Thứ Năm, 2 tháng 5, 2013

Sự giẫy chết của một thành phố

Lữ Giang

 

Chúng tôi đã nhiều lần nói đến cuốn “Decent Interval (Một khoảng cách vừa phải) của Frank Snepp, Trưởng phân tích chiến lược của CIA (CIA’s Chief Stratery Analyst) ở Sài Gòn. Một số người không thích ông vì ông đã đưa ra những sự thật quá phũ phàng. Hôm nay nhân kỷ niệm 38 năm ngày mất miền Nam, chúng tôi xin giới thiệu một đoạn nói về “Sự rẫy chết của một thành phố” trong cuốm Vietnam, qu'as tu fait de tes fils?” của Pierre Darcourt, một ký giả Pháp, do Albotro ấn hành năm 1976, được Đại Tá Dương Hiếu Nghĩa (nay là thiền sư Không Như) dịch là “Việt Nam Quê Mẹ Oan Khiên”. Bản dịch này đã được nhà xuất bản Tiếng Quê Hương ấn hành năm 2007.

Frank Snepp là một nhà phân tích tình báo nên biết nhiều bí mật liên quan đến quyết định của Hoa Kỳ về số phận của VNCH, còn Pierre Darcourt là một ký giả, ông chỉ ghi lại những điều mắt thấy tai nghe. Ngoài cuốn “Vietnam, qu'as tu fait de tes fils” ông còn viết hai cuốn khác về Việt Nam, đó là cuốn “De Lattre Au Viet-Nam. Une Année De Victoires (Tướng De Lattre tại Việt Nam. Một năm của những chiến thắng) và cuốn Bay Vien Le Maitre De Cholon (Bảy Viễn, người chủ của Chợ Lớn). Nhờ đọc cuốn này chúng tôi mới biết được tương quan giữa Bảy Viễn và Bảo Đại. Không đọc thì không hiểu được tại sao ngày 12.8.1954 Hội Đồng An Ninh Quốc Gia Hoa Kỳ đã phải ban hành nghị quyết số NSC 2429  truất phế Bảo Đại một cách hợp pháp (legally dethrone Bao Dai). Chính vì mấy chữ "legally dethrone", ông Diệm phải tổ chức truất phế Bảo Đại lần thứ hai bằng trưng cầu dân ý. Đừng nghĩ rằng có thể dùng vọng ngữ để sửa đổi sử liệu.

Vì đoạn nói về ngày 29.4.1975 khá dài, chúng tôi chỉ trích dẫn phần chính. Độc giả nào muốn biết thêm, xin tìm mua sách để đọc.

 

SỰ RẪY CHẾT CỦA MỘT THÀNH PHỐ

Ký giả Pierre Darcourt viết:

 

"Từ thứ hai 29/4, Tổng Thống Ford đã có một buổi họp khẩn cấp với Hội Đồng An Ninh Quốc Gia.

Cầu Không Vận đã được thiết lập để di tản người Mỹ và người Việt Nam từ phi trường Tân sơn Nhứt đã bị ngưng trệ: nhiều loạt rốc kết và đạn pháo nặng 130 ly, kể cả bom, đã được nã vào căn cứ Không quân lớn nhất nầy. Ngoài 11 chiếc phi cơ của Miền Nam bị phá hủy do bị dội bom vừa qua, còn có 1 chiếc phi cơ vận tải C.130 của Hoa Kỳ bị cháy dưới đất. Một chiếc trực thăng của Miền Nam chở 40 binh sĩ Dù trên đường bay đi Tây Ninh đã bị trúng một hỏa tiển, bị nổ tung và cháy trên không thật khủng khiếp

Có nhiều đạn rốc kết đã rơi vào Chợ Lớn, một thành phố mà cư dân hầu hết là người Hoa kiều, nằm sát Sài Gòn. Một phóng pháo oanh tạc cơ Skyraider có nhiệm vụ đánh bom vào các vị trí của các đơn vị cộng sản Bắc Việt ở 7 cây số về hướng Tây Bắc Sài Gòn đã bị trúng một hỏa tiển tầm nhiệt S.A.7. của cộng sản. Và có nhiều cuộc chạm súng thật dữ dội đang diễn ra trong vùng ngoại ô thành phố.

Hoa Thạnh Đốn không còn thời gian chờ đợi nữa. Và Tổng Thống Ford đã ra lệnh cho Hạm Đội VII tiến hành ngay cuộc hành quân di tản.

Vào lúc 11 giờ trưa ngày thứ ba nầy, thủ đô Sài Gòn thật là hỗn độn không tả được.

Người Pháp cư ngụ ở các khu nằm ở chung quanh thủ đô cũng đã bị "sơi" đạn pháo binh cộng sản nên họ phải đổ dồn về trung tâm Thủ đô tìm ở với bạn bè đồng hương, vì không thể vào tạm trú ở trường trung học Saint Exupéry theo đúng chỉ thị trước đây của tòa Đại sứ Pháp được. Vị hiệu trưởng trường nầy đúng ra phải chịu trách nhiệm đón tiếp những người Pháp nầy nhưng ông lại không nhận họ, viện cớ là "không có đủ dự trữ nước uống và lương thực để bảo đảm sự sống cho họ".

Tất cả những người Pháp cư ngụ ở thủ đô gồm các giáo chức, các nhà trồng tỉa đã rút về đây, các nhà buôn, chủ tiệm ăn hay giám đốc xí nghiệp, đều đã treo cờ Pháp trước nhà ở, văn phòng, tiệm tùng v.v.. Có nhiều người Việt Nam bắt chước họ. Tất cả đều tin rằng lá cờ tam tài của Pháp có thể cứu được sanh mạng và tài sản của họ nếu có xảy ra những cuộc đánh nhau trên các đường phố. Và bất thình lình cờ xanh trắng đỏ được treo rợp trời vào những giờ bi thảm của một sự sụp đổ nầy đã làm cho một vài khu vực của thành phố có một bộ mặt lạ lùng khác thường của một ngày lễ 14 tháng 7 của Pháp. Nhưng hỡi ôi! đây chỉ là một ảo ảnh! một ảo ảnh quá đau lòng che đậy những dấu hiệu lo âu sợ sệt đang tràn ngập cả thủ đô Miền Nam vốn đang rơi vào tình trạng vô trật tự và vô Chánh Phủ.

Trên xa lộ Biên Hòa trước khi đến cầu Sài Gòn mà gần đó là những căn cứ tối tân nhất của bến Tân Cảng, có 50 binh sĩ Dù dưới sự điều động và chỉ huy của một đại úy, đang đánh nhau từ chiều thứ hai với một toán đặc công để cố ngăn cản không cho họ đến được dạ cầu. Đặc công cộng sản đã 5 lần chiếm được cầu và cả 5 lần binh sĩ Dù đã chiếm lại cầu. Trên 50 xác cộng sản Bắc Việt nằm đầy trên đường, mình mẩy đầy vết đạn, gần như họ đã chết rồi mà vẫn còn bị tiếp tục ăn đạn của binh sĩ Miền Nam quá hăng say và quá cẩn thận!

Bất chấp chiến trận đang diễn ra, một đám đông dân chúng, đông như một đàn kiến đếm không xuể, đã tràn vào chiếm các kho hàng của Tân Cảng để cướp bóc hôi của. Đó là đám dân đen khốn khổ ở các đồng lầy, đói khát, và háu ăn. Họ chia ra làm 2 đoàn rõ rệt, những người mới tới, tay không, và những người trở về mang đầy chiến lợi phẩm. Năm trăm người? một triệu người? Không một ai có thể đếm được một cách chính xác, phần lớn là đàn bà và trẻ nít, có rất ít đàn ông... họ càn quét đủ mọi thứ các kho đầy ấp hàng viện trợ Mỹ.

Đám đông xô đẩy nhau để chạy đến nơi cướp bóc, giẫm bừa lên các xác chết của bọn đặc công cộng sản làm bật lên tiếng kêu răn rắc của xương gãy như cành cây khô! Để trở về, đám đông dân chúng nầy phải vượt qua sông, lội lõm bõm trong bùn. Một em bé khoảng 10 tuổi đầu toàn thân đầy bùn đen và thối, nhưng tay vẫn đưa cao một bó cao su xốp rửa chén! Hai bé gái khá hơn quần áo cũng đầy bùn sình, mang một số nấm, pa tê và trái cây đóng hộp. Một người đàn bà thu nhặt được hai bịch thuốc lá thơm và một máy xây sinh tố. Một anh bạn khác thì khệ nệ bê một cách khó khăn một thùng sốt cà chua.

Một "chợ chồm hổm" được tổ chức ngay bên đường: người ta mua bán, trao đổi trong cơn sốt tiền bạc ngay trong một ngày có quá nhiều khủng khoảng quân sự lẫn chánh trị.

Binh sĩ trên các quân xa phải bắn chỉ thiên mới vạch được lối đi cho đoàn xe.

Tấn thảm kịch sấp buông màn, chấm dứt. Còn chưa phải là một sự hoãng loạn nhưng là một cuộc tháo chạy toàn bộ...

Từ sáng nay, không một nhà báo nào còn được một tin tức gì từ giới chức có "thẩm quyền quân sự" về tình hình, vì một lẽ rất đơn giãn là các giới chức nầy không còn ở đó nữa hoặc họ đã bị "mất chức" không biết lúc nào.Tướng Minh đã cách chức tướng Bình, Tổng giám đốc Cảnh Sát và An ninh quân đội. Kết quả là sáu chục ngàn (60.000)cảnh sát và mười ngàn cảnh sát đặc biệt (10.000, hầu hết là các binh sĩ có tuổi từ các binh đoàn thiện chiến), đang kiểm soát thủ đô, đã không còn ai để chỉ huy và ra lệnh cho họ. Vị Tổng Tham mưu trưởng quân đội Miền Nam được thay đổi 3 lần trong vòng 24 giờ đồng hồ. Ngày hôm kia là tướng Cao văn Viên, nhưng ông đã ra đi cùng vị Tham mưu phó lẽ ra phải thay thế ông mới đúng. Ngày hôm qua là tướng Nguyễn văn Minh, nhưng ông chỉ ngồi đó có mấy giờ trước khi xách va li chuồn mất. Chiều hôm qua là tướng Thiết giáp Vĩnh Lộc, một cây rượu mạnh, anh em họ hàng với cựu hoàng đế Bảo Đại. Ông ta đã cổ võ binh sĩ trên đài phát thanh và yêu cầu họ đừng "chạy như chuột giống như Tổng Thống Thiệu". Nằm gần sân bay Tân sơn Nhứt, là Bộ Tổng Tham Mưu nhưng giờ nầy rất là vắng vẻ, chỉ thấy còn lưa thưa ra vào một vài sĩ quan cấp tá. Các viên chức thì còn ở nhiệm sở nhưng không một ông tướng nào còn trả lời khi điện thoại reo cả ở trong văn phòng hoặc ở nhà. Trên trận địa, các đơn vị trưởng nào còn tiếp tục chiến đấu thì từ đây phải tự lo liệu lấy cho mình thôi.

Ở trung tâm Sài Gòn, đột nhiên sự căng thẳng lên cao độ, vì mọi người bây giờ đều biết là người Mỹ sẽ bỏ đi hết. Cuộc hành quân di tản của Hoa Kỳ bắt đầu từ 11 giờ. Người Mỹ và những người "bạn" Việt Nam nào đã được giới chức ngoại giao Hoa Kỳ báo trước đều nhận được lệnh phải đến tập trung ở 13 điểm hẹn đã được dự trù từ trước: các sân thượng hoặc các vườn chơi công cộng

Và cuộc di tản bằng trực thăng bắt đầu. Các chiếc trực thăng vận tải loại lớn của Thủy Quân Lục Chiến từ Hạm Đội VII, các trực thăng riêng của Trung Ương tình báo, và trực thăng màu trắng bạc của hãng Hàng Không Hoa Kỳ (Air America) bay là là trên các nóc nhà trong thành phố, có trực thăng võ trang (trang bị rốc kết và đại bác tự động) bay theo yễm trợ. Trên không phận lại có các chiến đấu phản lực cơ "Phantoms" lúc nào cũng sẵn sàng can thiệp, nếu cần.

Ở Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ người ta hấp tấp đốt các hồ sơ lưu trữ cuối cùng. Ngay trên nóc tòa Đại Sứ các trực thăng Huey đáp xuống bay lên trong khỏang thời gian cách nhau rất đều.

Tò mò đứng từ các nhà chung quanh để quan sát, thì đây là một cảnh tượng hết sức lạ lùng. Phía trước những chiếc xe du lịch đến đậu sát hàng rào sắt của tòa đại sứ, các chú tài xế mặc áo gi lê chống đạn nhưng đầu vẫn không quên đội mũ cát kết trắng, vì các viên chức Việt Nam vẫn nhất định phải tôn trọng lễ nghi cho đến cùng. Không biết các anh tài xế nầy sẽ nghĩ gì sau khi các ông chủ của họ đã lên trực thăng và họ phải quay về các khu vực bình dân giữa những tiếng nổ của đạn rốc kết?

Người Mỹ rời khỏi Sài Gòn bỏ lại xe của họ đầy đường. Tức khắc, có những toán tháo gở từ vùng ngoại ô đến "làm thịt" ngay tại chỗ. Thời gian cứ thế trôi qua và lần lần đám người tụ tập trước cửa rào của tòa đại sứ cáng ngày càng đông, họ bu quanh sát tường và có người còn có ý định trèo qua tường để vào bên trong tòa đại sứ. Trong số người cố bám vào tường như những chùm nho với niềm hy vọng cuối cùng có thể "chạy" khỏi đây để tìm tự do..., người ta thấy có đủ mọi hạng người, sinh viên, công chức, lính cứu hỏa với mủ đồng còn trên đầu, các cô gái ăn sương, các bà mẹ trẻ bồng con đưa lên thật cao, coi như họ trình lên một mẫu giấy thông hành sống là các chú bé con lai mà cha của chúng là một anh lính Mỹ da trắng hay da đen tóc nâu hay tóc đỏ nào đó... Các binh sĩ Thủy Quân Lục Chiến canh gác vẫn bình thản và lạnh lùng dùng báng súng đẩy họ ra.

Một cảnh tượng thiểu não khác đã xảy ra bên lề đường. Tướng Đặng văn Quang, mà mọi người đều tố cáo là kẻ cầm đầu đường dây buôn lậu ở Miền Nam, lại không được có tên trong danh sách di tản do Hoa Kỳ thiết lập. Khi ông ta đến trình diện trước cổng tòa đại sứ, binh sĩ canh gát đuổi ông ra. Ông mới chạy lại gặp nghị sĩ Nguyễn văn Ngãi để van nài giúp đở ông ta được trực thăng bốc đi. Có ai ngờ được, một ông cựu cố vấn quân sự của Tổng Thống, một người đầy ngạo mạn và kiêu căng chểm chệ tác oai tác phúc hằng mấy năm liền ở Dinh Độc Lập, giờ đây chỉ còn là một đống mỡ run rẩy vì sợ sệt. Ông ta hết lạy van, cầu khẩn rồi lại viện dẫn đến mạng sống của vợ con và của chính bản thân ông sẽ bị cộng sản giết v.v... xuống nước, kính cẩn, khúm núm van xin.. Động lòng thương hại, nghị sĩ Ngãi đưa ông ta cùng đi với mình, cẩn thận không nói rõ tên họ ông ta là ai, nghị sĩ Ngãi mới đưa ông ta lên được trực thăng.

Nhìn từ bên ngoài, với đám đông người khốn khổ đang khóc lóc, kêu la, cầu xin một lối đi để ra khỏi hỏa ngục nầy, cuộc hành quân di tản nầy coi như rất ồn ào náo nhiệt và vô trật tự. Nhưng đối với những người đã được vào khuôn viên tòa đại sứ rồi, thì sẽ thấy bô máy di tản hoạt động hết sức chính xác. Các hành khách được đưa lên lầu thượng, từng toán 3 người một, đưa lên trực thăng (chở được 12 người một chuyến). Từ đó bay thẳng qua phi trường Tân sơn Nhứt. Ở đây họ được đưa vào các dãy nhà thuộc Phòng Tùy Viên Quân Lực Hoa Kỳ, trên nóc vẫn phất phơ lá quốc kỳ Mỹ. Các dãy nhà nầy lẽ ra là mục tiêu rất tốt của cộng sản, nhưng vẫn còn nguyên xi, không hề hấn gì. Mặc dầu lửa đạn gần suốt đêm qua trong khu vực phi trường, nhưng hình như các dẫy nhà nầy được cộng sản cố ý chừa ra. Có nhiều trực thăng vận tải "Chinook" đến từng toán 4 chiếc một, mỗi toán đỗ xuống một đại đội Thủy Quân Lục Chiến trang bị đại bác không giật và hỏa tiễn chống chiến xa với đầu đạn "Tows" có hồng ngoại tuyến. Thủy Quân Lục Chiến có trách nhiệm giữ an ninh cho khắp cả vùng di tản. Mỗi chiếc "chinook" sau khi đổ Thủy Quân Lục Chiến và quân dụng xuống rồi thì bốc luôn 45 hành khách Việt Nam, xong mới bay đi. Thời gian bay khoản 1 giờ đến các chiến hạm của Hạm Đội VII và trên 20 chiếc tàu vận tải đang đậu chờ rước họ ở 30 cây số ngoài khơi bờ biển Việt Nam ngoài tầm tác xạ của pháo binh cộng sản Bắc Việt

Hành trình không gặp một trở ngại nào. Không có một viên đạn, một hỏa tiễn, một trái đạn pháo binh nào được bắn đi từ dưới đất lên các trực thăng to lớn đang nối duôi nhau rất đều đặn bay ra biển để đáp xuống một trong hai hàng không mẫu hạm, chiếc Hancock hoặc chiếc Okinawa, từ đó họ đã cất cánh bay vào Sài Gòn. Sau khi đặt chân xuống các chiến hạm rồi thì người Việt Nam ai cũng bị các binh sĩ Mỹ rất đứng đắn nhưng cũng rất lạnh lùng khám xét trong người thật kỹ, để được bảo đảm là họ không có mang theo vũ khí, ma túy hay các loại y dược nguy hiểm. Sau đó họ mới được chuyển xuống các thuyền cao su hay thuyền máy để đưa họ sang các tàu vận tải. Các thuyền máy nầy chạy qua chạy lại như con thoi giữa các các chiến hạm. và các tàu vận tải. Và các tàu vận tải nầy sẽ đưa họ về các trại định cư ở đảo Guam. Có nhiều chiếc tàu vận tải nầy được Hạm Đội gọi trở lại cả ban đêm để "vớt" những người tỵ nạn Việt Nam khác đang lênh đênh ngoài biển cả cách bờ biển Việt Nam hàng trăm cây số, trên các tàu đánh cá, các thuyền buồm thô sơ, có đèn đốt sáng rực, người trên thuyền dùng đuốc và đèn bấm, đèn lồng.. vừa vẫy gọi, vừa chạy lại các tàu chiến của Mỹ. Tất cả các làng đánh cá dọc theo bờ biển từ Phan Thiết đến Bình Tuy đều ra khơi và kêu cứu. Có hơn 20.000 dân tỵ nạn được đưa lên tàu và được cứu khỏi nanh vuốt của cộng sản.

° ° °

Tại Sài Gòn lưu lượng trực thăng của Mỹ vẫn tiếp tục đều đặn, không ngừng... ồ ạt bay suốt buổi chiều. Trước cổng tòa đại sứ Mỹ có đến trên 20.000 người đang chen chúc nhau đứng chờ với va ly cầm ở tay, và nước mắt ràn rụa. Có một số người vào được cổng sắt và được bốc đi. Có nhiều người dí hằng xấp đô la vào mũi các anh Thủy Quân Lục Chiến Mỹ nhung họ vẫn lạnh lùng không lay chuyển. Có hằng trăm xe chở đầy người mở còi nhấn kèn inh ỏi chạy vào phi trường Tân sơn Nhất, nhưng không có một chiếc phi cơ nào cất cánh. Và trước cổng phi trường quân cảnh đã có thiết lập một hàng rào cản có bố trí súng liên thanh.

Lại có hằng ngàn người chạy xuống bến cảng để cố gắng nhảy theo các tàu chiến, tàu buôn hay xà lan hoặc bất cứ một chiếc thuyền nào đó để chạy khỏi thành phố nầy bằng đường sông.

Có khoản 200 người vừa sĩ quan vừa công chức hay con buôn xuống được một chiếc tàu hàng còn tốt đang nhổ neo lúc 3 giờ chiều để chạy ra biển. Họ không đi xa hơn được Vì vừa mới qua khỏi Nhà Bè thì chiếc tàu bị trúng đạn pháo, nổ tung và chìm. Những người may mằn còn sống sót lội vào bờ lại bị cắt cổ hoặc bị súng liên thanh bắn chết hết. Dĩ nhiên đô la và vàng họ mang theo đều bị vét sạch.

Vào cuối buổi chiều thì tướng Trần văn Đôn và con trai ông ta, một bác sĩ, được một chiếc trực thăng bốc đi. Trước đó vài giờ, rất lịch sự như ông đã nổi danh, ông đã đến từ giã vị Đại sứ Pháp... và luôn tiện cũng để nhận thông hành Pháp của ông. Ông M. M. Mérillon cũng đã có một vài lần nhờ vã đến tướng Đôn.. Từ nhiều tháng qua, và nhất là trong cơn khủng hoảng của Chánh Phủ vừa qua, tướng Đôn được coi như là một phụ tá rất đắc lực cho hoạt động trung gian chánh trị của người Pháp. Ông đã trực tiếp thúc đẩy tướng Dương văn Minh đi tới, và trước Quốc Hội lưỡng Viện ông đã có một buỗi thuyết trình quá thảm hại về tình hình quân sự. Có một lúc nào đó, ông M. Mérillon đã mong muốn đẩy ông Đôn vào ghế Thủ Tướng của ông Minh. Hôm chiều thứ hai, chấn động vì sự chống đối nhau giữa các trung tâm chánh trị của Miền Nam, tướng Đôn đã có ý định tự tử. Nhưng sau đó được giới thân cận lên giây cót an ủi...nên cuối cùng đã quyết định nhờ Mỹ đưa đi., Trước khi lên trực thăng, tướng Đôn đã nói với toán binh sĩ cận vệ của ông, những người đã không rời khỏi ông nửa bước, rằng:

"Tôi bắt buộc phải ra đi thôi, vì nếu bọn cộng sản mà tóm được tôi thì tôi sẽ bị bọn chúng hành quyết ngay. Còn các anh, các anh chỉ là cấp nhỏ, các anh chẳng có gì nguy hiểm hết... và các anh có thể lẫn lộn được trong dân chúng."

Mấy anh binh sĩ nầy với gương mặt rắn rõi, nắm chặt tay lại buồn bã nhìn chiếc trực thăng cất cánh mang theo ông cựu tổng trưởng Quốc Phòng của mình lòng nặng triệu không biết vì tức giận hay vì khinh bỉ...

Không phải chỉ có một tướng Trần văn Đôn là sĩ quan cao cấp đã rời khỏi Miền Nam Việt Nam. Đã có gần 60 vị tướng lãnh khác ra đi như vậy. Như trung tướng Vĩnh Lộc, mới vừa sáng hôm qua đây đã từng kêu gọi binh sĩ "đừng có trốn chạy như chuột"; như tướng Bùi thế Lân, một vị chỉ huy của Thủy Quân Lục Chiến, một người hùng đã rút quân bằng đường bộ từ Đà Nẵng về Sài Gòn vừa lui binh vừa đánh du kích; như trung tướng Trưởng, Tư Lệnh Vùng I Chiến Thuật; tướng Thắng, thuộc binh chủng Pháo binh, một cử nhân toán học và vô địch cờ; như tướng Toàn, tư lệnh Vùng III Chiến Thuật, người đã giữ vững trong 4 tuần lễ mặt trận Miền Đông của Sài Gòn; như tất cả các giám đốc An ninh và Tình Báo Quân sự, như vị Tư lệnh Không quân; như tướng Lưỡng thuộc sư đoàn Nhảy Dù, người luôn luôn được binh sĩ của mình ái mộ.... và tướng "thần phong" râu kẽm Nguyễn cao Kỳ, người đã từng thề sống chết với khẩu súng trên tay, và người đã chê Tổng ThốngThiệu là quá nhát gan....

Tuy nhiên, cũng có một số người đã thẳng thừng từ chối không rời khỏi vị trí chỉ huy và binh sĩ của mình khi được các tùy viên quân sự của tòa đại sứ Mỹ trực tiếp liên lạc hay kêu gọi qua điện đài. Đó là tướng Nguyễn khoa Nam, người cò trách nhiệm phòng giữ Đồng bằng sông Cửu Long, tướng Lê minh Đảo, Tư lệnh sư đoàn 18 bộ binh, người đã giữ vững Xuân Lộc và là người đã trả lời: "Các binh sĩ của tôi đã hăng say chiến đấu, làm sao tôi nỡ bỏ họ được để đi trong lúc họ rất cần sự có mặt của tôi bên cạnh họ?", tướng Lý tòng Bá, người chống giữ mặt trận phía Bắc, một tướng Kỵ binh Thiết Giáp, tướng Lê nguyên Vỹ, người đã chiến đấu với phần còn lại của sư đoàn 5 bộ binh ở Trãng Bom, tướng Phú đang bị phạt giam, người đã tuyên bố với vị Cố vấn Hoa Kỳ khi ông nầy đến tìm rước ông đi:

"Tổng ThốngThiệu đã chà đạp danh dự tôi khi ông công khai đổ lỗi cho tôi về chuyện mất Cao Nguyên Trung Phần..... và ông ta đã ra đi như một người du lịch với những chiếc va ly mà ông đã soạn sẳn.... Nhưng phần tôi, tôi sẽ ở lại, tôi sẽ tự tử và máu của tôi sẽ rơi trở lại vào lưng ông ta. Tôi chỉ còn có một cách đó để đính chánh lời cáo buộc của ông ta mà thôi"

° ° °

Thủ đô Sài Gòn đã về đêm. Ở vài cây số về hạ lưu sông Sài Gòn, để tránh những kẻ tò mò, có mấy chiếc tàu sà lan đang bốc hằng ngàn người toàn là đàn bà và trẻ con thuộc gia đình của anh em Hải Quân. Các sà lan nầy được các tàu lớn kéo đi, có thuyền máy võ trang hay các tàu phóng ngư lôi hộ tống ra biển, ở đó có trên 30 chiếc tàu đang chờ họ. Tất cả các tàu chiến thuộc các đơn vị lớn của Hải Quân Miền Nam Việt Nam đều rút hết về đảo Guam. Trong bầu trời tối đen như mực của thủ đô, những chiếc trực thăng Hoa Kỳ với đầy đủ đèn hiệu sáng rực của mình đã dùng đèn pha chiếu thẳng thành những vệt dài sáng rực cắt đứt hẳn màn đêm. Ở dưới đất thì những cọc tiêu và những đèn rọi đánh dấu các nóc nhà mà trực thăng sẽ đáp xuống bốc người đi. Trên các sân thượng khác lại có những kẻ đau khổ lo âu đang đốt những cuộn giấy hay giẽ có tẩm dầu. họ hy vọng lửa sẽ dẫn dụ được những con chim sắt khổng lồ đến bốc họ ra khỏi nỗi lo sợ của họ và đưa họ ra khơi... cốt chạy khỏi bọn cộng sản.... nhưng vô hiệu.

Đại sứ Graham Martin, người đánh giá cuộc hành quân di tản như là một việc "không ra gì" thì muốn ở lại Sài Gòn và chết ở đó. Ông ta chỉ phải rời khỏi thành phố nầy lúc 4 giờ sáng theo lệnh bắt buộc của Kissinger. Với một tâm trạng đảo điên, quá mệt mỏi (ông thức suốt 72 giờ liền), ông đáp xuống hàng không mẫu hạm "Blue Ridge" đang nằm chờ ông xa tít ngoài biển cả... sau đó ông vào phòng đóng cửa lại ngay để không cho ai thấy được nỗi thất vọng của mình."

(Hết trích)

 

30.4.2013

Lữ Giang--Sự giẫy chết của một thành phố

Tổng số lượt xem trang