Thứ Ba, 2 tháng 7, 2013

Chuyện 50 năm nhìn lại!

THE PENTAGON PAPERS: BIẾN ĐỘNG PHẬT GIÁO Từ Ngày 8-5 Tới 21-8-1963

Nguyên Giác

THE PENTAGON PAPERS: BIẾN ĐỘNG PHẬT GIÁO
Từ Ngày 8-5 Tới 21-8-1963




Hồ Sơ Mật Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ về Cuộc Chiến VN

Giải Mật Ngày 13-6-2011

Dịch theo bản văn từ trang nhà của Đại Học Mount Holyoke College:


https://www.mtholyoke.edu/acad/intrel/pentagon2/pent6.htm




(LỜI NGƯỜI DỊCH: The Pentagon Papers là tên gọi tắt một hồ sơ tối mật về Cuộc Chiến Việt Nam; theo Wikipedia, hồ sơ này tên chính thức là “United States – Vietnam Relations, 1945–1967: A Study Prepared by the Department of Defense” (Quan Hệ Mỹ-Việt, 1945--1967: Cuộc Nghiên Cứu Thực Hiện Bởi Bộ Quốc Phòng). Hồ sơ này được giải mật và phổ biến công khai năm 2011.


Bộ Trưởng Quốc Phòng Hoa Kỳ Robert McNamara thành lập Ban Đặc Nhiệm Nghiên Cứu Về Việt Nam ngày 17-6-1967, có nhiệm vụ viết một “tự điển bách khoa về Cuộc Chiến Việt Nam,” mà theo ông là để lưu hồ sơ cho các sử gia và để ngăn cản các sai lầm chính sách trong các chính phủ Hoa Kỳ tương lai.


Hồ sơ này thực hiện bởi 36 nhà phân tích – phân nửa là các sĩ quan đương nhiệm lúc đó, phần còn lại là các học giả và các viên chức dân sự liên bang -- phần lớn dựa vào các hồ sơ có sẵn trong Bộ Quốc Phòng. Hồ sơ gồm 3,000 trang phân tích lịch sử, và 4,000 trang tài liệu gốc của chính phủ, soạn thành 47 tập, và xếp loại “Top Secret – Sensitive” (“Tối Mật -- Nhạy Cảm.” Chữ “nhạy cảm” chỉ có nghĩa là việc phổ biến hồ sơ sẽ làm chính phủ Mỹ mất mặt.)


Ban Đặc Nhiệm in hồ sơ làm 15 ấn bản duy nhất. Ngày giải mật và phổ biến tới các thư viện Tổng Thống, và tới Trung Tâm Giải Mật Quốc Gia của Văn Khố Liên Bang là ngày 13-6-2011.


Sau đây là bản dịch về tình hình Phật Giáo Việt Nam thời gian từ ngày 8-5-1963 tới ngày 21-8-1963, nằm trong “Chapter 4, ‘The Overthrow of Ngo Dinh Diem, May-November, 1963’ pp.201-276” thuộc Tập 2.


Một số ghi nhận về hồ sơ này trong bối cảnh từ ngày 8-5-1963 cho tới ngày 21-8-1963:


- Ông Diệm biệt đãi Thiên Chúa Giáo, kỳ thị Phật Giáo;


- Thảm sát ở Huế ngày 8-5-1963 xảy ra tình cờ, bất ngờ;


- Trách nhiệm thảm sát ở Huế là do chính quyền Huế, nhưng ông Diệm đổ tội cho VC;


- Biểu tình ngày 3-6-1963 bị đàn áp bằng hơi cay, Mỹ nghi có hơi độc mustard gas;


- Cuộc vị pháp thiêu thân của HT Thích Quảng Đức gây chấn động toàn cầu;


- Thông Cáo Chung 16-6-1963 không được ông Diệm thực thi, và bị ông Nhu phá;


- Cao điểm sự tráo trở của chính phủ ông Diệm là cuộc tổng bố ráp các chùa toàn quốc ngày 21-8-1963, bắt 1.400 nhà sư trong đó có Hòa Thượng Thích Tịnh Khiết (Hội chủ của Tổng Hội Phật giáo Việt Nam) và Thượng Tọa Thích Tâm Châu (Ủy ban Liên phái Phật Giáo).


Độc giả có thể đọc thêm nguyên bản Anh văn kèm dưới đây. Bản dịch thực hiện bởi Cư Sĩ Nguyên Giác.)


BẢN VIỆT DỊCH


Sự kiện tại Huế ngày 8 tháng 5-1963 -- một sự kiện dẫn tới những gì được gọi là cuộc khủng hoảng Phật giáo và khởi sự cho một chuỗi sự kiện đã tận cùng dẫn tới việc lật đổ chế độ ông Diệm và hạ sát anh em nhà Ngô – đã xảy ra một cách tình cờ và bất ngờ.


Không ai thấy trước rằng sự kiện Huế sẽ khởi lên một vận động đối lập toàn quốc có khả năng gần như tất cả những người dị biệt chính kiến và không Cộng sản tại Nam Việt Nam. Một cách quan trọng hơn, lúc đó chưa ai nhận ra đúng về mức độ bất mãn của dân Việt Nam đối với chính phủ ông Diệm, cũng như về mức độ mục nát chính trị trong chế độ, một chế độ không còn khả năng đối phó với sự bất mãn rộng lớn.


Cội nguồn tôn giáo của sự kiện này có thể dò tới cuộc di cư đông đảo của người tỵ nạn Thiên Chúa Giáo ra khỏi Bắc Việt Nam sau khi Pháp thua trận năm 1954. Khoảng một triệu tín đồ Thiên Chúa Giáo rời bỏ Miền Bắc và định cư ở Miền Nam. Ông Diệm -- một cách hiển nhiên, vì động cơ tôn giáo và nhân đạo, và với ý định tuyển một hậu thuẫn chính trị từ đồng đạo của ông – đã biệt đãi những người tỵ nạn Thiên Chúa Giáo này qua việc cấp đất, cứu trợ và hỗ trợ, cấp giấy phép thương mại và xuất nhập cảng, ưu tiên tuyển làm công chức, và các biệt đãi khác từ chính phủ. Bởi vì ông Diệm có thể dựa vào sự trung thành của họ, họ được điền vào gần như tất cả các chức vụ quân sự và dân sự quan trọng.


Như một định chế, Giáo Hội Thiên Chúa Giáo hưởng một quy chế pháp lý đặc biệt. Tổng Giám Mục Ngô Đình Thục là anh và là cố vấn của ông Diệm. Nhưng trước năm 1962, không có kỳ thị minh bạch chống người Phật Tử. Tuy nhiên, tại Nam Việt Nam nơi có từ 3 tới 4 triệu Phật Tử tu học và có 80% dân số là Phật Tử trên danh nghĩa, chính sách của ông Diệm – thiên vị Thiên Chúa Giáo, độc tài toàn trị, và kỳ thị tôn giáo – đã làm ngún cháy sự bất mãn.


Vào tháng 4-1963, chính phủ ra lệnh các quan cấp tỉnh thực hiện một lệnh cấm, nguyên đã có từ lâu nhưng thường bị bỏ lơ, về treo cờ tôn giáo. Lệnh này đưa ra vừa sau những lễ hội được khuyến khích chính thức tại Huế để kỷ niệm 25 năm ngày ông Ngô Đình Thục được tấn phong Tổng Giám Mục Huế, mà trong dịp đó cờ Vatican treo đầy khắp. Lệnh này cũng đưa ra, như đã xảy ra, vừa trước ngày Phật Đản (ngày 8 tháng 5-1963), một Đại Lễ Phật Giáo.


Huế, cố đô của Việt Nam, lúc đó là trung tâm thực sự duy nhất về học Phật và học bổng về tu học Phật Giáo tại Việt Nam, và đại học nơi đây (Huế) từ lâu là một trung tâm của những bất đồng khuynh tả. Không ngạc nhiên gì, lúc đó, Phật Tử Huế đã treo cờ của họ bất chấp lệnh cấm và, khi chính quyền địa phương ra vẻ như đã nhượng bộ về lệnh cấm treo cờ, Phật Tử biểu lộ cứng rắn hơn để sẽ tổ chức một cuộc tụ họp đông người theo lịch trình trước đó đã định vào ngày 8 tháng 5 để mừng Phật Đản.


Nhìn thấy cuộc tụ họp đông người đó như một thách thức đối với ảnh hưởng của gia đình họ Ngô (Huế cũng là thủ đô lãnh địa chính trị của Ngô Đình Cẩn, em của ông Diệm) và đối với chính quyền địa phương, các viên chức địa phương tìm cách giải tán đám đông. Khi các nỗ lực ban đầu không có kết quả, Phó Tỉnh Trưởng (cũng là giáo dân Thiên Chúa Giáo) ra lệnh cho lính của ông nổ súng. Thế là dẫn tới hỗn loạn, 9 người bị giết, trong đó có vài trẻ em, và 14 người bị thương. Xe bọc sắt được cho là đã cán lên một số nạn nhân. Chính quyền ông Diệm sau đó loan tin rằng một cán bộ Việt Cộng đã ném một quả lựu đạn vào đám đông và rằng các nạn nhân bị giẫm đạp bởi đám đông hỗn loạn. Chính phủ ông Diệm nhất quyết không chịu nhận trách nhiệm, ngay cả khi các quan sát viên độc lập đưa ra các đoạn phim cho thấy quân chính phủ bắn vào đám đông.


Cá tính quan lại của ông Diệm không cho phép ông xử lý cuộc khủng hoảng này với sự linh động và tế nhị cần thiết. Ông Diệm không có thể công khai nhận trách nhiệm về thảm kịch và tìm sự hòa giải với những Phật Tử giận dữ. Ông còn tin rằng sự mất mặt công khai như thế sẽ làm suy yếu thẩm quyền cai trị của ông, hiển nhiên đối với sự kiện rằng không nhà lãnh đạo thời hiện đại nào có thể từ lâu đã bỏ mặc sự bất mãn lớn lao như thế bất kể rằng đạo đức cá nhân riêng ông có thể tốt như thế nào. Do vậy chính phủ bám chặt vào cách giải thích riêng về chuyện đã xảy ra.


Ngày kế tiếp ở Huế, hơn 10,000 người biểu tình để phản đối cuộc thảm sát. Đó là cuộc biểu tình đầu tiên của một chuỗi dài những biểu tình mà Phật Tử dùng để áp lực chế độ ông Diệm trong 4 tháng kế tiếp. Phật Tử đã mau chóng tự tổ chức, và vào ngày 10 tháng 5-1963, bản Tuyên Ngôn của các chức sắc Phật Giáo trình lên chính phủ, yêu cầu được tự do treo cờcủa họ, được bình đẳng về pháp lý với Giáo Hội Thiên Chúa Giáo, xin ngưng việc bắt bớ, xin tự do trong việc hành đạo, và xin bồi thường các nạn nhân sự kiện ngày 8 tháng 5-1963 cùng với trừng phạt những kẻ trách nhiệm.


Năm nguyện vọng này chính thức trình lên Tổng Thống Diệm ngày 15 tháng 5-1963, và Phật Tử đã tổ chức buổi họp báo đầu tiên của họ sau buổi trao Tuyên Ngôn đó. Những cuộc tuyệt thực và những buổi họp liên tục cho hết tháng 5, nhưng ông Diệm tiếp tục trì trệ trong việc giải quyết vấn đề và gây bất mãn thêm.


Vào ngày 30-5-1963, khoảng 350 nhà sư Phật Giáo biểu tình trước tòa nhà Quốc Hội ở Sài Gòn, và cuộc tuyệt thực 48 giờ được loan báo. Vào ngày 3-6-1963, một cuộc biểu tình ở Huế bị giải tán bằng hơi cay và nhiều người bị phỏng, dẫn tới các cáo buộc rằng lính ông Diệm đã sử dụng hơi độc mustard gas (LND: mustard gas là chất lỏng gây phỏng da và cơ, có thể chết người, được dùng làm vũ khí hóa học từ Thế Chiến I). Vào ngày 4-6, chính phủ loan báo bổ nhiệm một ủy ban liên bộ chỉ huy bởi Phó Tổng Thống Thơ để giải quyết vấn đề tôn giáo, nhưng vào lúc này cử chỉ đó có lẽ đã quá trễ. Phần lớn dân số thành thị đã tham dự những cuộc biểu tình Phật Giáo, nhận ra trong họ sự khởi đầu của đối lập chính trị chân thực đối với ông Diệm. Vào ngày 8-6, bà Nhu làm tệ hại vấn đề thêm khi loan báo rằng Phật Tử đã bị trà trộn bởi Việt Cộng.

Trong suốt những ngày đầu của khủng hoảng, giới truyền thông Mỹ đã theo sát các sự kiện và gây sự chú ý với thế giới. Vào ngày 11-6, truyền thông được nhắn trước để tới một ngã tư một phố chính vào buổi trưa. Trong khi đoán là sẽ có cuộc biểu tình nữa, họ kinh hoàng chứng kiến cuộc tự thiêu đầu tiên thực hiện bởi một nhà sư. Cái chết phựt lửa của Hòa thượng Thích Quảng Đức gây chấn động thế giới và Nam Việt Nam.


Những cuộc thương thuyết trước đó đã diễn ra giữa ủy ban của Phó Tổng Thống Thơ và Phật Tử có từ ngày 5-6-1963, với những chất vấn cay đắng công khai về thiện chí của cả hai bên. Sau cuộc tự thiêu, chính phủ Mỹ tăng cường áp lực lên chính phủ ông Diệm để làm dịu lòng người Phật Tử, và để đưa tình hình chính trị đang suy sụp trở lại trong tầm kiểm soát.


Cuối cùng, vào ngày 16-6-1963, bản Thông Cáo Chung giữa Phật Giáo và chính phủ ông Diệm được phổ biến, liệt kê các đồng thuận thương thuyết, nhưng không quy trách nhiệm đối với sự kiện ngày 8-5-1963 (LND: không quy trách nhiệm cho chính phủ, chỉ hứa điều tra xem cá nhân viên chức nào có lỗi). Tuy nhiên, trận đàn áp biểu tình dữ dội ngày kế tiếp đã làm hỏng mất tinh thần của sự hòa giải. Trong phần của họ, vợ chồng Ngô Đình Nhu tức khắc phá hoại sự hòa giải bằng cách bí mật huy động các lực lượng thanh niên do chính phủ đỡ đầu đấu tố bản Thông Cáo Chung. Vào cuối tháng 6, thấy rõ rằng Thông Cáo Chung không phải là cử chỉ chân thực của sự hòa giải từ phía ông Diệm, nhưng chỉ là một nỗ lực để làm dịu Hoa Kỳ và là một tờ giấy về sự chia rẽ ngày càng lớn trong chính trị nội bộ.


Sự thiếu niềm tin có căn cứ về phía chính phủ trong Thông Cáo Chung Ngày 16-6-1963 đã làm mất uy tín chính sách trung dung để hòa giải mà giới lãnh đạo cao cấp Phật Giáo đã theo đuổi cho tới khi đó. Vào cuối tháng 6, quyền lãnh đạo phong trào Phật Giáo trao sang cho một nhóm vị sư trẻ hơn, quyết liệt hơn, với mục tiêu chính trị vươn xa hơn. Các vị sư này đã vận dụng chính trị khéo léo và thông minh một đợt thủy triêù đang dâng cao từ phía dân chúng ủng hộ.


Những cuộc biểu tình và tụ tập đông người có kế hoạch kỹ lưỡng được kèm với cuộc vận động truyền thông từ giới đối lập của chế độ ông Diệm. Hiểu tầm quan trọng của truyền thông báo chí Hoa Kỳ, các vị sư này kết giao với phóng viên Mỹ, thông báo họ về những cuộc biểu tình và tụ tập, và cẩn trọng tính thời điểm hoạt động sao cho được giới truyền thông tường thuật rộng rãi tối đa. Không ngạc nhiên gì, gia đình họ Ngô phản ứng bằng cách đàn áp dữ dội hơn đối với các nhà hoạt động Phật Giáo, và với chỉ trích cay đắng hơn và ngay cả hăm dọa các phóng viên Mỹ.


Đầu tháng 7-1963, ủy ban của Phó Tổng Thống Thơ loan báo rằng một cuộc điều tra sơ khởi về sự kiện ngày 8-5-1963 đã xác định rằng những cái chết là do hành động khủng bố của Việt Cộng. Phẫn nộ, những người Phật Tử lên án kết luận đó và tăng cường các hoạt động phản đối của họ. Vào ngày 19-7-1963, dưới áp lực Hoa Kỳ, ông Diệm đọc bài diễn văn trên đài phát thanh, ngắn chỉ 2 phút đồng hồ, mặt ngoài là bày tỏ hòa giải với Phật Tử, nhưng được viết sẵn và trình bày một cách lạnh lùng như để phá hủy trước bất kỳ ảnh hưởng nào mà các đồng thuận nhỏ nhoi đã loan báo có thể có.


Về phía trong chế độ, ông Nhu và vợ nặng nề chỉ trích ông Diệm đã nhượng bộ áp lực Phật Giáo. Bà Nhu công khai chế giễu cuộc tự thiêu là “nướng thịt,” tố cáo các lãnh đạo Phật Giáo bị trà trộn bởi người Cộng sản, và mô tả các cuộc biểu tình là do Việt Cộng kích động. Cả ông Nhu và vợ ra sức công khai, và riêng tư, làm suy yếu các nỗ lực vốn đã yếu của ông Diệm trong việc tương nhượng với Phật Tử, và có tin đồn khởi sự loan ra trong tháng 7 rằng ông Nhu đang xem xét một cú đảo chánh lật đổ ông anh.


Một Bản Đánh Giá Tình Báo Quốc Gia Đặc Biệt đề ngày 10-7-1963 kết luận với tiên đoán rằng nếu chế độ ông Diệm không làm gì để thực hiện bản Thông Cáo Chung 16-6-1963 và làm dịu người Phật Tử, nhiều phần là những cuộc biểu tình trong mùa hè sẽ lan rộng với nhiều khả năng sẽ có một nỗ lực đảo chánh từ người không cộng sản (LND: Bản Đánh Giá Tình Báo Quốc Gia Đặc Biệt này đã dịch ở Thư Viện Hoa Sen http://tinyurl.com/TVHS-TBDB).


(Hồ sơ 21) Vào giữa tháng 8-1963, một tuần trước khi ông Nhu tung ra cuộc tổng bố ráp nhắm vào các chùa ở Sài Gòn và nơi khác, Sở Tình Báo Tình Báo Trung Ương Hoa Kỳ CIA đã bắt đầu nhận thấy có bất mãn biểu lộ trong giới công chức và quân nhân:


“Từ khi những mâu thuẫn giữa Phật Tử và chố độ ông Diệm bùng phát ngày 8-5-1963, đã có một loạt các bản phúc trình cho thấy không chỉ sự mưu tính và bày tỏ bất mãn tăng dày đặc giữa những người không Cộng Sản trước giờ vẫn chỉ trích ông Diệm, mà sự bất ổn hiển lộ trở lại và sự căm ghét ngày càng tăng trong giới công chức và quân nhân về cách ông Diệm xử lý về mâu thuẫn này.”


Bản đánh giá này tiếp tục mô tả chi tiết nhiều tin đồn, xuất hiện ít nhất từ cuối tháng 6, về các âm mưu đảo chánh. Nhưng ông Nhu, trong một hành động táo bạo nhằm gây kinh hoảng những người âm mưu đảo chánh, và để làm họ bất ngờ, đã triệu tập các tướng lãnh cao cấp vào ngày 11-7-1963, nặng nề khiển trách họ đã không có hành động nào để đè bẹp sự nổi loạn, và chất vấn sự trung thành của họ đối với chế độ. Hành động của ông Nhu như dường đã tạm thời làm khựng lại tất cả các kế hoạch về một cuộc lật đổ. CIA cũng báo cáo về tin đồn rằng chính ông Nhu đang lên kế hoạch một “cuộc đảo chánh giả” để thu hút ra và rồi đàn áp người Phật Tử.


Trong tháng 8-1963, Phật Tử hoạt động tới mức căng thẳng mới; các vị sư tự thiêu vào ngày 5, ngày 15, và ngày 18. Không khí chính trị căng thẳng tại Sài Gòn vào giữa tháng 8-1963 cho các nhà quan sát Hoa Kỳ thấy rằng cuộc chạm trán đang diễn tiến. Tuy nhiên, khi cuộc chạm trán xảy ra, trong cuộc tổng bố ráp ngày 21-8-1963 nhắm vào các chùa, các nhà ngoại giao Hoa Kỳ hoàn toàn bất ngờ.
HẾT BẢN DỊCH
NGUYÊN VĂN
The Pentagon Papers
Gravel Edition
Volume 2
Chapter 4, "The Overthrow of Ngo Dinh Diem, May-November, 1963," pp. 201-276.
(Boston: Beacon Press, 1971)
Section 1, pp. 201-232
(SNIPPED)II. THE BUDDHIST CRISIS: MAY 8-AUGUST 21
A. THE CRISIS ERUPTS
The incident in Hue on May 8, 1963, that precipitated what came to be called the Buddhist crisis, and that started the chain of events that ultimately led to the overthrow of the Diem regime and the murder of the Ngo brothers, happened both inadvertently and unexpectedly. No one then foresaw that it would generate a national opposition movement capable of rallying virtually all non-communist dissidence in South Vietnam. More importantly, no one then appreciated the degree of alienation of Vietnam's people from their government, nor the extent of the political decay within the regime, a regime no longer capable of coping with popular discontent.
The religious origins of the incident are traceable to the massive flight of Catholic refugees from North Vietnam after the French defeat in 1954. An estimated one million Catholics fled the North and resettled in the South. Diem, animated, no doubt, by religious as well as humanitarian sympathy, and with an eye to recruiting political support from his coreligionists, accorded these Catholic refugees preferential treatment in land redistribution, relief and assistance, commercial and export-import licenses, government employment, and other GVN largess. Because Diem could rely on their loyalty, they came to fill almost all important civilian and military positions. As an institution, the Catholic Church enjoyed a special legal status. The Catholic primate, Ngo Dinh Thuc, was Diem's brother and advisor. But prior to 1962, there had been no outright discrimination against Buddhists. However, among South Vietnam's 3-4 million practicing Buddhists and the 80% of the population who were nominal Buddhists, the regime's favoritism, authoritarianism, and discrimination created a smoldering resentment.
In April 1963, the government ordered provincial officials to enforce a longstanding but generally ignored ban on the public display of religious flags. The order came just after the officially encouraged celebrations in Hue commemorating the 25th anniversary of the ordination of Ngo Dinh Thuc, the Archbishop of Hue, during which Papal flags had been prominently flown. The order also came, as it happened, just prior to Buddha's birthday (May 8)-a major Buddhist festival. Hue, an old provincial capital of Vietnam, was the only real center of Buddhist learning and scholarship in Vietnam and its university had long been a center of left-wing dissidence. Not surprisingly, then, the Buddhists in Hue defiantly flew their flags in spite of the order and, when the local administration appeared to have backed down on the ban, were emboldened to hold a previously scheduled mass meeting on May 8 to commemorate Buddha's birthday. Seeing the demonstration as a challenge to family prestige (Hue was also the capital of the political fief of another Diem brother, Ngo Dinh Can) and to government authority, local officials tried to disperse the crowds. When preliminary efforts produced no results, the Catholic deputy province chief ordered his troops to fire. In the ensuing melee, nine persons were killed, including some children, and fourteen were injured. Armored vehicles allegedly crushed some of the victims. The Diem government subsequently put out a story that a Viet Cong agent had thrown a grenade into the crowd and that the victims had been crushed in a stampede. It steadfastly refused to admit responsibility even when neutral observers produced films showing government troops firing on the crowd.
Diem's mandarin character would not permit him to handle this crisis with the kind of flexibility and finesse it required. He was incapable of publicly acknowledging responsibility for the tragedy and seeking to conciliate the angry Buddhists. He was convinced that such a public loss of face would undermine his authority to rule, oblivious to the fact that no modern ruler can long ignore massive popular disaffection whatever his own particular personal virtues may be. So the government clung tenaciously to its version of what had occurred.
The following day in Hue over 10,000 people demonstrated in protest of the killings. It was the first of the long series of protest activities with which the Buddhists were to pressure the regime in the next four months. The Buddhists rapidly organized themselves, and on May 10, a manifesto of the Buddhist clergy was transmitted to the government demanding freedom to fly their flag, legal equality with the Catholic Church, an end of arrests and freedom to practice their beliefs, and indemnification of the victims of the May 8th incident with punishment for its perpetrators. These five demands were officially presented to President Diem on May 15, and the Buddhists held their first press conference after the meeting. Publicized hunger strikes and meetings continued throughout May, but Diem continued to drag his feet on placating the dissenters or settling issues. On May 30, about 350 Buddhist monks demonstrated in front of the National Assembly in Saigon, and a 48-hour hunger strike was announced. On June 3, a demonstration in Hue was broken up with tear gas and several people were burned, prompting charges that the troops had used mustard gas. On June 4, the government announced the appointment of an interministerial committee headed by Vice President Tho to resolve the religious issue, but by this time such gestures were probably too late. Large portions of the urban population had rallied to the Buddhist protest, recognizing in it the beginnings of genuine political opposition to Diem. On June 8, Mme. Nhu exacerbated the problem by announcing that the Buddhists were infiltrated by communists.
Throughout the early days of the crisis, the U.S. press had closely covered the events and brought them to the attention of the world. On June 11, the press was tipped off to be at a downtown intersection at noon. Expecting another protest demonstration, they were horrified to witness the first burning suicide by a Buddhist monk. Thich Quang Duc's fiery death shocked the world and electrified South Vietnam.
Negotiations had been taking place between Vice President Tho's committee and the Buddhists since June 5, with considerable acrimonious public questioning of good faith by both sides. After the suicide, the U.S. intensified its already considerable pressure on the government to mollify the Buddhists, and to bring the deteriorating political situation under control. Finally, on June 16, a joint GVN-Buddhist communique was released outlining the elements of a settlement, but affixing no responsibility for the May 8 incident. Violent suppression by the GVN of rioting the next day, however, abrogated the spirit of the agreement. The Nhus, for their part, immediately undertook to sabotage the agreement by secretly calling on the GVN-sponsored youth organizations to denounce it. By late June, it was apparent that the agreement was not meant as a genuine gesture of conciliation by Diem, but was only an effort to appease the U.S. and paper over a steadily widening fissure in internal politics.
The evident lack of faith on the part of the government in the June 16 agreement discredited the conciliatory policy of moderation that the older Buddhist leadership had followed until that time. In late June, leadership of the Buddhist movement passed to a younger, more radical set of monks, with more far-reaching political objectives. They made intelligent and skillful political use of a rising tide of popular support. Carefully planned mass meetings and demonstrations were accompanied with an aggressive press campaign of opposition to the regime. Seizing on the importance of American news media, they cultivated U.S. newsmen, tipped them off to demonstrations and rallies, and carefully timed their activities to get maximum press coverage. Not surprisingly, the Ngo family reacted with ever more severe suppression to the Buddhist activists, and with acrimonious criticism and even threats to the American newsmen.
Early in July, Vice President Tho's committee announced that a preliminary investigation of the May 8 incident had confirmed that the deaths were the result of an act of Viet Cong terrorism. Outraged, the Buddhists denounced the findings and intensified their protest activities. On July 19, under U.S. pressure, Diem made a brief two-minute radio address, ostensibly an expression of conciliation to the Buddhists, but so written and coldly delivered as to destroy in advance any effect its announced minor concessions might have had.
Within the regime, Nhu and his wife were severely criticizing Diem for caving in under Buddhist pressure. Mme. Nhu publicly ridiculed the Buddhist suicide as a "barbecue," accused the Buddhist leaders of being infiltrated with communists, and construed the protest movement as Viet Cong inspired. Both Nhu and his wife worked publicly and privately to undermine Diem's feeble efforts at compromise with the Buddhists, and rumors that Nhu was considering a coup against his brother began to circulate in July.
A U.S. Special National Intelligence Estimate on July 10 concluded with the perceptive prediction that if the Diem regime did nothing to implement the June 16 agreement and to appease the Buddhists, the likelihood of a summer of demonstrations was great, with the strong possibility of a non-communist coup attempt. [Doc. 21] By mid-August a week before Nhu launched general raids on Buddhist pagodas in Saigon and elsewhere, the CIA had begun to note malaise in the bureaucracy and the army:
Since the Buddhist dispute with the Diem government erupted on 8 May, there have been a series of reports indicating not only intensified plotting and grumbling among Diem's traditional non-Communist critics, but renewed restiveness and growing disaffection in official civilian and military circles over Diem's handling of the dispute.
This estimate went on to detail numerous rumors of coup plots in existence since at least late June. But Nhu, in a bold move designed to frighten coup plotters, and to throw them off guard, had called in the senior generals on July 11, reprimanded them for not having taken action to squelch revolt, and questioned their loyalty to the regime. Nhu's move seemed to have temporarily set back all plans for an overthrow. CIA also reported rumors that Nhu himself was planning a "false coup" to draw out and then crush the Buddhists.
In August, Buddhist militancy reached new intensity; monks burned themselves to death on the 5th, 15th, and 18th. The taut political atmosphere in Saigon in mid-August should have suggested to U.S. observers that a showdown was on the way. When the showdown came, however, in the August 21 raids on the pagodas, the U.S. mission was apparently caught almost completely off guard.
B. THE U.S. "NO ALTERNATIVES TO DIEM" POLICY
(SNIPPED)


CÙNG DỊCH GIẢ (CÁC TÀI LIỆU GIẢI MẬT LIÊN QUAN ĐẾN PHẬT GIÁO):





-Chuyện 50 năm nhìn lại!

Lữ Giang

Hôm 11.6.2013 vừa qua, Đảng CSVN đã cho tổ chức một cuộc hội thảo mang tên là 50 năm phong trào Phật Giáo ở miền Nam (1963 – 2013) tại Khu Du lịch Phương Nam ở Bình Dương. Hai cơ quan đứng ra tổ chức là Học viện Phật giáo VN tại Sài Gòn phối hợp với Trường ĐH KHXH&NV. Trưởng ban tổ chức làHòa Thượng Thích Trí Quảng, người Củ Chi, một đảng viên Đảng CSVN, hiện đang giữ 3 chức vụ là Phó Chủ tịch Hội Đồng Trị Sự Giáo Hội Phật Giáo Nhà Nước, Trưởng ban Trị Sự Thành Hội Phật Giáo TP.HCM và Tổng Biên Tập Báo Giác Ngộ. Có gần 50 đề tài do những người được giới thiệu là có học vị cao thuyết trình. Tất cả các bài thuyết trình này đã được in lại thành tập, gồm 4 nội dung chính sau đây:

1.- Từ phong trào chấn hưng Phật giáo đầu thế kỷ XX đến phong trào đấu tranh của Phật giáo miền Nam Việt Nam năm 1963.


2.- Bối cảnh lịch sử, nhân vật, sự kiện, văn học… trong phong trào Phật giáo miền Nam Việt Nam.
3.- Ý nghĩa, vai trò và bài học lịch sử từ phong trào đấu tranh chống chế độ Sài Gòn của Phật giáo miền Nam.
4.- Con đường đồng hành cùng dân tộc, đạo pháp và chủ nghĩa xã hội của Phật giáo trong sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam hiện nay.


Năm nay, người sáng lập nhóm Giao Điểm ở hải ngoại là Bùi Hồng Quang không về dự hội thảo. Chỉ có Cao Huy Thuần về đọc một bài tham luận với đề tài vớ vẩn là Bản chất văn hóa của cuộc đấu tranh Phật giáo trong pháp nạn 1963. Nhưng để thực hiện công tác “phục vụ cho việc tuyên truyền đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước ta” như Bộ Công An đã giới thiệu, nhóm Giao Điểm có góp phần bằng cách cho phổ biến Tuyển Tập Chế Độ Ngô Đình Diệm 50 Năm Nhìn Lại 1963 - 2013 gồm đa số là những “đồ cổ giả” được đem ra nhai lại.

MỘT VÀI NHẬN XÉT TỔNG QUÁT


Nhìn qua các đề tài được thuyết trình và cung cách tổ chức hội thảo, chúng tôi có 3 nhận xét tổng quát sau đây:
1.- Chơi trò cướp công của CIA
Khi cho tổ chức cuộc hội thảo nói trên, Đảng CSVN đã chơi trò đánh lận con đen, mượn đầu heo nấucháo, chôm chỉa credit… của CIA.


Qua các tài liệu lịch sử được tiết lộ, ngày nay ai cũng biết biến cố Phật Giáo năm 1963 là do Mỹ thực hiện để lật đổ chế độ Ngô Đình Diệm và đổ quân vào miền Nam. Phật giáo chỉ được xử dụng như một công cụ, xài xong rồi bỏ. Chính Hòa Thượng Thích Quảng Độ, Tăng Thống của Giáo Hội Ấn Quang cũng đã phủ nhận việc Phật Giáo lật đổ chế độ Ngô Đình Diệm. Trong Thông Tư số 07/VHĐ/VT ngày 17.1.2010 gởi cho các cơ quan truyền thông, Hoà Thượng đặt câu hỏi:
Từ đêm 20.8 (1963) chính quyền tấn công chùa chiền, bắt bớ Tăng Ni cho đến ngày 2.11.1963 chư Tăng Ni, Phật tử, hàng giáo phẩm lãnh đạo Ủy ban Liên Phái Bảo vệ Phật giáo (tiền thân của GHPGVNTN) còn nằm trong tù, thì làm sao họ có thể là “chủ lực” lật đổ Tổng thống Ngô Đình Diệm đưa tới vụ thảm sát ông và bào đệ ông?”
Thế mà nay Đảng CSVN và Giáo Hội Phật Giáo Nhà Nước lại cho rằng Phật Giáo và Đảng ta là yếu tố đưa đến sự sụp đổ của chế độ Ngô Đình Diệm. Như vậy là họ đã cướp công của CIA.

2.- Chỉ viết và nói theo đơn đặt hàng
Những người viết và thuyết trình được giới thiệu là Giáo sư, Phó Giáo sư, Tiến sĩ, Phó Tiến sĩ, nhưng đọc các bài họ viết chúng ta thấy đều một chiều, nông cạn, phản khoa học và dùng nhiều vọng ngữ để lấp liếm. Điều này cũng dễ hiểu thôi: Khi mục tiêu đã định trước là Con đường đồng hành cùng dân tộc, đạo pháp và chủ nghĩa xã hội của Phật giáo trong sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam hiện nay thì không thể viết khác được. Ngoài ra, sự hiểu biết của các thuyết trình viên rất giới hạn về các hoạt động của “đế quốc Mỹ”, nhất là các thủ đoạn tinh vi của CIA, tại miền Nam Việt Nam nên không thể thấy được mặt trái đàng sau.

Phương pháp viết lại hoàn toàn phản khoa học: Chỉ chọn những tài liệu nào hợp với chủ đích của mình để trích dẫn, mặc dù sai, còn những tài liệu không hợp với chủ đích đều bị bỏ ra ngoài, mặc dù đó là sự thật. Đây cũng là lối viết của nhóm Giao Điểm ở hải ngoại. Một thí dụ cụ thể là bản phúc trình điều tra về vụ Phật Giáo năm 1963 của phái đoàn LHQ, mặc dầu là một tài liệu lịch sử quan trọng, lại không hề được nhắc đến vì nó hoàn toàn trái với những điều Đảng muốn loan truyền.


Bài thuyết trình được chúng tôi chú ý là bài “Phong trào đấu tranh của Phật giáo miền Nam Việt Nam 1963 - Nhìn từ hồ sơ lưu trữ Bộ Ngoại giao Mỹ” (1961 – 1963) của Phó Giáo sư Tiến sĩ Trương Văn Chung,Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Tôn giáo, nhưng khi đọc chúng tôi lại rất thất vọng,


Đây là tài liệu đã được in thành 4 tập rất dày: Volume I (1961), Volume II (1962), Volume III (từ tháng 3 đến tháng 8)và Volume IV (từ tháng 8 đến tháng 12). Thế mà ông ta đã viết theo kiểu mù sờ voi với kết luận:

“Từ những hồ sơ lưu trữ trên có thể nhận thấy: Cuộc đấu tranh của Phật giáo miền Nam năm 1963. Trước hết là cuộc đấu tranh vì tự do, bình đẳng tôn giáo, chống lại chế độ kỳ thị, bài xích tôn giáo. Sự phát triển của phong trào đấu tranh này tự nhiên, tất yếu trở thành một bộ phận của phong trào yêu nước đấu tranh vì độc lập dân tộc và thống nhất tổ quốc.”


Ý tưởng này rút từ đâu ra vậy?

3.- Biến Phật Giáo thành công cụ
Chủ đề phần 4 của cuộc hội thảo được ghi rất rõ: “Con đường đồng hành cùng dân tộc, đạo pháp và chủ nghĩa xã hội của Phật giáo trong sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam hiện nay.” Trong thực tế, Đảng CSVN đã chính thức biến Phật Giáo thành công cụ từ năm 1980 khi hình thành Giáo Hội Phật Giáo Nhà Nước.


Trong bài diễn văn bế mạc cuộc hội thảo, Hòa Thượng Trí Quảng cho biết: “Như hiện tại, Giáo hội chúng ta có khoảng 4 vạn Tăng Ni, 4 học viện Phật giáo và trên 30 trường trung cấp, Tăng Ni đã được mở mang kiến thức và đang có những đóng góp thiết thực cho xã hội, đất nước. Tôi tin tưởng Phật giáo sẽ còn đóng góp nhiều cho đất nước, dân tộc và sẽ có vị trí xứng đáng trong lòng dân tộc".

Ở trong nước hiện nay có trên 90% tổ chức Phật Giáo đã vào quốc doanh, chỉ còn chưa đến 10% đang ở ngoài hay chống lại nhà cầm quyền CSVN. Họ đã phải quay trở lại với Hoa Kỳ và đã bị biến thành con bài thí, mất gần hết các cơ sở hạ tầng và đang bị chia rẽ trầm trọng trong nội bộ. Điều này cho thấy làm công cụ cho Mỹ hay cho Cộng Sản đều bi thảm.

LÀM SÁNG TỎ LỊCH SỬ
Một bài thuyết trình được chúng tôi chú ý nữa là bài “Lịch sử Phật giáo Việt Nam trong ngày 11-6-1963 đã bị mạo hóa” của cư sĩ Tâm Diệu ở cuối phần thứ hai của tập tài liệu. Tâm Diệu là một biên tập viên củathuvienhoasen.org, có địa chỉ ở đường Moran, Westminster, California. Đây là một cơ quan thông tin Phật Giáo đang đi chàng hảng, nữa trong nước nữa ngoài.


Chữ “mạo hóa” mà ông dùng ở đây đồng nghĩa với thuật ngữ “vọng ngữ” trong Phật Giáo mà chúng tôi thường nhắc đến. Chữ này phải được trả lại cho phe Phật Giáo đấu tranh vì trong suốt 50 năm qua họ không ngừng nghỉ dùng vọng ngữ với hy vọng “hóa giả.” những thảm họa mà họ đã đã gây ra cho đất nước và Phật Giáo. Vụ mà ông Tâm Diệu cho là đã bị “mạo hóa” là vụ tự thiêu của Hòa Thượng Quảng Đức ngày 19.6.1963. Nhưng như chúng tôi đã viết nhiều lần, các tài liệu được công bố cho thấy vụ này do CIA thực hiện và Phật giáo đã bị dùng làm công cụ. Xin tóm lược như sau:

1.- Ngọn đuốc của ai?
Một tài liệu được công bố năm 2000 cho biết William Kohlmann, một nhân viên tình báo Mỹ đang làm việc ở Anh có quen biết với Trần Quang Thuận khi Thuận đang học ở Anh, đã được điều động qua Sài Gòn để làm một biến cố Phật Giáo. Tuy là nhân viên CIA nhưng ông được gởi đến ở cơ quan USAID. Tài liệu nói rõ Một Phật tử trẻ đã được Kohlmann nuôi dưỡng là một tăng sĩ đã hoàn tục có tên là Trần Quang Thuận (One young Buddhist Kohlmann had cultivated was a lapsed bronze named Tran Quang Thuận).

Hai người đóng vai trò chính trong việc tổ chức tự thiêu cho Hòa Thượng Quảng Đức là Trần Quang Thuận và Thích Đức Nghiệp.


Bill Kohlmann kể lại khi mua xăng về đã được khuyến cáo là phải đổ thêm Diesel vào cho cháy chậm lại (Mixing equal parts of gasoline and diesel fuel produced a more intense and longer-lasting flame). Ký giả Malcolm Browne của hãng thông tấn AP có nhiệm vụ báo tin cho các ký giả đến đúng lúc để quay phim, chụp hình và gởi đi khắp thế giới. “Ngọn đuốc của CIA” này đã làm chấn động thế giới.
Malcolm Browne là ai? Frank W. Snepp, Trưởng nhóm phân tích chiến lược của CIA tại Sài Gòn, cho biết nhiều ký giả đã được chính phủ Hoa Kỳ xử dụng như Keyes Beech của tờ Chicago Daily News, George McArthur của Los Angeles Times, Robert Shaplen của New Yorker, Bud Merick của U.S. News & World Report và Malcolm Browne của The New York Times. (xem How the CIA Manages the Media, trang 27). Theo Frank W. Snepp, Browne đã thi hành công tác giao phó một cách vô tư, không nghi ngờ gì cả. Ông nói thêm “Chúng tôi thường dùng Browne để chuyển thông điệp cho Cộng Sản”(xem El Paso Herald Post, ngày 21.11.1977).
Trong vụ Hòa Thượng Quảng Đức, Malcolm Browne cũng đã hoàn thành công tác một cách hoàn hảo.Ông đã qua đời ngày 27.8.2012 vì bệnh Parkinson.

2.- Tự thiêu hay bị thiêu?


Chuyện Nguyễn Công Hoan rưới xăng và đốt Hòa Thượng Quảng Đức được tường thuật trong cuốnHồi ký trong lòng địch” của Trần Trung Quân. Đó chỉ là một cuốn tiểu thuyết giả tưởng. Các hình ảnh được công bố gần đây cho thấy người rưới xăng lên Hòa Thượng Quảng Đức là một tăng sĩ chứ không phải một cư sĩ. Vậy ai là người đã rưới xăng và châm lửa đốt? Chúng ta hãy nghe các nhân chứng kể lại.

Thích Đức Nghiệp:


Thầy Chơn Ngữ có trách nhiệm đổ hết xăng từ đầu tới chân Hòa thượng Quảng Đức khi cùng ngồi trên xe Austin để đi tới ngã tư đường Phan Đình Phùng và Lê Văn Duyệt trước tòa Đại sứ Cao Mên

“Tôi đi bên cạnh xe của Hòa thượng. Khi xe ngừng lại Hòa thượng bước xuống, tôi trao tay Hòa thượng bao quẹt và bao diêm để Hòa thượng tự bật lửa thiêu.”


Thích Chơn Ngữ:



“Tay trái tôi xách thùng xăng, tay mặt tôi dìu Ngài bước ra xe và mời Ngài ngồi xuống. Ngài ngồi “Kiết Già” tay mặt đặt lên tay trái. Tôi cầm thùng xăng đáng lẽ tưới lên vai Ngài, nhưng vì hốt hoảng lo sợ mật vụ tới nên đã đổ xăng từ đầu Ngài trở xuống. Ngài mở hộp diêm rút 5, 6 que rồi quẹt mạnh. Lửa tức tốc bừng cháy đốt ngay thân xác Ngài như một pho tượng trong khi các tăng ni quỳ xuống vừa khóc vừa niệm: A Di Đà Phật."

Malcolm Browne: Trong cuộc phỏng vấn của Thượng Toạ Thích Quảng Liên ngày 27.6.1963, Malcolm Browne nói:
“Ngay lúc đó, vị hòa thượng rút ra một hộp diêm, quẹt một que và thả nó rơi vào lòng.”


Một tài liệu khác có nói đến vụ thiêu Hoà Thượng Quảng Đức là bài phỏng vấn nhiếp ảnh gia Nguyễn Văn Thông. Ông Duy Anh phụ trách Cate Nhiếp ảnh (GoNews) ở Sài Gòn cho biết hôm 30.5.2010 ông đã đến thăm đồng nghiệp lão thành Nguyễn Văn Thông tại nhà riêng của ông ở Cư xá Đô thành, Quận 10, thành phố Sài Gòn. Ông Thông đã nói với ông như sau:


“Chiếc xe hơi dừng giữa đường, giả như hư máy, các tăng ni chặn kín các ngả đường…. Sau khi người đẫm ướt xăng, Hòa thượng bật quẹt (đá lửa) do ướt xăng nên không cháy, nên ông nhận cái hộp quẹt khác rồi bật tiếp. Lửa cháy… Tôi chụp và khóc, tay run lên vì thấy nhà sư cao cả quá! Sau đó, tôi phóng một tấm lớn 50x60cm tặng cho nhà chùa. Năm sau (1964), tôi mới gởi ảnh ấy đi dự thi...".

Ông Nguyễn Văn Thông được nói là một mật vụ của chế độ cũ có nhiệm vụ đi chụp hình các biến cố xẩy ra, tình cờ ông đã có mặt tại đó và chụp được tấm hình Hoà Thượng Quảng Đức tự thiêu. Năm 1964 ông đã gởi tấm hình này đi dự thi và đoạt Giải Ngân hài bạc Anh quốc và Huy chương đồng Phần Lan.


Câu chuyện này chưa kiểm chứng được. Nhưng một thắc mắc khác lại được đặt ra:
Thích Chơn Ngữ nói Ngài mở hộp diêm rút 5, 6 que rồi quẹt mạnh. Lửa tức tốc bừng cháy…”,
còn Malcolm Browne bảo “vị hòa thượng rút ra một hộp diêm, quẹt một que và thả nó rơi vào lòng”.
Ông Nguyễn Văn Thông lại nói “Hòa thượng bật quẹt (đá lửa) do ướt xăng nên không cháy, nên ông nhận cái hộp quẹt khác rồi bật tiếp. Lửa cháy…”
Ai đúng ai sai? Lời Malcolm Browne kể khó tin được vì lúc đó người Hòa Thượng ướt đẩm xăng, bao quẹt chắc chắn phải ướt, làm sao ông quẹt được? Nếu ông Thông nói đúng thì lúc đó ai đã trao hộp quẹt khác cho Hòa Thượng Quảng Đức?


Điều đáng ngạc nhiên là lúc đó nhiều máy ảnh đã quay về Hòa Thượng Quảng Đức, không lẽ không ai chụp được tấm hình ai đang quẹt diêm hay bật lửa? Malcolm Browne nói: “Tôi xài khoảng 10 cuộn phim vì chụp luôn tay.” Như vậy không lẽ ông không chụp được tấm hình Hoà Thượng Quảng Đức đang quẹt lửa sao? Đa số vẫn tin rằng một người nào đó đã quẹt diêm hay bật lửa để thiêu Hoà Thượng Quảng Đức chớ không phải chính ông, nên Malcolm Browne đã giấu tấm hình đó đi. Họ tin rằng đây là một vụ bị thiêu chứ không phải tự thiêu.

Nhưng dù tự thiêu hay bị thiêu, Hoà Thượng Quảng Đức cũng chỉ làm con bài của Mỹ.

3.- No One Cares…
Trong bài “The Tragedy of Self Immolation - No One Cares” (Thảm kích tự thiêu – Chẳng ai quan tâm) phổ biến ngày 21.5.2013, ký giả Andrew Lam của New America Media đã tường thuật lại vụ Thích Quảng Đức tự thiêu được ký giả Malcolm Browne truyền đi, gây một biến cố lớn trong chiến tranh Việt Nam và từ ngữ “tự thiêu” (self-immolation) đã trở thành một từ ngữ thông dụng trong tiếng Anh. Nhưng sau đó tự thiêuchỉ còn là một đốm lóe sáng ít được các cơ quan truyền thông đại chúng chú ý. Từ năm 2009 đến nay đã có 117 người Tây Tạng tự thiêu, nhưng những cái chết của họ chẳng gây ảnh bao nhiêu.


Sau vụ Thích Quảng Đức, Phật Giáo Việt Nam tưởng rằng đối kháng theo kiểu đó là thượng sách, nên đã thực hiện thêm 30 vụ dưới thời VNCH và 22 vụ dưới thời Cộng Sản, nhưng tất cả đã trở thành tiếng kêu trong sa mạc. Tại sao?


Câu trả lời rất giản dị: Tại vì ngọn đuốc Thích Quảng Đức là ngọn đuốc CIA, còn các ngọn đuốc khác không có CIA nhúng tay vào nên “No One Cares”!

RỒI SẼ ĐI VỀ ĐÂU?
Từ năm 2005 trở lại đây, gần như năm nào nhà cầm quyền CSVN cũng phát động chiến dịch kỷ niệmBố tát Quảng Đức vị pháp thiêu thân rất rầm rộ để lôi kéo Phật tử và các tổ chức Phật Giáo đứng về phía họ. Trong cuộc hội thảo ngày 29.5.2005 tại Thiền Viện Vạn Hạnh ở Phú Nhuận, Đại tướng Mai Chí Thọ đã tuyên bố:
"Sự hy sinh anh dũng của Hoà thượng Quảng Đức không phải chỉ là ‘vị pháp thiêu thân’ mà là ‘vị quốc thiêu thân’. Hành động ấy đã biến thành động lực cách mạng, góp phần giải phóng đất nước 12 năm sau đó.
Chiến dịch này xem ra đã thành công. Không phải chỉ Phật tử và các tổ chức Phật Giáo ở trong nước đi theo chính quyền mà một số tổ chức Phật Giáo hải ngoại cũng đã “hiệp thông”.


Trong bài “Bản chất văn hóa của cuộc đấu tranh PG trong Pháp nạn 1963 đọc sau cùng của buổi hội thảo, Cao Huy Thuần đã lặp lại lời bổn sư của ông ta là Thích Trí Quang:
Phật giáo làm hết sức mình để phụng sự tổ quốc và dân tộcchống lại những ai lợi dụng tôn giáo để tìm cách thống trị chính quyền và dân chúng, và kêu gọi Phật tử ủng hộ hết lòng các chính sách tốt và chống lại các chính sách xấu: đó là "sức mạnh" mà người ta có thể tìm thấy trong Phật giáo.”
Nhưng khi đọc bài tham luận này, Cao Huy Thuần đang làm công cụ cho những kẻ “lợi dụng tôn giáo để tìm cách thống trị chính quyền và dân chúng.” Nhiều Phật tử và tổ chức Phật giáo khác cũng đang làm công cụ như ông. Liệu rồi đạo pháp và dân tộc sẽ đi về đâu?

Ngày 20.6.2013

Lữ Giang-Chuyện 50 năm nhìn lại!






Dự thảo Hiến pháp: sự gian lận có hệ thống? (RFA 27-6-13) ◄

Việt Nam phá giá đồng bạc: Vietnam Devalues Its Currency, the Dong, to Aid Economy (WSJ 27-6-17) Vietnam Weakens Dong Reference Rate for First Time Since 2011 (Bloomberg 27-6-13) Vietnam weakens dong by 1 pct against dollar (Reuters 27-6-13). Báo Việt nam thì (có lẽ nghe lời ông Bình) dùng chữ "tăng tỷ giá" Tăng tỷ giá 1%, giảm trần lãi suất về 7% (VEF 27-6-13). Cũng phải khen chính phủ phối hợp chặt chẽ: Phá giá đồng bạc vào đúng ngày tuyên án hoa hậu bán dâm!


“Nhân cách chỉ có được trong một xã hội thực sự có độc lập, dân chủ, tự do…” (viet-studies 27-6-13) -- P/v GS Nguyễn Huệ Chi ◄◄

Khêu gợi trên mạng: Mức nào là đồi trụy? (KP 27-6-13) -- Nhại lời Potter Stewart, một quan toà trong Tối cao Pháp viện của Mỹ: Tôi sẽ biết khi tôi thấy (I know it when I see it)

Sử kể (TT 25-6-13) -- Bài Phạm Hoàng Quân

Cuộc thi thơ ĐBSCL lần thứ V: Vì đâu nên nỗi? (SGGP 26-6-13) Văn thơ đồng bằng, còn “nghẹn” đến bao giờ? (LĐ 27-6-13)

Giáo viên, chuyên gia “kêu than” về chương trình, SGK nặng và khó (DT 27-6-13)

Người Việt ở Italia ( ĐĐK 21-6-13)

Nhà thơ Đinh Thu Hiền kể chuyện viết hồi ký Ái Vân (VnEx 27-6-13)


- Phỏng vấn Chánh Trị sự Hứa Phi: Chức sắc Cao Đài tham gia Liên tôn bị mời làm việc! (RFA).

- Việt Nam : Tiếng than của dân oan rền vang hai miền Nam-Bắc (RFI).

- Những đổi thay từ trong lòng xã hội Châu Á (Financial Times/Defend the Defenders).




- TBT Trọng thăm và nhận bằng ở Thái Lan (BBC). - Đại học Thái trao bằng cho TBT Việt Nam (BBC). . - Thái Lan cấp bằng Tiến sĩ danh dự cho Tổng Bí thư đảng CSVN (RFA). - Thư ngỏ về việc đại học Thái Lan trao bằng Tiến sĩ danh dự cho ông Nguyễn Phú Trọng (RFI). - Thư ngỏ phản đối việc trao bằng tiến sĩ danh dự cho ông Nguyễn Phú Trọng (VOA).- Chuyển động ngoại giao dồn dập ở Đông Nam Á (Bùi Văn Bồng).

---Ông Bá Thanh nói về bỏ phiếu tín nhiệm (BBC). - Con rể thủ tướng đầu tư vào truyền thông (BBC).

- Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng: Quản lý chặt chẽ thông tin lấy phiếu tín nhiệm (TP).

- Nguyễn Hưng Quốc: Trận chiến về quyền lực (VOA’s blog). “…

- “Tôi đi hối lộ…” (KT). - Xử vụ tham ô tại Điện lực Biên Hòa: Báo cấp trên, vẫn không thoát tội (PLTP).

- Hà Nội kỷ luật hàng loạt công chức (TQ). - Hà Nội giám sát đạo đức, văn hóa giao tiếp của công chức (TT).- Lãnh đạo tổ chức tiệc cưới không được mời quá 350 khách (TT). Ngô nghê!


Tổng số lượt xem trang