản Việt Nam còn có Đinh Nguyên Kha và Nguyễn Phương Uyên, Đinh Nguyên Kha bị kết án 10 năm tù giam, và Nguyễn Phương Uyên bị kết án 6 năm tù giam cùng với tội danh tuyên truyền chống phá nhà nước.


-Quyền bầu cử trong và ngoài Việt Nam

Việt Kiều, công dân Việt Nam ở hải ngoại dường như chưa được tham gia các kỳ bầu cử trong nước.

Dường như Việt kiều và công dân Việt Nam ở nước ngoài không được thực hiện các quyền công dân trong bầu cử, ứng cử, tranh cử của mình, theo các khách mời tại tọa đàm của BBC tuần này với chủ đề " Quyền bầu cử của công dân" nhân mùa bầu cử đang diễn ra ở Anh quốc và một số quốc gia tại châu Âu.


Trao đổi tại cuộc tọa đàm hôm 07/5/2015, ông Ngô Văn Tưởng, nhà hoạt động xã hội người Việt Nam tại Ba Lan nói:


Mặc dù tại Việt Nam có nhiều cuộc bầu cử diễn ra nhưng tại Văn phòng Lãnh sự của Sứ quán Việt Nam tại Ba Lan không bao giờ tổ chức bất kỳ một cuộc bầu cử nào cảNgô Văn Tưởng, nhà hoạt động xã hội

"Mặc dù tại Việt Nam có nhiều cuộc bầu cử diễn ra nhưng tại Văn phòng Lãnh sự của Sứ quán Việt Nam tại Ba Lan không bao giờ tổ chức bất kỳ một cuộc bầu cử nào cả."

Theo ông Tưởng, người từng ra tranh cử trong một kỳ bầu cử nghị viện ở địa phương tại Ba Lan vào cuối năm 2014, có một số nguyên nhân.

Nhà hoạt động nói: "Theo tôi biết đây là hậu quả của một số vấn đề rất rõ rệt. Thứ nhất, người tổ chức bầu cử là người đại diện chính quyền, trong trường hợp này là Cơ quan Lãnh sự của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.

"Và người cử tri, những người Việt Nam sống tại Ba Lan và mang quốc tịch Việt Nam, được biết rằng lá phiếu của họ không có một giá trị gì cả, cho nên phía chính quyền cũng không muốn tổ chức cuộc bầu cử tại cơ quan lãnh sự và phía cử tri cũng chẳng ai muốn đi tham gia bầu cử làm gì.

"Bởi vì cũng như Tiến sỹ Cù Huy Hà Vũ đã nói nếu một thể chế mà chỉ có một độc đảng duy nhất lãnh đạo, thì tất cả những cái bầu chỉ là phù phiếm và không mang lại kết quả dân chủ và giá trị thực sự của lá phiếu bầu.
Có hàng triệu kiều dân Việt Nam đang sinh sống và làm việc ở nước ngoài, nếu chỉ tính riêng tại Mỹ và châu Âu.

"Chính vì thế tôi nghĩ rằng chính quyền, ở đây nghĩa là cơ quan đại diện ngoại giao, đã bỏ qua trách nhiệm rất là lớn của một thể chế, đó là tổ chức bầu cử để tạo cho cử tri thực thi quyền công dân của mình.

"Và ngược lại, cử tri Việt Nam tại Ba Lan cũng biết rằng lá phiếu của mình chẳng có giá trị gì cả, cho nên cũng chẳng ai màng tới việc là tại Cơ quan Lãnh sự của Việt Nam có tổ chức đi bầu cử nhân dịp trong nước có các cuộc bầu cử hay không."
'Từ Úc tới Pháp'


Những người Pháp mà ra sinh sống ở các nước, họ được quyền đăng ký ở tòa Đại sứ, cũng như tòa Tổng Lãnh sự Pháp.Christine Nguyễn, blogger, nhà báo tự do

Trước câu hỏi nếu có thực tế như trên thì có thể có ai ' vi phạm quyền' về bầu cử, ứng cử v.v... của kiều dân, công dân Việt Nam ở hải ngoại hay không, từ Sydney, Úc, ông Nguyễn Minh Vọng, làm việc cho các dự án hỗ trợ cộng đồng của Bộ Xã hội Úc, nêu quan điểm:

"Tôi có cháu, có người em học ở bên Úc, nhưng không có bao giờ nghe thấy họ nói là đi bầu cử... Bầu cử không được ý thức rõ ràng cho lắm."

Khi được hỏi có bao giờ kiều dân hay công dân Việt Nam được các cơ quan ngoại giao Việt Nam như Tòa Đại sứ hay các cơ quan lãnh sự liên hệ, thông tin, mời tham gia các cuộc bầu cử của Việt Nam tại Úc hay không, ông Vọng cho hay:

"Hoàn toàn không bao giờ có... Tôi sống bên gia đình vợ tôi cũng là những người tị nạn, những người đi vượt biên, cũng có người bị mất tích, thì sự dính dáng với sứ quán hay chế độ Việt Nam, chế độ cộng sản bây giờ thì cũng hiếm lắm, không có...

"Nói như vậy các vị thính giả có thể biết rằng sự liên lạc không được như ở Ba Lan hay ở các nước Đông Âu."Công dân ở Việt Nam có các quyền bầu cử, ứng cử, còn các công dân VN ra nước ngoài có vẻ chưa được hưởng các quyền này, theo ý kiến tại tọa đàm.

Từ Paris, Pháp, nhà báo tự do, blogger Christine Nguyễn chia sẻ với bàn tròn và đưa ra một góc nhìn so sánh giữa Pháp và Việt Nam, qua việc kiều dân Pháp ra nước ngoài liên hệ ra sao với bầu cử, hay trưng cầu dân ý ở quốc nội.

Christine Nguyễn nói: "Người Pháp ra sinh sống ở các nước, thì những đợt bầu cử thì người Pháp họ sẽ làm gì? Theo quy định của Bộ nội vụ Pháp, những người Pháp mà ra sinh sống ở các nước, họ được quyền đăng ký ở tòa Đại sứ, cũng như tòa Tổng Lãnh sự Pháp.

"Ở đó, họ mở ra những thùng phiếu và những ngày bầu cử cho những người Pháp đang sống ở nước ngoài để cho người ta tới đó để bỏ phiếu.


Theo tôi thấy cũng có một số người mà đầu óc suy nghĩ vẫn còn như kiểu ở VN bây giờ, tôi nghĩ là hiếm, nhưng cũng không dám loại trừ là không có aiKỹ sư Đoàn Xuân Tuấn

"Và đó là những cuộc bầu cử gì? Cuộc bầu cử Tổng thống, cuộc bầu cử Quốc hội, những cuộc trưng cầu dân ý, thì người Pháp khi sống ở nước ngoài, nếu có quan tâm muốn bỏ phiếu, sẽ Lãnh sự quán hoặc Đại sứ quán của mình, dĩ nhiên trước đó có đăng ký, có danh sách và được làm phiếu, thì họ sẽ thực hiện quyền công dân của mình.

"Theo con số thống kê, cách đây 10 năm có tới 700.000 công dân Pháp sinh sống ở các nước đã đi bỏ phiếu như thế, đã đăng ký bỏ phiếu như vậy," blogger Christine Nguyễn nói.

Từ Anh, khách mời Đoàn Xuân Tuấn nói với bàn tròn về việc có thể có các công dân Việt Nam ở Anh còn giữ quan hệ với trong nước và Tòa đại sứ có thể có nhu cầu tham gia bỏ phiếu cho các kỳ bầu cử ở Việt Nam.

Kỹ sư Tuấn nói:

"Ở London, số người từ miền Bắc, từ Hải Phòng qua cũng rất nhiều, theo tôi thấy cũng có một số người mà đầu óc suy nghĩ vẫn còn như kiểu ở Việt Nam bây giờ, tôi nghĩ là hiếm (người có nhu cầu bỏ phiếu), nhưng cũng không dám loại trừ là không có ai."
'Hành vi vi hiến'

Tiến sỹ luật Cù Huy Hà Vũ, khách mời tham gia tọa đàm từ Đại học George Washington, Hoa Kỳ, nơi ông đang là học giả thỉnh giảng, nói:Nhiều Việt kiều xuống đường ở hải ngoại ủng hộ bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, biển đảo của Việt Nam gần đây.

"Tôi khẳng định rằng không bao giờ có một quy chế nào, hay một kế hoạch nào để tổ chức cho những người mang quốc tịch Việt Nam, hay nói cách khác, công dân Việt Nam, ở nước ngoài mà thực hiện quyền bỏ phiếu cho các cuộc bầu cử ở trong nước...

"Tức là việc các cơ quan ngoại giao ở nước ngoài như là Đại sứ quán, Lãnh sự quán, không tổ chức cho công dân Việt Nam ở nước ngoài tham gia bỏ phiếu để bầu ra những vị đại diện ở trong nước, ví dụ như là ở Quốc hội, hay là ở Hội đồng Nhân dân các cấp, thì đó là một hành vi vi hiến.

"Bởi vì Hiến pháp của Việt Nam từ năm 1946 cho đến nay đều quy định rằng công dân Việt Nam từ 18 tuổi có quyền tham gia bầu cử, và từ 21 tuổi thì có quyền tham gia ứng cử vào Quốc hội và cũng như vào các Hội đồng nhân dân các cấp.


Việc các cơ quan ngoại giao ở nước ngoài như là Đại sứ quán, Lãnh sự quán, không tổ chức cho công dân Việt Nam ở nước ngoài tham gia bỏ phiếu... thì đó là một hành vi vi hiếnTiến sỹ Cù Huy Hà Vũ

"Cho nên kết luận của tôi là với một thể chế độc đảng, hay dưới một chế độ độc tài toàn trị của Đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay, thì không bao giờ và vĩnh viễn không bao giờ có chuyện mà các quyền của người dân ở Việt Nam được bảo đảm.

"Mà trong trường hợp này, những công dân Việt Nam ở nước ngoài sẽ không bao giờ có quyền bỏ phiếu để bầu đại diện của mình trong các cuộc bầu cử ở trong nước.

"Cho nên kết luận lại là cần phải thay thế chế độ độc tài toàn trị của Đảng Cộng sản Việt Nam bằng một chế độ thực sự dân chủ, do dân, của dân, vì dân và để có được thể chế đó, thì chúng ta cần phải buộc nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam hiện nay chấm dứt đàn áp nhân quyền.

"Để moi người thực hiện những quyền tự do ngôn luận, quyền tự do báo chí, quyền tự do hội họp, biểu tình v.v... trước. Và khi làm những việc đó rồi, thì mới có thể dẫn đến một xu thế là bầu cử tự do, có sự tham gia của các đảng phái.

"Và đến khi cuộc bầu cử tự do có sự tham gia của các đảng phái được thực hiện rồi, thì lúc đó mới có một chính quyền của dân và chính quyền của dân lúc đó mới có nghĩa vụ, chứ không phải là ban phát, tổ chức cho các công dân Việt Nam ở nước ngoài tham gia các cuộc bầu cử trong nước," ông Hà Vũ nói với tọa đàm của BBC.


-Nhóm « Cùng viết Hiến pháp » và điều 4. Nhan Tuan Truong

Nhóm « Cùng viết Hiến pháp » do GS Ngô Bảo Châu, Đàm Thanh Sơn, Nguyễn Anh Tuấn và một số cộng tác viên khác đã có nhận định như sau :

« Chúng tôi cho rằng việc bổ sung Điều 4 vào Hiến pháp 1980 nói về sự lãnh đạo của Đảng là không thực sự cần thiết, nhưng đã là một thực tế lịch sử. Chúng tôi cũng cho rằng trong hoàn cảnh hiện tại, việc bỏ Điều 4 có thể dẫn đến những hậu quả chưa thể lượng định đối với tiến trình phát triển trong ổn định của đất nước. »

Ở đây tôi muốn góp ý với quí vị một số dữ kiện về « thực tế lịch sử » của đảng CSVN.

-      - Thực chất của cuộc « cách mạng tháng tám » :

Ngày 19 tháng 8 năm 1945 Mặt trận Việt Minh làm « cách mạng ». Chính phủ « lâm thời » được thành lập tại Hà Nội. Ngày 25 tháng 8 Bảo Đại giao ấn, kiếm cho Trần Huy Liệu, đại diện Ủy ban giải phóng, tuyên bố thoái vị. Quốc gia gọi là « Đế Quốc Việt Nam » kết thúc và quốc gia « Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa » ra đời.

Vấn đề là, ngày 10 tháng 3 năm 1945 Nhật đảo chánh Pháp, chiếm Đông Dương. Chủ quyền (toàn thể vùng Đông Dương) trước kia thuộc Pháp, nay lọt vào tay Nhật. Nhưng sau khi Nhật thua trận, theo qui định của phe chiến thắng (Đồng Minh), Nhật phải từ bỏ các vùng lãnh thổ đã chiếm đóng trái phép trước đó. Điều này có nghĩa là, các chế độ chính trị do Nhật đặt ra tại các vùng lãnh thổ do Nhật chiếm trước đó là không có giá trị pháp lý (trường hợp Mãn Châu quốc với vua Phổ Nghi, hay VN với Bảo Đại v.v...). Các vùng lãnh thổ này sẽ do Đồng Minh quản lý và quyết định số phận (ngoại trừ các vùng lãnh thổ đã được giải quyết số phận trước).

VNDCCH được thành lập qua « cuộc Cách mạng tháng Tám ». Phe cộng sản VN do ông Hồ Chí Minh lãnh đạo cho rằng đã đánh Nhật, « dành chính quyền » từ tay Nhật.

Điều này không đúng.

Nhật đầu hàng đã giao toàn bộ thẩm quyền của đế quốc tại các thuộc địa cho đại diện của Đồng Minh. Ông Hồ không thể « cướp chính quyền » từ tay Nhật vì Nhật đã trao quyền này cho đại diện của Đồng Minh rồi !

Điều tệ hại, ngày 6 tháng 3 ông Hồ ký với Pháp một hiệp ước gọi là « hiệp ước sơ bộ ». Hiệp ước sơ bộ không hề nói một nước Việt Nam độc lập mà chỉ nói một nước « Việt Nam tự do » thuộc « Liên bang Đông dương » và khối « Liên hiệp Pháp ». Tức ông Hồ chấp nhận « quốc gia » Việt Nam, thực ra là « tiểu bang » hay « xứ », do chính phủ ông lãnh đạo, nằm trong Liên bang Đông Dương, có qui chế pháp lý tương đương với xứ Bắc Kỳ, mà quyền hành của ông còn dưới quyền của Thống sứ Pháp.

Sau khi bị chỉ trích « rước Pháp vào VN », ông Hồ cố gắng thay đổi thực tế này qua các hội nghị tại Đà Lạt và Fontainebleau, nhưng đều thất bại. Chính phủ của ông Hồ rút khỏi Hà Nội và bước vào cuộc kháng chiến, bắt đầu từ tháng 12 năm 1946. Ông Bảo Đại phê ông Hồ rằng : « Sau thất vọng ở Fontainebleau, (Việt Minh) chỉ còn giữ được uy tín bằng cách đưa cả nước vào biển máu. »

Thực tế đã xảy ra : cả nước đã là biển máu.

-      - Thực chất của 9 năm kháng chiến :

Các tài liệu đã được bạch hóa trong thời gian qua cho thấy dòng sinh mạng của đảng CSVN và nước VNDCCH gắn liền với đảng CSTQ.

Nếu quân Tàu Tưởng đã không tham nhũng thối nát khiến Hoa Kỳ chán nản bỏ rơi, thì Tàu Mao làm sao thắng được lục địa năm 1949 ? Và nếu không có chiến thắng của Mao Trạch Đông, lập ra nước CHNNTH, thì sẽ không bao giờ có VNDCCH cũng như chiến thắng Điện Biên Phủ 1954.

Lịch sử không ai đặt ra chữ nếu. Chữ nếu ở đây nhằm để mô tả sự gắn bó hữu cơ giữa hai đảng CSTQ và đảng CSVN.

Chiến thắng là chiến thắng của Mao Trạch Đông.

-      - Thực chất công lao của đảng CSVN :

Chấp nhận rằng « cách mạng tháng tám », « chín năm kháng chiến » và cuộc chiến « chống Mỹ cứu nước » là « công lao » của đảng CSVN.

Dựa vào công lao này, các đảng viên CSVN quyết khẳng định quyền lãnh đạo đất nước bằng hiến pháp qua điều 4.

Logic của vấn đề, nếu vậy, phải lôi ông Hồ trong lăng, những xác Lê Duẩn, Trường Chinh, Lê Đức Thọ… dưới mộ sâu ra để đặt vào vị trí lãnh đạo VN.

Chỉ có những người này, thế hệ đi trước, mới có « công lao ».

Lớp đảng viên CSVN hiện nay không ai có công lao nào (với đất nước) cả.

Không có công lao thì lấy tư cách gì khẳng định quyền lực ?

Họ chỉ có sức mạnh nòng súng, nắm cả tài nguyên đất nước và sinh mạng 90 triệu người dân. Họ có thể tiếp tục kề súng vào đầu người dân ép buộc mọi người chấp nhận sự lãnh đạo của họ.

Vấn đề là, nhóm của GS Châu, GS Sơn…, bị họ kề súng vào đầu hay do hứa hẹn quyền lợi mà có kết luận như vậy ? 


---Đề xuất sửa đổi, bổ sung một số quy định của Dự thảo Hiến pháp sửa đổi năm 2013 – CVHPChương I. Chế độ chính trị
Điều 2Đề nghị sửa thành:
1.Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Nhà nước chỉ được làm những gì luật pháp cho phép, người dân được làm tất cả những gì luật pháp không cấm.
2. Các cơ quan nhà nước phải phối hợp và giám sát nhau trong việc thực hiện chức năng độc lập: lập pháp, hành pháp và tư pháp.

Điều 4: Đề nghị sửa thành:
1. Đảng Cộng sản Việt Nam là tổ chức chính trị nhận trách nhiệm lãnh đạo nhà nước do nhân dân uỷ thác thông qua quá trình bầu cử tự do. Đảng Cộng sản Việt nam cử đại biểu của mình tham gia tranh cử vào các chức danh của bộ máy nhà nước.
2. Đảng Cộng sản Việt nam, các cơ quan và đảng viên của Đảng chấp hành hiến pháp và pháp luật.
3. Các hoạt động của Đảng phải chịu sự kiểm tra, giám sát của nhân dân. Cơ chế kiểm tra, giám sát của nhân dân đối với các hoạt động của Đảng được luật quy định.
Điều 5:
Đề nghị bỏ câu “Ngôn ngữ quốc gia là tiếng Việt”.
Điều 6: Đề nghị sửa thành:
Nhân dân thực hiện quyền lực Nhà nước bằng các hình thức dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện thông qua Quốc hội, Hội đồng Nhân dân, các cơ quan khác của nhà nước, các tổ chức chính trị và các tổ chức xã hội.
Điều 7 Khoản 1: Đề nghị sửa thành:
Việc bầu cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân và các chức danh dân bầu khác của bộ máy nhà nước được tiến hành theo các nguyên tắc tự do, công bằng, phổ thông, trực tiếp và bỏ phiếu kín.
Điều 9 Khoản 1: Đề nghị sửa thành:
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là liên minh của các tổ chức chính trị, chính trị – xã hội, xã hội, tôn giáo, các dân tộc, và người Việt Nam định cư ở nước ngoài.
Chương II: Quyền con người, quyền và nghĩa vụ của công dân
Điều 15Đề nghị sửa thành:
Nhà nước CHXHCN Việt Nam cam kết tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm thực hiện các quyền con người, quyền công dân theo Hiến pháp và các điều ước quốc tế về nhân quyền mà Việt Nam là thành viên.
Điều 16 : 
Đề nghị bỏ Điều này.
Điều 17: 
Đề nghị giữ nguyên Điều 52 của Hiến pháp 1992.
Điều 20: 
Đề nghị bỏ Điều này vì trùng lặp với các Điều 47, 48, 49.
Điều 22: Đề nghị sửa thành:
1. Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về tính mạng, thân thể, danh dự, nhân phẩm. Nghiêm cấm mọi hành vi tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình, xúc phạm danh dự, nhân phẩm dưới bất kỳ hình thức nào.
2. Những lời khai có được do truy bức, nhục hình, tra tấn không được coi là bằng chứng buộc tội.
3. Không ai bị bắt nếu không có quyết định của Toà án nhân dân, quyết định hoặc phê chuẩn của Viện kiểm sát nhân dân, trừ trường hợp phạm tội quả tang. Việc bắt và giam giữ người phải đúng luật.
Điều 23: Đề nghị sửa thành:
1.Quyền về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân và bí mật gia đình của mỗi người là bất khả xâm phạm. Nghiêm cấm thu thập, tàng trữ, sử dụng và phổ biến thông tin về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình của người khác nếu không được sự đồng ý.
2.Mọi người có quyền bí mật thư tín, điện thoại, điện tín và các hình thức trao đổi thông tin khác. Việc bóc mở, kiểm soát, thu giữ thư tín, điện thoại, điện tín và các hình thức trao đổi thông tin khác chỉ có thể  do người có thẩm quyền tiến hành theo thủ tục luật định.
Điều 24: Đề nghị sửa thành:
1. Mọi người có quyền tự do đi lại và cư trú trên lãnh thổ Việt Nam.
2. Công dân có quyền ra nước ngoài và từ nước ngoài về nước.
3. Quyền tự do đi lại, cư trú chỉ có thể bị giới hạn bởi luật khi cần thiết để bảo vệ sức khỏe và trật tự, an ninh của cộng đồng.
Điều 25: Đề nghị sửa thành:
1. Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào.
2. Các tín ngưỡng, tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật.
3. Những nơi thờ tự của các tín ngưỡng, tôn giáo được pháp luật bảo hộ.
4. Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Việc thực hành tín ngưỡng, tôn giáo chỉ có thể bị giới hạn bởi luật khi cần thiết để bảo vệ sức khỏe và trật tự, an ninh của cộng đồng.
Điều 26: Đề nghị sửa thành:
1. Mọi người có quyền tự do tư tưởng, tự do ý kiến.
2. Mọi người có quyền tự do biểu đạt, tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do xuất bản và có quyền tiếp nhận, trao đổi, phổ biến thông tin.
3. Mọi người có quyền tự do hội họp, lập hội.
4. Mọi người có quyền biểu tình ôn hoà. Việc thực hiện quyền biểu tình do luật định.
Điều 28: Đề nghị sửa thành:
1. Công dân đủ mười tám tuổi trở lên có quyền bầu cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp và các chức danh dân bầu khác của bộ máy nhà nước.
2. Công dân đủ hai mươi mốt tuổi trở lên có quyền ứng cử và vận động tranh cử vào Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp.
3. Việc thực hiện các quyền này do luật định.
Điều 29: Đề nghị sửa thành:
1. Công dân có quyền góp ý, phản biện chính sách, phê bình hoạt động của cơ quan nhà nước và hành vi của công chức, viên chức nhà nước. Nghiêm cấm mọi hành vi quy kết, trả thù, trù dập những người có ý kiến góp ý, phê bình, phản biện.
2. Nhà nước phải kịp thời, công khai, minh bạch trong việc tiếp nhận, phản hồi ý kiến, kiến nghị của công dân.
Điều 32: Đề nghị sửa thành:
1. Mọi hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án hình sự cũng như xử phạt hành chính phải tuân thủ đúng trình tự, thủ tục luật định.
2. Không ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật.
3. Người bị buộc tội có quyền được Tòa án xét xử đúng thời hạn luật định. Không ai bị điều tra, truy tố và xét xử hai lần vì cùng một hành vi phạm tội.
4. Không ai bị bắt, bị giam giữ, bỏ tù hoặc phải chịu những hình thức tước tự do khác nếu không có quyết định của Tòa án hoặc phê chuẩn của Viện kiểm sát.
5. Người bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam, bị điều tra, truy tố, xét xử có quyền sử dụng trợ giúp pháp lý ngay khi bị bắt.
6. Người bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam, bị điều tra, truy tố, xét xử trái pháp luật có quyền được bồi thường thiệt hại về vật chất, tinh thần và phục hồi danh dự.
7. Người làm trái pháp luật trong việc bắt, tạm giữ, tạm giam, điều tra, truy tố, xét xử gây thiệt hại cho người khác phải bị xử lý theo pháp luật.
Điều 33: Đề nghị sửa thành:
Quyền sở hữu tư nhân và quyền thừa kế được Hiến pháp bảo hộ.
Điều 34: Đề nghị sửa thành:
1. Công dân có quyền tự do kinh doanh.
2. Người nước ngoài được phép đầu tư và tiến hành hoạt động kinh doanh ở Việt Nam theo luật định.
3. Quốc hội quy định danh mục kinh doanh bị cấm hoặc hạn chế.
4. Mọi chủ thể kinh doanh đều bình đẳng trước pháp luật và được pháp luật bảo hộ.
Điều 35: 
Đề nghị giữ nguyên Điều 67 của Hiến pháp 1992.
Điều 37: Đề nghị sửa thành:
1. Mọi người  có quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở hợp pháp.
2. Không ai được tự ý vào chỗ ở hợp pháp của người khác nếu không được người đó đồng ý.
3. Việc khám xét chỗ ở phải do người có thẩm quyền tiến hành theo thủ tục luật định.
Điều 42: Đề nghị sửa thành:
1. Công dân Việt Nam có quyền được học tập.
2. Bậc giáo dục tiểu học là bắt buộc và miễn phí tại các trường công lập.
3. Các bậc học khác và chế độ học phí được quy định tại luật.
4. Chính sách và cơ chế hỗ trợ những nhóm xã hội gặp khó khăn khi thực hiện quyền học tập được quy định tại luật.
Điều 43:
Đề nghị bổ sung từ “tự do” vào khoản 1, thành:
1. Mọi người có quyền tự do nghiên cứu khoa học và công nghệ…
Điều 46: Đề nghị sửa thành:
Mọi người có quyền được sống trong môi trường trong lành, bao gồm quyền được thông tin về chất lượng môi trường và được bồi thường thiệt hại do việc phá hoại môi trường.
Đề nghị bổ sung Điều sau vào Chương II:
Điều… (mới):
1. Việc liệt kê các quyền trong Hiến pháp không phủ nhận hoặc xem nhẹ các quyền con người, quyền công dân khác.
2. Các quyền hiến định có hiệu lực trực tiếp. Các cơ quan, cán bộ, công chức, viên chức nhà nước không được viện dẫn lý do chưa có luật liên quan để ngăn cấm hoặc từ chối thực hiện các quyền hiến định.
Chương III: Kinh tế, xã hội, văn hoá, giáo dục, khoa học, 
công nghệ và môi trường
Điều 57: Đề nghị sửa thành:
Rừng núi, sông, nguồn nước, tài nguyên trong lòng đất, nguồn lợi ở vùng biển, thềm lục địa và vùng trời là tài sản công. Tài sản công do Nhà nước thống nhất quản lý theo luật.
Điều 58: Đề nghị sửa thành:
Đất đai có thể thuộc sở hữu công, sở hữu nhà nước, sở hữu tập thể và sở hữu tư nhân. Nhà nước chỉ được trưng mua hoặc hạn chế sử dụng đất đai thuộc sở hữu tập thể và tư nhân nhằm phục vụ lợi ích công cộng theo các thủ tục luật định, theo giá thị trường hoặc giá thoả thuận.
Chương IV: Bảo vệ Tổ quốc
Điều 70: 
Đề nghị giữ như Điều 45 Hiến pháp 1992.
Chương X: Hội đồng Hiến pháp, Hội đồng bầu cử Quốc gia, 
Kiểm toán nhà nước
Điều 120: Đề nghị sửa thành:
1. Hội đồng Hiến pháp có những chức năng sau đây:
(i) Xem xét và phán quyết tính hợp hiến của các dự thảo luật trước khi Quốc hội thông qua.
(ii) (a) Xem xét và phán quyết tính hợp hiến của các văn bản luật theo đề nghị của tòa án, tập thể công dân, hoặc của một trong các thành viên Hội đồng Hiến pháp. (b) Ra quyết định đình chỉ việc thi hành các văn bản luật vi phạm hiến pháp và đề nghị Quốc hội bãi bỏ các luật không hợp hiến pháp vào kỳ họp Quốc hội gần nhất.
(iii) (a) Xem xét và phán quyết tính hợp hiến của các văn bản quy phạm pháp luật dưới luật theo đề nghị của Quốc hội, tòa án, tập thể công dân, hay của một trong các thành viên của Hội đồng Hiến pháp. (b) Ra quyết định bãi bỏ các văn bản quy phạm pháp luật dưới luật không phù hợp Hiến pháp.
(iv) Xem xét và phán quyết tính hợp hiến của các hoạt động và hành vi của các cơ quan nhà nước và cán bộ, công chức, viên chức khi thi hành công vụ theo đề nghị của Quốc hội, tòa án, tập thể công dân, hoặc một trong các thành viên của Hội đồng Hiến pháp.
2. (i) Hội đồng Hiến pháp có chín thành viên, gồm một Chủ tịch, một Phó Chủ tịch, và bảy Ủy viên.
(ii) Việc thành lập Hội đồng Hiến pháp được thực hiện như sau:
(a) Chủ tịch Nước, Thủ tướng và Chánh án Tòa án Tối cao mỗi người đề cử ba ứng viên vào Hội đồng Hiến pháp nhiệm kỳ đầu tiên, dựa trên các tiêu chuẩn tương tự như tiêu chuẩn lựa chọn Chánh án Tòa án Tối cao.
Chủ tịch Nước đề cử ứng viên thay thế khi thành viên Hội đồng Hiến pháp thôi giữ chức vụ này vì bất cứ lý do gì.
(b) Quốc hội duyệt từng trường hợp ứng viên và ra quyết định bổ nhiệm từng  thành viên Hội đồng Hiến pháp tại một phiên họp toàn thể của Quốc hội.
(c) Chủ tịch Nước bổ nhiệm Chủ tịch và phó Chủ tịch Hội đồng Hiến pháp căn cứ theo kiến nghị của các thành viên Hội đồng Hiến pháp.
(d) Các thành viên Hội đồng Hiến pháp được bổ nhiệm sẽ giữ chức vụ đó cho đến khi về hưu ở tuổi 75.
(e) Thành viên Hội đồng Hiến pháp chỉ có thể bị bãi nhiệm trong trường hợp có ¾ đại biểu Quốc hội bỏ phiếu bãi nhiệm tại phiên họp toàn thể của Quốc hội.
(3) Hội đồng Hiến pháp ra quyết định về tính hợp hiến của một văn bản luật, văn bản dưới luật khi có ít nhất năm thành viên bỏ phiếu tán thành quyết định đó. Trong trường hợp khuyết thành viên vì bất kì lí do gì, Hội đồng ra quyết định theo đa số.
(4) Hội đồng Hiến pháp ra quyết định về tính hợp hiến của hoạt động của một cơ quan nhà nước, hành vi của công chức, viên chức khi thi hành công vụ, khi có ít nhất năm thành viên bỏ phiếu tán thành quyết định đó. Trong trường hợp khuyết thành viên vì bất kì lí do gì, Hội đồng ra quyết định theo đa số.
(5) Quốc hội ban hành luật quy định cụ thể việc tổ chức, hoạt động và các vấn đề khác của Hội đồng Hiến pháp.
Ký tên: Những người tham gia làm trang mạng Cùng Viết Hiến Pháp cùng ký vào văn bản này vào ngày 31/3/2013
Ngô Bảo Châu, Đàm Thanh Sơn, Nguyễn Anh Tuấn,
Nguyễn Ái Cần, Vũ Công Giao (Khương Duy), Trần Kiên, Bùi Đức Lại, Nguyễn Xuân Long,
Riêng GS. Nguyễn Đăng Dung là thành viên Ban biên tập của CVHP, đồng thời là thành viên Ban biên tập của Dự thảo sửa đổi Hiến pháp, không tham gia soạn văn bản này.
---Đề xuất sửa đổi, bổ sung một số quy định của Dự thảo Hiến pháp sửa đổi năm 2013 – CVHP


-Nhóm Cùng Viết Hiến Pháp gửi đề xuất
Hồi đầu tháng này, nhóm Cùng Viết Hiến Pháp đã gửi một số ý kiến đóng góp và BấmNhững đề xuất bổ sung, sửa đổi các điều khoản cụ thể trong Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 92 tới Ủy ban Dự thảo sửa đổi Hiến pháp và Quốc hội Việt Nam.
Nhóm này do các giáo sư Ngô Bảo Châu, Đàm Thanh Sơn và cựu Tổng Biên tập báo VietnamNet Nguyễn Anh Tuấn khởi xướng, trưng cầu ý kiến thông qua trang mạngBấmCùng Viết Hiến Pháp trong hai tháng qua.
Các bài liên quan
Nhóm Kiến nghị 72 lên tiếng
‘Có 20 triệu ý kiến cho Hiến pháp’
Ông Nguyễn Đình Lộc nói về Kiến nghị 72

Các đề xuất của nhóm Cùng Viết Hiến Pháp liên quan tới sửa đổi 29 điều trong Dự thảo sửa đổi Hiến pháp và thêm một điều mới.
Đáng chú ý nhất có thể nói là các đề xuất sửa đổi một số điều trong Chương I, hiến định Chế độ chính trị của nước Việt Nam.
Trong đó, trang Cùng Viết Hiến Pháp đề nghị sửa Điểm 1, Điều 2 thành:"Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Nhà nước chỉ được làm những gì luật pháp cho phép, người dân được làm tất cả những gì luật pháp không cấm".
Điểm 2: "Các cơ quan nhà nước phải phối hợp và giám sát nhau trong việc thực hiện chức năng độc lập: lập pháp, hành pháp và tư pháp".
Đặc biệt, Điều 4 hiến định sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhóm Cùng Viết Hiến Pháp đề nghị sửa ba điểm.
Điểm 1: "Đảng Cộng sản Việt Nam là tổ chức chính trị nhận trách nhiệm lãnh đạo nhà nước do nhân dân ủy thác thông qua quá trình bầu cử tự do. Đảng Cộng sản Việt nam cử đại biểu của mình tham gia tranh cử vào các chức danh của bộ máy nhà nước".
Điểm 2: "Đảng Cộng sản Việt Nam, các cơ quan và đảng viên của Đảng chấp hành hiến pháp và pháp luật".
Điểm 3: "Các hoạt động của Đảng phải chịu sự kiểm tra, giám sát của nhân dân. Cơ chế kiểm tra, giám sát của nhân dân đối với các hoạt động của Đảng được luật quy định".

Gây tranh cãi

Ngoài ra, đề xuất của Cùng Viết Hiến Pháp cũng đề nghị bỏ câu “Ngôn ngữ quốc gia là tiếng Việt” trong Điều 5, Chương I.
"Đảng Cộng sản Việt Nam là tổ chức chính trị nhận trách nhiệm lãnh đạo nhà nước do nhân dân ủy thác thông qua quá trình bầu cử tự do. Đảng Cộng sản Việt nam cử đại biểu của mình tham gia tranh cử vào các chức danh của bộ máy nhà nước."
Đề xuất của Cùng viết Hiến pháp

Kiến nghị đối với Điều 42 về giáo dục có điểm: "Bậc giáo dục tiểu học là bắt buộc và miễn phí tại các trường công lập".
Điều 70 của Dự thảo Hiến pháp, trong đó viết "Lực lượng vũ trang nhân dân phải tuyệt đối trung thành với Đảng cộng sản Việt Nam, Tổ quốc và nhân dân" được đề nghị thay bằng Điều 45 của Hiến pháp 1992, viết "Các lực lượng vũ trang nhân dân phải tuyệt đối trung thành với Tổ quốc và nhân dân, có nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc".
Việc phân tách quân đội và sự lãnh đạo của Đảng là điểm đang gây tranh cãi. Một số kiến nghị gửi tới Quốc hội Việt Nam, như Kiến nghị 72 do nhóm nhân sỹ trí thức trong nước khởi xướng cũng đề xuất điều này; trong khi báo chí nhà nước đăng nhiều bài chính luận đả phá việc "phi chính trị hóa quân đội".
Một điểm gây tranh cãi nhiều trên các trang mạng sau khi nhóm Cùng Viết Hiến Pháp công bố các đề xuất của mình, là sửa đổi Điều 4 Hiến pháp.
Một số ý kiến mà BBC nhận được cho rằng đề nghị của Cùng Viết Hiến Pháp về điều này "phi logic" và có nhiều điểm chưa rõ như "bầu cử tự do" là thế nào; nếu dân không bầu thì "trách nhiệm lãnh đạo" của Đảng CSVN thực hiện ra sao...

GS Ngô Bảo Châu là một trong những người khởi xướng trang Cùng viết Hiến pháp

Tuy nhiên cũng có ý kiến nói rằng đây là "giải pháp mềm cho Điều 4", "dễ được chấp thuận hơn là đề xuất bỏ hoàn toàn" điều này.
Về sửa đổi này, nhóm Cùng Viết Hiến Pháp giải thích trong một Bấmvăn bản khác, cũng đã được gửi tới Ủy ban Dự thảo Sửa đổi Hiến pháp 1992: "Chúng tôi cho rằng việc bổ sung Điều 4 vào Hiến pháp 1980 nói về sự lãnh đạo của Đảng là không thực sự cần thiết, nhưng đã là một thực tế lịch sử".
Họ viết: "Chúng tôi cũng cho rằng trong hoàn cảnh hiện tại, việc bỏ Điều 4 có thể dẫn đến những hậu quả chưa thể lượng định đối với tiến trình phát triển trong ổn định của đất nước".
Hiện chưa rõ phản hồi của Ủy ban Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 đối với các đề xuất của Cùng Viết Hiến Pháp.
Trong lúc đó, ngày 28/3, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng - người cũng là Chủ tịch Ủy ban Dự thảo sửa đổi Hiến pháp, được truyền thông trong nước dẫn lời cho biết đã có 20 triệu lượt góp ý cho Dự thảo Hiến pháp.


-Ý kiến về việc sửa đổi Hiến pháp của trang Cùng viết Hiến pháp Đông A
Trang Cùng viết Hiến pháp do các GS Ngô Bảo Châu, Đàm Thanh Sơn và ông Nguyễn Anh Tuấn khởi xướng vừa công bố bản ý kiến về việc sửa đổi Hiến pháp. Tham gia ký tên vào bản ý kiến này, ngoài 3 người khởi xướng, còn có những thành viên biên tập khác Nguyễn Ái Cần, Vũ Công Giao (Khương Duy), Trần Kiên, Bùi Đức Lại, Nguyễn Xuân Long. Riêng GS Nguyễn Đăng Dung là thành viên ban biên tập trang Cùng viết Hiến phápnhưng không tham gia soạn thảo bản ý kiến cũng như ký tên. Tôi thấy như vậy rất là minh bạch.  Những ý kiến chính của trang Cùng viết Hiến pháp được xây dựng trên những nguyên tắc chung sau:


1. không sửa những điều khoản đang vận hành ổn định;
2. bỏ (hoặc sửa) những điều khoản trong thực tế đã tỏ ra lạc hậu, kìm hãm sự phát triển hoặc là mầm mống của những mâu thuẫn, mất ổn định nghiêm trọng trong xã hội;
3. bổ sung những điều khoản tạo điều kiện tăng cường sự tham gia của người dân vào đời sống chính trị, quy định chế độ trách nhiệm cá nhân của công chức, viên chức và cơ chế bảo vệ Hiến pháp;
4. tiếp cận phù hợp với thực tế chính trị, sửa Hiến pháp để thúc đẩy tiến bộ xã hội trong ổn định.

Trên cơ sở nguyên tắc chung như vậy trang Cùng viết Hiến pháp nêu những ý kiến sau:

1. Về điều 4: trang Cùng viết Hiến pháp cho rằng đó là một thực tế lịch sử nên giữ nguyên, mặc dù đã cho rằng đưa điều 4 vào Hiến pháp là không cần thiết nhưng lại e ngại rằng "trong hoàn cảnh hiện tại, việc bỏ Điều 4 có thể dẫn đến những hậu quả chưa thể lượng định đối với tiến trình phát triển trong ổn định của đất nước". So với Sakharov, các GS của chúng ta còn có một khoảng cách xa về tầm nhìn nhận định, và vẫn chưa thoát ra khỏi nỗi sợ "bất ổn định" từ thời bao cấp. Điểm này cũng không quá khó hiểu vì những người ký vào bản ý kiến là những người lớn lên trong thời kỳ bao cấp và nỗi sợ "bất ổn định" có lẽ thường trực trong tâm khảm của họ. Tôi có quan điểm khác với trang Cùng viết Hiến pháp. Tôi cho rằng những góp ý sửa đổi Hiến pháp ở những vấn đề mấu chốt không có ý nghĩa hay giá trị gì đối với nhà cầm quyền, bởi vì những góp ý đó không có lực lượng chính trị hậu thuẫn. Do vậy không việc gì phải e ngại rằng ý kiến của mình sẽ thành sự thật ngay trong ngắn hạn. Cần phải đưa ra những ý kiến cải cách mạnh mẽ nhất để gia tăng áp lực lớn nhất làm động lực thay đổi trong dài hạn. Những người nổi tiếng, những người của công chúng, nếu có thể làm được thì nên làm.

2. Về điều khoản lực lượng vũ trang: trang Cùng viết Hiến pháp bác bỏ 3 điểm: lực lượng vũ trang phải trung thành với Đảng; lực lượng vũ trang phải bảo vệ Đảng; lực lượng vũ trang có nhiệm vụ thực hiện nghĩa vụ quốc tế.

3, Về điều khoản phúc lợi xã hội: trang Cùng viết Hiến pháp đề nghị giữ nguyên "Bậc tiểu học là bắt buộc và không phải trả học phí". Đây là đề nghị dễ được chấp nhận.

4. Về điều khoản ngôn ngữ quốc gia: trang Cùng viết Hiến pháp đề nghị bỏ trống theo kiểu mặc định hiển nhiên.

5. Về quyền con người và quyền công dân: trang Cùng viết Hiến pháp đề nghị bỏ các quy định chung chung giới hạn quyền con người.

6. Về sở hữu đất đai: trang Cùng viết Hiến pháp đề nghị đa sở hữu về đất đai, bao gồm sở hữu nhà nước, sở hữu tập thể và sở hữu cá nhân.

7. Về tài phán Hiến pháp: trang Cùng viết Hiến pháp nêu một số điểm bổ sung để thực thi tốt tài phán Hiến pháp.
Trang Cùng viết Hiến pháp không nêu ý kiến về tam quyền phân lập, về phúc quyết Hiến pháp. Về tam quyền phân lập, trang Cùng viết Hiến pháp không đưa ra cũng dễ hiểu bởi vì trang Cùng viết Hiến pháp không phản đối điều 4. Không thể xây dựng một chế độ tam quyền phân lập khi vẫn còn điều 4.



-Kết quả khảo sát, tổng hợp ý kiến và phân tích số liệu – CVHP

-CVHP chân thành cảm ơn bạn đọc đã dành thời gian trả lời Khảo sát ý kiến về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992. Đã có trên 3400 người tham gia và hoàn thành Khảo sát.

CVHP công bố với bạn đọc kết quả của cuộc khảo sát tính đến ngày 30/3/13 do trang mạng độc lập surveymonkey cung cấp, cùng với kết quả tổng hợp và phân tích của CVHP dựa trên kết quả sơ bộ của khảo sát tính đến ngày 20/3/13.



1) Kết quả khảo sát


2) Tổng hợp ý kiến của những người tham gia khảo sát

3) Phân tích số liệu thu thập được


Kết quả khảo sát ý kiến về dự thảo sửa đổi Hiến pháp của trang Cùng viết Hiến pháp Đông A
Trang Cùng viết Hiến pháp do các GS Ngô Bảo Châu, Đàm Thanh Sơn và ông Nguyễn Anh Tuấn đã công bố kết quả khảo sát ý kiến về dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992. Kết quả khảo sát ý kiến rất hay và được phân tích rất khoa học. Lần đầu tiên tôi được đọc một bản phân tích kết quả khảo sát chi tiết như vậy ở Việt Nam. Tuy không có khảo sát về phân bố địa điểm cư trú (các địa chỉ từ Hà Nội, hay TPHCM thực ra chỉ là các địa chỉ của máy chủ của nhà cung cấp dịch vụ internet) hay tuổi tác, nhưng số lượng người tham gia khảo sát cũng tương đối lớn (4500 người) và như vậy có thể coi là một mẫu tương đối tốt. Tất nhiên mẫu này có thể đã loại bỏ hoàn toàn những người không có điều kiện truy cập internet. Theo một ước tính đăng trên wikipedia, số lượng người sử dụng internet ở Việt Nam là 30 triệu người, tức hơn 30% dân số Việt Nam. Như vậy có thể suy luận ít nhất kết quả khảo sát của trang Cùng viết Hiến pháp có thể phản ánh trung thành ý kiến của 30% dân số Việt Nam. Kết quả khảo sát cho thấy đa số ý kiến không ủng hộ điều 4 trong Hiến pháp, quân đội phải trung thành với Đảng, ủng hộ tam quyền phân lập, bảo hiến, quyền con người, quyền tư hữu đất đai. Có thể coi đây là một phản ánh nguyện vọng của nhân dân.

Tôi rất mong muốn trang Cùng viết Hiến pháp trao tận tay kết quả khảo sát ý kiến này cho Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp của Quốc hội. Không biết các nhà báo Việt Nam có thể can đảm đưa tin kết quả khảo sát này được không? -
Mỗi nhóm một kiểu, đây là lý do Ngô Bảo Châu, Đàm Thanh Sơn không ký vào bản kiến nghị sửa đổi Hiến Pháp

-Cùng viết Hiến pháp Đông A
Một trang web kêu gọi soạn thảo và bàn luận về Hiến pháp do 3 người Ngô Bảo Châu, Đàm Thanh Sơn và Nguyễn Anh Tuấn khởi xướng xuất hiện trên mạng internet. Các Giáo sư Ngô Bảo Châu và Đàm Thanh Sơn đã nổi tiếng và không lẫn với ai khác, nhưng Nguyễn Anh Tuấn là ai cũng thật khó xác định vì tên này rất dễ trùng. Thành ra tôi nghĩ trang web Cùng viết Hiến pháp nên có một trang giới thiệu ngắn gọn về ba người khởi xướng để mọi người biết. Một điểm nữa là để tránh thật giả lẫn lộn khó lường trong thế giới ảo này GS Ngô Bảo Châu, Đàm Thanh Sơn nên khẳng định vai trò khởi xướng của mình ở trang blog cá nhân để mọi người biết.


******************
Dự thảo sửa đổi Hiến pháp Việt nam 1992 đã gây nên sự chú ý rộng rãi
trong người dân. Trang Cùng viết Hiến pháp này ra đời nhằm tạo thêm
một không gian đối thoại cho tất cả những người quan tâm đến việc sửa
đổi Hiến pháp, để họ có thể cùng thảo luận về chủ đề này một cách
nghiêm túc và dân chủ.

Hiến pháp là đạo luật cơ bản của một quốc gia. Hiến pháp phải chứa
đựng những nguyên tắc làm nền tảng cho việc xây dựng thể chế chính
trị, tổ chức và vận hành của nhà nước, bảo vệ những quyền cơ bản của
người dân. Một bản hiến pháp tốt là bước đầu tiên để đảm bảo cho các
công dân cùng nhau xây dựng một cuộc sống hoà bình, tự do, một xã hội
dân chủ và công bằng, cái mà xét cho cùng, chính là lý do cho sự tồn
tại của mọi thiết chế xã hội. Tuy đều có hoặc đều dựa vào nền tảng
triết học này, hiến pháp của các nước đã ra đời trong những bối cảnh
lịch sử khác nhau, đã bị chi phối bởi những hệ thống quyền lợi, những
sức mạnh chính trị khác nhau, và rốt cuộc chúng đã có những dấu ấn
khác nhau lên lịch sử phát triển của mỗi nước. Để hiểu Hiến pháp 1992
và tham gia tích cực vào việc sửa đổi nó, thiết nghĩ cần tham chiếu
các bản Hiến pháp Việt nam đã từng có trước đó, cũng như những bản
Hiến pháp đã có dấu ấn trong lịch sử thế giới.

Cùng viết Hiến pháp sẽ đăng, hoặc đăng lại những bài viết phân tích về
những nội dung cụ thể của Dự thảo sửa đổi hiến pháp Việt nam 1992, về
bối cảnh ra đời, dấu ấn lịch sử của những hiến pháp quan trọng trên
thế giới, và sẽ đặc biệt quan tâm đến những yếu tố làm nên sức sống và
sức mạnh của một bản hiến pháp, như một hệ qui chiếu trong một thế
giới luôn luôn vận động, chứ không chỉ đơn thuần như một công cụ cho
công tác quản lý nhà nước.

Cùng viết Hiến pháp khuyến khích đối thoại giữa các tác giả, và với
độc giả. Cùng viết Hiến pháp đề cao tinh thần tôn trọng trong đối
thoại, tôn trọng người viết, tôn trọng người đọc, tôn trọng ngữ pháp
tiếng Việt. Cùng viết Hiến pháp khuyến khích tranh luận thẳng thắn dựa
trên lý lẽ và dẫn chứng, không lấy phẫn nộ làm phương pháp tranh luận,
không nhận đăng những ý kiến có tính qui kết vô căn cứ, có tính thoá
mạ, vu khống hoặc lạc đề.

Cùng viết Hiến pháp chủ trương hạn chế nội dung trong phạm vi những
vấn đề liên quan trực tiếp đến Hiến pháp và việc xây dựng một nhà nước
pháp quyền. Các vụ việc cụ thể nếu được nêu sẽ khoanh định dưới dạng
thức học thuật để nghiên cứu tính hợp lý và nhất quán của Hiến pháp và
pháp luật. Cùng viết Hiến pháp không tham gia vào việc bình luận, phán
xét đúng sai trong những vụ việc cụ thể.

Cùng viết hiến pháp ra đời ngày 1/2/2013 để tạo ra một không gian đối
thoại dân chủ về việc sửa đổi Hiến pháp, và sẽ được duy trì ít nhất
đến ngày 31/03/2013 để phục vụ việc đóng góp ý kiến vào bản dự thảo
sửa đổi Hiến pháp 1992. Chúng tôi hy vọng đây sẽ là bước khởi đầu tạo
điều kiện cho những đối thoại thẳng thắn về xây dựng nhà nước pháp
quyền ở Việt Nam.

Nhóm khởi xướng



Ngô Bảo Châu
Đàm Thanh Sơn
Nguyễn Anh Tuấn


*************

-KIẾN NGHỊ VỀ SỬA ĐỔI HIẾN PHÁP 1992 Bauxite Việt Nam
Bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.Bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Thực hiện Nghị quyết của Quốc hội về việc góp ý kiến vào Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 (dưới đây gọi tắt là Dự thảo), chúng tôi, những người Việt Nam ký tên dưới đây, xin trình bày với Quốc hội và Uỷ ban Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 một số kiến nghị, đồng thời mong mỏi toàn thể đồng bào trong và ngoài nước thẳng thắn nói lên ý kiến để nhân dân ta có một Hiến pháp bảo đảm sự toàn vẹn lãnh thổ và sự phát triển bền vững của đất nước, mang lại tự do hạnh phúc cho các thế hệ hiện tại và tương lai.

Hiến pháp của một quốc gia do dân làm chủ bảo đảm quyền lực thực sự thuộc về nhân dân và được hình thành từ sự thỏa thuận giữa các thành phần đa dạng trong xã hội. Dự thảo chưa thấu suốt bản chất của một hiến pháp dân chủ, chưa thể hiện sự tin cậy, tín nhiệm của nhân dân với chính quyền theo tinh thần thỏa thuận kiến tạo một môi trường có sự kiểm soát bên trong và bên ngoài đối với quyền lực. Kiểm soát bên trong giữa các nhánh quyền lực nhà nước bằng các cơ chế đối trọng kiềm chế lẫn nhau, các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp không thể vượt quá giới hạn được ấn định. Kiểm soát từ bên ngoài đối với công quyền được thực hiện bởi nhân dân với vai trò quan trọng của xã hội dân sự mà tiền đề là các quyền tự do về ngôn luận, báo chí, lập hội, hội họp, biểu tình,…
Hiến pháp phải mang tính chính đáng được đo bằng nhiều tiêu chí. Thứ nhất, hiến pháp phải có mục tiêu bảo vệ độc lập chủ quyền, kiến tạo tự do, dân chủ, công bằng, hạnh phúc; đồng thời đoàn kết toàn dân, loại bỏ mọi sự chia rẽ hay áp bức, hướng đến sự phát triển bền vững của dân tộc. Thứ hai, hiến pháp phải thể hiện ý chí chung của nhân dân, thể hiện sự đồng thuận của nhân dân để lập ra các cơ quan nhà nước. Thứ ba, hiến pháp phải được xây dựng theo các nguyên tắc pháp luật phổ biến của thế giới văn minh, phù hợp với các cam kết quốc tế mà Việt Nam đã tham gia.
Theo tinh thần đó, trước mắt chúng tôi kiến nghị 7 điểm như sau.
Kiến nghị thứ nhất về Lời nói đầu và về Chương I
Lời nói đầu của Dự thảo không làm rõ mục tiêu của hiến pháp và chủ thể quy định hiến pháp. Hiến pháp cần xác định mục tiêu trước hết là để bảo đảm sự an toàn, tự do và hạnh phúc của mọi người dân. Một bản hiến pháp tốt phải hạn chế sự lạm quyền của những người cầm quyền, tạo dựng khuôn khổ cho các sinh hoạt chính trị, kinh tế và văn hoá diễn ra một cách an bình và hiệu quả. Hiến pháp cũng phải hướng đến hạnh phúc của các thế hệ tương lai.
Quyền lập hiến (xây dựng, ban hành hay sửa đổi hiến pháp) là quyền sinh ra các quyền khác (lập pháp, hành pháp và tư pháp) phải thuộc về toàn dân, chứ không thể thuộc về bất kỳ một tổ chức hay cơ quan nào, kể cả Quốc hội. Lời nói đầu cần xác định rõ chủ thể quyết định, ban hành hiến pháp là nhân dân.
Lời nói đầu không phải là chỗ để tuyên dương công trạng của bất kỳ tổ chức hay cá nhân nào.
Lời nói đầu của Dự thảo không đáp ứng được các yêu cầu trên nên chúng tôi đề nghị bỏ và thay bằng:
Kế tiếp nền văn hiến và truyền thống bất khuất của các thế hệ tiền nhân đã dựng xây và bảo vệ đất nước, đã đấu tranh vì độc lập, tự do và hạnh phúc của nhân dân,
vì một xã hội dân chủ, công bằng và pháp quyền, vì tự do và hạnh phúc của các thế hệ hiện tại và tương lai,
chúng tôi, nhân dân Việt Nam, quyết định xây dựng và ban hành bản Hiến pháp này.
Trong Chương I, cần nhấn mạnh nguyên tắc chủ quyền nhân dân đòi hỏi phải tôn trọng ý của dân tộc. Nếu hiến pháp thực sự do nhân dân quyết định thì việc định trước vai trò lãnh đạo nhà nước và xã hội thuộc về một tổ chức chính trị hay một tầng lớp là trái với quyền làm chủ của nhân dân, quyền con người, quyền công dân và ngược với bản chất của một nhà nước pháp quyền.
Chủ thể nào lãnh đạo xã hội sẽ do nhân dân bầu chọn ra trong các cuộc bầu cử tự do, dân chủ, định kỳ. Một chính đảng thực sự có chính nghĩa, phục vụ lợi ích của nhân dân sẽ không lo bị thất bại trong các cuộc bầu cử như vậy. Hiến pháp của Liên Xô năm 1977 quy định ở Điều 6 vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản đối với nhà nước và xã hội đã không tránh được sự sụp đổ của chế độ Xô-viết khi không còn lòng tin của dân.
Việc đảng cầm quyền chấp nhận cạnh tranh chính trị là phù hợp với xu thế lịch sử, là điều kiện cho sự phát triển của đất nước, đáp ứng đòi hỏi của nhân dân, kể cả các đảng viên trung thực của Đảng Cộng sản Việt Nam trước bối cảnh hiện nay của đất nước.
Ý kiến nêu trên được tiếp thu sẽ tạo cơ hội cho Đảng Cộng sản Việt Nam lấy lại niềm tin đã từng có trong dân để thực sự trở thành lực lượng lãnh đạo chính trị được xã hội chấp nhận.
Kiến nghị thứ hai về quyền con người
Một mục đích của việc thành lập Nhà nước là để bảo vệ các quyền đương nhiên của con người.
Dự thảo đã điều chỉnh thứ tự để đề cao các quyền này so với Hiến pháp hiện hành, nhưng lại có nhiều điểm chưa phù hợp với các quy định và chuẩn mực quốc tế về quyền con người; như các quy định trong Dự thảo về giới hạn quyền (Điều 15), “không lợi dụng quyền con người, quyền công dân” (Điều 16), “quyền không tách rời nghĩa vụ (Điều 20). Dự thảo còn quy định quá nhiều nghĩa vụ một cách tùy tiện (Điều 41, Điều 42, Điều 49,…). Việc nhấn mạnh trong Dự thảo các lý do về quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, ổn định chính trị, việc đưa cụm từ “theo quy định của pháp luật”, … nhằm hạn chế những quyền đó sẽ mở đường cho việc nhân danh hiến pháp để vi phạm quyền con người, đàn áp các công dân thực thi quyền tự do như đã diễn ra trong thực tế những năm qua ở nước ta.
Chúng tôi yêu cầu sửa Dự thảo theo đúng tinh thần của Tuyên ngôn về Quyền Con người năm 1948 và các công ước quốc tế mà Việt Nam đã tham gia.
Nếu các quyền này được ghi trong Hiến pháp mà không được thực thi nghiêm túc như hiện nay, thì việc quy định các quyền ấy cũng trở nên vô nghĩa. Vì vậy chúng tôi yêu cầu Hiến pháp quy định thành lập một Ủy ban Quốc gia về Quyền Con người hoạt động độc lập.
Kiến nghị thứ ba về sở hữu đất đai
Chế độ sở hữu tư nhân về đất đai đã tồn tại từ lâu trên đất nước ta. Quy định đất đai thuộc sở hữu toàn dân kể từ Hiến pháp Việt Nam 1980 là sự sao chép Hiến pháp Liên Xô, một điều hoàn toàn xa lạ với nhân dân Việt Nam và đã gây ra rất nhiều bất ổn xã hội. Điều 57 Dự thảo tiếp tục khẳng định đất đai “thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu” là duy trì quy định sai trái, bỏ qua những vấn đề ngày càng trầm trọng do quy định này gây ra mà hàng triệu khiếu nại, khiếu kiện về đất đai trong những năm qua chỉ là phần nổi của tảng băng chìm hết sức nguy hiểm.
Không thừa nhận sở hữu tư nhân, tập thể, cộng đồng về đất đai cùng tồn tại với sở hữu nhà nước là tước đoạt một quyền tài sản quan trọng bậc nhất của người dân. Đánh đồng sở hữu nhà nước với sở hữu toàn dân về đất đai là tạo điều kiện cho quan chức các cấp chính quyền tham nhũng, lộng quyền, bắt tay với nhiều tư nhân, doanh nghiệp cùng trục lợi, gây thiệt hại cho nhân dân, đặc biệt là nông dân.
Dự thảo còn “hợp hiến hóa” việc thu hồi đất, trong đó lại mở rộng phạm vi áp dụng cho các dự án phát triển kinh tế – xã hội; đây là một sự thụt lùi so với Hiến pháp 1992 và có thể gây bùng nổ bất ổn xã hội.
Vì thế chúng tôi kiến nghị sửa đổi Điều 57 của Dự thảotrở lại như Hiến pháp 1946 và Hiến pháp 1959. Có thể quy định như sau: “Sở hữu tư nhân, tập thể, cộng đồng và nhà nước về đất đai được tôn trọng. Nhà nước có trách nhiệm bảo vệ và thống nhất quản lý đất đai, tài nguyên nước, khoáng sản và các tài nguyên, nguồn lợi khác ở vùng biển, thềm lục địa, vùng trời và các tài sản khác do Nhà nước đầu tư.”
Thay thế quy định thu hồi đất bằng trưng mua đất và không áp dụng cho các dự án phát triển kinh tế-xã hội như nêu trong Điều 58 của Dự thảo.
Kiến nghị thứ tư về tổ chức Nhà nước
Tổ chức bộ máy Nhà nước phải phân biệt rạch ròi các nhánh lập pháp, hành pháp và tư pháp cũng như các cơ quan hiến định khác. Tất cả các cơ quan nhà nước phải tuân thủ Hiến pháp và luật. Các nhánh quyền lực ràng buộc, chế ước lẫn nhau nhưng không thể bị chi phối bởi bất kỳ một tổ chức hay cá nhân duy nhất nào, nghiêm cấm mọi sự độc quyền quyền lực. Đặc biệt, hệ thống tư pháp phải được bảo đảm trên thực tế quyền xét xử độc lập, chỉ dựa vào Hiến pháp và luật. Tòa án Hiến pháp phải được thành lập, có chức năng phán quyết, chứ không phải là tư vấn, kiến nghị như chức năng của Hội đồng Hiến pháp được quy định trong Dự thảo.
Kiến nghị thứ năm về lực lượng vũ trang
Hiến pháp đặt lợi ích của toàn dân lên trên lợi ích của bất kỳ một tổ chức hay cá nhân nào. Mọi hoạt động của các lực lượng vũ trang chỉ để bảo vệ sự toàn vẹn của lãnh thổ quốc gia và phục vụ nhân dân. Lực lượng vũ trang phải trung thành với Tổ quốc và nhân dân chứ không phải trung thành với bất kỳ tổ chức nào, như quy định tại Điều 70 của Dự thảo. Chúng tôi yêu cầu bỏ quy định lực lượng vũ trang phải trung thành với Đảng Cộng sản Việt Nam.
Kiến nghị thứ sáu về trưng cầu dân ý đối với Hiến pháp
Quyền lập hiến là quyền của toàn dân, phải phân biệt với quyền lập pháp của Quốc hội. Vì vậy phải có trưng cầu dân ý để phúc quyết Hiến pháp. Chúng tôi đề xuất quy định trong Hiến pháp: “Bảo đảm quyền phúc quyết của nhân dân đối với Hiến pháp, thông qua trưng cầu dân ý được tổ chức thật sự minh bạch và dân chủ với sự giám sát của người dân và báo giới.
Kiến nghị thứ bảy về thời hạn góp ý kiến sửa đổi Hiến pháp
Việc lấy ý kiến đóng góp của toàn dân về sửa đổi Hiến pháp là một việc hệ trọng đến vận mệnh quốc gia, phải được tiến hành một cách nghiêm chỉnh, không thể tắc trách, lấy lệ. Vì vậy, thời hạn lấy ý kiến của nhân dân chỉ trong vòng ba tháng là quá ngắn, dễ dẫn đến tình trạng làm một cách hình thức cho qua chuyện. Vì vậy chúng tôi kiến nghị gia hạn thời gian lấy ý kiến của nhân dân đến hết năm 2013, đồng thời khuyến khích đề xuất các dự thảo khác để Quốc hội, Ủy ban Dự thảo sửa đổi Hiến pháp cùng toàn thể đồng bào tham khảo, so sánh, thảo luận nhằm xây dựng một bản hiến pháp phù hợp nhất cho quốc gia.*
Sửa Hiến pháp theo tinh thần của các kiến nghị nêu trên sẽ phát huy dân chủ và hoà hợp dân tộc – những đòi hỏi hết sức bức xúc của nhân dân trong giai đoạn trước mắt, cũng như cho sự phát triển bền vững lâu dài của đất nước.
Chúng tôi tha thiết mong mỏi đồng bào trong và ngoài nước hưởng ứng bản Kiến nghị này bằng cách đăng ký tham gia ký tên theo địa chỉ thư điện tử: kiennghisuadoihienphap2013@gmail.com.

Hà Nội, ngày 19 tháng 1 năm 2013      

DANH SÁCH NGƯỜI KÝ KIẾN NGHỊ SỬA ĐỔI HIẾN PHÁP 1992
  1. Nguyễn Quang A, nguyên Viện trưởng Viện IDS, Hà Nội
  2. Lại Nguyên Ân, nhà nghiên cứu, Hà Nội
  3. Huỳnh Kim Báu, nguyên Tổng thư ký Hội Trí thức yêu nước TP Hồ Chí Minh, TP HCM
  4. Huỳnh Ngọc Chênh, nhà báo, TP HCM
  5. Nguyễn Huệ Chi, GS, nguyên Chủ tịch Hội đồng Khoa học Viện Văn học, Hà Nội
  6. Tống Văn Công, nguyên Tổng biên tập báo Lao động, TP HCM
  7. Phạm Vĩnh Cư, nhà nghiên cứu, Hà Nội
  8. Nguyễn Xuân Diện, TS, Hà Nội
  9. Lê Đăng Doanh, nguyên thành viên Ban Nghiên cứu của Thủ tướng Phan Văn Khải, nguyên thành viên Viện IDS, Hà Nội
  10. Hoàng Dũng, PGS TS, TP HCM
  11. Nguyễn Văn Dũng, nhà văn, võ sư, Huế
  12. Hồ Ngọc Đại, GS TS, nhà giáo, Hà Nội
  13. Lê Hiếu Đằng, nguyên Phó Tổng Thư ký Ủy ban Trung ương Liên minh các lực lượng Dân tộc, Dân chủ và Hòa bình Việt Nam, nguyên Phó Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc Việt Nam TP Hồ Chí Minh, đại biểu Hội đồng Nhân dân TP Hồ Chí Minh khóa 4, 5, TP HCM
  14. Nguyễn Đình Đầu, nhà nghiên cứu, TP HCM
  15. Lê Hiền Đức, Giải thưởng Liêm chính 2007, Tổ chức Minh bạch Quốc tế, Hà Nội
  16. Phan Hồng Giang, TSKH, Hà Nội
  17. Lê Công Giàu, nguyên Phó Bí thư thường trực Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh Thành phố Hồ Chí Minh, nguyên Phó Giám đốc Tổng công ty Du lịch Thành phố (Saigontourist), TP HCM
  18. Chu Hảo, nguyên Thứ trưởng Bộ Khoa học Công nghệ và Môi trường, nguyên thành viên Viện IDS, Hà Nội
  19. Nguyễn Gia Hảo, nguyên thành viên Tổ tư vấn của Thủ tướng Chính phủ Võ Văn Kiệt, Hà Nội
  20. Đặng Thị Hảo, TS, Hà Nội
  21. Võ Thị Hảo, nhà văn, Hà Nội
  22. Phạm Duy Hiển, GS, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu hạt nhân Đà Lạt, nguyên thành viên Viện IDS, Hà Nội
  23. Hồ Hiếu, cựu tù Côn Đảo, nguyên Chánh văn phòng Ban Dân vận Mặt trận, Thành uỷ TP Hồ Chí Minh, TP HCM
  24. Nguyễn Xuân Hoa, nguyên Giám đốc Sở Văn hóa Thừa Thiên – Huế, Chủ tịch Hội Văn nghệ Thừa Thiên – Huế
  25. Nguyễn Văn Hồng (tức Cung Văn), nguyên Tổng Thư ký Ban chấp hành Sinh viên đoàn Đại học Văn khoa Sài Gòn 1964-1965, Đà Nẵng
  26. Phaolô Nguyễn Thái Hợp, Giám mục Giáo phận Vinh
  27. Nguyễn Thế Hùng, GS TS, Trường Đại học Bách khoa Đà Nẵng, Phó Chủ tịch Hội Cơ học Thủy khí Việt Nam, Đà Nẵng
  28. Trần Ngọc Kha, nhà báo, Hà Nội
  29. Tương Lai, nguyên Viện trưởng Viện Xã hội học, nguyên thành viên Tổ tư vấn của Thủ tướng Chính phủ Võ Văn Kiệt, nguyên thành viên Viện IDS, TP HCM
  30. Phạm Chi Lan, nguyên thành viên Ban Nghiên cứu của Thủ tướng Chính phủ Phan Văn Khải, nguyên Phó Viện trưởng Viện IDS, Hà Nội
  31. Cao Lập, cựu tù chính trị Côn Đảo, nguyên Giám đốc Làng Du lịch Bình Quới, TP HCM
  32. Hồ Uy Liêm, nguyên Phó Chủ tịch Liên hiệp các hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam, Hà Nội
  33. Nguyễn Đình Lộc, nguyên Bộ trưởng Bộ Tư pháp, Hà Nội
  34. Nguyễn Khắc Mai, nguyên Vụ trưởng Ban Dân vận Trung ương, Hà Nội
  35. Huỳnh Tấn Mẫm, bác sĩ, Đại biểu Quốc hội khóa 6, nguyên Chủ tịch Tổng hội Sinh viên Sài Gòn trước 1975, TP HCM
  36. Huỳnh Công Minh, linh mục Giáo phận Sài Gòn, TP HCM
  37. Phạm Gia Minh, TS, Hà Nội
  38. Kha Lương Ngãi, nguyên Phó Tổng biên tập báo Sài Gòn Giải phóng, TP HCM
  39. Nguyên Ngọc, nhà văn, nguyên thành viên Viện IDS, Hội An
  40. Hạ Đình Nguyên, cựu tù chính trị Côn Đảo, nguyên Chủ tịch Ủy ban Hành động thuộc Tổng hội Sinh viên Sài Gòn trước 1975, TP HCM
  41. Trần Đức Nguyên, nguyên Trưởng ban Ban Nghiên cứu của Thủ tướng Phan Văn Khải, nguyên thành viên Viện IDS, Hà Nội
  42. Phạm Xuân Nguyên, Chủ tịch Hội Nhà văn, Hà Nội
  43. Phạm Đức Nguyên, PGS TS, giảng viên cao cấp Đại học, Hà Nội
  44. Hồ Ngọc Nhuận, Ủy viên Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Phó Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc Việt Nam TP Hồ Chí Minh, nguyên Giám đốc chính trị nhật báo Tin sáng, TP HCM
  45. Nguyễn Hữu Châu Phan, nhà nghiên cứu, Huế
  46. Hoàng Xuân Phú, GS Viện Toán học, Hà Nội
  47. Trần Việt Phương, nguyên trợ lý Thủ tướng Phạm Văn Đồng, nguyên thành viên Viện IDS, Hà Nội
  48. Nguyễn Đăng Quang, nguyên Đại tá Công an, Hà Nội
  49. Đào Xuân Sâm, nguyên thành viên Tổ Tư vấn của Thủ tướng Võ Văn Kiệt, nguyên thành viên Ban Nghiên cứu của Thủ tướng Phan Văn Khải, Hà Nội
  50. Tô Lê Sơn, kỹ sư, TP HCM
  51. Trần Đình Sử, GS TS, Hà Nội
  52. Nguyễn Trọng Tạo, nhà văn, Hà Nội
  53. Lê Văn Tâm, TS, nguyên Chủ tịch Hội Người Việt Nam tại Nhật Bản, Nhật Bản
  54. Trần Công Thạch, hưu trí, TP HCM
  55. Nguyễn Quốc Thái, nhà báo, TP HCM
  56. Trần Thị Băng Thanh, PGS TS, Hà Nội
  57. Lê Quốc Thăng, linh mục Giáo phận Sài Gòn, TP HCM
  58. Đào Tiến Thi, thạc sĩ, Hà Nội
  59. Nguyễn Minh Thuyết, GS TS, nguyên Phó Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng của Quốc hội, Hà Nội
  60. Phạm Toàn, nhà giáo, Hà Nội
  61. Phạm Đình Trọng, nhà văn, TP HCM
  62. Nguyễn Trung, nguyên trợ lý Thủ tướng Chính phủ Võ Văn Kiệt, nguyên thành viên Viện IDS, Hà Nội
  63. Vũ Quốc Tuấn, nguyên trợ lý Thủ tướng Chính phủ Võ Văn Kiệt, nguyên thành viên Ban Nghiên cứu của Thủ tướng Phan Văn Khải, Hà Nội
  64. Hoàng Tụy, GS, Viện Toán học, nguyên Chủ tịch Viện IDS, Hà Nội
  65. Lưu Trọng Văn, nhà báo, TP HCM
  66. Trần Thanh Vân, kiến trúc sư, Hà Nội
  67. Nguyễn Viện, nhà văn, TP HCM
  68. Nguyễn Hữu Vinh, nhà báo, Hà Nội
  69. Tô Nhuận Vỹ, nhà văn, Huế
  70. Nguyễn Đắc Xuân, nhà văn, Huế
  71. Nguyễn Đông Yên, GS TS, Viện Toán học, Hà Nội
  72. Nguyễn Phú Yên, nhạc sĩ, TP HCM



Tài liệu tham khảo:
DỰ THẢO HIẾN PHÁP 2013
LỜI NÓI ĐẦU
Kế tiếp nền văn hiến và truyền thống bất khuất của các thế hệ tiền nhân đã dựng xây và bảo vệ đất nước, đã đấu tranh vì tự do và độc lập của dân tộc,
vì một xã hội công bằng, dân chủ và tôn trọng pháp quyền, vì mục tiêu hạnh phúc và tự do của các thế hệ hiện tại và tương lai,
chúng tôi, nhân dân Việt Nam, thông qua các đại biểu Quốc hội, xây dựng bản Hiến pháp này.
CHƯƠNG I. CÁC QUY ĐỊNH CHUNG
Điều 1. Chủ quyền quốc gia
Việt Nam là một nước dân chủ cộng hòa, có chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bao gồm đất liền, hải đảo, vùng biển và vùng trời.
Điều 2. Chủ quyền nhân dân
Chủ quyền Việt Nam thuộc về nhân dân và tất cả các quyền lực nhà nước xuất phát từ nhân dân. Quyền lập hiến là một quyền không thể bị tước đoạt của nhân dân.
Điều 3. Cộng đồng các dân tộc Việt Nam
1. Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là quốc gia thống nhất của các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam.
2. Các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng phát triển. Nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị, chia rẽ dân tộc.
3. Ngôn ngữ quốc gia là tiếng Việt. Các dân tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc, có quyền phát huy những phong tục, tập quán, truyền thống và văn hóa tốt đẹp của mình.
4. Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thực hiện chính sách phát triển toàn diện và tạo điều kiện để tất cả các dân tộc thiểu số phát huy nội lực, hội nhập vào sự phát triển chung của đất nước.
Điều 4. Công dân
1. Công dân Việt Nam là người có quốc tịch Việt Nam. Quốc tịch Việt Nam được luật quy định.
2. Công dân Việt Nam không thể bị trục xuất khỏi lãnh thổ Việt Nam, giao nộp cho nhà nước khác.
3. Nhà nước bảo hộ công dân Việt Nam ở nước ngoài.
4. Cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài là bộ phận của cộng đồng dân tộc Việt Nam.
5. Người gốc Việt Nam có quốc tịch nước khác hoặc chưa có quốc tịch nước nào có quyền có quốc tịch Việt Nam.
6. Địa vị của người nước ngoài được đảm bảo theo quy định của luật pháp quốc tế và điều ước quốc tế.
Điều 5. Các điều ước quốc tế
1. Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thừa nhận, kế thừa và tôn trọng các điều ước quốc tế đã được các chính quyền Việt Nam trước đây ký kết và ban hành không trái với các hiến pháp tương ứng và các quy tắc chung được luật pháp quốc tế công nhận vào thời điểm đó.
2. Việt Nam Dân chủ Cộng hòa không thừa nhận bất cứ điều ước, thỏa thuận hay tuyên bố nào mà các chính quyền Việt Nam trước đây đã ký kết hoặc đưa ra một cách bí mật, không đúng thẩm quyền hoặc không đúng theo các thủ tục pháp luật vào thời điểm đó.
3. Việt Nam Dân chủ Cộng hòa không thừa nhận bất cứ điều ước, thỏa thuận hay tuyên bố do bất cứ đảng phái chính trị, tổ chức phi nhà nước hay cá nhân nào đã ký kết hoặc đưa ra, một cách bí mật hay công khai, liên quan đến chủ quyền hay lãnh thổ Việt Nam.
Điều 6. Tôn trọng hòa bình, bảo vệ Tổ quốc và nhân dân
1. Việt Nam Dân chủ Cộng hòa nỗ lực duy trì hòa bình quốc tế và từ bỏ chiến tranh xâm lược.
2. Bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ và giữ gìn an ninh quốc gia là nghĩa vụ thiêng liêng của toàn thể nhân dân Việt Nam.
3. Các lực lượng vũ trang được trao sứ mệnh thiêng liêng bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ và an ninh quốc gia.
4. Các lực lượng vũ trang phải duy trì tính trung lập về chính trị, đặt lợi ích của nhân dân lên trước bất kỳ tổ chức hay cá nhân nào. 
Điều 7. Tính chất dân sự của lực lượng cảnh sát
Lực lượng cảnh sát có sứ mệnh thực thi luật pháp và giữ gìn trật tự. Cảnh sát thuộc lĩnh vực dân sự, không thuộc về các lực lượng vũ trang.
Điều 8. Trách nhiệm của công chức
1. Công chức là công bộc của nhân dân và chịu trách nhiệm trước nhân dân.
2. Địa vị và tính trung lập chính trị của công chức được đảm bảo theo quy định của pháp luật
Điều 9. Đảng phái chính trị
1. Các đảng phái chính trị được tự do thành lập và hoạt động theo các nguyên tắc dân chủ. Quyền đối lập chính trị được tôn trọng.
2. Pháp luật bảo đảm sự bình đẳng giữa các đảng phái chính trị.
Điều 10. Nền kinh tế quốc dân
1. Nền kinh tế của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa dựa trên sự tôn trọng tự do và sáng kiến của các doanh nghiệp và cá nhân trong đời sống kinh tế.
2. Nhà nước có thể quy định và điều phối các hoạt động kinh tế nhằm duy trì sự tăng trưởng cân bằng, bền vững và ổn định, nhằm phân phối thu nhập, ngăn chặn sự thống lĩnh thị trường và lạm quyền kinh tế.
3. Nhà nước có nghĩa vụ thúc đẩy sự phát triển của các ngành kinh tế để có nền kinh tế quốc gia cân đối. Nhà nước thúc đẩy kinh tế bằng việc phát triển khoa học, công nghệ, thông tin, nguồn nhân lực và khuyến khích sáng tạo.
Điều 11. Quốc kỳ, quốc huy, quốc ca, quốc khánh và thủ đô
1. Quốc kỳ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa hình chữ nhật, chiều rộng bằng hai phần ba chiều dài, nền đỏ, ở giữa có ngôi sao vàng năm cánh.
2. Quốc huy nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa hình tròn, nền đỏ, ở giữa có ngôi sao vàng năm cánh, chung quanh có bông lúa, ở dưới có nửa bánh xe răng và dòng chữ: Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
3. Quốc ca nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là nhạc và lời của bài “Tiến quân ca.”
4. Ngày Quốc khánh là Ngày Tuyên ngôn độc lập 2 tháng 9 năm 1945.
5. Thủ đô nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là Hà Nội.

CHƯƠNG II. QUYỀN CON NGƯỜI,
QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CƠ BẢN CỦA CÔNG DÂN
Điều 12. Nguyên tắc tôn trọng các quyền con người
1. Ở nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, các quyền con người, được ghi nhận trong Tuyên ngôn nhân quyền quốc tế (1948) và các điều ước quốc tế về quyền con người khác mà Việt Nam là thành viên, được tôn trọng và bảo vệ.
2. Các cơ quan nhà nước, công chức và viên chức có nghĩa vụ tôn trọng, bảo vệ và thúc đẩy các quyền con người trong các lĩnh vực dân sự, chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa.
Điều 13. Quyền bình đẳng
1. Mọi người đều được hưởng tất cả các quyền và tự do mà không có bất kỳ sự phân biệt đối xử nào dựa vào giới tính, ngôn ngữ, tôn giáo, quan điểm, nguồn gốc dân tộc hoặc xã hội, tài sản, thành phần xuất thân hay các yếu tố khác.
2. Các nhóm thiểu số được ưu tiên bảo vệ.
Điều 14. Quyền sống, tự do và an toàn cá nhân
Mọi người đều có quyền sống, quyền tự do và an toàn cá nhân. Quyền sống trong một môi trường trong lành của mọi người phải được tôn trọng và bảo vệ.
Điều  15. Tự do không bị làm nô lệ
Không ai bị bắt làm nô lệ hoặc bị cưỡng bức làm việc như nô lệ. Mọi hình thức nô lệ và buôn bán người đều bị cấm.
Điều 16. Quyền không bị tra tấn và các quyền trong lĩnh vực tư pháp hình sự
1. Không ai bị tra tấn hay bị đối xử, xử phạt một cách tàn ác, vô nhân đạo hoặc hạ thấp nhân phẩm.
2. Không ai bị bắt, giữ hay giam giữ một cách tuỳ tiện. Trong vòng 24 giờ kể từ khi bị bắt, người bị bắt phải được đưa ra trước một tòa án để xem xét phê chuẩn hoặc hủy bỏ việc bắt giữ.
3. Mọi người, nếu bị cáo buộc về hình sự, đều có quyền được coi là vô tội cho đến khi được chứng minh là phạm tội theo pháp luật, tại một phiên toà xét xử công khai, nơi người đó được bảo đảm những điều kiện cần thiết để bào chữa cho mình.
4. Không ai bị cáo buộc là phạm tội vì bất cứ hành vi nào không cấu thành một tội phạm hình sự theo pháp luật quốc gia hay pháp luật quốc tế vào thời điểm thực hiện hành vi đó. Cũng không ai bị tuyên phạt nặng hơn mức hình phạt được quy định vào thời điểm hành vi phạm tội được thực hiện.
Điều 17. Quyền được tòa án bảo vệ và quyền được xét xử công bằng
1. Mọi người đều có quyền được các toà án có thẩm quyền bảo vệ bằng các biện pháp hữu hiệu để chống lại những hành vi vi phạm các quyền cơ bản của họ đã được hiến pháp hay luật pháp quy định.
2. Mọi người đều bình đẳng về quyền được xét xử công bằng, công khai bởi một toà án độc lập và khách quan để xác định các quyền và nghĩa vụ của họ, cũng như về bất cứ sự buộc tội nào đối với họ.
Điều 18. Bảo vệ danh dự, uy tín và quyền riêng tư
1. Danh dự và uy tín cá nhân của mọi người được tôn trọng.
2. Cuộc sống riêng tư, gia đình, nơi ở và thư tín của mọi người được tôn trọng.
Điều 19. Quyền tự do đi lại và tự do cư trú
1. Mọi người đều có quyền tự do đi lại và tự do cư trú trong phạm vi lãnh thổ của quốc gia.
2. Mọi người đều có quyền rời khỏi và quyền trở về Việt Nam.
Điều 20. Quyền kết hôn
1. Mọi người khi đủ tuổi đều có quyền kết hôn và xây dựng gia đình mà không có bất kỳ sự hạn chế nào về chủng tộc, quốc tịch, tôn giáo hay giới tính.
2. Việc kết hôn chỉ được tiến hành với sự đồng ý hoàn toàn và tự nguyện của cặp vợ chồng tương lai.
Điều 21. Quyền sở hữu
1. Mọi người đều có quyền sở hữu tài sản tư nhân hoặc sở hữu chung với người khác.  Không ai bị tước đoạt tài sản một cách tuỳ tiện.
2. Đất đai có thể thuộc sở hữu tư nhân, sở hữu tập thể, sở hữu cộng đồng hoặc sở hữu nhà nước.
Điều 22. Tư do tư tưởng, tín ngưỡng và tôn giáo
Mọi người đều có quyền tự do tư tưởng, tín ngưỡng và tôn giáo.
Điều 23. Tự do ngôn luận, biểu tình, hội họp và lập hội
1. Mọi người đều có quyền tự do ngôn luận và bày tỏ ý kiến bằng mọi hình thức. Tư nhân có quyền ra báo, xuất bản.
2. Mọi người đều có quyền tự do biểu tình, hội họp một cách ôn hoà.
3. Mọi người đều có quyền tự do lập hội. Không ai bị ép buộc phải tham gia vào bất cứ tổ chức nào.
Điều 24. Quyền tham gia chính trị
Mọi công dân đều có quyền tham gia quản lý đất nước, một cách trực tiếp hoặc thông qua các đại biểu mà họ tự do lựa chọn trong các cuộc bầu cử.
Điều 25. Quyền hưởng an sinh xã hội
Mọi người đều có quyền được hưởng an sinh xã hội.
Điều 26. Quyền lao động và nghiệp đoàn
1. Mọi người đều có quyền làm việc, quyền tự do lựa chọn nghề nghiệp, được hưởng những điều kiện làm việc công bằng, thuận lợi và được bảo vệ chống lại nạn thất nghiệp.
2. Mọi người đều có quyền được trả công ngang nhau cho những công việc như nhau mà không có bất kỳ sự phân biệt đối xử nào.
3. Mọi người lao động đều có quyền được hưởng chế độ thù lao công bằng và hợp lý nhằm bảo đảm sự tồn tại của bản thân và gia đình xứng đáng với nhân phẩm.
4. Mọi người đều có quyền thành lập hoặc gia nhập các nghiệp đoàn để bảo vệ các quyền lợi của mình.
5. Quyền đình công của người lao động được bảo đảm bằng luật.
Điều 27. Quyền có mức sống thích đáng
1. Mọi người đều có quyền được hưởng một mức sống thích đáng, đủ để đảm bảo sức khoẻ và phúc lợi của bản thân và gia đình, cũng như có quyền được bảo hiểm trong trường hợp thất nghiệp, đau ốm, góa bụa, già hoặc thiếu phương tiện sinh sống do những hoàn cảnh khách quan vượt quá khả năng đối phó của họ.
2. Các bà mẹ và trẻ em có quyền được hưởng sự chăm sóc và giúp đỡ đặc biệt. Mọi trẻ em, dù sinh ra trong hay ngoài giá thú, đều phải được hưởng sự bảo trợ xã hội như nhau.
Điều 28. Quyền học tập
Mọi người đều có quyền học tập. Giáo dục tiểu học là bắt buộc và miễn phí.
Điều 29. Quyền về văn hóa
1. Mọi người có quyền tự do tham gia vào đời sống văn hoá của cộng đồng, được thưởng thức nghệ thuật và chia sẻ những tiến bộ khoa học cũng như những lợi ích xuất phát từ những tiến bộ khoa học.
2. Mọi người đều có quyền được bảo vệ các quyền lợi vật chất và tinh thần phát sinh từ bất kỳ sáng tạo khoa học, văn học hay nghệ thuật nào mà người đó là tác giả.
Điều 30. Bảo vệ người tiêu dùng
Nhà nước phải có các biện pháp hữu hiệu bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng.
Điều 31. Nguyên tắc chung của nghĩa vụ
Mọi người đều có những nghĩa vụ đối với cộng đồng. Khi hưởng thụ các quyền và tự do của mình, mọi người chỉ phải tuân thủ những hạn chế do luật định, nhằm mục đích bảo đảm sự công nhận và tôn trọng thích đáng đối với các quyền và tự do của người khác, cũng như nhằm đáp ứng những yêu cầu chính đáng về đạo đức, trật tự công cộng và phúc lợi chung trong một xã hội dân chủ.
Điều 31. Nghĩa vụ nộp thuế
Mọi công dân có nghĩa vụ nộp thuế theo các điều kiện luật định.
Điều 32. Bảo vệ Tổ quốc và tri ân những người có công
1. Bảo vệ Tổ quốc là nghĩa vụ thiêng liêng. Mọi công dân đều có nghĩa vụ bảo vệ Tổ quốc.
2. Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ghi nhận và tôn vinh công lao của tất cả những người đã hy sinh tính mạng để bảo vệ Tổ quốc, ghi nhận và tôn vinh công lao của các thương binh, các cựu chiến binh bất luận họ đã phục vụ trong chính thể nào trong quá khứ và có chính sách hỗ trợ họ trong giáo dục, đào tạo nghề và trong mưu sinh.
Điều 33. Nghĩa vụ quân sự
Công dân phải thực hiện nghĩa vụ quân sự và tham gia lực lượng vũ trang dự bị theo luật định.
CHƯƠNG III. LẬP PHÁP
Điều 34. Quốc hội
1. Quyền lập pháp được nhân dân ủy quyền cho Quốc hội. Quốc hội bao gồm Hạ viện và Thượng viện.
2. Thành viên của Quốc hội là các nghị sĩ, gồm Hạ nghị sĩ và Thượng nghị sĩ. Hạ nghị sĩ và Thượng nghị sĩ do nhân dân bầu ra thông qua bầu cử phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín.
3. Không ai có thể đồng thời là Hạ nghị sĩ và Thượng nghị sĩ.
4. Quốc hội có quyền lập pháp, phê chuẩn việc bổ nhiệm lãnh đạo các cơ quan hành pháp, bổ nhiệm các thẩm phán, lãnh đạo các cơ quan hiến định độc lập theo quy định của Hiến pháp và luật.
Điều 35. Hạ nghị sĩ
1. Các Hạ nghị sĩ có nhiệm kỳ 3 năm và có thể được bầu lại.
2. Mỗi đơn vị bầu cử được bầu 1 (một) Hạ Nghị sĩ.
3. Đơn vị bầu cử Hạ Nghị sĩ gồm các đơn vị hành chính cơ sở (cấp xã) nằm trong một vùng sao cho các đơn vị có dân số xấp xỉ ngang nhau.
4. Số đơn vị bầu cử của một đơn vị hành chính cấp tỉnh được tính bằng số nguyên làm tròn của con số được tính bằng dân số của đơn vị cấp tỉnh đó (theo tổng điều tra dân số gần nhất) nhân với 250 rồi chia cho dân số toàn quốc. Một đơn vị hành chính cấp tỉnh có ít nhất một đơn vị bầu cử.
5. Mọi công dân đủ 25 tuổi trước ngày bầu cử có thể là ứng cử viên Hạ nghị sĩ tại một đơn vị bầu cử nếu: (a) có được chữ ký của 10 ngàn cử tri ủng hộ, hoặc (b) đã từng là Nghị sĩ, hoặc (c) được một đảng chính trị đề cử.
6Tuy các Hạ nghị sĩ được bầu theo từng đơn vị bầu cử, họ đại diện không chỉ cho người dân của đơn vị bầu cử ấy mà cho người dân cả nước.
Điều 36. Thượng nghị sĩ

1.   Các Thượng nghị sĩ có nhiệm kỳ 6 năm và có thể được bầu lại.
2.   Mỗi đơn vị hành chính cấp tỉnh (tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương) là một đơn vị bầu cử Thượng Nghị sĩ.
3.   Mọi công dân đủ 30 tuổi trước ngày bầu cử có thể là ứng cử viên Thượng nghị sĩ tại một đơn vị bầu cử Thượng Nghị sĩ nếu: (a) có được chữ ký của 10 ngàn cử tri ủng hộ, hoặc (b) đã từng là Nghị sĩ, hoặc (c) được một đảng chính trị đề cử.
4.   Số Thượng nghị sĩ mà mỗi đơn vị được bầu cử là 2. Đối với những tỉnh có người dân tộc thiểu số quá 20 % dân số tỉnh đó, thì bắt buộc phải có 1 Thượng nghị sĩ là người dân tộc thiểu số.
5.   Trong lần bầu Thượng nghị sĩ đầu tiên, mỗi đơn vị bầu cử, bằng bốc thăm, chọn ra 1 Thượng nghị sĩ có nhiệm kỳ 3 năm và 1 Thượng nghị sĩ có nhiệm kỳ 6 năm, sao cho cứ 3 năm sẽ tiến hành bầu lại một nửa số Thượng nghị sĩ của Thượng viện.
6.   Tuy các Thượng nghị sĩ được bầu theo từng đơn vị bầu cử, họ đại diện không chỉ cho người dân của đơn vị bầu cử ấy mà cho người dân cả nước.
Điều 37. Bầu cử Thượng viện và Hạ viện
1.   Việc bầu cử toàn bộ các Hạ nghị sĩ và các Thượng nghị sĩ lần đầu tiên theo Hiến Pháp này được tiến hành trong vòng 100 ngày kể từ ngày bản Hiến pháp có hiệu lực.
2.   Nghị sĩ hết nhiệm kỳ vào ngày tính đúng 36 tháng đối với các Hạ nghị sĩ và Thượng nghị sĩ được bầu lần đầu có nhiệm kỳ 3 năm kể từ ngày tuyên thệ nhậm chức; vào ngày tính đúng 72 tháng đối với các Thượng nghị sĩ có nhiệm kỳ 6 năm kể từ ngày tuyên thệ nhậm chức.
3.   Trong vòng 100 ngày trước khi các Nghị sĩ hết nhiệm kỳ, phải tổ chức bầu cử các Nghị sĩ mới cho nhiệm kỳ tiếp theo. Nếu đơn vị bầu cử không hội đủ số người đắc cử theo quy định thì phải tổ chức bầu lại từ các ứng viên thất cử của đợt bầu trước đó trong vòng 15 ngày sau khi cuộc bầu cử trước kết thúc. (Các) đợt bầu cử lại này được tiến hành cho đến khi chọn đủ số người đắc cử theo quy định và trong mọi trường hợp phải kết thúc trước ngày các Nghị sĩ đương nhiệm hết nhiệm kỳ 15 ngày.
4.   Nếu khuyết Nghị sĩ vì bất cứ lý do gì, thì (a) nếu thời gian nhiệm kỳ còn lại dưới 1 năm sẽ không có bầu cử bổ sung; hoặc (b) nếu thời gian nhiệm kỳ còn lại bằng hay trên 1 năm phải tổ chức bầu bổ sung tại đơn vị bầu cử đó cho đủ số bị khuyết trong vòng 60 ngày kể từ khi các Viện xác nhận sự khuyết. Nhiệm kỳ của người được bầu bổ sung sẽ chấm dứt cùng với nhiệm kỳ của các Nghị sĩ đương nhiệm.
5.   Thủ tục ứng cử, tranh cử, bầu cử được quy định chi tiết trong luật bầu cử.
Điều 38.  Sự chuyên trách, tuyên thệ và quyền miễn trừ của Nghị sĩ
1.   Trong khi đương nhiệm các Nghị sĩ không được đồng thời giữ bất kỳ chức vụ nào khác tại bất kỳ cơ quan, tổ chức công hay tư, trong các lực lượng vũ trang hay cảnh sát. Nếu đã giữ các chức vụ như vậy trước khi được bầu làm Nghị sĩ thì phải chính thức từ nhiệm các chức vụ đó trước khi thực hiện nhiệm vụ Nghị sĩ và việc từ chối từ nhiệm sẽ được coi là từ bỏ nhiệm vụ Nghị sĩ.
2.   Các Nghị sĩ được trả lương từ Ngân khố quốc gia.
3.   Các Nghị sĩ, trước khi bắt đầu thực hiện nhiệm vụ, sẽ phải tuyên thệ trước mỗi Viện: “Tôi long trọng tuyên thệ thực hiện các nhiệm vụ của mình một cách mẫn cán và tận tâm, để bảo vệ chủ quyền và các lợi ích của nhân dân và đất nước; làm mọi việc trong thẩm quyền của mình vì sự phồn vinh của đất nước và hạnh phúc của nhân dân; tuân thủ Hiến pháp và pháp luật của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa”. Việc từ chối tuyên thệ sẽ được coi là từ bỏ nhiệm vụ Nghị sĩ.
4.   Nghị sĩ sẽ không phải chịu trách nhiệm bên ngoài nghị viện về ý kiến chính thức đã nêu hoặc về việc bỏ phiếu của mình tại Nghị viện.
5.   Không Nghị sĩ nào có thể bị bắt hoặc giam giữ mà không được sự đồng ý của với đa số 2/3 của các Nghị sĩ của Nghị Viện mà Nghị sĩ đó là thành viên, ngoại trừ trường hợp phạm tội quả tang.
Điều 39. Tính liêm chính và tránh xung đột lợi ích của Nghị sĩ
  1. 1.   Nghị sĩ có nghĩa vụ duy trì chuẩn mực cao về liêm chính, phải ưu tiên lợi ích quốc gia và thực hiện các nhiệm vụ của mình phù hợp với lương tâm.
  2. 2.   Nghị sĩ không được lạm dụng chức vụ, quyền hạn của mình, không được đòi hỏi các lợi ích về tài sản hay địa vị, hoặc giúp người khác thu lợi, thông qua thông đồng hay sự sắp xếp của nhà nước, các tổ chức công quyền hay các ngành công nghiệp.
  3. 3.   Nghị sĩ phải khai báo tài sản của mình theo luật định.
  4. 4.   Nghị sĩ, vợ hay chồng của Nghị sĩ, cũng như các doanh nghiệp do họ sở hữu hay chiếm quyền chi phối, không thể tham dự các cuộc đấu thầu hay ký hợp đồng với các cơ quan công quyền và các doanh nghiệp do nhà nước sở hữu hay chiếm quyền chi phối.

Điều 40. Tổ chức Hạ viện
1.   Mỗi Hạ nghị sĩ có một lá phiếu khi biểu quyết tại Hạ viện.
2.   Mọi quyết định của Hạ viện được coi là được thông qua nếu được đa số phiếu, trừ các quyết định đặc biệt nêu trong Hiến pháp này đòi hỏi đa số 2/3 số phiếu.
3.   Hạ viện bầu ra một Chủ tịch và một Phó Chủ tịch.
4.   Nếu vì bất cứ lý do gì mà Chủ tịch Hạ viện bị khuyết, thì Phó Chủ tịch tạm thời làm quyền Chủ tịch cho đến khi Hạ viện bầu ra Chủ tịch mới trong vòng 60 ngày.
5.   Hạ viện quyết định về tổ chức nội bộ của mình, có thể thể lập ra Văn phòng Hạ viện, các ủy ban thường trực hay lâm thời
Điều 41. Tổ chức Thượng viện
1.   Mỗi Thượng nghị sĩ có một lá phiếu khi biểu quyết tại Thượng Nghị Viện.
2.   Mọi quyết định của Thượng viện sẽ coi là được thông qua nếu được đa số phiếu tán thành, trừ các quyết định đặc biệt nêu trong Hiến pháp này đòi hỏi đa số 2/3 số phiếu.
3.   Thượng Nghị Viện bầu ra một Chủ tịch và một Phó Chủ tịch.
4.   Nếu vì bất cứ lý do gì mà Chủ tịch Thượng Nghị Viện bị khuyết, thì Phó Chủ tịch tạm thời làm quyền Chủ tịch cho đến khi Thượng Nghị Viện bầu ra Chủ tịch mới trong vòng 60 ngày.
5.   Thượng Nghị Viện quyết định về tổ chức nội bộ của mình, có thể thể lập ra Văn phòng Thượng viện, các ủy ban thường trực hay lâm thời.
Điều 42. Họp Hạ viện, Thượng viện và Quốc hội
1.   Trừ trường hợp Hiến pháp hay luật quy định khác, cuộc họp của Hạ viện (hay Thượng viện) là hợp lệ nếu có mặt của đa số trong tổng số Hạ nghị sĩ (hay Thượng nghị sĩ), quyết định hợp lệ được thông qua với đa số phiếu hiện diện.
2.   Họp Quốc hội là phiên họp chung của Hạ viện và Thượng viện do Chủ tịch Hạ viện chủ tọa hay Chủ tịch Thượng viện chủ tọa khi Chủ tịch Hạ viện vắng mặt. Quốc hội ban hành quy chế về thủ tục, thể thức họp Quốc hội. Các quyết định của Quốc hội là các quyết định được đưa ra tại các phiên họp chung này.
3.   Các cuộc họp của Hạ viện, Thượng viện, Quốc hội được mở công khai cho công chúng, trừ khi đa số thành viên có mặt quyết định, hoặc khi Chủ tịch xét thấy cần thiết vì lợi ích an ninh quốc gia thì công chúng không thể tham dự.
4.   Việc công bố công khai các thủ tục của kỳ họp kín sẽ được luật quy định.
5.   Biên bản cuộc họp phải đầy đủ, chi tiết, ghi rõ ý kiến và số phiếu biểu quyết của từng Nghị sĩ. Có thể đồng thời ghi âm, ghi hình cuộc họp để lưu trữ. Mọi công dân đều có quyền tiếp cận biên bản của các cuộc họp mở công khai, theo thủ tục do luật định.
Điều 43. Quyền trình dự án luật
1.   Các Nghị sĩ, cơ quan hành pháp có thể đệ trình dự án luật.
2.   Một nhóm ít nhất 30.000 cử tri có quyền trình dự án luật. Thủ tục về việc này do luật quy định.
3.   Dự án luật phải được nộp cho Văn phòng Hạ viện
4.   Người, hay nhóm công dân bảo trợ dự án luật, khi đệ trình dự án luật cho Hạ viện, có trách nhiệm giải trình rõ các hệ quả về tài chính của việc thực thi dự án luật.
5.   Người, nhóm người hay cơ quan trình dự án luật có thể rút lại dự án luật trong quá trình thẩm định và xem xét thông qua.
Điều 44. Thẩm định, thảo luận, thông qua dự luật
1.   Dự án luật, dự thảo luật đã được đệ trình lên Hạ viện được gọi chung là dự luật. Dự luật phải trải qua các khâu thẩm định theo quy định của luật.
2.   Hạ viện thảo luận, xem xét dự luật và biểu quyết thông qua với đa số phiếu hiện diện hay bác bỏ. Trong mọi trường hợp nghị quyết thông qua hay bác bỏ, trong vòng 3 ngày dự luật cùng hồ sơ bác bỏ hay thông qua đều phải chuyển sang Văn phòng Thượng viện.
3.   Nếu Hạ viện đã thông qua dự luật thì dự luật được Thượng viện xem xét và dự luật được Thượng viện thông qua nếu đạt đa số phiếu hiện diện chấp thuận. Trong trường hợp đó dự luật đã được Quốc hội (cả 2 viện) thông qua.
4.   Nếu Thượng viện bác bỏ thì trong vòng 3 ngày dự luật phải được chuyển lại cho Hạ viện cùng với nghị quyết nêu rõ lý do bác bỏ. Hạ viện sẽ xem xét lại và nếu dự luật được Hạ viện thông qua lần nữa với đa số 2/3 của các Hạ nghị sĩ thì dự luật được coi là đã được Quốc hội thông qua, nếu không đạt đa số 2/3 thì vẫn phải chuyển qua Thượng viện xem xét.
5.   Trong trường hợp đặc biệt, nếu xét thấy cần, Hạ viện có thể yêu cầu Thượng viện xem xét và biểu quyết trước một dự luật, sau đó Hạ viện mới xem xét và biểu quyết. Khi đó vai trò của mỗi Viện thay thế cho nhau trong quy trình nêu trên.
6.   Thời gian xem xét và biểu quyết dự luật tại Thượng viện không được quá một nửa (1/2) thời gian xem xét và biểu quyết tại Hạ viện. Thời gian xem xét và biểu quyết dự luật tại Hạ viện không được quá hai lần thời gian xem xét và biểu quyết tại Thượng viện.
7.   Dự án luật không thể bị loại bỏ vì không được thông qua trong kỳ họp mà nó được trình ra, ngoại trừ trong trường hợp nhiệm kỳ của các Nghị sĩ đã hết.
Điều 45.  Dự luật trở thành luật
1.   Dự luật đã được Quốc hội thông qua phải được gửi đến Tổng thống trong vòng 7 ngày.
2.   Sau khi nhận được dự luật đã được Quốc hội thông qua, Tổng thống có thể chuyển dự luật cho Tòa án Hiến pháp để xét xem có phù hợp với Hiến pháp hay không. Trong trường hợp Tòa án Hiến Pháp xác minh dự luật phù hợp với Hiến pháp, nó trở thành luật. Trong trường hợp dự luật có các điều khoản cụ thể được Tòa án Hiến pháp cho là không hợp hiến và Tòa án Hiến pháp không xác định các điều khoản đó là không thể tách rời toàn bộ dự luật, thì Tổng Thống có thể loại bỏ các điều khoản được cho là vi hiến đó sau khi đã tham vấn ý kiến của Chủ tịch Hạ viện và dự luật trở thành luật với sự loại bỏ đó.
3.   Trong vòng 15 ngày kể từ khi nhận được dự luật từ Quốc hội, nếu Tổng thống chấp thuận thì dự luật trở thành luật.
4.   Nếu Tổng thống phản đối dự luật, thì trong vòng 15 ngày kể từ khi nhận được từ Quốc hội, Tổng thống phải gửi trả lại Quốc hội xem xét lại dự luật với giải thích bằng văn bản sự phản đối, nhưng không được yêu cầu Quốc hội xem xét lại từng phần của dự luật hay đưa ra đề xuất sửa đổi.
5.   Nếu Tổng thống phản đối dự luật, nhưng quá thời hạn 15 ngày kể trên mà Tổng thống không trả lại dự luật cho Quốc hội, thì dự luật tự động trở thành luật.
6.   Trong trường hợp Tổng thống trả dự luật lại cho Quốc hội, Quốc hội phải xem xét lại dự luật, sau đó: (a) sửa đổi theo trình tự thông thường, hoặc (b) thông qua văn bản gốc của dự luật với đa số 2/3 của các đại biểu có mặt, trường hợp này thì dự luật trở thành luật.
Điều 46. Công bố luật
1.   Khi dự luật đã trở thành luật, Tổng thống phải công bố luật không chậm trễ.
2.   Trong trường hợp dự luật tự động trở thành luật (theo Khoản 5 Điều 45) hay trở thành luật theo (b) Khoản 6 Điều 45, thì Tổng Thống cũng phải ký công bố không chậm trễ; nếu Tổng Thống vẫn không công bố thì Chủ tịch Hạ viện ký công bố và hành vi này của Tổng Thống có thể trở thành căn cứ cho việc luận tội vi phạm Hiến pháp.
3.   Luật được công bố trên Công báo và có hiệu lực vào ngày do luật định hoặc 30 ngày sau ngày ký công bố nếu luật không định rõ ngày có hiệu lực.
Điều 47. Ngân sách
1.   Không một khoản tiền nào từ ngân sách nhà nước được chi, cho dù Cơ quan Hành pháp có yêu cầu, nếu chưa được Quốc hội thông qua.
2.   Hành pháp sẽ soạn thảo dự luật ngân sách cho mỗi năm tài chính và đệ trình Hạ viện ít nhất 90 ngày trước ngày khởi đầu của năm tài chính mới.
3.   Quốc hội không tăng số tiền của bất kỳ khoản chi nào, không tạo ra bất kỳ mục chi mới nào trong dự luật ngân sách nếu không có sự đồng ý của Cơ quan Hành pháp.
4.   Hạ viện quyết định về dự luật ngân sách trong vòng 45 ngày kể từ ngày dự luật ngân sách được đệ trình và chuyển cho Thượng viện.
5.   Thượng viện quyết định về dự luật ngân sách đã được Hạ viện chuyển qua trong vòng 20 ngày.
6.   Nếu dự luật ngân sách không được thông qua trước khi bắt đầu năm tài chính mới, Cơ quan Hành pháp có thể giải ngân, theo cách phù hợp với ngân sách của năm tài chính trước, cho các mục đích sau đây cho đến khi dự luật ngân sách được Quốc hội thông qua: (a) cho việc duy trì hoạt động của các cơ quan được thành lập theo Hiến pháp hay luật; (b) cho việc thực hiện các khoản chi bắt buộc theo quy định của pháp luật; và (c) cho việc tiếp tục các dự án trước đó đã được phê duyệt trong ngân sách.
7.   Hạ viện và Thượng viện có thể có phiên họp chung để xem xét và quyết định về ngân sách khi thấy cần thiết.
Điều 48. Kiểm toán thu chi ngân sách
Báo cáo tài chính cuối cùng về thu chi ngân sách quốc gia sẽ được Kiểm toán Nhà nước kiểm toán hàng năm và trình cho Quốc hội.
Điều 49. Thuế
Các loại và mức thuế được xác định bằng luật.
Điều 50. Nợ
Mọi kế hoạch của Cơ quan Hành pháp về phát hành trái phiếu quốc gia và ký kết hợp đồng mà có thể phát sinh nghĩa vụ tài chính ngoài ngân sách của Nhà nước đều phải được Hạ viện phê chuẩn.
Điều 51. Chất vấn
1.   Hạ nghị sĩ có quyền chất vấn các Bộ trưởng bằng văn bản hoặc bằng các câu hỏi trực tiếp tại các phiên họp của Hạ viện.
2.   Chất vấn bằng văn bản phải được trả lời bằng văn bản trong vòng 21 ngày kể từ ngày nhận được chất vấn.
3.   Các Bộ trưởng có trách nhiệm trả lời các câu hỏi được nêu ra trong mỗi phiên họp của Hạ viện.
Điều 52. Điều trần
1.   Để phục vụ cho hoạt động lập pháp, các ủy ban của Hạ viện và Thượng viện có thể tổ chức các cuộc điều trần để nghe những người có liên quan giải thích, làm rõ những vấn đề nhất định nhằm tạo cơ sở cho các quyết định lập pháp và giám sát của Quốc hội.
2.   Những người được mời điều trần trước các ủy ban có thể là các Nghị sĩ, các quan chức chính phủ, lãnh đạo các tổ chức dân sự, công đoàn, các doanh nhân, chuyên gia, học giả, nhà khoa học…
3.   Để chọn ra các quan chức có chất lượng, tất cả các ứng viên tiềm năng vào các chức Thủ tướng, Bộ trưởng, Chủ tịch hay lãnh đạo của các cơ quan hiến định đều phải điều trần trước khi được bổ nhiệm và phê chuẩn
4.   Thủ tục mời và tiến hành điều trần do luật định.
5.   Biên bản các cuộc điều trần được công bố công khai, trừ các cuộc điều trần liên quan đến an ninh quốc gia, và được lưu trữ theo luật định.
Điều 53. Trưng cầu dân ý toàn quốc
1.   Cuộc trưng cầu dân ý cấp quốc gia có thể được tổ chức về những vấn đề đặc biệt quan trọng đối với nhân dân và quốc gia.
2.   Hạ viện có thể quyết định tổ chức trưng cầu dân ý cấp quốc gia. Tổng thống với sự chấp thuận của Thượng viện có quyền quyết định tổ chức trưng cầu dân ý cấp quốc gia. Khi có yêu cầu của trên 500 ngàn cử tri thì phải tổ chức trưng cầu dân ý.
3.   Kết quả của cuộc trưng cầu dân ý cấp quốc gia có tính bắt buộc nếu có hơn ½ số người có quyền bầu cử tham gia cuộc trưng cầu dân ý.
4.   Các nguyên tắc và thủ tục tổ chức cuộc trưng cầu dân ý do luật định
Điều 54.  Giám sát, điều tra và bãi nhiệm
1.   Hạ viện có thể giám sát công việc của nhà nước hoặc điều tra những vấn đề cụ thể của công vụ nhà nước, có quyền yêu cầu đệ trình các tài liệu trực tiếp liên quan đến các vấn đề đó, yêu cầu nhân chứng cung cấp lời khai hoặc báo cáo.
2.   Dựa trên kết quả giám sát, điều tra, chất vấn và điều trần, Quốc hội có quyền bỏ phiếu bất tín nhiệm đối với Bộ trưởng.
3.   Các thủ tục và các vấn đề liên quan đến giám sát và điều tra hành chính nhà nước được luật quy định.
Điều 55. Phế truất Tổng thống
1.   Quyết định truy tố Tổng thống về việc vi phạm Hiến pháp hoặc phạm tội đặc biệt nghiêm trọng phải được Hạ viện thông qua bằng nghị quyết với ít nhất đa số 2/3 tổng số thành viên Hạ viện, trên cơ sở đề nghị của ít nhất 60 Hạ nghị sĩ.
2.   Quyết định truy tố Tổng thống được xét xử bởi Thượng viện.
3.   Từ ngày có quyết định truy tố, Tổng thống bị tạm đình chỉ việc thực hiện nhiệm vụ Tổng thống, Chủ tịch Thượng viện tạm thời đảm nhiệm chức vụ quyền Tổng thống. Nếu Thượng viện phán quyết Tổng thống vô tội thì việc tạm đình chỉ nhiệm vụ Tổng thống chấm dứt. Nếu Thượng viện phán quyết Tổng thống có tội thì Tổng thống bị phế truất.
Điều 56. Phê chuẩn điều ước quốc tế
1.   Quốc hội có quyền đồng ý ký kết và phê chuẩn các điều ước quốc tế liên quan đến an ninh; các điều ước quốc tế liên quan đến các tổ chức quốc tế quan trọng; các điều ước hữu nghị, thương mại và hàng hải; các điều ước quốc tế liên quan đến bất kỳ hạn chế nào về chủ quyền; các điều ước hòa bình; các điều ước quốc tế phát sinh nghĩa vụ tài chính quan trọng đối với Nhà nước hoặc nhân dân; và các điều ước quốc tế liên quan đến lập pháp.
2.   Đại diện có thẩm quyền và được ủy quyền để ký các điều ước quốc tế chỉ được ký điều ước sau khi đã được sự đồng ý của Quốc hội.
3.   Sau khi được Quốc hội phê chuẩn, Tổng thống ký công bố điều ước quốc tế và điều ước có hiệu lực.
Điều 57.  Tuyên bố tình trạng chiến tranh
1.   Quốc hội có quyền nhân danh Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tuyên bố tình trạng chiến tranh và ký kết hiệp ước hòa bình.
2.   Quốc hội chỉ có thể thông qua nghị quyết về tình trạng chiến tranh trong trường hợp có sự xâm lược quân sự đối với lãnh thổ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Trong thời gian Quốc hội không họp, Tổng thống có thể tuyên bố tình trạng chiến tranh.

CHƯƠNG IV. HÀNH PHÁP
Điều 58. Quyền hành pháp
1.   Quyền hành pháp được nhân dân ủy quyền cho Tổng thống.
2.   Tổng thống Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là nguyên thủ quốc gia và bảo đảm cho sự liên tục của cơ quan nhà nước.
3.   Tổng thống có trách nhiệm bảo đảm việc tuân thủ Hiến pháp, bảo vệ chủ quyền và an ninh quốc gia cũng như sự bất khả xâm phạm và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia.
4.   Tổng thống thực hiện nhiệm vụ của mình trong phạm vi và theo các nguyên tắc do Hiến pháp và luật quy định.
Điều 59. Bầu Tổng thống và Phó Tổng thống
1.   Tổng thống và Phó Tổng thống cùng đứng chung một liên danh, do cử tri bầu ra trong cuộc bầu cử phổ thông, bình đẳng và trực tiếp bằng phiếu kín.
2.   Công dân Việt Nam đủ 35 tuổi, tính đến ngày bầu cử, và có quyền bầu cử Quốc hội, có thể là ứng cử viên Tổng thống và ứng cử viên Phó Tổng thống. Ứng cử viên Tổng thống và ứng cử viên Phó Tổng thống, với tư cách một liên danh chung, phải có được chữ ký ủng hộ của ít nhất 100 ngàn công dân có quyền bầu cử Quốc hội.
3.   Liên danh nhận được hơn 1/2 tổng số phiếu bầu hợp lệ sẽ trúng cử chức vụ Tổng thống và Phó Tổng thống.
4.   Nếu không liên danh nào nhận được đa số phiếu, thì sẽ tổ chức lại việc bỏ phiếu giữa 2 liên danh đạt số phiếu cao nhất vào ngày thứ 14 sau ngày bỏ phiếu lần thứ nhất.
5.   Nếu một trong hai liên danh tham gia vòng bầu thứ hai đồng ý rút khỏi danh sách, một trong hai người trong liên danh mất quyền bầu cử hoặc chết, thì liên danh đạt phiếu cao kế tiếp trong lần bầu thứ nhất sẽ thay thế liên danh đó. Trong trường hợp này, ngày bỏ phiếu sẽ được gia hạn thêm 14 ngày.
6.   Liên danh nhận được số phiếu bầu cao hơn trong lần bỏ phiếu lần thứ hai sẽ là những người được bầu làm Tổng thống và Phó Tổng thống.
7.   Các nguyên tắc và thủ tục đề cử ứng cử viên Tổng thống, Phó Tổng thống cách thức tiến hành bầu cử cũng như những yêu cầu về tính hợp lệ của cuộc bầu cử Tổng thống sẽ do luật quy định.
8.   Chủ Tịch Hạ viện ra quyết định tổ chức cuộc bầu cử Tổng thống không trước 120 ngày và không sau 100 ngày tính đến ngày hết nhiệm kỳ Tổng thống; trong trường hợp khuyết Tổng thống, không muộn hơn 14 ngày kể từ thời điểm bị khuyết. Quyết định tổ chức bầu cử phải quy định rõ ngày bầu cử sẽ là một ngày nghỉ trong khoảng thời gian giữa 60 đến 67 ngày kể từ ngày ra quyết định.
Điều 60. Tuyên thệ nhậm chức và nhiệm kỳ Tổng thống
1.   Tại lễ nhậm chức trước Quốc hội, Tổng thống sẽ tuyên thệ như sau: “Tôi trịnh trọng tuyên thệ trước nhân dân rằng sẽ trung thành thực thi các nghĩa vụ của Tổng thống bằng việc tuân thủ Hiến pháp, bảo vệ quốc gia, thúc đẩy tự do và thịnh vượng của nhân dân, nỗ lực bảo tồn và phát triển văn hóa dân tộc”.
2.   Tổng thống và Phó Tổng thống có nhiệm kỳ 5 năm tính từ ngày nhậm chức. Một người không thể làm Tổng thống quá hai nhiệm kỳ.
Điều 61. Tổng thống chấm dứt nhiệm vụ trước thời hạn
1.   Nhiệm vụ của Tổng thống có thể chấm dứt trước kỳ hạn trong những trường hợp sau: (a) Tổng thống chết; (b) Tổng thống từ chức; (c) Tổng thống bị truất quyền; và (d) do bị bệnh tật trầm trọng và kéo dài, Tổng thống không còn năng lực để làm tròn nhiệm vụ. Sự mất năng lực, trong trường hợp (d), phải được Quốc hội xác nhận với đa số 3/4 tổng số Hạ nghị sĩ và Thượng nghị sĩ, sau các cuộc giám định y khoa.
2.   Trong trường hợp Tổng thống chấm dứt nhiệm vụ, Phó Tổng thống sẽ đảm nhận chức Tổng thống trong thời gian còn lại của nhiệm kỳ.
3.   Trong trường hợp khuyết Phó Tổng thống, Thượng viện bầu Phó Tổng thống mới theo đề nghị của Tổng thống.
4.   Trường hợp đồng thời khuyết cả Tổng thống và Phó Tổng thống, Chủ tịch Thượng viện tạm thời làm quyền Tổng thống cho đến khi Quốc hội bầu ra Tổng thống và Phó Tổng thống mới, theo phương thức đa số, cho thời gian còn lại của nhiệm kỳ.
Điều 62. Thẩm quyền của Tổng thống
Tổng thống có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:
1.   Hoạch định chính sách quốc gia;
2.   Ký ban hành các đạo luật;
3.   Ký các điều ước quốc tế, sau khi được Quốc hội phê chuẩn ký ban hành các điều ước quốc tế;
4.   Bổ nhiệm các đại sứ với sự phê chuẩn của Thượng viện;
5.   Tiếp nhận quốc thư, đón nhận các phái đoàn ngoại giao;
6.   Tổ chức các cơ quan hành pháp theo quy định của luật;
7.   Chỉ đạo hoạt động của các cơ quan hành pháp;
8.   Bổ nhiệm các Bộ trưởng với sự chấp thuận của Quốc hội;
9.   Bãi nhiệm các Bộ Trưởng;
10.  Tổ chức các Hội đồng tư vấn;
11.  Quyết định các vấn đề được luật quy định về đặc xá, giảm án, phục hồi các quyền và đại xá;
12.  Trao các tước vị và danh hiệu theo các điều kiện luật định;
13.  Trao quốc tịch Việt Nam;
14.  Các quyền khác theo luật định.
Điều 63. Thống lĩnh tối cao các lực lượng vũ trang
1.   Tổng thống Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là Thống lĩnh tối cao của các lực lượng vũ trang Việt Nam.
2.   Theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Tổng thống phong cấp bậc quân hàm quân đội theo quy định của luật.
3.   Thẩm quyền của Tổng thống về quyền thống lĩnh tối cao đối với các lực lượng vũ trang sẽ được quy định cụ thể trong luật.
Điều 64. Thủ tướng và các thành viên Chính phủ
1.   Thủ tướng và các Bộ trưởng là các thành viên Chính phủ, được Tổng thống bổ nhiệm và Quốc hội phê chuẩn.
2.   Thủ tướng có trách nhiệm hỗ trợ Tổng thống và điều hành các Bộ theo chỉ đạo của Tổng thống.
3.   Không ai trong quân đội có thể được bổ nhiệm làm Thủ tướng trừ khi đã giải nhiệm.
4.   Cơ quan công tố thuộc Bộ Tư pháp.

CHƯƠNG V. TƯ PHÁP
Điều 65. Hoạt động tư pháp

1.   Quyền lực tư pháp được trao cho các tòa án, gồm các thẩm phán có trình độ chuyên môn theo luật định.
2.   Các tòa án gồm: Tòa án Tối cao, tòa án các cấp khác và Tòa án Hiến pháp.
Điều 66. Tổ chức Tòa án Tối cao
1.   Trong Tòa án Tối cao có Hội đồng Thẩm phán Tòa án Tối cao.
2.   Trong Tòa án Tối cao có thể thành lập các tòa chuyên trách.
3.   Việc tổ chức Tòa án Tối cao, các tòa án chuyên trách và các tòa án khác theo luật định.
Điều 67.  Thẩm phán Toà án Tối cao
1.   Chánh án Tòa án tối cao do Tổng thống bổ nhiệm với sự đồng ý của Quốc hội.
2.   Các Thẩm phán Tòa án Tối cao do Tổng thống bổ nhiệm theo đề xuất của Chánh án Tòa án Tối cao và với sự đồng ý của Quốc hội.
3.   Các thẩm phán khác do Chánh án Tòa án Tối cao bổ nhiệm với sự đồng ý của Hội đồng Thẩm phán Tòa án Tối cao.
Điều 68. Nhiệm kỳ thẩm phán Toà án Tối cao
1.   Nhiệm kỳ của Chánh án Tòa án Tối cao là 6 năm và không thể được tái bổ nhiệm.
2.   Nhiệm kỳ của thẩm phán của Tòa án Tối cao là 6 năm và họ có thể được tái bổ nhiệm theo quy định của luật.
3.   Nhiệm kỳ của các thẩm phán ngoài Chánh án và Thẩm phán của Tòa án Tối cao là 10 năm, họ có thể được tái bổ nhiệm theo các điều kiện luật định.
4.   Tuổi về hưu của các thẩm phán được luật quy định.
Điều 69. Tòa án Hiến pháp
Tòa án Hiến pháp có thẩm quyền xét xử đối với các vấn đề sau đây:
1.   Sự phù hợp của luật và điều ước quốc tế với Hiến pháp;
2.   Sự phù hợp của các văn bản pháp luật do các cơ quan nhà nước ở trung ương ban hành với Hiến pháp;
3.   Sự phù hợp của mục tiêu, hoạt động của các đảng chính trị với Hiến pháp;
4.   Tranh chấp về thẩm quyền giữa các cơ quan nhà nước, giữa các cơ quan nhà nước ở trung ương với chính quyền địa phương và giữa các chính quyền địa phương;
5.   Khiếu nại của những người cho rằng các quyền hiến định của họ đã bị xâm phạm bởi một đạo luật hay văn bản pháp luật khác trái với Hiến pháp.
Điều 70. Tổ chức Tòa án Hiến pháp
1.   Tòa án Hiến pháp gồm 15 thẩm phán được Quốc hội bầu chọn trong số những người có kiến thức và kinh nghiệm trong lĩnh vực pháp luật. Thẩm phán Tòa án Hiến pháp có nhiệm kỳ 9 năm và không thể được bầu chọn nhiều hơn một nhiệm kỳ.
2.   Chánh án và Phó Chánh án Tòa án Hiến pháp do Tổng thống bổ nhiệm trong số các ứng cử viên do Hội đồng thẩm phán Tòa án Hiến pháp giới thiệu
3.   Tổ chức và hoạt động của Tòa án Hiến pháp được quy định trong một đạo luật.
Điều 71. Nguyên tắc độc lập
Thẩm phán các tòa án phải xét xử độc lập theo lương tâm, chỉ tuân theo Hiến pháp và pháp luật. Thẩm phán không được tham gia các đảng chính trị.



CHƯƠNG VI. CÁC CƠ QUAN HIẾN ĐỊNH ĐỘC LẬP
Điều 72. Các cơ quan hiến định độc lập
Các cơ quan hiến định độc lập, không phải là các cơ quan lập pháp, hành pháp hay tư pháp, bao gồm Ngân hàng Trung ương, Kiểm toán Nhà nước, Uỷ ban Bầu cử, Ủy ban Nhân quyền và Hội đồng Hoà giải Dân tộc.
Điều 73. Ngân hàng Trung ương
1.   Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đảm nhiệm vai trò Ngân hàng Trung ương của Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa
2.   Tổ chức và hoạt động của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam được quy định bởi một đạo luật.
Điều 74. Kiểm toán Nhà nước
1.   Kiểm toán Nhà nước hoạt động theo các nguyên tắc nghề nghiệp.
2.   Kiểm toán Nhà nước thực hiện kiểm toán hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, các pháp nhân và tổ chức nhà nước về tính hợp pháp, tính kinh tế, hiệu quả và sự mẫn cán.
3.   Kiểm toán Nhà nước trực thuộc Hạ viện và có trách nhiệm trình Hạ viện: các báo cáo phân tích việc thực hiện ngân sách và các mục tiêu của chính sách tiền tệ; ý kiến liên quan đến việc chấp thuận quyết toán ngân sách; thông tin về kết quả kiểm toán, kết luận kiểm toán và kiến nghị theo quy định của luật.
4.   Chủ tịch Kiểm toán Nhà nước không được tham gia đảng chính trị hay bất cứ hoạt động công vụ nào khác không phù hợp với chức trách của mình.
5.   Tổ chức và hoạt động của Kiểm toán Nhà nước được quy định bằng một đạo luật.
Điều 75. Ủy Ban Bầu cử
1.   Các Ủy ban Bầu cử được thiết lập với mục đích điều hành công bằng các cuộc bầu cử và trưng cầu dân ý toàn quốc, xử lý các vấn đề hành chính liên quan đến các chính đảng.
2.   Ủy ban Bầu cử Trung ương gồm 3 thành viên do Tổng thống bổ nhiệm, 3 thành viên do Quốc hội lựa chọn và 3 thành viên do Chánh án Tòa án Tối cao lựa chọn. Các thành viên của Ủy ban thành viên bầu ra một Chủ tịch.
3.   Nhiệm kỳ của thành viên Ủy ban là 6 năm.
4.   Các thành viên Ủy ban không thể tham gia các đảng chính trị hoặc các hoạt động chính trị.
5.   Các chiến dịch tranh cử được thực hiện dưới sự điều hành của Ủy ban Bầu cử mỗi cấp trong phạm vi luật định với nguyên tắc bảo đảm cơ hội bình đẳng cho các ứng cử viên.
6.   Tổ chức, chức năng và các vấn đề quan trọng khác của Ủy ban Bầu cử Trung ương và Ủy ban Bầu cử các cấp sẽ do luật quy định
Điều 76. Ủy ban Nhân quyền
1.    Ủy ban Nhân quyền là một cơ quan độc lập, có vai trò thúc đẩy và bảo vệ các quyền con người được ghi nhận tại Tuyên ngôn nhân quyền quốc tế 1948 và trong các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Ủy ban Nhân quyền do Hạ viện thành lập với sự đồng thuận của Thượng viện, gồm 9 thành viên, có sự tham gia của đại diện nhiều thành phần xã hội.
2.    Ủy ban Nhân quyền có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:
a.     Giáo dục và nâng cao nhận thức của công chúng, công chức và viên chức về quyền con người;
b.     Tư vấn cho các cơ quan nhà nước và các tổ chức xã hội về các vấn đề liên quan đến quyền con người;
c.     Nghiên cứu, đề xuất việc gia nhập các điều ước quốc tế về quyền con người;
d.     Nhận các khiếu nại về các vi phạm các quyền được quy định tại tại Hiến pháp này hoặc các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên.
3.   Thành viên Ủy ban Nhân quyền không giữ bất kỳ chức vụ nào khác, trừ chức vụ giảng viên đại học, cũng không thực hiện bất kỳ hoạt động nghề nghiệp nào khác. Các thành viên cũng không được tham gia đảng chính trị nào, không thực hiện các nhiệm vụ công không phù hợp với chức trách của mình.
4.   Phương thức tổ chức và hoạt động của Ủy ban Nhân quyền sẽ được quy định bởi một đạo luật.
Điều 77.  Hội đồng Hoà giải Dân tộc
1.   Hội đồng Hoà giải Dân tộc thực hiện hòa giải và hòa hợp dân tộc, xóa bỏ thù hận, hướng đến việc khắc phục các sai lầm trong quá khứ, nhằm mang lại công bằng, đoàn kết dân tộc, phát huy các năng lực của người Việt Nam trên toàn thế giới.
2.   Hội đồng Hoà giải Dân tộc gồm 19 thành viên do Hạ viện bổ nhiệm với sự đồng thuận của Thượng viện. Năm (5) thành viên đến từ mỗi khu vực miền Bắc, Trung, Nam Việt Nam và bốn (4) thành viên thuộc cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài.
3.   Hội đồng Hoà giải Dân tộc có các nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:
a. Nghiên cứu, xác định lại giá trị pháp lý của các luật, điều ước quốc tế đã được các chính quyền Việt Nam trong quá khứ ban hành, ký kết trái thẩm quyền hoặc gây hại nghiêm trọng cho quốc dân. Đề xuất với Quốc hội các giải pháp khắc phục các sai lầm quá khứ.
b. Tập hợp thông tin, đề nghị trả tự do, tổ chức việc đối thoại, xin lỗi, bồi thường cho những người đã từng bị xử phạt, điều tra, truy tố, xét xử oan, chỉ vì lý do họ đã có những hành động nhằm thúc đẩy dân chủ, công bằng và tiến bộ xã hội, nhằm bảo vệ các quyền con người, hoặc chỉ để thực thi các quyền tự do của mình.
c. Nghiên cứu, trình Quốc hội các chính sách, dự án luật có thể khắc phục những sai lầm khác của các chế độ trong quá khứ nhằm hoà giải và hòa hợp dân tộc.
4. Hội đồng Hoà giải Dân tộc sẽ được Hạ viện giải tán sau khi đã hoàn tất nhiệm vụ.

CHƯƠNG VII. TỰ QUẢN ĐỊA PHƯƠNG
Điều 78. Chính quyền địa phương
1.   Chính quyền địa phương thực hiện các công vụ địa phương, tức là các công vụ không được quy định trong Hiến pháp và trong các đạo luật về các cơ quan khác của Nhà nước. Các công vụ địa phương do nhân dân của địa phương đó tự đề ra. Chính quyền địa phương giải quyết các vấn đề hành chính liên quan đến an sinh của dân cư địa phương, quản lý tài sản và có thể đề ra các quy định liên quan đến tự chủ địa phương trong phạm vi luật định.
2.   Chính quyền địa phương ở mỗi cấp có thể có một hội đồng và bộ máy hành chính nhà nước cấp địa phương.
3.   Hội đồng địa phương do dân địa phương bầu và có quyền quy định về các công vụ địa phương.
4.   Trong địa phương mình, bộ máy hành chính thực thi các công vụ được quy định trong Hiến pháp, luật và các công vụ địa phương. Người đứng đầu cơ quan hành chính địa phương do nhân dân địa phương đó trực tiếp bầu ra.
5.   Xã là đơn vị cơ sở của chính quyền địa phương, nơi dân chủ trực tiếp được thực hiện ở mức cao nhất trong các cấp chính quyền.
6.   Chính quyền đô thị được luật quy định.
7.   Các loại chính quyền địa phương do luật định
Điều 79. Tổ chức Chính quyền địa phương
Việc tổ chức và thẩm quyền của chính quyền địa phương, thủ tục bầu các thành viên hội đồng (nếu có) và người đứng đầu chính quyền địa phương và các vấn đề khác liên quan đến hoạt động của chính quyền địa phương sẽ do luật định theo nguyên tắc chính quyền cấp càng thấp thì việc áp dụng dân chủ trực tiếp càng cao.

CHƯƠNG VIII. SỬA ĐỔI HIẾN PHÁP
Điều 80. Thủ tục sửa đổi Hiến pháp
1.   Một dự luật sửa đổi Hiến pháp có thể được trình bởi các chủ thể sau: ít nhất 1/5 số Hạ nghị sĩ theo luật định, Thượng nghị viện, hoặc Tổng thống.
2.   Nếu Tổng thống trình dự luật sửa đổi Hiến pháp thì dự luật không được thay đổi các điều khoản liên quan đến Tổng thống trong Hiến pháp hiện hành
3.   Việc sửa đổi Hiến pháp phải được thực hiện bởi một đạo luật được Hạ viện thông qua và sau đó được Thượng viện thông qua với cùng nội dung trong thời hạn 60 ngày.
4.   Dự luật sửa đổi Hiến pháp được Hạ viện thông qua nếu được ít nhất 2/3 số phiếu có mặt của ít nhất 2/3 tổng số Hạ nghị sĩ theo luật định; Dự luật sửa đổi Hiến pháp được Thượng Nghị Viện thông qua nếu được ít nhất 2/3 số phiếu có mặt của ít nhất 2/3 tổng số Thượng nghị sĩ theo luật định.
5.   Trong vòng 60 ngày kể từ khi Dự luật sửa đổi Hiến pháp đã được Quốc hội thông qua phải tổ chức trưng cầu dân ý để nhân dân phúc quyết.
CHƯƠNG IX. ĐIỀU KHOẢN CHUYỂN ĐỔI
Điều 81. Hiệu lực Hiến pháp và quy định chuyển đổi
1. Hiến pháp này có hiệu lực sau 100 ngày kể từ ngày được nhân dân phúc quyết thông qua.
2. Trong vòng 100 ngày sau khi Hiến pháp có hiệu lực, Quốc hội hiện hành (đã thông qua Hiến pháp) phải căn cứ vào đó ban hành các luật mới về bầu cử Quốc hội và bầu cử Tổng thống. Các cuộc bầu cử Hạ viện, Thượng viện và Tổng thống đầu tiên được tổ chức theo quy định của các luật đó trong vòng 180 ngày từ khi luật có hiệu lực.
3. Chính phủ, trong vòng 2 năm sau khi Hiến pháp này có hiệu lực, phải rà soát lại toàn bộ hệ thống pháp luật hiện hành, đệ trình để Quốc hội sửa đổi các quy định trái với Hiến pháp và ban hành các luật mới nhằm thực thi Hiến pháp.
4. Trong vòng 2 năm sau khi Hiến pháp này có hiệu lực, pháp luật đang có hiệu lực vào thời điểm Hiến pháp được Quốc hội thông qua vẫn còn giá trị. Sau thời hạn 2 năm này, tất cả các quy định trái với Hiến pháp này đều trở nên vô hiệu, các quy định khác vẫn còn giá trị.

* Theo tinh thần đó, một số chuyên gia luật ở trong nước đã soạn một dự thảo hiến pháp được gửi kèm Kiến nghị này như một tài liệu để tham khảo và thảo luận.

-KIẾN NGHỊ VỀ SỬA ĐỔI HIẾN PHÁP 1992

Tổng số lượt xem trang