Năm 1958, cuốn phim “Một thời để yêu và một thời để chết” (A Time to Love and a time to die) dựa theo cuốn tiểu thuyết cùng tên của Văn Hào Erich Maria Remarque, đã làm cho hàng chục triệu trái tim trên thế giới xúc động. Những cá nhân trong truyện, thoạt đến, thoạt đi, như chuyện Liêu Trai, mới xuất hiện phút trước thì phút sau đã ra người thiên cổ. Chuyện tình của người chiến binh trong phim đó cũng chỉ là một giai đoạn ngắn ngủi trong một đời người.
Nhưng, tác hại của những cuộc chiến bảo vệ đất nước, nếu chỉ nói đến con số tử vong, thương tật như trên, thì chưa đủ vì những vết đau tinh thần mới là khủng khiếp, đè nặng trên tâm trí, tinh thần những nạn nhân của cuộc chiến mãi mãi không thể phai nhạt. Những người vợ góa, những đứa con thơ, những bà mẹ, những ông bố, anh chị em của các quân nhân ra mặt trận.. là những người đau đớn nhất, vì người chết thì đã chết rồi, còn lại người thân mang theo nỗi nhức nhối khôn nguôi. Đã là con người, ai cũng sợ chiến tranh, sợ tranh đấu, sợ chết, sợ ở tù. Vậy, tới đây, một câu hỏi đặt ra: Tại sao từ năm 1975 đến nay, trên giải đất từng được mệnh danh là “đất Rồng Tiên” này, vẫn có những chiến sĩ dũng cảm tiến lên, già, trẻ, thanh niên nam nữ, học sinh, sinh viên, tu sĩ, nông dân… mặc dù tay không còn cầm vũ khí nữa, mà chỉ ngẩng cao đầu, hiên ngang tiến về phía lực lượng khổng lồ của những kẻ đằng đằng sát khí, có súng, đạn, còng số 8 và nhà giam, để rồi chấp nhận những bản án bất công và vô lý dành cho những người can đảm ấy, tệ hơn nữa là sự tra tấn, hành hạ cho đến chết trong tù?
Tại sao vậy?
Chỉ có một câu trả lời duy nhất: TÌNH YÊU ĐẤT NƯỚC! Trong trái tim của những con người dũng cảm ấy, dù chỉ là một học sinh 18 tuổi, hay một cô sinh viên mới vào ngưỡng cửa đại học, tu sĩ Phật Giáo, Công Giáo, Mục Sư, Cư sĩ Cao Đài, một tín đồ Hòa Hảo hiền lành, một nông dân, suốt đời cầy sâu cuốc bẫm, đặc biệt hơn nữa là cả những người đã từng là Đảng Viên Cộng Sản, Sĩ quan cao cấp Quân Đội Nhân Dân, Giám Đốc Trường Đảng, Huyện Ủy, Bí Thư, Giáo Sư, Nhà Văn Nhân Dân, Nghệ Sĩ Nhân Dân… luôn có Tình Yêu Nước nồng nàn, cao vời, vượt hơn cả giá trị sinh mạng mình. Tình yêu nước, trong tim họ, lúc nào cũng cháy đỏ khiến họ quên tình yêu cá nhân, trai gái và cha mẹ; quên hạnh phúc lứa đôi, niềm vui tốt nghiệp, hạnh phúc giảng đạo, hay xum vầy bên luống rau, vườn cải. Họ chấp nhận từ bỏ những đặc quyền, đặc lợi của một đảng viên, của Sĩ Quan Quân Đội Nhân Dân, Giám Đốc, Bí thư, Đại úy Y Sĩ Công An, Nhà Báo Nhân Dân huy hoàng quyền lợi, vung tay một cái là mọi người chung quanh răm rắp cúi đầu…chỉ vì trong tim họ, vẫn còn Tình Yêu Nước chân chính.
Còn, những kẻ có mắt như mù, có óc như ngu, có miệng như câm.. của cái gọi là “chính phủ bù nhìn” kia thì dứt khoát là những kẻ không tim. Vì nếu có một quả thịt gọi là trái tim, thì nhất định phải biết điều đơn giản rằng: Tổ Quốc Việt Nam do Tổ Tiên hy sinh biết bao xương máu, thây chất như núi, máu chẩy đầy sông, không thể, vì vinh quang, phú quý, lên xe xuống ngựa, vì vài triệu đô la, vì gái đẹp, rượu ngon, vì các căn biệt thự mênh mông, vì sự quỳ gối cúi đầu của những tên hầu cận cũng là những tên không tim, óc.. mà sẵn sàng bán cả giang sơn cho giặc! Nhìn lại bản đồ hiện tại, chúng phải biết rằng tình hình đất nước đã thành một tỉnh của Tầu Khựa rồi.
Không, chúng chỉ là một lũ nô lệ khổng lồ không tim, không phải con dân Việt Nam, chưa từng học lịch sử Viêt Nam, và nếu có hình dạng bên ngoài giống người Viêt Nam, chúng chỉ là những đứa con hoang của Tầu Khựa mà thôi.
Ghi Chú:
-Lời Vua Lê Thánh Tông:
Kẻ nào dám dâng một thước đất cho giặc sẽ bị tội tru di.
-Lời Vua Trần Nhân Tông:
“Các người chớ quên, chính nước lớn mới làm những điều bậy bạ, trái đạo.
Vì rằng họ cho mình cái quyền nói một đường làm một nẻo.
Cho nên cái hoạ lâu đời của ta là hoạ nước Tàu.
Chớ coi thường chuyện vụn vặt xảy ra trên biên ải.
Các việc trên, khiến ta nghĩ tới chuyện khác lớn hơn.
Tức là họ không tôn trọng biên giới qui ước.
Cứ luôn luôn đặt ra những cái cớ để tranh chấp.
Không thôn tính được ta, thì gậm nhấm ta.
Họ gậm nhấm đất đai của ta, lâu dần họ sẽ biến giang san của ta
từ cái tổ đại bàng thành cái tổ chim chích.
Vậy nên các người phải nhớ lời ta dặn:
“Một tấc đất của Tiền nhân để lại,
cũng không được để lọt vào tay kẻ khác”.
Ta cũng để lời nhắn nhủ đó như một lời di chúc cho muôn đời con cháu”.
Vì rằng họ cho mình cái quyền nói một đường làm một nẻo.
Cho nên cái hoạ lâu đời của ta là hoạ nước Tàu.
Chớ coi thường chuyện vụn vặt xảy ra trên biên ải.
Các việc trên, khiến ta nghĩ tới chuyện khác lớn hơn.
Tức là họ không tôn trọng biên giới qui ước.
Cứ luôn luôn đặt ra những cái cớ để tranh chấp.
Không thôn tính được ta, thì gậm nhấm ta.
Họ gậm nhấm đất đai của ta, lâu dần họ sẽ biến giang san của ta
từ cái tổ đại bàng thành cái tổ chim chích.
Vậy nên các người phải nhớ lời ta dặn:
“Một tấc đất của Tiền nhân để lại,
cũng không được để lọt vào tay kẻ khác”.
Ta cũng để lời nhắn nhủ đó như một lời di chúc cho muôn đời con cháu”.
********
Father's Day 2013
Câu chuyện về bài thơ “Người Lính Già Vừa Chết Đêm Qua”
Tôi không nhớ chính xác ngày tháng nhưng khoảng cuối năm 1993. Một buổi chiều, bạn tôi, lúc đó đang sinh hoạt trong Tổng Hội Sinh Viên Bắc California gọi thăm. Cậu ta kể tôi nghe một câu chuyện cảm động vừa xảy ra ở San Jose. Một anh HO bị xe cán chết khi vô tình tìm cách băng qua freeway 101. Cảnh sát đưa xác anh vào nhà khám nghiệm và sau đó tìm cách thông báo thân nhân. Anh không có thân nhân. Anh sang Mỹ một mình theo diện HO. Vợ con anh vì lý do nào đó đã không cùng đi. Vài người quen của anh đến nhà xác để xin được nhận về chôn cất. Tất cả đều bị từ chối vì không ai có đủ thẩm quyền trực hệ. Gần một tháng sau, vợ của anh từ Việt Nam ký giấy ủy quyền cho một người bạn của anh ở San Jose. Xác của người lính già đó cuối cùng mới được đem ra và an táng.
Anh ra đi như một chiếc lá rơi, rất vội vàng như anh đã đến. Xác anh nằm chơ vơ như một con sóc nhỏ bên đường. Không ai dừng lại. Không ai tiếc thương. Nhưng với tôi, anh là hình ảnh của dân tộc Việt Nam, một dân tộc cô đơn và chịu đựng, một dân tộc có nhiều cách chết hơn cách sống. Tôi khóc cho anh bởi vì sẽ không ai khóc cho người Việt ngoài người Việt và cũng sẽ không ai cứu vớt dân tộc Việt Nam ngoài chính dân tộc Việt Nam. Và tôi tin sự sống sẽ nẫy mầm từ nỗi đau thương cũng như hy vọng sẽ lớn lên từ tận cùng thống khổ mà dân tộc chúng ta đã và đang phải trải qua.
Dưới đây là thơ và nhạc:
NGƯỜI LÍNH GIÀ VỪA CHẾT ÐÊM QUA
Người lính già Việt Nam
Vừa mới chết đêm qua
Trên đường phố San Jose bụi bặm
Anh đã đi bao nhiêu nghìn dặm
Ðến nơi đây chỉ để chết âm thầm
Không một phát súng chào
Không cả một người thân
Không ai nói với anh một lời tiễn biệt.
Người lính già Việt Nam
Như con thú hoang lạc loài
Trên freeway nhộn nhịp
Một tiếng rên thảng thốt chảy trong mưa
Một chiếc lá cuốn đi theo cơn gió cuối mùa
Một tiếng nấc rã rời trong đêm vắng.
Vợ anh đâu?
Sao không về đây vuốt mắt
Con anh đâu?
Sao không đến vấn khăn tang
Anh ra đi như anh đến
Rất vội vàng
Chẳng còn ai trên đời để khóc.
Nhân loại văn minh có nhiều cách sống
Nhưng đồng bào tôi có những kiểu chết rất lạ đời
Người vợ mang thai
Ôm lấy chồng cùng nhảy xuống biển khơi
Ðể khỏi phải rơi vào tay giặc Thái
Cho sóng biển Ðông nghìn năm còn ru mãi
Một bài ca chung thủy vọng về Nam
Ðể mỗi sớm chiều khi thủy triều dâng
Tổ quốc sẽ được bồi thêm
Bằng máu anh thịt chị.
Có những bà mẹ nửa đêm thức dậy
Ði bán máu mình mua gạo nuôi con
Ðường về chưa tới đầu thôn
Bà gục chết không kịp nhìn mặt con lần cuối
Ðứa con út cũng chết dần trong cơn đói
Miệng còn thì thào hai tiếng “Mẹ ơi !”
Những giọt máu tươi đã giết chết hai người
Sẽ đọng lại trong nghìn trang lịch sử
Cho nước sông Hồng bao giờ cũng đỏ
Như màu máu Mẹ Việt Nam.
Ðêm qua thêm một đứa con
Vừa mới chết trên đường phố San Jose nhộn nhịp
Anh không chết ở Hạ Lào, Bình Long, Cửa Việt
Anh không chết ở Hàm Tân, Suối Máu, Hoàng
Liên Sơn
Chết ở đây đất lạ sẽ thêm buồn
Trên mộ bia anh thêm một dòng chữ Mỹ.
Một người Việt Nam sinh nhầm thế kỷ
Và chết cũng nhầm nơi
Ðêm nay bên kia bờ trái đất xa xôi
Quê hương anh vẫn còn chìm trong lửa đỏ.
Tôi gởi anh đôi dòng thơ
Từ trái tim của một thằng em nhỏ
Cũng lạc loài lưu lạc như anh
Chúng ta, hai chiếc lá chung cành
Bay phơ phất trước từng cơn bão tố
Ngủ đi anh bình yên nơi chín suối
Ðau thương nầy em sẽ viết thay anh.
Trần Trung Ðạo
Nhạc sĩ Phan Ni Tấn phổ nhạc, Trần Trung Đạo hát: