-Sông Bắc VongBản đồ dưới đây, cắt ra từ tấm số 26 thuộc bộ bản đồ HUBG 1999. Đường đỏ là đường biên giới theo công ước Pháp Thanh 1887. Đường hồng biên giới theo HUBG 1999.
Các cột mốc theo công ước 1887 cắm chung quanh khu vực này là :
Mốc số 26, tên Lũng Mính Ải 隴茗隘. Au pied des rochers sur la rive gauche de la rivière. Tạm dịch: cắm dưới chân núi đá, phía tả ngạn của con sông.
Mốc số 27, Bản Chiêu Sơn 扳昭山. Au pied des rochers, à l’O de l’ancien poste français. Tạm dịch : cắm dưới chân núi đá, phía tây của một công sự cũ của Pháp.
Mốc số 28, Na Hà Ả i那荷隘. Sur le mamelon au N. du barrage (rive droite de la rivière). Tạm dịch : cắm trên đỉnh đồi, phía bắc của rào cản (phía hữu ngạn của dòng sông).
Mốc số 29, Na Bài Sơn 那排山. Sur la rive droite de la rivière au pied d’un petit mamelon, en face des rochers de la rive gauche. Tạm dịch : cắm ở phía bờ hữu ngạn của dòng sông, đối diện với tảng đá ở bờ bên kia.
Mốc số 30, Bản Bản Hà 扳本河. Sur la rive droite à l’O du Cuc Lo au pied des rochers. Cắm ở bờ hữu ngạn, về phía tây Cuc Lo và ở dưới chân núi đá.
Theo biên bản mô tả vị trí cột mốc của công ước 1887, từ mốc số 28, 29, 30, đường biên giới là dòng sông.
Đường biên giới trong khu vực này đã thay đổi, VN mất đất ở hai nơi (trên bản đồ này lãnh thổ VN ở phía bắc, TQ ở phía nam) :
1/ Khu vực gần cột mốc cũ, số 26. Biên giới từ cột 25 đến cột 26 là sông Bắc Vong. Đường biên giới rời sông, nơi khúc quanh rẻ về hướng tây, bắt vào đỉnh ngọn núi phía đông bắc thiên bắc, sau đó theo đường sống núi cho đến mốc số 27.
Đường biên giới mới, là sông Bắc Vong, đến khúc rẻ về hướng tây, thay vì rời sông, lại tiếp tục đi theo sông về hướng tây, sau đó rời sông để bắt lên các ngọn núi ở phía sau đường biên giới cũ như vẽ trên bản đồ.
2/ Khu vực từ mốc cũ số 28 đến mốc số 30, đường biên giới theo công ước 1887 là nhánh suối, phụ lưu của sông Bắc Vong. Đường biên giới mới 1999, không theo nhánh suối, mà lên đỉnh các ngọn đồi phía bắc của con suối này. VN mất đất chiều dài khoảng 5km, chiều rộng khoảng 1km, là một thung lũng dài, nối qua bên TQ.
Đường đỏ là đường biên giới theo công ước 1887. Đường hồng là biên giới theo HUBG 1999. Phần gạch chéo trên bản đồ là phần đất VN bị mất cho TQ. Lưu ý, trong khu vực này, lãnh thổ của VN ở phía bắc, của TQ ở phía nam.
-Giải Âm Sơn hay Lão Sơn ?Vùng đất gạch chéo trên bản đồ có tên là Giải Âm Sơn hay Lão Sơn ?
Điều này không còn quan trọng. Việc quan trọng là nó đã mất cho Trung Quốc.
Việc quan trọng khác, theo tài liệu của nhà văn Phạm Viết Đào, nhiều trung đoàn bộ đội VN đã hy sinh để cố gắng giành lại dãi đất này.
Vùng gạch chép trên bản đồ là một ngọn núi, ở kế cận cửa biên giới Thanh Thủy. Nó có giá trị chiến lược quan trọng. Ngọn núi này có thể kiểm soát, không chỉ con sông Thanh Thủy, mà còn tất cả những cửa ngõ, những sinh hoạt của VN ở vùng chung quanh (Hà Giang).
Lãnh đạo CSVN đã đưa quân chiếm đất của TQ (tài liệu CIA, khoảng 50km²), làm cớ cho TQ đánh VN năm 1979. Dĩ nhiên trong cuộc chiến 1979, TQ đã lấy lại vùng đất mà VN chiếm trước đó, mà còn chiếm hàng loạt các vị trí quan trọng về kinh tế và chiến lược khác dọc trên đường biên giới. Những vùng bị chiếm này gọi là « chiến lợi phẩm », không dễ gì mà TQ trả lại cho VN.
Kết quả so sánh bản đồ cho thấy, hiệp định biên giới 1999 đã chính thức hóa chủ quyền của TQ tại các vùng đất này.
Vùng đất, có gạch chéo trên bản đồ, ở kế cận sông Thanh Thủy, là một thí dụ. Các thí dụ khác đã công bố ở bài trước đây.
Dầu vậy, trên bản đồ của nhóm Quĩ Nghiên Cứu Biển Đông, không chỉ sông Thanh Thủy bỏ dòng chảy của nó để chảy sang nơi khác, mà đường biên giới ở đây cũng ở xa về phía bắc.
Theo dõi quá trình cắm mốc biên giới, người viết ghi nhận rằng cột mốc có tầm quan trọng hàng đầu đối với quân đội Pháp (sau năm 1892, vấn đề cắm mốc do quân đội phụ trách), là cột mốc cắm tại núi Khấu Mai (Pháp viết là Cao-May hay Khao-moué). Núi này ở phía nam Thủy Khẩu, biên giới giữa Long Châu thuộc TQ và Cao Bằng thuộc VN. Đây là ngọn núi có tầm chiến lược quan trọng (vào thời đó), vì nó kiểm soát con đường dọc biên giới, có nguồn nước, có thể đặt công sự để kiểm soát toàn vùng Long Châu.
Đỉnh ngọn núi này thuộc về VN do việc người Pháp trao đổi toàn bộ tổng Đèo Lương (Đèo Luông) cho Trung Quốc, cộng thêm điều kiện không được đặt công sự quá 25 người trên núi.
Khu vực này được giải quyết năm 1893. Có đến 3 cột mốc được cắm chung quanh núi Khấu Mai : Cột số 14 cắm dưới chân núi, phía đông. Cột 15 cắm trên sườn núi, phía đông. Cột 16 cắm dưới chân núi, phía tây-bắc. Như thế phía Trung Quốc được hưởng một góc nhỏ của trái núi này, theo như bản đồ dưới đây.
Tuy vậy, phía TQ không hài lòng vì tất cả các cuộc chuyển quân của họ đóng tại Long Châu và vùng chung quanh đều lọt vào mắt của công sự Pháp đặt trên núi. Vì vậy họ tìm cách dời cột mốc lên cao hơn.
Do việc lấn đất này, năm 1936, nhà cầm quyền Pháp đã phải làm áp lực với phía TQ để cắm mốc lại.
Ngoài việc đem các cột mốc về vị trí cũ, cột mốc số 14 bis được cắm thêm, theo biên bản ngày 2-3-1936. Theo đó cột 14 bis cách cột 14 là 580m về phía tây-nam, theo hướng đông đông-nam so với cột 15.
Nhưng vấn đề cột mốc số 14 cắm ở sườn núi Khấu Mai vẫn chưa chấm dứt. Theo tin từ các tài liệu của nhóm Lê Đức Anh tố cáo Lê Khả Phiêu bán đất nhượng biển cho TQ. Ta thấy Giang Trạch Dân yêu cầu đưa mốc số 14 lên đỉnh núi, với lý do ngày trước công nhân không đưa cột mốc lên đến đỉnh mà bỏ lại ở sườn núi.
Trong hồ sơ cắm mốc 1887-1897, cột mốc cắm trên sườn núi tại Khấu Mai là trường hợp duy nhất. Tất cả các cột mốc khác đều được cắm trên đỉnh núi.
Điều cũng cần ghi nhận, nếu Pháp nhượng núi này cho TQ, VN không bị mất tổng Đèo Lương (diện tích khoảng 300km²) mà sẽ không có vụ tranh chấp thác Bản Giốc. Vị trí tổng Đèo Lương, trên bản đồ, là phần lõm về phía đông-bắc Cao Bằng, bao gồm thác Bản Giốc với một đoạn dài sông Qui Xuân (Qui Thuận.)
So sánh hai mảnh bản đồ, một mảnh từ tấm 27 của bộ bản đồ theo HUBG 1999, một mảnh từ bản đồ biên giới do Sở Địa dư Đông dương ấn hành. Ta thấy cột mốc biên giới mới được cắm trên núi Khấu Mai. Tương tự với các cột mốc chung quanh.
Hình trên : góc bản đồ SGI. Biên giới 1887 là đường đỏ, biên giới 1999 đường màu hồng.
Hình trên : góc tấm bản đồ số 27. Biên giới 1887 đường đỏ ; biên giới 1999 đường hồng.
Mất đất vùng này ước lượng vài cây số vuông. Con số thì nhỏ nhưng tầm quan trọng chiến lược cực kỳ lớn. Giang Trạch Dân, chủ tịch nước kiêm TBT đảng CSTQ, đích thân can thiệp cho mọi người thấy tầm quan trọng của ngọn núi này.
- Biên giới Việt – Trung bao điều nhức nhối (Phi Vũ).
- Bão số 10 quật đổ cột cờ Trung Quốc cắm phi pháp tại Hoàng Sa (GDVN).
-Bổ túc: VN mất đất khu vực Bảo Lâm.Khu vực Bảo Lâm, tấm 29 : Tương ứng vùng bao gồm các cột mốc 23, 24, 25, 26, 27 trên bản đồ công ước 1887.
Khu vực này có ba nhánh sông, phụ lưu của sông Tả Giang. Trên bản đồ, các nhánh sông này vẽ màu xanh lá cây.
Đường biên giới, theo bản đồ phân giới 1887, và theo mô tả các văn bản phân giới, là đường sống núi, nối các đỉnh núi. Biểu diễn trên bản đồ là đường đỏ. Đường này ở khoảng giữa hai nhánh sông 1 và 2.
Xét trên bản đồ 1999, đường biên giới mới (vẽ màu hồng) đã dời xuống khá xa về phía nam, đi ở khoảng giữa nhánh sông 2 và 3.
Như vậy, VN bị mất một vùng đất khá rộng, gồm cả nhánh sông thứ 2, bề dày khoảng 2km, chiều dài khoảng trên 10km. Diện tích mất khá quan trọng (vài chục km²).
Việc mất đất này theo đúng như tố cáo của Bị vong lục thuộc bộ Ngoại giao VN trước đây. Nhưng mức độ mất đất nhiều hơn dự tính (khoảng 4km²).
--Khảo sát bộ bản đồ biên giới Việt-Trung (từ cửa sông Bắc Luân vào đến cửa Nam Quan)
Trương Nhân Tuấn - (Những vấn đề Việt Nam)samedi 28 septembre 2013
Các cột mốc theo công ước 1887 cắm chung quanh khu vực này là :
Mốc số 26, tên Lũng Mính Ải 隴茗隘. Au pied des rochers sur la rive gauche de la rivière. Tạm dịch: cắm dưới chân núi đá, phía tả ngạn của con sông.
Mốc số 27, Bản Chiêu Sơn 扳昭山. Au pied des rochers, à l’O de l’ancien poste français. Tạm dịch : cắm dưới chân núi đá, phía tây của một công sự cũ của Pháp.
Mốc số 28, Na Hà Ả i那荷隘. Sur le mamelon au N. du barrage (rive droite de la rivière). Tạm dịch : cắm trên đỉnh đồi, phía bắc của rào cản (phía hữu ngạn của dòng sông).
Mốc số 29, Na Bài Sơn 那排山. Sur la rive droite de la rivière au pied d’un petit mamelon, en face des rochers de la rive gauche. Tạm dịch : cắm ở phía bờ hữu ngạn của dòng sông, đối diện với tảng đá ở bờ bên kia.
Mốc số 30, Bản Bản Hà 扳本河. Sur la rive droite à l’O du Cuc Lo au pied des rochers. Cắm ở bờ hữu ngạn, về phía tây Cuc Lo và ở dưới chân núi đá.
Theo biên bản mô tả vị trí cột mốc của công ước 1887, từ mốc số 28, 29, 30, đường biên giới là dòng sông.
Đường biên giới trong khu vực này đã thay đổi, VN mất đất ở hai nơi (trên bản đồ này lãnh thổ VN ở phía bắc, TQ ở phía nam) :
1/ Khu vực gần cột mốc cũ, số 26. Biên giới từ cột 25 đến cột 26 là sông Bắc Vong. Đường biên giới rời sông, nơi khúc quanh rẻ về hướng tây, bắt vào đỉnh ngọn núi phía đông bắc thiên bắc, sau đó theo đường sống núi cho đến mốc số 27.
Đường biên giới mới, là sông Bắc Vong, đến khúc rẻ về hướng tây, thay vì rời sông, lại tiếp tục đi theo sông về hướng tây, sau đó rời sông để bắt lên các ngọn núi ở phía sau đường biên giới cũ như vẽ trên bản đồ.
2/ Khu vực từ mốc cũ số 28 đến mốc số 30, đường biên giới theo công ước 1887 là nhánh suối, phụ lưu của sông Bắc Vong. Đường biên giới mới 1999, không theo nhánh suối, mà lên đỉnh các ngọn đồi phía bắc của con suối này. VN mất đất chiều dài khoảng 5km, chiều rộng khoảng 1km, là một thung lũng dài, nối qua bên TQ.
Đường đỏ là đường biên giới theo công ước 1887. Đường hồng là biên giới theo HUBG 1999. Phần gạch chéo trên bản đồ là phần đất VN bị mất cho TQ. Lưu ý, trong khu vực này, lãnh thổ của VN ở phía bắc, của TQ ở phía nam.
-Giải Âm Sơn hay Lão Sơn ?Vùng đất gạch chéo trên bản đồ có tên là Giải Âm Sơn hay Lão Sơn ?
Điều này không còn quan trọng. Việc quan trọng là nó đã mất cho Trung Quốc.
Việc quan trọng khác, theo tài liệu của nhà văn Phạm Viết Đào, nhiều trung đoàn bộ đội VN đã hy sinh để cố gắng giành lại dãi đất này.
Vùng gạch chép trên bản đồ là một ngọn núi, ở kế cận cửa biên giới Thanh Thủy. Nó có giá trị chiến lược quan trọng. Ngọn núi này có thể kiểm soát, không chỉ con sông Thanh Thủy, mà còn tất cả những cửa ngõ, những sinh hoạt của VN ở vùng chung quanh (Hà Giang).
Lãnh đạo CSVN đã đưa quân chiếm đất của TQ (tài liệu CIA, khoảng 50km²), làm cớ cho TQ đánh VN năm 1979. Dĩ nhiên trong cuộc chiến 1979, TQ đã lấy lại vùng đất mà VN chiếm trước đó, mà còn chiếm hàng loạt các vị trí quan trọng về kinh tế và chiến lược khác dọc trên đường biên giới. Những vùng bị chiếm này gọi là « chiến lợi phẩm », không dễ gì mà TQ trả lại cho VN.
Kết quả so sánh bản đồ cho thấy, hiệp định biên giới 1999 đã chính thức hóa chủ quyền của TQ tại các vùng đất này.
Vùng đất, có gạch chéo trên bản đồ, ở kế cận sông Thanh Thủy, là một thí dụ. Các thí dụ khác đã công bố ở bài trước đây.
Dầu vậy, trên bản đồ của nhóm Quĩ Nghiên Cứu Biển Đông, không chỉ sông Thanh Thủy bỏ dòng chảy của nó để chảy sang nơi khác, mà đường biên giới ở đây cũng ở xa về phía bắc.
-Núi Khấu Mai (Khấu Mai Sơn, Khấu Mai Ðỉnh hay Khấu Mai Lĩnh), tấm số 27 (Trương Nhân Tuấn).
Theo dõi quá trình cắm mốc biên giới, người viết ghi nhận rằng cột mốc có tầm quan trọng hàng đầu đối với quân đội Pháp (sau năm 1892, vấn đề cắm mốc do quân đội phụ trách), là cột mốc cắm tại núi Khấu Mai (Pháp viết là Cao-May hay Khao-moué). Núi này ở phía nam Thủy Khẩu, biên giới giữa Long Châu thuộc TQ và Cao Bằng thuộc VN. Đây là ngọn núi có tầm chiến lược quan trọng (vào thời đó), vì nó kiểm soát con đường dọc biên giới, có nguồn nước, có thể đặt công sự để kiểm soát toàn vùng Long Châu.
Đỉnh ngọn núi này thuộc về VN do việc người Pháp trao đổi toàn bộ tổng Đèo Lương (Đèo Luông) cho Trung Quốc, cộng thêm điều kiện không được đặt công sự quá 25 người trên núi.
Khu vực này được giải quyết năm 1893. Có đến 3 cột mốc được cắm chung quanh núi Khấu Mai : Cột số 14 cắm dưới chân núi, phía đông. Cột 15 cắm trên sườn núi, phía đông. Cột 16 cắm dưới chân núi, phía tây-bắc. Như thế phía Trung Quốc được hưởng một góc nhỏ của trái núi này, theo như bản đồ dưới đây.
Tuy vậy, phía TQ không hài lòng vì tất cả các cuộc chuyển quân của họ đóng tại Long Châu và vùng chung quanh đều lọt vào mắt của công sự Pháp đặt trên núi. Vì vậy họ tìm cách dời cột mốc lên cao hơn.
Do việc lấn đất này, năm 1936, nhà cầm quyền Pháp đã phải làm áp lực với phía TQ để cắm mốc lại.
Ngoài việc đem các cột mốc về vị trí cũ, cột mốc số 14 bis được cắm thêm, theo biên bản ngày 2-3-1936. Theo đó cột 14 bis cách cột 14 là 580m về phía tây-nam, theo hướng đông đông-nam so với cột 15.
Nhưng vấn đề cột mốc số 14 cắm ở sườn núi Khấu Mai vẫn chưa chấm dứt. Theo tin từ các tài liệu của nhóm Lê Đức Anh tố cáo Lê Khả Phiêu bán đất nhượng biển cho TQ. Ta thấy Giang Trạch Dân yêu cầu đưa mốc số 14 lên đỉnh núi, với lý do ngày trước công nhân không đưa cột mốc lên đến đỉnh mà bỏ lại ở sườn núi.
Trong hồ sơ cắm mốc 1887-1897, cột mốc cắm trên sườn núi tại Khấu Mai là trường hợp duy nhất. Tất cả các cột mốc khác đều được cắm trên đỉnh núi.
Điều cũng cần ghi nhận, nếu Pháp nhượng núi này cho TQ, VN không bị mất tổng Đèo Lương (diện tích khoảng 300km²) mà sẽ không có vụ tranh chấp thác Bản Giốc. Vị trí tổng Đèo Lương, trên bản đồ, là phần lõm về phía đông-bắc Cao Bằng, bao gồm thác Bản Giốc với một đoạn dài sông Qui Xuân (Qui Thuận.)
So sánh hai mảnh bản đồ, một mảnh từ tấm 27 của bộ bản đồ theo HUBG 1999, một mảnh từ bản đồ biên giới do Sở Địa dư Đông dương ấn hành. Ta thấy cột mốc biên giới mới được cắm trên núi Khấu Mai. Tương tự với các cột mốc chung quanh.
Hình trên : góc bản đồ SGI. Biên giới 1887 là đường đỏ, biên giới 1999 đường màu hồng.
Hình trên : góc tấm bản đồ số 27. Biên giới 1887 đường đỏ ; biên giới 1999 đường hồng.
Mất đất vùng này ước lượng vài cây số vuông. Con số thì nhỏ nhưng tầm quan trọng chiến lược cực kỳ lớn. Giang Trạch Dân, chủ tịch nước kiêm TBT đảng CSTQ, đích thân can thiệp cho mọi người thấy tầm quan trọng của ngọn núi này.
- Biên giới Việt – Trung bao điều nhức nhối (Phi Vũ).
- Bão số 10 quật đổ cột cờ Trung Quốc cắm phi pháp tại Hoàng Sa (GDVN).
-Bổ túc: VN mất đất khu vực Bảo Lâm.Khu vực Bảo Lâm, tấm 29 : Tương ứng vùng bao gồm các cột mốc 23, 24, 25, 26, 27 trên bản đồ công ước 1887.
Khu vực này có ba nhánh sông, phụ lưu của sông Tả Giang. Trên bản đồ, các nhánh sông này vẽ màu xanh lá cây.
Đường biên giới, theo bản đồ phân giới 1887, và theo mô tả các văn bản phân giới, là đường sống núi, nối các đỉnh núi. Biểu diễn trên bản đồ là đường đỏ. Đường này ở khoảng giữa hai nhánh sông 1 và 2.
Xét trên bản đồ 1999, đường biên giới mới (vẽ màu hồng) đã dời xuống khá xa về phía nam, đi ở khoảng giữa nhánh sông 2 và 3.
Như vậy, VN bị mất một vùng đất khá rộng, gồm cả nhánh sông thứ 2, bề dày khoảng 2km, chiều dài khoảng trên 10km. Diện tích mất khá quan trọng (vài chục km²).
Việc mất đất này theo đúng như tố cáo của Bị vong lục thuộc bộ Ngoại giao VN trước đây. Nhưng mức độ mất đất nhiều hơn dự tính (khoảng 4km²).
--Khảo sát bộ bản đồ biên giới Việt-Trung (từ cửa sông Bắc Luân vào đến cửa Nam Quan)
Bản đồ sẽ nói lên nhiều thông tin hữu ích nếu người xem biết đọc nó. Việc so sánh bản đồ cũng vậy, nó cũng nói lên được nhiều điều. Nhưng kết quả còn tùy thuộc vào kiến thức và mục đích chính trị của người thực hiện.
Bộ bản đồ biên giới Việt-Trung, nhiều người quan tâm đến tình hình đất nước mong mõi từ bấy lâu nay, tình cờ được tiết lộ qua một nguồn tin không chính thức. Một số chi tiết kỹ thuật quan sát được như sau :
Bộ bản đồ bao gồm 35 tấm, tấm số 1 vẽ khu vực biên giới Việt-Trung-Lào, với cột mốc số 1 cắm trên ngọn Khoan La San là giao điểm của ba đường biên giới. Tấm cuối cùng số 35 vẽ khu vực biên giới thuộc cửa sông Bắc Luân, mốc chót mang số 1378 cắm trên bãi Dậu Gót. Tức vẽ theo số thứ tự của cột mốc từ tây sang đông. Bộ bản đồ này được vẽ theo hệ thống tọa độ WGS 84 (World Geodetic System 1984), theo phép chiếu Gauss-Kruger, lấy kinh tuyến trung tâm 105° và múi chiếu 6°, có tỉ lệ 1/50.000. Trên mỗi bản đồ chia theo từng múi kinh tuyến và vĩ tuyến biên độ 1’. Như vậy chiều dài một ô trên bản đồ, chiều ngang 1717m, dọc 1851m.
Như vậy bộ bản đồ này đúng theo tiêu chuẩn của quốc tế về đường biên giới. Tuy vậy, không biết do vô tình hay hữu ý, phẩm chất của các bản chụp rất tệ hại, các chi tiết trên bản đồ lem nhem, không rõ rệt. Thậm chí số các cột mốc còn không đọc được, các địa danh cũng vậy. Đọc và hiểu nó đã khó, so sánh nó với các bản đồ khác là cả một vấn đề !
Việc so sánh bản đồ là một vấn đề thuộc về kỹ thuật. Phép so sánh theo lối « chồng bản đồ” là việc thường thấy. Tuy nhiên việc so sánh này chỉ có thể đem lại kết quả chính xác nếu hai bản đồ có cùng tỉ lệ, cùng vẽ trên một hệ thống tọa độ, cùng một phép chiếu và cùng múi chiếu. Hiện nay, với các bộ bản đồ được số hóa, người ta có thể so sánh một cách dễ dàng hai bộ bản đồ, bằng phương pháp toán học để biết kết quả, với các nhu liệu thích hợp.
Bộ bản đồ biên giới Việt-Trung vừa công bố có hệ thống tọa độ đính kèm. Nếu muốn so sánh nó với một bộ bản đồ khác để xem kết quả được mất như thế nào, ta có hai phương pháp : 1/ so sánh với một tập hợp tọa độ của đường biên giới cho sẵn, 2/ so sánh với một bộ bản đồ làm chuẩn.
Theo tinh thần Hiệp ước Biên giới 1999, đường biên giới vẽ theo công ước Pháp-Thanh 1887-1895 được hai bên Việt-Trung công nhận có giá trị làm chuẩn. Đường biên giới này là đường biên giới đầu tiên của VN có tính « quốc tế », có giá trị công pháp quốc tế. Bộ bản đồ này được Sở Địa Dư Đông Dương ấn hành, gồm một bộ bản đồ 1/100.000 và một số tấm 1/50.000, vào các năm 1928 và các năm thuộc thập niên 40, 50. Công tác trắc địa cho bộ bản đồ này được thực hiện từ năm 1887 đến năm 1897, tức những năm phân định và phân giới, cắm mốc.
Kỹ thuật cắm mốc thời kỳ này còn thô sơ. Vị trí các cột mốc được mô tả theo vị trí tương đối của nó chứ không theo tọa độ như ngày nay. Một số thí dụ, cột mốc được cắm « trên đỉnh ngọn núi », « trên đỉnh đèo », « bên lề con đường, cách cổng biên giới xxx mét », « cắm trên đường từ A đến B », « tại giao điểm hai con đường từ A đến B và từ C đến D » v.v… Một số mốc đo theo cách thức « tam giác đạc », tức cột mốc cách điểm cố định A bao nhiêu mét (hay dưới một góc β) và B bao nhiêu mét…
Các bản đồ được vẽ thời kỳ này, nhiều tấm không để ý độ sai do độ cong của quả đất, do đó thiếu chính xác. Việc này chỉ được sửa chữa lại theo bộ bản đồ 1948. Dầu vậy, chưa có công tác nào, cho đến khi Pháp rút khỏi VN, bộ bản đồ biên giới này được hệ thống hóa theo hệ thống tọa độ.
Như thế, về kỹ thuật, người ta khó có thể so sánh theo lối chồng bản đồ, hay so sánh hệ thống tọa độ với tọa độ một bản đồ khác, thí dụ, bản đồ biên giới 1999.
Người ta chỉ có thể so sánh hai bộ bản đồ này với một kết quả tương đối chấp nhận được, là so sánh cùng lúc bản đồ và văn bản mô tả đường biên giới. Muốn chính xác hơn, phải ra thực địa để kiểm chứng lại.
Một vài kết quả sơ khởi của tác giả công bố sau đây, sau khi so sánh các tấm bản đồ từ số 35 đến số 30, tức khảo sát từ đông sang tây. Do hạn chế về thời gian và một số khó khăn về kỹ thuật, có thể tác giả còn sót ở một số điểm trên các tấm bản đồ này.
1/ Các bãi bồi ở cửa sông Bắc Luân : Khảo sát tấm bản đồ số 35.
Khu vực này tác giả đã từng viết qua, trong bài ở đây.
Theo tài liệu phân định biên giới, khu vực cửa sông Bắc Luân được xác định có độ dài khoảng 14 km, bắt đầu từ thượng lưu bãi Tục Lãm đến điểm đầu của đường phân định Vịnh Bắc Bộ. Trong vùng này có các cồn đất là bãi Tục Lãm, bãi Tài Xẹt và bãi Dậu Gót. Các bãi đất này chỉ mới được đất phù sa sông Bắc Luân bồi đắp sau khi phân định biên giới (1885-1897). Các bãi này chưa được xác định chủ quyền.
Đường biên giới khu vực cửa sông Bắc Luân được xác định vào ngày 31-12-2008. Số phận của các bãi này được xác định như sau :
Bãi Tục Lãm : VN được ¾, Trung Quốc được 1/4 bãi Tục Lãm
Bãi Dậu Gót : VN được 1/3 và TQ được 2/3 bãi.
Bãi Tài Xẹc : hoàn toàn thuộc về Trung Quốc.
Nguồn: báo chí trong nước.
Tuy nhiên, nếu xét lại các nguyên tắc phân chia các cồn, bãi bồi, cù lao… mới thành hình trên sông, hay trên biển của công ước 1887, ta thấy các bãi này thuộc về Việt Nam.
Thật vậy, nội dung công ước qui định, đường biên giới trên sông luôn là dòng chảy chính tàu bè qua lại, hoặc là dòng chảy sâu nhất. Nếu mưa lũ làm đổi dòng, thì cứ theo nguyên tắc này mà áp dụng. Các cồn, bãi… trên sông, ở về phía bên nào thì thuộc về bên đó. Các cù lao trên biển, thì đường kinh tuyến đi qua điểm cực đông đảo Trà Cổ làm tiêu chuẩn. Các cù lao, đảo ở phía đông đường này thuộc Trung Quốc, phía tây thuộc VN.
Cả hai trường hợp, các bãi bồi nói trên, qui định trên sông hay thuộc về biển, chúng cũng thuộc về VN.
Nhìn bản đồ vệ tinh ta thấy đường nước sâu nhất là đường nước màu xanh đậm, là đường tàu bè qua lại, tức là đường biên giới. Các bãi Tục Lãm, Tài Xẹc và bãi Dậu Gót đều ở phía hữu ngạn của dòng chảy sâu nhất (là đường biên giới), tức ở về phía VN. Các bãi này cũng nằm về phía tây đường kinh tuyến đi qua đông điểm đảo Trà Cổ.
2/ Khu vực Trình Tường (văn bản phân giới 1887 gọi là Trịnh Tường) :
Quan sát bản đồ VN vừa công bố, tấm số 32.
Làng Trình Tường không còn tên trên bản đồ. Hình dưới đây là một góc của tấm bản đồ số 32. Đường đỏ là đường biên giới cũ (1887). Đường hồng là đường biên giới mới (1999).
Quan sát mảnh bản đồ dưới đây, cắt ra từ bản đồ phân giới của Pháp-Thanh :
Đường biên giới cũ là đường đỏ (1887), biên giới mới là đường hồng (1999).
So sánh hai bản đồ, khu vực đất gạch chéo là đất của VN mất cho Trung Quốc.
Phần văn từ pháp lý : Biên bản phân giới ngày 11-3-1893, đoạn 3, biên giới khu vực liên quan được mô tả :
Đường trung tuyến của sông Đông Mô 洞謨 (Toung Mou), tức sông Tiên Yên, là đường biên giới cho tới phía bắc làng Đông Mô.
Những làng Bồ Nam 蒲楠 (Bou Nam), Khôn Văn 坤文 (Kw’an Ouen), Động Trung 峝中 (Toung Tchoung) thuộc về Trung Hoa ; những làng Na Bô 那簿 (Na Pou), Dinh Kiều 營叫 (Yng Kiao), Bản Sầm 本岑 (Penn Chin), Đông Phê 洞批 (Toung Pi) và Đông Mô 洞謨 (Toung Mou) thuộc về Việt Nam.
Đường biên giới sau đó là sông Na Sa 那沙 (Na-Cha), phụ lưu hữu ngạn sông Tiên Yên, chảy qua phía Đông làng Na Sa và phía Tây làng Đông Xã 洞舍 (Toung-Sié).
Na Sa thuộc về Việt Nam và Đông Xã thuộc về Trung Hoa.
Đường biên giới, cũng là phụ lưu nói trên, sau đó đi đến giao điểm của sông này với con suối mà nguồn của nó cách Trịnh Tường 呈祥 (Tcheng Siang) 500 m ; đường biên giới theo dòng suối này từ giao điểm này cho tới nguồn của nó. Tại đây đường biên giới theo đường thẳng cho tới Bắc Cương Ải 北崗, đi ngang qua các đỉnh 675, 812 và 746 về phía Tây Bắc Trịnh Tường.
Làng Trịnh Tường thuộc về Việt Nam ; các làng Vệ Tàm 衞慙 ( Shu-Tan) và Kiểu Tào 矯曹(Kiao Tsao) thì thuộc về Trung Hoa.
Kết luận :
Toàn bộ khu vực giữa hai nhánh sông (sông Na Sa và suối Trịnh Tường), cũng như làng Trịnh Tường thuộc về Việt Nam nay đã thuộc về Trung Quốc. Ngả ba sông, cột mốc 32 cũ vẫn còn đúng vị trí, tương ứng mốc mới 1312. Từ ngả ba sông này, đường biên giới lý ra phải theo nhánh đông-bắc, nay theo nhánh tây-bắc.
Diện tích đất bị mất khoảng 1’ vuông trên bản đồ. Tạm xem là ô vuông, diện tích bị mất là khoảng 3km².
Điều đáng ghi nhận, đây là lần đầu tiên VN mất trọn một làng cùng với dân số trong làng. Trong dịp phân định, phân giới và cắm mốc biên giới 1887-1897, một số làng thuộc VN cũng bị mất cho TQ với trường hợp tương tự. Do căm thù người Pháp, một số dân làng ở khu vực Hoành Mô (Hải Ninh) không nhìn nhận mình là VN (thực ra là dân Nùng, có cùng nguồn gốc với người Choang bên TQ), do đó những vùng đất này thuộc TQ. Điều này cho thấy, với lối đối xử bạo ngược, mất lòng dân của người cầm quyền, trong khi phía láng giềng giàu mạnh hơn, ưu ái hơn, những người này sẵn sàng bỏ quốc tịch VN để nhập tịch TQ. Đây cũng là một đe dọa, không chỉ vùng biên giới phía bắc, mà còn vùng biên giới tây nam, vùng cao nguyên v.v… nếu lãnh đạo VN vẫn lấy sức mạnh là đường lối cai trị, không có các chính sách hòa giải và khoan dung, việc tương tự như mất đất Trình Tường sẽ còn xảy ra.
3/ Khu vực Chi Ma - Ải điếm Ải khẩu : Tấm 29 và 30.
Đường biên giới 1887 đi qua trước mặt cửa ải Chi Ma, đi theo sống núi và các đỉnh cao, để lại cho VN toàn bộ khu vực núi Công Mẫu Sơn (Mẫu Sơn).
Đường biên giới 1999 đi lên rặng Mẫu Sơn, sườn phía bắc, theo hình sau đây.
Đường biên giới 1887 màu đỏ. Đường biên giới 1999 màu hồng.
Các cột mốc, theo công ước 1887, cắm trên khu vực này gồm các cột 41, 42, 43, 44, 45, 46, 47.
Tại cửa ải Chí Mã (hiện nay gọi là Chi Ma thì phải) đường biên giới đi trước của ải. Kế cận là mốc cắm trên con đường từ Phai San đến Chí Mã, cách Chi Ma 1200m.
Tại các cửa ải Na Chi (Na Chi ngoại sách) hay Ải Điếm Ải Khẩu (nay gọi là Ái Diễm thì phải), đường biên giới cũng đi qua trước của ải.
Sau đó đường biên giới đi qua các đỉnh núi và đường sống núi (Lộc Vinh Sơn, Công Mẫu Sơn, Đạo Nê Sơn, Bộ Môn Sơn, Lễ Do Sơn, Thạch Bi Sơn, Ngạc Hầu sơn…..).
VN mất đất khu vực này khoảng vài cây số vuông.
4/ Khu vực Nam Quan, tấm 29.
Đường biên giới khu vực này đi qua cột mốc số số 16 tên Lộng Diêu Ngoại sách (tức Lũng Nghiêu), cột 17 tên Khiêu giá sơn, tức núi đá phía tay bắc Đồng Đăng. Cột 18, cách cổng Nam Quan 100m về phía nam. Cột mốc 19 cắm trên đỉnh núi. Cột số 20 cắm tại địa điểm tên « Po Sie » ( !), Phổ Ta Lĩnh 溥些嶺, tức cũng trên đỉnh núi.
Như thế, đường biên giới khu vực này, cắm theo công ước 1887, và bản đồ dưới đây, là khá rõ rệt.
Mảnh bản đồ tấm 29 :
Trên hai bản đồ, đường đỏ là đường biên giới theo công ước 1887, đường hồng theo hiệp ước 1999.
VN mất đất khu vực này khoảng vài cây số vuông.
---Khảo sát bộ bản đồ biên giới Việt-Trung (từ cửa sông Bắc Luân vào đến cửa Nam Quan)Bộ bản đồ biên giới Việt-Trung, nhiều người quan tâm đến tình hình đất nước mong mõi từ bấy lâu nay, tình cờ được tiết lộ qua một nguồn tin không chính thức. Một số chi tiết kỹ thuật quan sát được như sau :
Bộ bản đồ bao gồm 35 tấm, tấm số 1 vẽ khu vực biên giới Việt-Trung-Lào, với cột mốc số 1 cắm trên ngọn Khoan La San là giao điểm của ba đường biên giới. Tấm cuối cùng số 35 vẽ khu vực biên giới thuộc cửa sông Bắc Luân, mốc chót mang số 1378 cắm trên bãi Dậu Gót. Tức vẽ theo số thứ tự của cột mốc từ tây sang đông. Bộ bản đồ này được vẽ theo hệ thống tọa độ WGS 84 (World Geodetic System 1984), theo phép chiếu Gauss-Kruger, lấy kinh tuyến trung tâm 105° và múi chiếu 6°, có tỉ lệ 1/50.000. Trên mỗi bản đồ chia theo từng múi kinh tuyến và vĩ tuyến biên độ 1’. Như vậy chiều dài một ô trên bản đồ, chiều ngang 1717m, dọc 1851m.
Như vậy bộ bản đồ này đúng theo tiêu chuẩn của quốc tế về đường biên giới. Tuy vậy, không biết do vô tình hay hữu ý, phẩm chất của các bản chụp rất tệ hại, các chi tiết trên bản đồ lem nhem, không rõ rệt. Thậm chí số các cột mốc còn không đọc được, các địa danh cũng vậy. Đọc và hiểu nó đã khó, so sánh nó với các bản đồ khác là cả một vấn đề !
Việc so sánh bản đồ là một vấn đề thuộc về kỹ thuật. Phép so sánh theo lối « chồng bản đồ” là việc thường thấy. Tuy nhiên việc so sánh này chỉ có thể đem lại kết quả chính xác nếu hai bản đồ có cùng tỉ lệ, cùng vẽ trên một hệ thống tọa độ, cùng một phép chiếu và cùng múi chiếu. Hiện nay, với các bộ bản đồ được số hóa, người ta có thể so sánh một cách dễ dàng hai bộ bản đồ, bằng phương pháp toán học để biết kết quả, với các nhu liệu thích hợp.
Bộ bản đồ biên giới Việt-Trung vừa công bố có hệ thống tọa độ đính kèm. Nếu muốn so sánh nó với một bộ bản đồ khác để xem kết quả được mất như thế nào, ta có hai phương pháp : 1/ so sánh với một tập hợp tọa độ của đường biên giới cho sẵn, 2/ so sánh với một bộ bản đồ làm chuẩn.
Theo tinh thần Hiệp ước Biên giới 1999, đường biên giới vẽ theo công ước Pháp-Thanh 1887-1895 được hai bên Việt-Trung công nhận có giá trị làm chuẩn. Đường biên giới này là đường biên giới đầu tiên của VN có tính « quốc tế », có giá trị công pháp quốc tế. Bộ bản đồ này được Sở Địa Dư Đông Dương ấn hành, gồm một bộ bản đồ 1/100.000 và một số tấm 1/50.000, vào các năm 1928 và các năm thuộc thập niên 40, 50. Công tác trắc địa cho bộ bản đồ này được thực hiện từ năm 1887 đến năm 1897, tức những năm phân định và phân giới, cắm mốc.
Kỹ thuật cắm mốc thời kỳ này còn thô sơ. Vị trí các cột mốc được mô tả theo vị trí tương đối của nó chứ không theo tọa độ như ngày nay. Một số thí dụ, cột mốc được cắm « trên đỉnh ngọn núi », « trên đỉnh đèo », « bên lề con đường, cách cổng biên giới xxx mét », « cắm trên đường từ A đến B », « tại giao điểm hai con đường từ A đến B và từ C đến D » v.v… Một số mốc đo theo cách thức « tam giác đạc », tức cột mốc cách điểm cố định A bao nhiêu mét (hay dưới một góc β) và B bao nhiêu mét…
Các bản đồ được vẽ thời kỳ này, nhiều tấm không để ý độ sai do độ cong của quả đất, do đó thiếu chính xác. Việc này chỉ được sửa chữa lại theo bộ bản đồ 1948. Dầu vậy, chưa có công tác nào, cho đến khi Pháp rút khỏi VN, bộ bản đồ biên giới này được hệ thống hóa theo hệ thống tọa độ.
Như thế, về kỹ thuật, người ta khó có thể so sánh theo lối chồng bản đồ, hay so sánh hệ thống tọa độ với tọa độ một bản đồ khác, thí dụ, bản đồ biên giới 1999.
Người ta chỉ có thể so sánh hai bộ bản đồ này với một kết quả tương đối chấp nhận được, là so sánh cùng lúc bản đồ và văn bản mô tả đường biên giới. Muốn chính xác hơn, phải ra thực địa để kiểm chứng lại.
Một vài kết quả sơ khởi của tác giả công bố sau đây, sau khi so sánh các tấm bản đồ từ số 35 đến số 30, tức khảo sát từ đông sang tây. Do hạn chế về thời gian và một số khó khăn về kỹ thuật, có thể tác giả còn sót ở một số điểm trên các tấm bản đồ này.
1/ Các bãi bồi ở cửa sông Bắc Luân : Khảo sát tấm bản đồ số 35.
Khu vực này tác giả đã từng viết qua, trong bài ở đây.
Theo tài liệu phân định biên giới, khu vực cửa sông Bắc Luân được xác định có độ dài khoảng 14 km, bắt đầu từ thượng lưu bãi Tục Lãm đến điểm đầu của đường phân định Vịnh Bắc Bộ. Trong vùng này có các cồn đất là bãi Tục Lãm, bãi Tài Xẹt và bãi Dậu Gót. Các bãi đất này chỉ mới được đất phù sa sông Bắc Luân bồi đắp sau khi phân định biên giới (1885-1897). Các bãi này chưa được xác định chủ quyền.
Đường biên giới khu vực cửa sông Bắc Luân được xác định vào ngày 31-12-2008. Số phận của các bãi này được xác định như sau :
Bãi Tục Lãm : VN được ¾, Trung Quốc được 1/4 bãi Tục Lãm
Bãi Dậu Gót : VN được 1/3 và TQ được 2/3 bãi.
Bãi Tài Xẹc : hoàn toàn thuộc về Trung Quốc.
Nguồn: báo chí trong nước.
Tuy nhiên, nếu xét lại các nguyên tắc phân chia các cồn, bãi bồi, cù lao… mới thành hình trên sông, hay trên biển của công ước 1887, ta thấy các bãi này thuộc về Việt Nam.
Thật vậy, nội dung công ước qui định, đường biên giới trên sông luôn là dòng chảy chính tàu bè qua lại, hoặc là dòng chảy sâu nhất. Nếu mưa lũ làm đổi dòng, thì cứ theo nguyên tắc này mà áp dụng. Các cồn, bãi… trên sông, ở về phía bên nào thì thuộc về bên đó. Các cù lao trên biển, thì đường kinh tuyến đi qua điểm cực đông đảo Trà Cổ làm tiêu chuẩn. Các cù lao, đảo ở phía đông đường này thuộc Trung Quốc, phía tây thuộc VN.
Cả hai trường hợp, các bãi bồi nói trên, qui định trên sông hay thuộc về biển, chúng cũng thuộc về VN.
Nhìn bản đồ vệ tinh ta thấy đường nước sâu nhất là đường nước màu xanh đậm, là đường tàu bè qua lại, tức là đường biên giới. Các bãi Tục Lãm, Tài Xẹc và bãi Dậu Gót đều ở phía hữu ngạn của dòng chảy sâu nhất (là đường biên giới), tức ở về phía VN. Các bãi này cũng nằm về phía tây đường kinh tuyến đi qua đông điểm đảo Trà Cổ.
2/ Khu vực Trình Tường (văn bản phân giới 1887 gọi là Trịnh Tường) :
Quan sát bản đồ VN vừa công bố, tấm số 32.
Làng Trình Tường không còn tên trên bản đồ. Hình dưới đây là một góc của tấm bản đồ số 32. Đường đỏ là đường biên giới cũ (1887). Đường hồng là đường biên giới mới (1999).
Quan sát mảnh bản đồ dưới đây, cắt ra từ bản đồ phân giới của Pháp-Thanh :
Đường biên giới cũ là đường đỏ (1887), biên giới mới là đường hồng (1999).
So sánh hai bản đồ, khu vực đất gạch chéo là đất của VN mất cho Trung Quốc.
Phần văn từ pháp lý : Biên bản phân giới ngày 11-3-1893, đoạn 3, biên giới khu vực liên quan được mô tả :
Đường trung tuyến của sông Đông Mô 洞謨 (Toung Mou), tức sông Tiên Yên, là đường biên giới cho tới phía bắc làng Đông Mô.
Những làng Bồ Nam 蒲楠 (Bou Nam), Khôn Văn 坤文 (Kw’an Ouen), Động Trung 峝中 (Toung Tchoung) thuộc về Trung Hoa ; những làng Na Bô 那簿 (Na Pou), Dinh Kiều 營叫 (Yng Kiao), Bản Sầm 本岑 (Penn Chin), Đông Phê 洞批 (Toung Pi) và Đông Mô 洞謨 (Toung Mou) thuộc về Việt Nam.
Đường biên giới sau đó là sông Na Sa 那沙 (Na-Cha), phụ lưu hữu ngạn sông Tiên Yên, chảy qua phía Đông làng Na Sa và phía Tây làng Đông Xã 洞舍 (Toung-Sié).
Na Sa thuộc về Việt Nam và Đông Xã thuộc về Trung Hoa.
Đường biên giới, cũng là phụ lưu nói trên, sau đó đi đến giao điểm của sông này với con suối mà nguồn của nó cách Trịnh Tường 呈祥 (Tcheng Siang) 500 m ; đường biên giới theo dòng suối này từ giao điểm này cho tới nguồn của nó. Tại đây đường biên giới theo đường thẳng cho tới Bắc Cương Ải 北崗, đi ngang qua các đỉnh 675, 812 và 746 về phía Tây Bắc Trịnh Tường.
Làng Trịnh Tường thuộc về Việt Nam ; các làng Vệ Tàm 衞慙 ( Shu-Tan) và Kiểu Tào 矯曹(Kiao Tsao) thì thuộc về Trung Hoa.
Kết luận :
Toàn bộ khu vực giữa hai nhánh sông (sông Na Sa và suối Trịnh Tường), cũng như làng Trịnh Tường thuộc về Việt Nam nay đã thuộc về Trung Quốc. Ngả ba sông, cột mốc 32 cũ vẫn còn đúng vị trí, tương ứng mốc mới 1312. Từ ngả ba sông này, đường biên giới lý ra phải theo nhánh đông-bắc, nay theo nhánh tây-bắc.
Diện tích đất bị mất khoảng 1’ vuông trên bản đồ. Tạm xem là ô vuông, diện tích bị mất là khoảng 3km².
Điều đáng ghi nhận, đây là lần đầu tiên VN mất trọn một làng cùng với dân số trong làng. Trong dịp phân định, phân giới và cắm mốc biên giới 1887-1897, một số làng thuộc VN cũng bị mất cho TQ với trường hợp tương tự. Do căm thù người Pháp, một số dân làng ở khu vực Hoành Mô (Hải Ninh) không nhìn nhận mình là VN (thực ra là dân Nùng, có cùng nguồn gốc với người Choang bên TQ), do đó những vùng đất này thuộc TQ. Điều này cho thấy, với lối đối xử bạo ngược, mất lòng dân của người cầm quyền, trong khi phía láng giềng giàu mạnh hơn, ưu ái hơn, những người này sẵn sàng bỏ quốc tịch VN để nhập tịch TQ. Đây cũng là một đe dọa, không chỉ vùng biên giới phía bắc, mà còn vùng biên giới tây nam, vùng cao nguyên v.v… nếu lãnh đạo VN vẫn lấy sức mạnh là đường lối cai trị, không có các chính sách hòa giải và khoan dung, việc tương tự như mất đất Trình Tường sẽ còn xảy ra.
3/ Khu vực Chi Ma - Ải điếm Ải khẩu : Tấm 29 và 30.
Đường biên giới 1887 đi qua trước mặt cửa ải Chi Ma, đi theo sống núi và các đỉnh cao, để lại cho VN toàn bộ khu vực núi Công Mẫu Sơn (Mẫu Sơn).
Đường biên giới 1999 đi lên rặng Mẫu Sơn, sườn phía bắc, theo hình sau đây.
Đường biên giới 1887 màu đỏ. Đường biên giới 1999 màu hồng.
Các cột mốc, theo công ước 1887, cắm trên khu vực này gồm các cột 41, 42, 43, 44, 45, 46, 47.
Tại cửa ải Chí Mã (hiện nay gọi là Chi Ma thì phải) đường biên giới đi trước của ải. Kế cận là mốc cắm trên con đường từ Phai San đến Chí Mã, cách Chi Ma 1200m.
Tại các cửa ải Na Chi (Na Chi ngoại sách) hay Ải Điếm Ải Khẩu (nay gọi là Ái Diễm thì phải), đường biên giới cũng đi qua trước của ải.
Sau đó đường biên giới đi qua các đỉnh núi và đường sống núi (Lộc Vinh Sơn, Công Mẫu Sơn, Đạo Nê Sơn, Bộ Môn Sơn, Lễ Do Sơn, Thạch Bi Sơn, Ngạc Hầu sơn…..).
VN mất đất khu vực này khoảng vài cây số vuông.
4/ Khu vực Nam Quan, tấm 29.
Đường biên giới khu vực này đi qua cột mốc số số 16 tên Lộng Diêu Ngoại sách (tức Lũng Nghiêu), cột 17 tên Khiêu giá sơn, tức núi đá phía tay bắc Đồng Đăng. Cột 18, cách cổng Nam Quan 100m về phía nam. Cột mốc 19 cắm trên đỉnh núi. Cột số 20 cắm tại địa điểm tên « Po Sie » ( !), Phổ Ta Lĩnh 溥些嶺, tức cũng trên đỉnh núi.
Như thế, đường biên giới khu vực này, cắm theo công ước 1887, và bản đồ dưới đây, là khá rõ rệt.
Mảnh bản đồ tấm 29 :
Trên hai bản đồ, đường đỏ là đường biên giới theo công ước 1887, đường hồng theo hiệp ước 1999.
VN mất đất khu vực này khoảng vài cây số vuông.
Trương Nhân Tuấn - (Những vấn đề Việt Nam)samedi 28 septembre 2013