Tôi chưa đọc Bên Thắng Cuộc đầy đủ để viết về tác phẩm này. Sách do một người em gởi từ California vẫn chưa đến. Có thể khi đọc xong cả hai cuốn, sẽ nhận xét Bên Thắng Cuộc với tư cách một người miền Nam đã sống những năm khắc nghiệt ở Sài Gòn, “sinh viên chế độ cũ”, đi kinh tế mới, vượt biển và trăn trở cùng đất nước. Bài viết này chỉ bàn đến luận điểm mà các báo lề đảng dùng khi viết về tácphẩm Bên Thắng Cuộc.
Hầu hết báo lề đảng đều đòi hỏi “Hãy tôn trọng lịch sử”, vâng, nhưng lịch sử nào?
Một trong những đề án lớn của các quốc gia thuộc khối CS Liên Xô cũ không chỉ phục hồi kinh tế, ổn định xã hội sau gần 80 năm sống trong chế độ toàn trị kinh hoàng nhưng là viết lại lịch sử. Các nhà sử học Nga dành nhiều năm để đánh giá các sự kiện diễn ra từ thời Vladimir Lenin đến Mikhail Gorbachev và cho đến nay vẫn còn đang đánh giá. Nhiều chi tiết như các điều khoản bí mật trong hiệp ước Molotov-Ribbentrop, việc chiếm đóng các quốc gia vùng Baltic, sự giúp đỡ của đồng minh trong thế chiến thứ hai v.v… đã bị xóa trong sử CS. Một số sự kiện có nhắc đến nhưng lại cố tình viết sai thủ phạm như vụ tàn sát 22 ngàn sĩ quan Ba Lan tại Katyn vào tháng 3 năm 1940 được viết là Đức Quốc Xã chứ không phải do mật vụ Sô Viết hành hình. Không chỉ sử Nga mà cả lịch sử thế giới, sự sụp đổ của đế quốc La Mã, các hình thái kinh tế cũng được giải thích theo quan điểm CS.
Các nhà sử học Việt Nam trong tương lai cũng sẽ nhức đầu như thế. Lịch sử không có một dòng chảy chính thống và trong suốt qua các thời kỳ đất nước. Lịch sử Việt Nam từ năm 1954 ở miền Bắc và từ năm 1975 trên phạm vi cả nước là lịch sử của kẻ thắng trận, được giải thích theo quan điểm của kẻ thắng trận và để phục vụ cho mục đích của kẻ thắng trận. Lịch sử Việt Nam mà sinh viên học sinh đang học là lịch sử được phát ra từ cái loa, biểu tượng cho bộ máy tuyên truyền của chế độ, giống như cái loa mà Huy Đức có thể đã ám chỉ trong bìa sách Bên Thắng Cuộc.
Rất nhiều tranh luận về lý do tồn tại của chế độ CS tại Việt Nam. Trong cái nhìn của riêng tôi, chế độ CS tại Việt Nam chưa sụp đổ, không phải nhờ đổi mới kinh tế, ổn định xã hội nhưng chính là nhờ tác dụng của cái “loa lịch sử” đó. Đảng CS ít nhiều đã thành công trong việc che giấu được tội ác và khoát cho mình chiếc áo chính danh, chính nghĩa hay ít nhất không một thành phần dân tộc nào chính danh, chính nghĩa hơn đảng CS.
Đảng Cộng sản tại năm quốc gia sót lại từ phong trào CS quốc tế, đặc biệt Trung Quốc và Việt Nam đã pha chế chủ nghĩa Dân tộc vào chủ nghĩa Cộng sản thành một loại hợp chất gây mê man nhãn hiệu Dân tộc Xã hội chủ nghĩa. Đảng CS lý luận rằng họ ra đời để đáp ứng một nhu cầu lịch sử và, như một tác giả viết trong báo Pháp Luật, “những người cộng sản chỉ nối tiếp sứ mệnh mà lịch sử giao phó”. Lịch sử nào giao phó?
Chủ trương nhuộm đỏ Việt Nam của đảng CS rõ như ban ngày khi đẩy hàng triệu thanh niên miền Bắc mang súng đạn Nga Tàu vào cưỡng chiếm miền Nam. Pháp rút sớm hay rút muộn, Mỹ đến hay không đến cũng chẳng ảnh hưởng gì đến mục tiêu thiết lập một nhà nước CS trên toàn lãnh thổ Việt Nam nhất quán từ ngày thành lập đảng CS vào năm 1930. “Độc lập dân tộc”, “Thống nhất đất nước” chỉ là những chiêu bài. Nếu không dùng khẩu hiệu “Chống Mỹ cứu nước” bộ máy tuyên truyền tinh vi của đảng cũng thừa khả năng để nặn ra hàng trăm chiêu bài, khẩu hiệu hấp dẫn khác để kích thích và vận dụng lòng yêu nước. Bộ máy tuyên truyền của đảng nhồi nhét vào nhận thức của các thế hệ Việt Nam, nhất là thế hệ sinh ra và lớn lên sau cuộc chiến, rằng cuộc chiến tranh gọi là “Chống Mỹ cứu nước” trước 1975 là cuộc chiến chính nghĩa, “đánh Mỹ” là bước kế tục của chiến tranh chống Thực Dân Pháp. Đó là lý luận của kẻ cướp. Đảng CS không chỉ cướp đất nước mà cướp cả niềm tin và khát vọng của những người đã chết.
Như tôi đã viết trước đây, miền Nam có đàn áp chính trị nhưng cũng có đấu tranh chính trị, có ông quan tham nhũng nhưng cũng có nhiều phong trào chống tham nhũng hoạt động công khai, có ông tướng lạm quyền nhưng cũng có ông tướng trong sạch, có nghị gà nghị gật nhưng cũng có những chính khách, dân biểu, nghị sĩ đối lập chân chính. Xây dựng một xã hội dân chủ vừa bước ra khỏi phong kiến và thực dân là một tiến trình vinh quang nhưng cũng đầy trắc trở. Dân chủ ở miền Nam như một chiếc cây non lớn lên trong mưa chiều nắng sớm. Nhưng dù có khó khăn, tham nhũng thối nát bao nhiêu đi nữa, đó cũng là vấn đề riêng của Việt Nam Cộng Hòa không dính dáng gì đến đảng CS ở miền Bắc. Những ông như Trịnh Đình Thảo, Lâm Văn Tết có đủ không gian và phương tiện để đấu tranh một cách hợp pháp tại miền Nam cho một xã hội tốt đẹp hơn như hàng trăm chính khách quốc gia khác. Dĩ nhiên, họ có thể thất bại, bị tù đày và ngay cả bị giết nhưng vẫn là những người quốc gia chân chính. Tuy nhiên, khi tham gia Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam Việt Nam, chấp nhận làm công cụ cho đảng CS, họ đã tự chặt chiếc cầu biên giới giữa họ và nhân dân miền Nam.
Tác giả viết trong Sài Gòn Giải Phóng nhắc đến “10 cô gái Đồng Lộc” mà không biết rằng nếu có thể hiện hồn về, công việc đầu tiên của các cô chết trong hố bom Đồng Lộc là đi tìm lãnh đạo đảng CS để thanh toán cả vốn lẫn lời vì cái chết oan uổng của các cô chỉ để đổi lấy một đất nước nghèo nạn, lạc hậu, một chế độ độc tài, tham nhũng, phản văn minh tiến bộ như ngày nay.
Tác giả trên báo Sài Gòn Giải Phóng cũng nhắc đến đến “nhà tù Côn Đảo”, “nghĩa trang Hàng Dương” làm tôi nhớ đến nơi này. Tôi cũng đã từng đến đó, không phải vì phải ở tù mà chỉ vì muốn biết một di tích lịch sử của dân tộc. Đảng xem nhà tù Côn Đảo như một “trường đại học CS”, tài sản riêng của đảng CS nhưng đừng quên nhà tù Côn Đảo do thực dân Pháp lập ra năm 1862 tức 68 năm trước khi đảng CS ra đời. Năm 1945, đảng CS ước lượng có khoảng 5 ngàn đảng viên. Cho dù thực dân Pháp bắt và đày nguyên cả đảng ra Côn Đảo cũng không thể so với số tù nhân thuộc các phong trào yêu nước khác. Với tôi, cuộc chiến chống thực dân Pháp là cuộc chiến chính nghĩa. Trong suốt gần một thế kỷ trong bóng tối thực dân, hàng vạn đồng bào thuộc nhiều thế hệ Việt Nam đã bị bắt, tra tấn và đã hy sinh trên Côn Đảo. Những đồng bào đã hy sinh trong cuộc chiến chống Thực Dân và bỏ xác trên đảo đều xứng đáng được tôn vinh.
Nếu họ đã từng là đảng viên Cộng sản thì sao? Không sao cả. Như tôi đã có dịp viết trong tiểu luận Từ buổi chiều trên nghĩa địa Hàng Dương, việc tham gia vào đảng Cộng sản của một số người Việt Nam, chủ yếu là để được tổ chức hóa nhằm mục đích hợp đồng chiến đấu, đạt đến chiến thắng dễ dàng hơn chứ không phải vì tin vào chủ nghĩa Cộng Sản. Ngày đó, vì điều kiện giao thông khó khăn, núi non cách trở, sự phát triển của các đảng phái chống thực dân ít nhiều bị giới hạn bởi các đặc tính địa phương, bà con giòng họ, hoàn cảnh trưởng thành. Nếu họ sinh ra ở Quảng Nam họ sẽ gia nhập Việt Nam Quốc dân Đảng, sinh ra ở Quảng Trị họ sẽ gia nhập Đại Việt, sinh ra ở Cần Thơ, Vĩnh Long, An Giang họ sẽ gia nhập Dân xã Đảng. Đó là trọng điểm của các đảng phái chống Pháp trong những thập niên đầu của thế kỷ 20. Những người Việt yêu nước thời đó chọn lựa đảng phái như chọn một chiếc phao để đưa dân tộc sang bờ độc lập. Những nông dân hiền hòa chất phác, những công nhân đầu tắt mặt tối làm sao biết được con đường họ đi không dẫn đến độc lập, tự do, hạnh phúc mà dẫn đến nghèo nàn, lạc hậu, độc tài và làm sao biết được chiếc phao họ bám cũng là chiếc bẫy buộc chặt chẳng những cuộc đời họ mà còn gây hệ lụy cho cả dân tộc đến ngày nay. Đảng Cộng sản như một tổ chức thì khác. Mục đích của đảng CS không chỉ nhuộm đỏ miền Nam, nhuộm đỏ Việt Nam mà còn nhuộm đỏ cả dòng lịch sử.
Tác giả viết trên báo Pháp Luật so sánh việc chính quyền miền Nam tra tấn các đảng viên CS và tù “cải tạo” sau 1975 khi kết án tác giả Bên Thắng Cuộc đã “Nhấn mạnh “chế độ hà khắc” của các trại cải tạo nhưng cuốn sách lại không nhắc đến những trại tù và cách ứng xử của chế độ Sài Gòn cũ đối với những người yêu nước.”
Những kẻ ném lựu đạn vào nhà hàng, ám sát, đặt mìn trên quốc lộ 1, quốc lộ 4, đặt bom trong sân vận động, đốt chợ, đốt làng, giết người vô tội không phải tù chính trị hay tù binh chiến tranh mà chỉ là những tên khủng bố. Chúng là những kẻ yêu đảng chứ không phải là “những người yêu nước”. Bấm vào đây để xem các “chiến công hiển hách” của Biệt động thành Sài Gòn Gia Định khi ám sát hàng loạt “Mỹ ngụy” còn mặc tã ở nhà hàng Mỹ Cảnh. Tội ác giết phụ nữ trẻ em của chúng phải được xét xử theo đúng luật pháp. Điều đó đã và đang được áp dụng tại mọi quốc gia trên thế giới không riêng gì Việt Nam Cộng Hòa.
So sánh tù CS ở Côn Đảo và tù “cải tạo” là một cách so sánh vụng về và không cân xứng. Tổng số tù tại Côn Đảo khác nhau tùy theo bên nào tống kết, 5 ngàn theo con số của VNCH công bố và 17 ngàn theo con số của Hà Nội. Dù chọn con số 17 ngàn của đảng thổi phồng vẫn không thể so với hơn 200 ngàn công nhân viên chức và sĩ quan quân đội VNCH bị giam giữ trong 150 trại tù, đa số tận rừng sâu nước độc kéo dài từ 1975 đến 1992 mà chính Thủ tướng CS Phạm Văn Đồng thừa nhận. Các tổ chức quốc tế ước lượng cho đến 1982 số viên chức và sĩ quan VNCH bị giam giữ vẫn còn lên đến 300 ngàn người. Theo tổng kết của báo chí Mỹ, khoảng 165 ngàn người đã chết trong các trại tù CS. Ngoài ra, hàng triệu thân nhân, gia đình, con cái họ bị đày ra các vùng kinh tế mới, bị bạc đãi như nô lệ thời CS chỉ vì lý lịch VNCH.
Một điều quan trọng mà người dân miền Nam sẽ không bao giờ quên, không giống tù Côn Đảo xảy ra trong thời chiến, tội ác “tù cải tạo” vô cùng phi nhân đã được đảng thực thi sau khi đất nước đã hòa bình, sau khi Lê Duẩn ngọt ngào tuyên bố “chiến thắng này thuộc về nhân dân Việt Nam” và sau khi Trần Văn Trà, Chủ tịch Ủy ban Quân quản Sài Gòn Gia Định vuốt ve các viên chức VNCH còn trong Dinh Độc Lập “Nhân dân Việt Nam chính là người chiến thắng và chỉ đế quốc Mỹ mới thật sự là kẻ bại trận mà thôi.”
Phân tích như vậy để thấy lý luận trong bài viết trên báo Pháp Luật cho rằng cuộc chiến chấm dứt sáng 30-4-1975 “không phải là chiến thắng của một “bên thắng cuộc” hạn hẹp mà là chiến thắng của mọi người Việt Nam, trong đó cả những người từng ở phía bên kia” đúng là sản phẩm của chính sách tẩy não. Miền Nam sau 30-4-1975 là một nhà tù và nhân dân miền Nam là tù nhân dưới nhiều hình thức khác nhau.
Từ 1983, để tồn tại, đảng CS phải tự diễn biến hòa bình bằng cách mở thêm một vài ô cửa sổ cho gió vào nhưng thực chất đất nước vẫn còn bị bao bọc bằng bức tường dày bưng bít thông tin và một chế độ trấn áp không thua tiêu chuẩn một nhà tù khắt khe quốc tế nào. Lý thuyết Mác Lê có thể chỉ còn trong đầu môi chót lưỡi, trong các diễn văn, trong các bài ai điếu của các lãnh đạo đảng nhưng các phương tiện chuyên chính, toàn trị CS vẫn không khác gì nhiều so với thời triệt để cách mạng trước đây. Một nhạc sĩ trẻ Việt Khang chỉ viết hai bài hát chống Tàu bị kết án bốn năm tù. Một cô gái Đỗ Thị Minh Hạnh mới ngoài hai mươi tuổi, đấu tranh cho quyền lợi công nhân phù hợp với luật pháp của đảng CS quy định bị kết án bảy năm tù, một thanh niên trẻ Lê Sơn chỉ đưa tin tức các cuộc biểu tình chống Trung Quốc và chống khai thác Bauxite tại Tây Nguyên bị kết mười ba năm tù. Và hàng trăm, hàng ngàn người khác đã sống và đã chết, nhiều trường hợp rất âm thầm, trong nhà tù CS chỉ vì dám nói lên khát vọng dân chủ tự do.
Tác giả trên báo Sài Gòn Giải Phóng viết “Có thể lúc này lúc khác, Đảng có sai lầm. Cuộc sống khó khăn, đôi khi tôi cũng mất lòng tin vào đường lối của Nhà nước.” Hãy chỉ dùm tôi, không phải một năm, một tháng mà chỉ một ngày thôi đảng CS đã “lúc này lúc khác”. Bản chất của chế độ chưa hề thay đổi dù chỉ một giờ.
Lãnh đạo đảng có 38 năm để chọn một hướng đi phù hợp với trào lưu tiến hóa của nhân loại, có hàng trăm cơ hội để sửa sai nhưng họ không làm. Tất cả chính sách của đảng chỉ nhằm một mục đích duy nhất là củng cố quyền cai trị mặc cho dân tộc bị bỏ lại phía sau một đoạn đường quá xa so với đà tiến của nhân loại sau cách mạng tin học và toàn cầu hóa kinh tế cuối thập niên 1980. Tội ác của đảng với “tù cải tạo”, “kinh tế mới”, “đổi tiền”, “đánh tư sản”, có viết hàng tủ sách cũng không hết. Nỗi đau và sự chịu đựng vô bờ bến của nhân dân miền Nam nói riêng và cả nước nói chung, không thể nào diễn tả cạn dòng. Hàng ngàn câu chuyện thật đau lòng đã xảy ra trên con đường máu nhuộm Việt Nam sau 1975 và chỉ được phơi bày khi bức tường chuyên chính CS bị đạp đổ.
Có hai cách để đạp đổ bức tường chuyên chính. Thứ nhất, đi mượn một cái búa lớn của các cường quốc đem về đập phá bức tường và thứ hai xoi mòn bằng những bàn tay nhỏ Việt Nam kiên nhẫn. Sau 38 năm, những người đi tìm búa hoặc chết trên đường hoặc trở về không. Còn lại hôm nay là những bàn tay Việt Nam nhỏ nhoi. Bàn tay Đỗ Thị Minh Hạnh, Nguyễn Hoàng Quốc Hùng, Đoàn Huy Chương, Nguyễn Văn Hải, Tạ Phong Tần, Trần Huỳnh Duy Thức, Lê Công Định, Lê Quốc Quân, Đặng Xuân Diệu, Hồ Đức Hòa, Lê Văn Sơn và hàng ngàn người Việt Nam yêu nước khác. Dù đang ngồi trong bốn bức tường đen, họ mới chính là những người đang viết sử và thấy đâu là sự thật.
Trần Trung Đạo
- MẬT MÃ “BÊN THẮNG CUỘC” (FB Trần Khánh Hưng/ CXC). - Lịch sử không có ý nghĩa (FB Trần Minh Khôi).
- Lê Diễn Đức: ĐÀN CÁ TRONG AO BÁC HỒ VÀ NHỮNG CON CHÓ CỦA PAVLOV (TNM). . – NGUYỄN MINH CẦN VÀ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM (TNM).
-Tôn trọng lịch sử?
Đồng Phụng Việt
Gần đây, sau sự kiện “Bên Thắng cuộc”, một số bác lại bắt đầu lải nhải về chuyện phải “tôn trọng lịch sử”. Không rõ loại “sử” mà các bác ấy đòi tôn trọng là do ai viết và viết để làm gì? Nếu vẫn là loại “sử” được dùng như công cụ duy trì vai trò “lãnh đạo Nhà nước và xã hội” của Đảng thì có “tôn trọng” hay không là tùy các bác, chỉ mong các bác đừng áp đặt, buộc mọi người phải tôn trọng nó.
Mình vốn không có chuyên môn về sử nên mạo muội mượn một bài của bác Cao Tự Thanh – người mà mình rất hâm mộ về kỹ năng nghiên cứu, khả năng tư duy, uy tín khoa học - thay cho lời giải thích về việc tại sao mình đề nghị đừng áp đặt, buộc mọi người phải tôn trọng thứ “lịch sử đã được định hướng”...
1.
Chén đắng rượu Xuân thu - Bi kịch của Phan Thanh Giản
Cao Tự Thanh
Là một nhân vật lịch sử có số phận khác thường, Phan Thanh Giản đã chết bốn lần. Lần thứ nhất là Phan uống thuốc độc tự tử. Lần thứ hai, Phan bị thực dân ám sát khi khen ông sáng suốt không chống lại Pháp. Lần thứ ba, Phan bị triều đình Tự Đức bức tử với bản án “truy đoạt tất cả chức hàm, đục tên trong bia Tiến sĩ, giữ mãi cái án trảm giam hậu”. Lần thứ tư là vào thời gian 1960 – 1963, khi chúng ta hạ quyết tâm dùng bạo lực cách mạng để giải phóng miền Nam, và nền sử học rời khỏi con đường dài phục vụ cách mạng mà đi vào con đường tắt phục vụ chính trị đương thời đã xử tử ông (cũng như phê phán những người yêu nước chủ trương không dùng bạo lực như Phan Châu Trinh), gây ra một công án đau lòng khiến những trí thức như Ca Văn Thỉnh đương thời day dứt và các chính khách như Võ Văn Kiệt hiện nay trăn trở.
Năm 1994 vấn đề Phan Thanh Giản lại được đặt ra trong Hội thảo khoa học ở Vĩnh Long, nhưng hầu như không có tiếng vang nào đáng kể. Các công trình cũ vẫn còn đó, các giáo trình cũ vẫn còn đó, quan niệm cũ vẫn còn ngự trị, tâm lý cũ vẫn còn tác động. Nhiều người không ngại khẳng định Phan Thanh Giản, mà sợ phản đối đồng chí và đồng nghiệp, cấp trên hay thầy học của mình. Cho nên đến cuộc Tọa đàm Thế kỷ 21 nhìn về nhân vật lịch sử Phan Thanh Giản do Hội Khoa học Lịch sử tổ chức ở Thành phố Hồ Chí Minh ngày 16 tháng 8 mới đây, cái số phận nhiều cay đắng mà ít vinh quang ấy lại một lần nữa được đưa ra mổ xẻ.
Trong cuộc Tọa đàm vừa qua, nhiều người đã khẳng định Phan Thanh Giản là một người yêu nước và thương dân. Thương dân có đồng nghĩa với trọng dân hay không ở các nhà nho xưa còn là chuyện phải bàn, nhưng uyên nguyên của tấn bi kịch lịch sử nơi Phan Thanh Giản là ở chỗ ông đã theo một cái học coi triều là nước. Cho nên lúc vua sợ giặc mà dân chống giặc, Phan Thanh Giản cũng dần dần rơi vào bế tắc trên một lập trường chính trị chiết trung. Vừa mong ái dân vừa muốn trung quân, cái tâm thế lưỡng phân này khiến từ 1859 Phan không kế thừa được một cách tích cực truyền thống yêu nước chống ngoại xâm của dân tộc Việt Nam và sau Hòa ước 1862 thì có nhiều hành động bất lợi cho phong trào chống Pháp “chẳng nghe Thiên tử chiếu”. Cho nên bi kịch lúc còn sống của Phan Thanh Giản trước hết là sự thất bại về trí tuệ của thế giới cũ, một thế giới già cỗi đang rúng động và từng bước giải thể trong quá trình tiếp xúc với cái thế giới mới sung sức, năng động và tàn nhẫn hơn tới từ phương Tây. Đây cũng là bi kịch của chế độ phong kiến Việt Nam thế kỷ XIX nói chung và nhà Nguyễn nói riêng, vì với một chính quyền thì sự bất lực trước nhiệm vụ thực tiễn luôn gắn liền với sự suy thoái về đạo đức chính trị. Dĩ nhiên trong chính trị thì không phải có tội lỗi hay sai lầm là không có tinh thần yêu nước, nên vẫn có thể nói Phan Thanh Giản là một người yêu nước ít nhất theo kiểu của ông.
Trong cuộc Tọa đàm vừa qua có một số người đi sâu khẳng định Phan trên phương diện đạo đức cá nhân, nhưng điều đó không có nhiều tác dụng trong việc đánh giá các nhân vật lịch sử, nhất là một nhân vật có hành trạng chính trị phức tạp như Phan Thanh Giản. Chín chữ “Đại Nam hải nhai lão thư sinh tính Phan” như một lá đơn từ chức gởi cho người đương thời và hậu thế của ông vì thế cũng mang ý nghĩa của một biểu trưng hai mặt, hay nói như Nguyễn Đình Chiểu “Minh sinh chín chữ lòng son tạc, Trời đất từ nay bặt gió thu”, đó là sự buông xuôi của nhà chính khách bất lực mặc dù thông qua cách chuộc tội của bậc quân tử chí thành. Cái nhục mất thành mất đất của nhà Nguyễn, Phan Thanh Giản đã tình nguyện gánh chịu “Theo nghĩa thì thần phải chết, không dám tạm bợ sống mà để lại cái nhục cho quân phụ” (Di sớ). Nhưng nỗi khổ làm dân vong quốc của sĩ dân Lục tỉnh thì ông tự biết mình không sao gánh được “Minh sinh xin bỏ, nếu không xin đề Quan tài của người học trò già họ Phan ven biển nước Đại Nam, cũng lấy đó đề trên bia mộ”. Bi kịch của Phan Thanh Giản lúc còn sống vì vậy còn là sự phá sản về đạo đức của trật tự cũ, một trật tự không phản ảnh thực tiễn mà khẳng định tín điều.
Không phải chén độc dược nào cũng đắng. Năm Phan Thanh Giản bốn tuổi, Ngô Tòng Châu đã uống rượu độc tự tận ở thành Quy Nhơn. Chén rượu của Ngô được các nhà nho phù Nguyễn chống Tây Sơn đương thời ca ngợi về hiệu quả chính trị “Tận chước thuần thành thù họa loạn – Rót hết lòng thành mời họa loạn” (Lê Quang Định, Ngô Lễ bộ tửu) cũng như về ý nghĩa lịch sử “Thiên cổ công danh túy hậu hoàn – Say rồi, ngàn thuở vẹn công danh” (Trịnh Hoài Đức, Ngô Lễ bộ tửu). Còn chén độc dược của Phan Thanh Giản thì đắng ngắt nỗi đau bất lực và thất bại. Nhưng vị đắng mà chén rượu Xuân thu dành cho Phan Thanh Giản không chỉ có thế. Sau khi “nhắm mắt đi vào cơn trường dạ” (Đinh Hùng) năm 1867, ông vẫn có một cuộc đời không ngừng thăng trầm cùng vận nước. Từ bản án xử tội của triều đình Tự Đức năm 1868 tới sắc văn khai phục của triều đình Đồng Khánh năm 1885, các thế lực phi nghĩa luôn tiếp tục lợi dụng cái hành trạng chính trị đa diện và đa nghĩa này. Nhưng điều xót xa là năm 1963 giới sử học mácxít lại cường điệu sự khác biệt giữa Phan Thanh Giản với Trương Định, Nguyễn Hữu Huân mà quên đi sự khác biệt giữa ông với Trần Bá Lộc, Tôn Thọ Tường, thậm chí trong khi lẽ ra phải chống lại những kẻ lợi dụng lịch sử thì lại quay ra lên án Phan Thanh Giản... Và đến khi thấy cần sửa chữa sai lầm ấy, một nhà sử học nổi tiếng đã phải kê khai chi tiết công tội của Phan Thanh Giản theo hai hệ thống dựng nước và giữ nước như một báo cáo ưu khuyết điểm của “đương sự” để trình lên Ban Bí thư! Cái bi kịch sau khi chết của Phan Thanh Giản vì vậy còn là bi kịch của một hệ thống nhận thức luận và phương pháp luận sử học. Phát biểu trong cuộc Tọa đàm ngày 16 tháng 8 vừa rồi, nhà nghiên cứu Trần Bạch Đằng cũng nói “Một nhà sử học lớn như Trần Huy Liệu (người tổng kết cuộc Hội thảo về Phan Thanh Giản năm 1963 ở Hà Nội) không thể không biết điều đó (tức sự thành kiến với Phan Thanh Giản)”. Chính nghĩa cũng có những bất công của nó!
Từ 1975 đến nay, vẫn chưa có công trình nghiên cứu mới về Phan Thanh Giản nào được xuất bản ở Việt Nam. Dĩ nhiên việc tìm hiểu Phan Thanh Giản mà trọng tâm là tấn bi kịch của ông có phải là vấn đề khoa học cấp thiết cần đưa ra vào lúc này hay không là chuyện khác, nhưng chắc chắn nó phải được tiến hành một cách thật sự khoa học, nghĩa là trên một cơ sở tư liệu chính xác, toàn diện và nhất là với một thái độ nghiêm túc và không vụ lợi. Điều này có thể sẽ giúp Phan Thanh Giản tránh được cái chết lần thứ năm trong thời hội nhập. Bởi vì Phan Thanh Giản là một bi kịch của cả lịch sử lẫn sử học trong quá khứ, nhưng nếu không nhận thức và chia sẻ được bi kịch ấy thì đó là tấn bi kịch của chính chúng ta.
2.
Nếu mình nhớ không lầm thì hình như Cicero, một triết gia La Mã, từng bảo, sử là lửa của chân lý, là sinh mạng của ký ức, là người thầy của cuộc sống và là sứ giả của tiền nhân. Không phải ngẫu nhiên mà sử trở thành một ngành khoa học. Song thực tế cho thấy, sử đã và đang là một trong vài ba môn học mà thế hệ trẻ Việt Nam không muốn học. Vài năm qua, tỷ lệ điểm 0 môn sử trong các kỳ thi lên tới 80%, 90% đã trở thành vấn nạn chưa có giải pháp. Bao nhiêu phần trăm của vấn nạn này thuộc về sự áp đặt loại “sử” được viết, được dùng như công cụ duy trì vai trò “lãnh đạo Nhà nước và xã hội” của Đảng? Những người vẫn ra rả đòi “tôn trọng” loại “lịch sử đã được định hướng” này có dám nhận trách nhiệm khi đã và đang tạo ra những thế hệ không còn lửa của chân lý, không có ký ức, thiếu vắng người dạy, đứt gãy với tổ tiên, nguồn cội không?-Nguồn: Đồng Phụng Việt
- Đằng sau Bên Thắng Cuộc (DLB). – Bài phản biện lại bài viết của Minh Tâm, Quận 3, TPHCM (?) đăng trên báo SGGP:Nhân đọc Bên thắng cuộc của Huy Đức – Nguy hiểm của sự lập lờ. – Báo đảng: Bên Thắng Cuộc ‘phủ nhận thành tựu cách mạng’ (Người Việt).
-Nhân đọc Bên thắng cuộc của Huy Đức - Hãy tôn trọng lịch sử
Tôi được đọc Bên thắng cuộc của Huy Đức qua giới thiệu của một bạn thế hệ 7X, là con một gia đình Công giáo, mấy lần trầy trật chuyện vào Đảng, đang làm việc tại một cơ quan nhà nước. Nói về quyển sách, bạn trẻ này tỏ vẻ không hài lòng, chỉ gọn lỏn một câu: “Dẫu sao cũng phải tôn trọng lịch sử”. Nhiều trang mạng cũng đồn thổi đây là một quyển sách hay, đáng đọc. Có người nói đã đọc một hơi 9 tiếng liền với hơn 400 trang giấy. Còn tôi, nhìn qua các đề mục như “Cải tạo”, “Nạn kiều”…, tôi thơ thẩn mấy ngày vào lúc rỗi mới xem hết sách.
- Nhân đọc Bên thắng cuộc của Huy Đức - Nguy hiểm của sự lập lờ (SGGP) -LTS: Trong thời gian gần đây, sách Bên thắng cuộc của tác giả Huy Đức (đang tham dự một khóa tu nghiệp tại Đại học Harvard, Mỹ) đã xuất bản phát hành trên mạng, gây sự chú ý của công luận. Tác giả nhìn lại một giai đoạn lịch sử đã qua của nước ta từ sau ngày giải phóng, với góc nhìn phiến diện, thậm chí xuyên tạc, phủ nhận thành tựu cách mạng. Với ý thức tôn trọng lịch sử và có trách nhiệm với vận mệnh đất nước, nhiều bạn đọc Báo SGGP đã nêu ý kiến phản biện, bày tỏ chính kiến. Báo SGGP xin giới thiệu một số bài viết của bạn đọc nhận xét về cuốn sách này.
- Lê Diễn Đức: ĐÀN CÁ TRONG AO BÁC HỒ VÀ NHỮNG CON CHÓ CỦA PAVLOV (TNM). . – NGUYỄN MINH CẦN VÀ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM (TNM).
-Tôn trọng lịch sử?
Đồng Phụng Việt
Gần đây, sau sự kiện “Bên Thắng cuộc”, một số bác lại bắt đầu lải nhải về chuyện phải “tôn trọng lịch sử”. Không rõ loại “sử” mà các bác ấy đòi tôn trọng là do ai viết và viết để làm gì? Nếu vẫn là loại “sử” được dùng như công cụ duy trì vai trò “lãnh đạo Nhà nước và xã hội” của Đảng thì có “tôn trọng” hay không là tùy các bác, chỉ mong các bác đừng áp đặt, buộc mọi người phải tôn trọng nó.
Mình vốn không có chuyên môn về sử nên mạo muội mượn một bài của bác Cao Tự Thanh – người mà mình rất hâm mộ về kỹ năng nghiên cứu, khả năng tư duy, uy tín khoa học - thay cho lời giải thích về việc tại sao mình đề nghị đừng áp đặt, buộc mọi người phải tôn trọng thứ “lịch sử đã được định hướng”...
1.
Chén đắng rượu Xuân thu - Bi kịch của Phan Thanh Giản
Cao Tự Thanh
Là một nhân vật lịch sử có số phận khác thường, Phan Thanh Giản đã chết bốn lần. Lần thứ nhất là Phan uống thuốc độc tự tử. Lần thứ hai, Phan bị thực dân ám sát khi khen ông sáng suốt không chống lại Pháp. Lần thứ ba, Phan bị triều đình Tự Đức bức tử với bản án “truy đoạt tất cả chức hàm, đục tên trong bia Tiến sĩ, giữ mãi cái án trảm giam hậu”. Lần thứ tư là vào thời gian 1960 – 1963, khi chúng ta hạ quyết tâm dùng bạo lực cách mạng để giải phóng miền Nam, và nền sử học rời khỏi con đường dài phục vụ cách mạng mà đi vào con đường tắt phục vụ chính trị đương thời đã xử tử ông (cũng như phê phán những người yêu nước chủ trương không dùng bạo lực như Phan Châu Trinh), gây ra một công án đau lòng khiến những trí thức như Ca Văn Thỉnh đương thời day dứt và các chính khách như Võ Văn Kiệt hiện nay trăn trở.
Năm 1994 vấn đề Phan Thanh Giản lại được đặt ra trong Hội thảo khoa học ở Vĩnh Long, nhưng hầu như không có tiếng vang nào đáng kể. Các công trình cũ vẫn còn đó, các giáo trình cũ vẫn còn đó, quan niệm cũ vẫn còn ngự trị, tâm lý cũ vẫn còn tác động. Nhiều người không ngại khẳng định Phan Thanh Giản, mà sợ phản đối đồng chí và đồng nghiệp, cấp trên hay thầy học của mình. Cho nên đến cuộc Tọa đàm Thế kỷ 21 nhìn về nhân vật lịch sử Phan Thanh Giản do Hội Khoa học Lịch sử tổ chức ở Thành phố Hồ Chí Minh ngày 16 tháng 8 mới đây, cái số phận nhiều cay đắng mà ít vinh quang ấy lại một lần nữa được đưa ra mổ xẻ.
Trong cuộc Tọa đàm vừa qua, nhiều người đã khẳng định Phan Thanh Giản là một người yêu nước và thương dân. Thương dân có đồng nghĩa với trọng dân hay không ở các nhà nho xưa còn là chuyện phải bàn, nhưng uyên nguyên của tấn bi kịch lịch sử nơi Phan Thanh Giản là ở chỗ ông đã theo một cái học coi triều là nước. Cho nên lúc vua sợ giặc mà dân chống giặc, Phan Thanh Giản cũng dần dần rơi vào bế tắc trên một lập trường chính trị chiết trung. Vừa mong ái dân vừa muốn trung quân, cái tâm thế lưỡng phân này khiến từ 1859 Phan không kế thừa được một cách tích cực truyền thống yêu nước chống ngoại xâm của dân tộc Việt Nam và sau Hòa ước 1862 thì có nhiều hành động bất lợi cho phong trào chống Pháp “chẳng nghe Thiên tử chiếu”. Cho nên bi kịch lúc còn sống của Phan Thanh Giản trước hết là sự thất bại về trí tuệ của thế giới cũ, một thế giới già cỗi đang rúng động và từng bước giải thể trong quá trình tiếp xúc với cái thế giới mới sung sức, năng động và tàn nhẫn hơn tới từ phương Tây. Đây cũng là bi kịch của chế độ phong kiến Việt Nam thế kỷ XIX nói chung và nhà Nguyễn nói riêng, vì với một chính quyền thì sự bất lực trước nhiệm vụ thực tiễn luôn gắn liền với sự suy thoái về đạo đức chính trị. Dĩ nhiên trong chính trị thì không phải có tội lỗi hay sai lầm là không có tinh thần yêu nước, nên vẫn có thể nói Phan Thanh Giản là một người yêu nước ít nhất theo kiểu của ông.
Trong cuộc Tọa đàm vừa qua có một số người đi sâu khẳng định Phan trên phương diện đạo đức cá nhân, nhưng điều đó không có nhiều tác dụng trong việc đánh giá các nhân vật lịch sử, nhất là một nhân vật có hành trạng chính trị phức tạp như Phan Thanh Giản. Chín chữ “Đại Nam hải nhai lão thư sinh tính Phan” như một lá đơn từ chức gởi cho người đương thời và hậu thế của ông vì thế cũng mang ý nghĩa của một biểu trưng hai mặt, hay nói như Nguyễn Đình Chiểu “Minh sinh chín chữ lòng son tạc, Trời đất từ nay bặt gió thu”, đó là sự buông xuôi của nhà chính khách bất lực mặc dù thông qua cách chuộc tội của bậc quân tử chí thành. Cái nhục mất thành mất đất của nhà Nguyễn, Phan Thanh Giản đã tình nguyện gánh chịu “Theo nghĩa thì thần phải chết, không dám tạm bợ sống mà để lại cái nhục cho quân phụ” (Di sớ). Nhưng nỗi khổ làm dân vong quốc của sĩ dân Lục tỉnh thì ông tự biết mình không sao gánh được “Minh sinh xin bỏ, nếu không xin đề Quan tài của người học trò già họ Phan ven biển nước Đại Nam, cũng lấy đó đề trên bia mộ”. Bi kịch của Phan Thanh Giản lúc còn sống vì vậy còn là sự phá sản về đạo đức của trật tự cũ, một trật tự không phản ảnh thực tiễn mà khẳng định tín điều.
Không phải chén độc dược nào cũng đắng. Năm Phan Thanh Giản bốn tuổi, Ngô Tòng Châu đã uống rượu độc tự tận ở thành Quy Nhơn. Chén rượu của Ngô được các nhà nho phù Nguyễn chống Tây Sơn đương thời ca ngợi về hiệu quả chính trị “Tận chước thuần thành thù họa loạn – Rót hết lòng thành mời họa loạn” (Lê Quang Định, Ngô Lễ bộ tửu) cũng như về ý nghĩa lịch sử “Thiên cổ công danh túy hậu hoàn – Say rồi, ngàn thuở vẹn công danh” (Trịnh Hoài Đức, Ngô Lễ bộ tửu). Còn chén độc dược của Phan Thanh Giản thì đắng ngắt nỗi đau bất lực và thất bại. Nhưng vị đắng mà chén rượu Xuân thu dành cho Phan Thanh Giản không chỉ có thế. Sau khi “nhắm mắt đi vào cơn trường dạ” (Đinh Hùng) năm 1867, ông vẫn có một cuộc đời không ngừng thăng trầm cùng vận nước. Từ bản án xử tội của triều đình Tự Đức năm 1868 tới sắc văn khai phục của triều đình Đồng Khánh năm 1885, các thế lực phi nghĩa luôn tiếp tục lợi dụng cái hành trạng chính trị đa diện và đa nghĩa này. Nhưng điều xót xa là năm 1963 giới sử học mácxít lại cường điệu sự khác biệt giữa Phan Thanh Giản với Trương Định, Nguyễn Hữu Huân mà quên đi sự khác biệt giữa ông với Trần Bá Lộc, Tôn Thọ Tường, thậm chí trong khi lẽ ra phải chống lại những kẻ lợi dụng lịch sử thì lại quay ra lên án Phan Thanh Giản... Và đến khi thấy cần sửa chữa sai lầm ấy, một nhà sử học nổi tiếng đã phải kê khai chi tiết công tội của Phan Thanh Giản theo hai hệ thống dựng nước và giữ nước như một báo cáo ưu khuyết điểm của “đương sự” để trình lên Ban Bí thư! Cái bi kịch sau khi chết của Phan Thanh Giản vì vậy còn là bi kịch của một hệ thống nhận thức luận và phương pháp luận sử học. Phát biểu trong cuộc Tọa đàm ngày 16 tháng 8 vừa rồi, nhà nghiên cứu Trần Bạch Đằng cũng nói “Một nhà sử học lớn như Trần Huy Liệu (người tổng kết cuộc Hội thảo về Phan Thanh Giản năm 1963 ở Hà Nội) không thể không biết điều đó (tức sự thành kiến với Phan Thanh Giản)”. Chính nghĩa cũng có những bất công của nó!
Từ 1975 đến nay, vẫn chưa có công trình nghiên cứu mới về Phan Thanh Giản nào được xuất bản ở Việt Nam. Dĩ nhiên việc tìm hiểu Phan Thanh Giản mà trọng tâm là tấn bi kịch của ông có phải là vấn đề khoa học cấp thiết cần đưa ra vào lúc này hay không là chuyện khác, nhưng chắc chắn nó phải được tiến hành một cách thật sự khoa học, nghĩa là trên một cơ sở tư liệu chính xác, toàn diện và nhất là với một thái độ nghiêm túc và không vụ lợi. Điều này có thể sẽ giúp Phan Thanh Giản tránh được cái chết lần thứ năm trong thời hội nhập. Bởi vì Phan Thanh Giản là một bi kịch của cả lịch sử lẫn sử học trong quá khứ, nhưng nếu không nhận thức và chia sẻ được bi kịch ấy thì đó là tấn bi kịch của chính chúng ta.
2.
Nếu mình nhớ không lầm thì hình như Cicero, một triết gia La Mã, từng bảo, sử là lửa của chân lý, là sinh mạng của ký ức, là người thầy của cuộc sống và là sứ giả của tiền nhân. Không phải ngẫu nhiên mà sử trở thành một ngành khoa học. Song thực tế cho thấy, sử đã và đang là một trong vài ba môn học mà thế hệ trẻ Việt Nam không muốn học. Vài năm qua, tỷ lệ điểm 0 môn sử trong các kỳ thi lên tới 80%, 90% đã trở thành vấn nạn chưa có giải pháp. Bao nhiêu phần trăm của vấn nạn này thuộc về sự áp đặt loại “sử” được viết, được dùng như công cụ duy trì vai trò “lãnh đạo Nhà nước và xã hội” của Đảng? Những người vẫn ra rả đòi “tôn trọng” loại “lịch sử đã được định hướng” này có dám nhận trách nhiệm khi đã và đang tạo ra những thế hệ không còn lửa của chân lý, không có ký ức, thiếu vắng người dạy, đứt gãy với tổ tiên, nguồn cội không?-Nguồn: Đồng Phụng Việt
- Đằng sau Bên Thắng Cuộc (DLB). – Bài phản biện lại bài viết của Minh Tâm, Quận 3, TPHCM (?) đăng trên báo SGGP:Nhân đọc Bên thắng cuộc của Huy Đức – Nguy hiểm của sự lập lờ. – Báo đảng: Bên Thắng Cuộc ‘phủ nhận thành tựu cách mạng’ (Người Việt).
-Nhân đọc Bên thắng cuộc của Huy Đức - Hãy tôn trọng lịch sử
Tôi được đọc Bên thắng cuộc của Huy Đức qua giới thiệu của một bạn thế hệ 7X, là con một gia đình Công giáo, mấy lần trầy trật chuyện vào Đảng, đang làm việc tại một cơ quan nhà nước. Nói về quyển sách, bạn trẻ này tỏ vẻ không hài lòng, chỉ gọn lỏn một câu: “Dẫu sao cũng phải tôn trọng lịch sử”. Nhiều trang mạng cũng đồn thổi đây là một quyển sách hay, đáng đọc. Có người nói đã đọc một hơi 9 tiếng liền với hơn 400 trang giấy. Còn tôi, nhìn qua các đề mục như “Cải tạo”, “Nạn kiều”…, tôi thơ thẩn mấy ngày vào lúc rỗi mới xem hết sách.
Tôi viết bài này không nhằm để tranh luận hay bút chiến mà chỉ nói lên những suy nghĩ về dòng lịch sử mà tôi cũng như tác giả đã có dịp đi qua. Được biết tác giả trong độ tuổi 50, tức cùng thế hệ với tôi, và ngày anh nghe tin giải phóng miền Nam khi đang đánh vật nhau với bạn ven đồi cũng là ngày mà tôi và những người thân cùng bạn bè trong xóm nghèo kéo nhau đến “hôi” từng lon bơ, hộp sữa, thanh pho mát… trong kho hàng Mỹ ở bên kia chân cầu Sài Gòn rồi lại kéo ngược về kho gạo cạnh dinh tỉnh trưởng Gia Định (nay là UBND quận Bình Thạnh) để chen nhau mỗi người kiếm vài chục ký khuân về nhà.
Trước đó, những ngày anh còn đi học hay nô đùa ở quê nhà miền Bắc cũng là dạo tôi được người anh cả chở ra quận 1 xem “ký giả đi ăn mày”, xem sinh viên biểu tình... Đó cũng là dạo những đêm tối trời, mưa rả rích, mật vụ ở bót Hàng Keo kéo vào lùng sục xóm Long Vân Tự, rồi vào đồng Ông Cộ (nay là đường Bùi Đình Túy) để tìm “Việt cộng” đêm trước mới treo cờ giải phóng…
Giải phóng và cách mạng đối với tôi thật mới mẻ. Anh chị tôi đi thanh niên xung phong, còn tôi ở nhà nộp sổ xếp hàng để mua bo bo, bột mì; lân la qua nhà bác bị niêm phong vì “đánh tư sản” để hóng chuyện; chen nhau mua cân thịt, xấp vải tiêu chuẩn; nghe những người bạn học ở trường Võ Thị Sáu kể chuyện gia đình đang kiếm “cây” để đi vượt biên… Có lẽ tôi còn rành rẽ chuyện sau ngày giải phóng Sài Gòn hơn cả tác giả Bên thắng cuộc, bởi dấu ấn những tháng ngày khó khăn ấy tôi và hàng triệu người dân thành phố này đã từng trải qua và vẫn còn in trong ký ức. Đó là những tháng ngày chòi đạp, thậm chí là đau thương. Bạn tôi vượt biên, cả lớp ngẩn ngơ, rồi cũng lại ân cần chia sẻ nhau những vất vả thời bao cấp, vẫn cắp cặp đến trường, và ngày nay không ít người đã thành đạt. Với ai đó, xa Tổ quốc hay không quan tâm đến thời cuộc thì Bên thắng cuộc như một bữa tiệc tư liệu ngồn ngộn, thấy ngon vì mới ăn lần đầu. Còn với những người đã đi qua dòng chảy lịch sử ấy, dường như đó chỉ là ký ức của quá khứ, là nỗi đau của vết thương chiến tranh chưa dễ gì khép miệng, lành lặn ngày một ngày hai, không có gì mới mẻ, thậm chí dễ gây hoài nghi do cách viết, cách nhìn nhận một chiều, một phía và khó có thể kiểm chứng về mặt tư liệu.
Tôi chỉ thật sự hiểu về cách mạng khi có dịp đến thăm nhà tù Côn Đảo, Phú Quốc, đi thăm lại đường Trường Sơn... Hòa bình, bao gia đình hội ngộ mừng vui trong nước mắt, nhưng không gian nghĩa trang Hàng Dương vẫn lặng lẽ bao nấm mồ với hai chữ “Vô danh”. Những chuồng bò, chuồng cọp vẫn còn loang lổ vết máu của những người tù do đòn thù, trên tường vẫn còn in đậm câu thơ của những người chưa hề biết điện thoại di động, nhà lầu xe hơi, sẵn sàng hy sinh xương máu của mình cho thế hệ tương lai “bước lên lầu tự do”. Và còn đó những cựu tù sống trong tàn phế của thể xác, bệnh tật vì hậu quả của những đêm tra tấn. Còn đó tượng đài sừng sững của 10 cô gái Đồng Lộc, của hang Tám Cô hiu quạnh một bát nhang. Còn đó hình ảnh chị Năm Hồng quên ăn mất ngủ, băng rừng lội suối đi tìm hài cốt đồng đội. Còn đó nỗi trăn trở của một Nguyễn Ngọc Hoài trong “Một thế giới khác” khi chưa tìm ra hài cốt liệt sĩ. Nên hiểu thế nào về sự hy sinh ấy? Chắc chắn sự hy sinh ấy không vô nghĩa, hơn thế càng khiến cho thế hệ sau phải khâm phục, ghi tâm khắc cốt.
Giải phóng và cách mạng đối với tôi thật mới mẻ. Anh chị tôi đi thanh niên xung phong, còn tôi ở nhà nộp sổ xếp hàng để mua bo bo, bột mì; lân la qua nhà bác bị niêm phong vì “đánh tư sản” để hóng chuyện; chen nhau mua cân thịt, xấp vải tiêu chuẩn; nghe những người bạn học ở trường Võ Thị Sáu kể chuyện gia đình đang kiếm “cây” để đi vượt biên… Có lẽ tôi còn rành rẽ chuyện sau ngày giải phóng Sài Gòn hơn cả tác giả Bên thắng cuộc, bởi dấu ấn những tháng ngày khó khăn ấy tôi và hàng triệu người dân thành phố này đã từng trải qua và vẫn còn in trong ký ức. Đó là những tháng ngày chòi đạp, thậm chí là đau thương. Bạn tôi vượt biên, cả lớp ngẩn ngơ, rồi cũng lại ân cần chia sẻ nhau những vất vả thời bao cấp, vẫn cắp cặp đến trường, và ngày nay không ít người đã thành đạt. Với ai đó, xa Tổ quốc hay không quan tâm đến thời cuộc thì Bên thắng cuộc như một bữa tiệc tư liệu ngồn ngộn, thấy ngon vì mới ăn lần đầu. Còn với những người đã đi qua dòng chảy lịch sử ấy, dường như đó chỉ là ký ức của quá khứ, là nỗi đau của vết thương chiến tranh chưa dễ gì khép miệng, lành lặn ngày một ngày hai, không có gì mới mẻ, thậm chí dễ gây hoài nghi do cách viết, cách nhìn nhận một chiều, một phía và khó có thể kiểm chứng về mặt tư liệu.
Tôi chỉ thật sự hiểu về cách mạng khi có dịp đến thăm nhà tù Côn Đảo, Phú Quốc, đi thăm lại đường Trường Sơn... Hòa bình, bao gia đình hội ngộ mừng vui trong nước mắt, nhưng không gian nghĩa trang Hàng Dương vẫn lặng lẽ bao nấm mồ với hai chữ “Vô danh”. Những chuồng bò, chuồng cọp vẫn còn loang lổ vết máu của những người tù do đòn thù, trên tường vẫn còn in đậm câu thơ của những người chưa hề biết điện thoại di động, nhà lầu xe hơi, sẵn sàng hy sinh xương máu của mình cho thế hệ tương lai “bước lên lầu tự do”. Và còn đó những cựu tù sống trong tàn phế của thể xác, bệnh tật vì hậu quả của những đêm tra tấn. Còn đó tượng đài sừng sững của 10 cô gái Đồng Lộc, của hang Tám Cô hiu quạnh một bát nhang. Còn đó hình ảnh chị Năm Hồng quên ăn mất ngủ, băng rừng lội suối đi tìm hài cốt đồng đội. Còn đó nỗi trăn trở của một Nguyễn Ngọc Hoài trong “Một thế giới khác” khi chưa tìm ra hài cốt liệt sĩ. Nên hiểu thế nào về sự hy sinh ấy? Chắc chắn sự hy sinh ấy không vô nghĩa, hơn thế càng khiến cho thế hệ sau phải khâm phục, ghi tâm khắc cốt.
Nhiều đêm tôi tự nhủ: Đua chen trong cuộc sống vật chất, chúng ta vẫn còn có lỗi khi chưa đưa được các anh các chị về với quê hương, gia đình. Gần 40 năm hòa bình, xương cốt các anh các chị vẫn còn phải nằm đâu đó trong rừng Trường Sơn hay trên đất bạn Lào, Campuchia. Những mẩu tin nhắn con tìm cha, vợ tìm chồng, anh tìm em… vẫn còn xuất hiện trên đài như một nỗi đau ray rứt lòng người. Nên hiểu thế nào về những đau thương - mất mát - thiệt thòi này?
Có thể lúc này lúc khác, Đảng có sai lầm. Cuộc sống khó khăn, đôi khi tôi cũng mất lòng tin vào đường lối của Nhà nước. Nhưng đó là một chuyện khác, không thể “vơ đũa cả nắm”, phủ nhận những hy sinh cống hiến của những người đi trước cho cuộc chiến vĩ đại của dân tộc. Tôi càng tâm đắc với nhận định của tác giả Nguyễn Đức Hiển (báo Pháp Luật TPHCM) khi cho rằng: “Để có bản tin giải phóng trên loa phóng thanh mà cậu bé 13 tuổi nghe khi đang vật nhau với bạn ven đồi, phải trả giá bằng trăm ngàn mất mát, đau thương, chứ không đơn giản chỉ là việc húc đổ cổng Dinh Độc lập và cắm cờ trên nóc”. Cần đánh giá trung thực và công bằng với lịch sử!
Một điều quan trọng: Nhìn lại quá khứ của cuộc chiến tranh, xin đừng xem đây là cuộc chiến của 2 người anh em Nam - Bắc để khoét sâu chia rẽ, vì đây là cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại của cả dân tộc. Tôn trọng lịch sử, khép lại quá khứ, nhìn về tương lai là thái độ đúng đắn và cần thiết hiện nay. Lời tâm tình của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang trong bài viết “Mãi mãi là sao sáng dẫn đường” mới đây có lẽ cũng là suy nghĩ, tâm tư của hàng chục triệu người Việt Nam hiện nay: “Thái độ cần thiết hiện nay, dù có khác biệt nào chăng nữa, thì tất cả các giai tầng xã hội, các tầng lớp nhân dân cần hành động với một động cơ duy nhất, đó là vì lợi ích của dân tộc, vì sự ổn định chính trị, vì sự bình yên của xã hội để làm ăn và phát triển kinh tế, cần đẩy mạnh hơn nữa quá trình đại đoàn kết, hòa giải và hòa hợp dân tộc. Mọi hành động phá hoại mục đích đó hoặc khoét sâu thêm những bất đồng để đẩy đất nước đến bờ vực của sự hỗn loạn phải bị loại trừ và lên án… Sức mạnh của chúng ta phải là sức mạnh của lòng dân, của tinh thần đoàn kết, nhất trí toàn dân tộc. Đất nước sẽ không thể đứng vững bởi sự chia rẽ. Sự chia rẽ dân tộc chính là cơ hội cho những kẻ xâm lược”.
Có thể lúc này lúc khác, Đảng có sai lầm. Cuộc sống khó khăn, đôi khi tôi cũng mất lòng tin vào đường lối của Nhà nước. Nhưng đó là một chuyện khác, không thể “vơ đũa cả nắm”, phủ nhận những hy sinh cống hiến của những người đi trước cho cuộc chiến vĩ đại của dân tộc. Tôi càng tâm đắc với nhận định của tác giả Nguyễn Đức Hiển (báo Pháp Luật TPHCM) khi cho rằng: “Để có bản tin giải phóng trên loa phóng thanh mà cậu bé 13 tuổi nghe khi đang vật nhau với bạn ven đồi, phải trả giá bằng trăm ngàn mất mát, đau thương, chứ không đơn giản chỉ là việc húc đổ cổng Dinh Độc lập và cắm cờ trên nóc”. Cần đánh giá trung thực và công bằng với lịch sử!
Một điều quan trọng: Nhìn lại quá khứ của cuộc chiến tranh, xin đừng xem đây là cuộc chiến của 2 người anh em Nam - Bắc để khoét sâu chia rẽ, vì đây là cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại của cả dân tộc. Tôn trọng lịch sử, khép lại quá khứ, nhìn về tương lai là thái độ đúng đắn và cần thiết hiện nay. Lời tâm tình của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang trong bài viết “Mãi mãi là sao sáng dẫn đường” mới đây có lẽ cũng là suy nghĩ, tâm tư của hàng chục triệu người Việt Nam hiện nay: “Thái độ cần thiết hiện nay, dù có khác biệt nào chăng nữa, thì tất cả các giai tầng xã hội, các tầng lớp nhân dân cần hành động với một động cơ duy nhất, đó là vì lợi ích của dân tộc, vì sự ổn định chính trị, vì sự bình yên của xã hội để làm ăn và phát triển kinh tế, cần đẩy mạnh hơn nữa quá trình đại đoàn kết, hòa giải và hòa hợp dân tộc. Mọi hành động phá hoại mục đích đó hoặc khoét sâu thêm những bất đồng để đẩy đất nước đến bờ vực của sự hỗn loạn phải bị loại trừ và lên án… Sức mạnh của chúng ta phải là sức mạnh của lòng dân, của tinh thần đoàn kết, nhất trí toàn dân tộc. Đất nước sẽ không thể đứng vững bởi sự chia rẽ. Sự chia rẽ dân tộc chính là cơ hội cho những kẻ xâm lược”.
VĂN SÁCH (Bình Thạnh, TPHCM)
- Nhân đọc Bên thắng cuộc của Huy Đức - Nguy hiểm của sự lập lờ (SGGP) -LTS: Trong thời gian gần đây, sách Bên thắng cuộc của tác giả Huy Đức (đang tham dự một khóa tu nghiệp tại Đại học Harvard, Mỹ) đã xuất bản phát hành trên mạng, gây sự chú ý của công luận. Tác giả nhìn lại một giai đoạn lịch sử đã qua của nước ta từ sau ngày giải phóng, với góc nhìn phiến diện, thậm chí xuyên tạc, phủ nhận thành tựu cách mạng. Với ý thức tôn trọng lịch sử và có trách nhiệm với vận mệnh đất nước, nhiều bạn đọc Báo SGGP đã nêu ý kiến phản biện, bày tỏ chính kiến. Báo SGGP xin giới thiệu một số bài viết của bạn đọc nhận xét về cuốn sách này.
Chỉ phần 1 Bên thắng cuộc (Giải phóng) của tác giả Huy Đức thôi, tư liệu đã ngồn ngộn, hiếm có tài liệu nào phong phú như thế. Tác giả đã sưu tầm, tra cứu, tìm hiểu và cung cấp những thông tin được cho là hàng hiếm, hàng “độc”. Nhưng đọc kỹ những gì tác giả thể hiện trong tác phẩm, người đọc có quyền nghi ngờ.
1. Xuyên suốt quyển sách, tác giả cố làm cho rõ ràng những chuyện của bên thắng cuộc. Tác giả không gọi tên “bên thua cuộc” nhưng với những gì thể hiện trong cuốn sách thì không thể không có câu hỏi được đặt ra: Bên còn lại là gì nếu không phải là “bên thua cuộc”? Và “bên thua cuộc” là ai? Với những gì trong tập sách, dường như tác giả muốn nói đến chính những người đồng bào của mình - như một sự mặc định?
Ở điểm này, tôi có hai điều băn khoăn. Thứ nhất, trong sách tuy Huy Đức không nhắc gì đến “bên thua cuộc” thực sự nhưng dường như tác giả đã lẫn lộn hoặc cố tình lập lờ về bản chất của cuộc chiến tranh tại Việt Nam những năm 1954 - 1975. Đó là một cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ, từ việc dựng lên chính quyền tay sai rồi đến trực tiếp đưa quân tham chiến. Chiến thắng năm 1975 thực sự là chiến thắng của dân tộc Việt Nam đối với chủ nghĩa thực dân mới của Mỹ. Đế quốc Mỹ sau nhiều năm can thiệp trực tiếp hoặc gián tiếp, hao tốn nhiều tiền của và sinh mạng, đồng thời cũng gây bao nhiêu đau thương, mất mát cho dân tộc ta, chính là kẻ thua cuộc. Thứ hai, tác giả đã “xô” tất cả những người vốn là nạn nhân - gián tiếp hoặc trực tiếp - của chế độ thực dân mới ở miền Nam Việt Nam vào “bên thua cuộc”. Dường như Huy Đức đã để cho người đọc thấy rằng những người đó đã “ngoi ngóp” với những sự kiện chính trị - kinh tế - xã hội của đất nước bấy giờ. Kỳ thực, tất cả không hoàn toàn như Huy Đức thể hiện.
Chúng ta đều biết có những cá nhân trưởng thành, thành danh từ chế độ cũ và tài năng đã thăng hoa sau ngày thống nhất đất nước. Diễn viên điện ảnh Nguyễn Chánh Tín là một thí dụ. Anh thực sự được mọi người nhớ đến với vai chính Nguyễn Thành Luân - hình tượng nghệ thuật của nhà tình báo Phạm Ngọc Thảo - trong bộ phim “kinh điển” Ván bài lật ngửa. Hay nhà kinh tế học, một nhân sĩ rất nổi tiếng là Tiến sĩ Nguyễn Xuân Oánh (1921 - 2003), người từng 2 lần làm quyền Thủ tướng của chế độ Sài Gòn, sau này trở thành đại biểu Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, là cố vấn kinh tế cho các nhà lãnh đạo hàng đầu đất nước như Nguyễn Văn Linh, Võ Văn Kiệt…
Chúng ta cũng đều nhớ rằng sau ngày 30-4-1975, khi Tổng Bí thư Lê Duẩn vào Sài Gòn, vừa xuống thang máy bay, ông nắm tay đưa lên cao, nói với giọng đầy cảm xúc: “Đây là thắng lợi của cả dân tộc, không phải của riêng ai”. Vâng, đối với người Việt Nam, đây là một thắng lợi chung của cả dân tộc chứ không phải thắng lợi của ai đó và số khác bị thua cuộc. Nhìn lại suốt cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc, hầu như gia đình nào cũng có mất mát. Rất nhiều gia đình có người theo bên này hoặc bên kia, ngay cả sự đối đầu nhau về ý thức hệ, về chiến tuyến cũng đã là mất mát. Rồi tính mạng và tài sản, tự do và hạnh phúc…, buộc người ta phải lựa chọn, đánh đổi ở hầu hết các gia đình tại miền Nam.
Không chỉ vậy, rất nhiều đàn ông hiện tuổi từ 60 trở lên, trước năm 1975 đã phải hủy hoại thân thể để tránh đi quân dịch, người chặt ngón tay, kẻ làm hỏng mắt… Cũng có không ít người khác đã đi quân dịch rồi phải tự hủy hoại thân thể của mình để được giải ngũ hoặc chỉ để được… ở tù nhằm tránh phải hy sinh vô nghĩa cho chiến tranh dù họ là những người được trả lương cao, được “trang bị tận răng”. Họ đều là nạn nhân của chiến tranh. Và, khi chiến tranh kết thúc, mọi người đều vui mừng, bởi người ta không còn lo bị bom rơi đạn lạc, không trở thành nạn nhân của những vụ thảm sát kiểu Sơn Mỹ, Thạnh Phong, không phải tự hủy mình để khỏi đi quân dịch…
Lẽ nào ngày kết thúc chiến tranh, họ lại là người thua cuộc?
2. Xuyên suốt trong quyển sách, có vẻ như Huy Đức chỉ thuần túy nêu sự kiện, không bình luận; nếu có bình luận thì chỉ dẫn lời của ai đó, với nguồn dẫn chứng rõ ràng, cụ thể, mà như muốn cho người đọc thấy sự khách quan, không định kiến, không phiến diện của tác giả. Thế nhưng, dù cố “giấu mình” nhưng qua chính những sự kiện trong cuốn sách, bằng góc độ tiếp cận thông tin, lựa chọn, xử lý thông tin và trình bày ra cho người đọc các chi tiết của sự kiện, của thông tin đó, tự bản thân nó đã thể hiện quan điểm, ý đồ của người viết.
Các sự kiện trong Bên thắng cuộc thường xuyên và liên tục được thể hiện theo cách thức đó. Qua những sự kiện, những tư liệu phục vụ cho ý đồ của mình, tác giả đã cho người đọc thấy một màu rất tối cho cả quãng đường mấy mươi năm sau ngày thống nhất đất nước. Chẳng hạn, tác giả nói khá nhiều về vấn đề “học tập cải tạo” của những người làm việc cho chế độ cũ, việc “cải tạo tư sản”, “cải tạo công thương nghiệp”… Nhưng nếu chỉ nhìn một mặt của vấn đề thì tất yếu là chưa đầy đủ, chủ quan, phiến diện. Và, với một số sai lầm, hạn chế, không hoàn toàn do chủ trương chung mà do nhận thức, cách hành xử (sự hăng hái quá mức trong khi lại khá ấu trĩ…) của một số cán bộ, đảng viên thừa hành lúc bấy giờ.
Do đó, vì không có quan điểm lịch sử cụ thể, không có cái nhìn bao quát, toàn diện, cộng với ý đồ không thực sự trong sáng, thể hiện bằng một sự lập lờ, tác giả đã cố ý gây ngộ nhận cho người đọc. Sự ngộ nhận đó thật nguy hiểm!
3. Châm ngôn có câu: Một nửa ổ bánh mì là bánh mì, một nửa sự thật thì không phải là sự thật. Thế nên những “sự thật” được trưng ra trong Bên thắng cuộc theo cách của tác giả không khỏi khiến người ta nghi ngờ về tính trung thực, khách quan của nó. Có thể diễn đạt thế này: trong một chuỗi các sự kiện, người nào quan tâm đến chi tiết nào hoặc chi tiết nào thấy có lợi cho mình, đúng với ý đồ của mình thì bóc tách chi tiết đó ra và xem đó là toàn bộ sự kiện, toàn bộ sự thật. Khi đó, sự chính xác của chi tiết không đảm bảo cho tính khách quan và đúng đắn của sự kiện. Lẽ dĩ nhiên, không thể có sự thật kiểu như thế. Lắm lúc, nó còn trở nên giả dối.
Lê Quang Liễn, một thiếu tá của quân đội chế độ Sài Gòn, trong bức thư phản đối Huy Đức (được đăng trên nhiều trang mạng) đã viết: “Một nhà báo chân chính phải viết cho sự thật, vì lương tâm thì đừng bao giờ gán, chụp cho những người vắng mặt những gì vì lợi ích cho bản thân, phe nhóm”. Nhưng trên thực tế, theo logic của sự “cắt cúp” sự kiện theo ý đồ riêng của tác giả, thì ngay cả ý kiến của những người “có mặt” cũng khiến người đọc có quyền nghi ngờ các trích dẫn.
Vì vậy, dù trưng ra nguồn từ những tài liệu được cho là đáng tin cậy, ý kiến của nhiều nhân vật có uy tín, khi đọc Bên thắng cuộc, người ta không rõ được đâu là “sự thực tuyệt đối” (tức là có đầy đủ các chi tiết của sự kiện) và đâu là “sự thực tương đối” (chỉ có một vài chi tiết của sự kiện), cứ hư hư thực thực. Mà chính cái hư hư thực thực đó làm nên sự lập lờ khiến tác phẩm thực sự nguy hiểm. “Sự thực tương đối” với một dụng ý thiếu trong sáng có thể gây nhiều điều nguy hại, bởi nó đem đến trong nhận thức người đọc sự sai lệch cả về hình thức lẫn bản chất.
Đọc cuốn sách, người ta bị chìm trong sự nghi ngờ năng lực lãnh đạo của Đảng, năng lực điều hành của Nhà nước. Thế nhưng, có một sự thực hiển nhiên không ai có thể phủ nhận: trong hoàn cảnh bị bao vây, cấm vận, bị các thế lực thù địch công kích trên nhiều mặt trận, cả quân sự, chính trị, kinh tế, ngoại giao, cả ở biên giới Tây Nam lẫn biên giới phía Bắc, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta giữ vững ổn định chính trị, đẩy lùi các cuộc tấn công quân sự, nâng dần vị thế chính trị của đất nước.
Cho nên, cần thấy cả điểm và diện, thấy cả cây và rừng thì mới thuyết phục được người đọc. Cũng như người đọc phải đọc được cả các chi tiết của sự kiện thì mới có thể khẳng định đâu là sự thật.
------------------
- Bài tiếp theo: Hãy tôn trọng lịch sử!
Minh Tâm (Quận 3, TPHCM)- Nhân đọc Bên thắng cuộc của Huy Đức – Nguy hiểm của sự lập lờ (SGGP).