Thứ Hai, 14 tháng 10, 2013

Tỉnh Đồng Tháp , nơi các thị trấn Sa Đéc và Cao Lảnh thay nhau làm tỉnh lỵ

LTS- Một bài viết thật công phu về Đồng Tháp Mười xuyên suốt từ lịch sử tới hiện tại và một cái nhìn lạc quan về tương lai. Cám ơn Giáo sư Tôn Thất Trình đã giúp thế hệ đi sau hiểu thêm về một vùng đất, một nền văn hóa để thêm trân trọng mảnh đất mà chúng ta đang sống.
Bài viết không có tính cách phổ biến mà chỉ lưu hành nội bộ giữa GS Tôn Thất Trình và các cựu SV Trường ĐH Nông Nghiệp cũ.
Đăng theo yêu cầu của Anh Ng D Chi, cựu SV của SG TT Trình

Lạm bàn phát triễn một tỉnh thành phần trũng thấp Đồng tháp Mười, thuộc dinh Long Hồ xa xưa, phần lớn do dân miền Trung vào khai khẩn đất “cầm thủy” , “ trước vườn sau ruộng”, thời Miên -Việt dành giựt lâu ngày thay ngôi đổi chủ nhiều lần mảnh đất hầu như vô chủ Phù Nam .. . và cũng là nơi dân Việt bất khuất lập khu kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lăng hai lần, thời vua Tự Đức và thời Nam Bộ kháng chiến ít khi nói tới và tóm tắt các cuộc chiến biên giới Việt -Miên Mỏ Vẹt -1970 và đánh Khmer Đỏ tiến chiếm Kampuchia 1978 - 1989 … :
Tỉnh Đồng Tháp ,
nơi các thị trấn Sa Đéc và Cao Lảnh thay nhau làm tỉnh lỵ

Giáo Sư Tôn Thất Trình

Nguyên Tổng Trưởng Bộ Cải Cách Điền Địa và Phát Triển Nông Ngư Nghiệp
Chuyên viên Liên Hiệp Quốc.

… Mùa ốc gạo anh còn đi xúc tép
Chiều Tân Hưng* ngõ bướm rợp hoa vàng
Mai họp chợ Nha Mân *xuồng ghé sớm
Em buổi chiều Rạch Rắn* đợi anh sang
Mấy nhỏ bạn miệt Nàng Hai, Xóm Cửi *
Dặn mua dùm xoài tượng với dưa gan
Anh hái mận ra Cái Tàu* đổi rẻ
Thêm chục xòai cát ngọt cúng trên trang…

( * các địa danh tại Sa Đéc. Giọt đất sửa. Phương Triều - 2006 )
Muôn miệng như nhau nói đã rành
Câu Đương là Chức, Lảnh là Danh
Lập làng khó nhọc công vừa dứt, 
Cất chợ trông nom, việc mới thành…


( Tương truyền năm 1817, ông bà Đổ Công Tường , gốc Quảng Nam đến lập nghiệp ở huyện Kiến Phong, tỉnh Định Tường .Ông Tường tục danh là Lãnh, được cử làm chức Câu Đương, phân xử các tố tụng trong làng, có công lập ra chợ Câu Lảnh. Lâu ngày Câu phát âm thành Cao. Chiếu theo Nguyễn Vĩnh Thượng – 2005, trích bài thơ vịnh ông chủ chợ Cao Lãnh của Lãng Ba. )


Trời xanh, kinh đỏ, đất xanh
Đĩa bu, muỗi cắn làm anh nhớ nàng . 
Bao giờ cho lúa chín vàng,
Cắt rồi anh trở về làng thăm em


Đèn nào sáng bằng đèn Sa Đéc Gái nào đẹp bằng gái Nha Mân
Anh thả ghe câu lên xuống mấy lần
Thương em đứt ruột, nhưng tới gần lại run.
Trai nào gan cho bằng trai Cao Lãnh 
Gái nào bảnh cho bằng gái Cần Thơ…
( Ca dao Đồng Tháp do Nguyễn thị Kim Thu và Trần Đăng Hồng sao lục- 2013) 

Vị trí
Đồng Tháp là một tỉnh thuộc Đồng Bằng Sông Cửu Long, trong 8 vùng – miền phân chia hành chánh Việt Nam này nay: Đồng Bằng sông Hồng, Đông Bắc , Tây Bắc, Bắc Trung Bộ, Duyên Hải Nam Trung Bộ, Tây Nguyên, Đông Nam Bộ và Đồng Bằng Sông Cửu Long. Đồng Tháp cũng là một trong 3 tỉnh của trũng đầm lầy lau sậy Đồng Tháp Mười – Plaine des Joncs theo tiếng Pháp hay Plains of Reeds theo tiếng Anh . Trên phương diện địa lý , tỉnh Đồng Tháp có thể nói là tỉnh Tây Bắc thuộc hệ thống Đồng Bằng Sông Cửu Long còn hơn cả 2 tỉnh Long An và Tiền Giang đất đai lệ thuộc hệ thống hai sông Vàm Cỏ Đông và Vàm Cỏ Tây nhiều hơn. Thị xã Cao Lãnh tỉnh Đồng Tháp cách thành phố Sài Gòn – TP HCM chừng 162 Km.Thị xã Sa Đéc cách Sài Gòn 143 Km. Bắc tỉnh Đồng Tháp giáp tỉnh Pray Veng- Cam Bốt có biên giới hai nước dài hơn 48km, Nam giáp hai tỉnh Vĩnh Long và Cần Thơ – Hậu Giang, Tây giáp An Giang và Đông giáp hai tỉnh Long An và Tiền Giang.


Vị trí tỉnh lỵ Cao Lảnh là 10028’2” vĩ tuyến Bắc và 105037’49” kinh tuyến Đông. Còn tỉnh trải dài từ 10040’ vĩ tuyến Bắc đến 105040’ kinh tuyến Đông. Diện tích là 3 238 km2 ( 1 250 dặm Anh vuông ). Dân số năm 2004 là 1 639 000 người. Năm1995 chỉ mới đến 1 489 300, năm 1999 là 1 568 200 và năm 2002 là 1607 800. Năm 2010 là 1670 500. Trung bình tăng 18 000 -20 000 một năm . Như vậy năm 2012 -13, dân số có lẽ đã trên 1 700 000 người. Thành phần các tộc dân là Kinh – Việt đa số , Khmer, Hoa và Ngái. Về hành chánh Đồng Tháp nay phân chia ra 12 đơn vị ; thị xã là Cao Lảnh, hai thị trấn lớn là Sa Đéc và Hồng Ngự, và 9 huyện, mỗi huyện đều có một thị trấn huyện lỵ ( ngọai trừ huyện Hồng Ngự đã có thị trấn tỉnh ) : Cao Lảnh, Tháp Mười, Thanh Bình, Tam Nông, Tân Hồng( Sa Rài ), Hồng Ngự, Châu Thành, Lai Vung và Lấp Vò. Thị xã Cao Lảnh năm 2004 đã có 149 837 người gồm 8 phường, 7 xã. Thị trấn Sa Đéc dân số là 119 646, gồm 6 phường, 3 xã. Thị trấn Hồng Ngự dân số 74 488 người, gồm 3 phường và 4 xã. Hai huyện lớn nhất tỉnh là Tháp Mười 525.44 km2 và Tam Nông 459 km2. Diện tích huyện nhỏ nhất là Lai Vung 219 km2. Nhưng huyện đông dân nhất lại là huyện Hồng Ngự 211 000 người năm 2004, tiếp theo là huyện Cao Lãnh 206 000 người. Huyện ít dân nhất là Tân Hồng, 79 300 người. 

Theo dòng thời gian 

Vài dòng về Vương Quốc Phù Nam và văn minh Ốc Eo

Theo sử ký Trung Hoa , một vuơng quốc đã được thiết lập quanh vùng châu thổ Sông Cửu Long miền Nam Việt Nam và phía Nam Đông Dương ( Cam Bốt, Nam Thái Lan , Mã Lai, Miến Điện ? ) có tên Tàu gọi ghi chép là Phù Nam ( pinyin viết là FúNán , tiếng Phạn là Biu Nan), chiếu theo báo cáo của hai nhà ngọai giao Tàu đại diện Vương Quốc Ngô (Vũ?) – Wu của Nam Kinh đã đến Funan vào giữa thế kỷ thứ 3 sau Công nguyên ( CN ). Vương quốc này có lẽ đã được thiết lập ở Châu thổ Sông Cửu Long – Việt Nam, khỏang thế kỷ thứ I sau CN , theo các tôn giáo là Phật Giáo và Ấn Độ Giáo. Nhưng theo các khảo cỗ, thì trước đó, có lẽ vào thế kỷ thứ IV trước CN, Phù Nam đã có nhiều thổ dân sinh sống. Vương quốc Phù Nam bị Chân Lạp - ChenLa chiếm cứ năm 550 và năm 628 chấm dứt chế độ Nam Phù Nam ( xem hình ). Nhà học giả viết lịch sử đầu tiên của thổ dân Phù Nam là Paul Pelliot năm 1903, chiếu theo các ghi chép của các sử gia Trung Quốc, vì thế cho nên bị nhiều nhà học giả và khảo cỗ khác hòai nghi những kết luận của ông. Khởi đầu bằng ghi chép của Chén Shòu- Trần Châu( 233 – 297 ) kết thúc năm 289 thời Tam Quốc Trung Hoa, khi hai sứ giả của thống đốc Lữ Đại ? – Lũ Dái đời vua Nam Ngô ( Wu ? ) đến Phù Nam các năm 225-230 và năm 243 sau CN. Sách Lương Thư -Liang Shũ của Giao Trà ? - Yáo Chá ( 533 - 606 ) và Yáo SĩLian – Giao Sĩ Liên ?( khỏang 637 ) cũng nói về hai sứ giả vua Ngô đến Phù Nam là Khang Đại ? -Kàng Tài và Chủ Doanh ? - Zhù- Yìng. Kể từ khi Pelliot xuất bản bài nghiên cứu, các đào quật khai khảo cỗ ở Việt Nam và Cam Bốt, đặc biệt các vị trí liên hệ đến văn hóa Ốc Eo đã hổ trợ và bổ sung thêm các kết luận của Pelliot. Các khắc chạm đặc biệt ở Tháp Mười –Việt Nam ở vùng trũng lau sậy Đồng Tháp Mười – Plain of Reeds và các di tích Chiêm Thành ở khu Mỹ Sơn gần TP Đà Nẳng, cũng đã giúp thêm hiểu biết về lịch sử Phù Nam. Bia khắc chữ Phạn- Sanskrit inscription ( tiếng Khmer gọi là Pràsàt Prằm Lovên) K.5 tại Tháp Mười, nay trưng bày ở Viện Bảo Tàng Lịch sử Sài Gòn - TP HCM, nhắc tới Hòang tử Gunavarman, con trẻ tuổi hơn của Gunavarman là “ Trăng của dòng Kaundinya- the moon of the Kaundinya line “và là chủ tể của” một vương quốc dành giựt chiến thắng từ bùn lầy- a realm wrested from the mud” . 


Lương Thư ghi chép là một ngọai nhân sinh quán ở một xứ tên là Jiào thuộc bán đảo Mã Lai hay quần đảo Inđônêxia tên gọi là Hùng Thiên ?- Hùntian thành lập Phù Nam sau khi mộng tưởng là thần hộ mệnh cung cấp cho mình một nỏ ( cung ) thần và chỉ thị ông lên một thuyền buôn lớn. Sáng hôm sau, ông đến đền thờ và tìm thấy một cung – nỏ ở gốc cây thần. Ông đáp thuyền và chính thần giúp ông đến đất Phù Nam. Nữ hòang xứ này tên gọi là Liễu Diệp – Liuỳe muốn cướp phá chiếm thuyền. Hùng Thiên bắn tên từ nỏ thần làm thủng thuyền của Liễu Diệp. Quá sợ, Liễu Diệp bỏ thuyền mình và chịu làm vợ Hùng Thiên. Nhưng thấy nàng trần truồng, ông dùng một vật liệu làm áo che thân nàng . Rồi ông cai quản đất Phù Nam và truyền lại cho con trai, một người đã thiết lập ra 7 thị trấn Phù Nam. Một câu chuyện lịch sử tương tự cũng được Phương Xuân Linh – Fáng Xuánlíng, ở Kim Sử - Jin Shũ năm 648 ; tuy nhiên ở Kim Sử , vua ngọai quốc chiếm Phù Nam là Hùng Huy – Hùn Hùi và vợ là Diệp Liễu - Ỳeliu. Vài học giả xác nhận Hùntian ở Lương Thư là người Bà la Môn – Brahmin Kaundinya, lấy một bà hòang rắn – naga snake princess tên là Somà, đã ghi ở một bia tiếng Phạn tại Mỹ Sơn vào năm 658 sau CN. Nhưng nhiều học giả không chấp nhận xác định này. Tuy nhiên tên “Kaudinya” cũng được ghi chép ở những sử sách độc lập khác và tuồng như hình dung một nhân vật quan trọng của lịch sử Phù Nam. Một sử gia khác Lương Thư gọi Hù Tian là “ Qiao Chénru” , một thừa kế của vua Tian zhúzhàntán ( tiếng Ấn Độ là Candana ), một người Bà La Môn Ấn Độ, trị vì Phù Nam và trong năm 357 sau CN, thuần hóa được voi rừng và đem voi dâng cho vua Kim ( khỏang 344 – 361 ). Sau khi được chọn làm vua Phù Nam, Candana thay đổi mọi luật pháp theo đúng hệ thống Ấn Độ. Truyền thuyết Kaundinya cũng được ghi chép tương tự ở truyền thuyết Khmer. Hòang tử ngọai quốc là “ Preah Thaong” và hòang hậu là “Neang Neak” con gái vua rắn – naga king. Tên “ Kaundinya” rất phổ biến ở các khắc chạm tộc dân Tamil – Nam Ấn Độ của thế kỷ Thứ I sau CN, và tuồng như cho đến thế kỷ Thứ VI sau CN, Phù Nam do tộc dân cùng tên cai trị. Năm 484, vua Kaundinya Jayavarman phái một nhà sư Phật gíáo đem đồ cống hiến vua Tàu, khẩn cầu Tàu công phạt Lâm Ấp ( phía Bắc Champa ). Vua Tàu nhận lễ vật nhưng không gửi quân đánh Lâm Ấp. Thế kỷ Thứ VI, Phù Nam bị cư dân Chân Lạp sáp nhập. Những ghi khắc miền Nam Cam Bốt cho thấy nhiều cư dân Khmer hiện diện trước đó ở Phù Nam. Nhưng theo nhà học giả cận đại Michael Vickery ( Bulletin de L’Ecole Francaise d’ Extrême Orient, 2003- 2004 ), không có chứng cớ nào xác định Phù Nam là một vùng có biên giới qui định rỏ ràng và các cư dân chánh Phù Nam là dân Khmer cả thảy. 


Theo Nguyễn Vĩnh Thượng ( Cao Lảnh Quê hương tôi, 2006 ) vương quốc Phù Nam, trước khi bị Chân Lạp chiếm và sáp nhập, theo truyền thuyết được thành lập do sự phối hợp của hai dòng họ Somac – Mặt Trăng và Kaundinya – đẳng cấp giáo sĩ Bà La Môn vào đầu thế kỷ thứ I. Đế đô Phù Nam là Vyadhapura ( tiếng Phạn có nghĩa là đô thị của các nhà săn bắn ) nằm gần đồi núi Ba Phnom ( phnom có nghĩa là núi )- Ba Thê và gần xã “ Ba Nam” tỉnh Prey Veng – Cam Bốt. Hồi ấy, Phù Nam phía Việt Nam, gồm các lưu vực của các sông Tiền, sông Hậu, sông Vàm Cỏ, sông Đồng Nai và sông Sài Gòn. Vào triều đại Phạm Sư Man ( tiếng Phạn là Sri Mara ) cực thịnh, trị vì Phù Nam khỏang 225- 230 sau CN, Phù Nam đã thống trị cả vùng đất bao la, trải dài từ đồng bằng sông Cửu Long đến sông Menam ( Thái Lan ) xuống tận các hải đảo Inđô nêxia, Mã Lai. Từ thế kỷ thứ III đến giữa thế kỷ thứ VI, Phù Nam đã đặt liên hệ ngoại giao với Trung Hoa và Ấn Độ. Năm 1944, nhà khảo cổ Pháp Louis Mallaret, thuộc Trường Viễn Đông Bác Cổ, đào được nhiều cổ vật Ốc Eo, là hải cảng của Vyadhapura, cách bờ biển 120 hải lý. Căn cứ trên cổ vật tìm được ở Ốc Eo, các nhà khảo cổ cũng đã giải thích và xây dựng lại nền văn hóa Ốc Eo, trải khắp vương quốc Phù Nam từ thế kỷ I đến thế kỷ VI. Theo Lâm Văn Bé ( Nam Kỳ Lục Tỉnh 2005) di tích Ốc Eo, gần núi Ba Thê – Châu Đốc gồm một cổ thành dài 1500m nhiều đồ trang sức bằng vàng, đồng tiền La Mã. Ở Việt Nam, nền văn minh này trải rộng từ cao nguyên Lâm Đồng xuống đến vùng rừng rậm U minh ở Rạch giá và Cà mau.

Nam Tiến vào đất hoang vu Phù Nam, sau khi sáp nhập Chiêm Thành

Như chúng ta đã biết dân Việt đã tự động đi vòng bờ biển Chiêm Thành đến đất đai Chân Lạp chiếm cứ, sáp nhập Phù Nam là xứ Đồng Nai, còn là một vùng đất gần như không nhà, không cửa chỉ có vài xóm người bản địa Mạ hay Stiêng đóng trên các sườn núi phía Bắc và phía Tây Bắc. Sử sách ghi là dân cư tổng cọng của vùng Phù Nam – Việt Nam có chừng 100 000 người. Theo Trịnh Hòai Đức ở Gia Định Thành Thông Chí, dân Việt đã vô Mô Xòai khoảng các năm 1580 - 1590 thời Chúa Tiên Nguyễn Hòang. Đến năm 1623, Chúa Sải- Nguyễn Phúc Nguyên mới qua ngã hòa thân xin con rễ là vua Chân Lạp, chồng công nữ Ngọc Vạn( hòang hậu Ang Cuv hay Đam Sát ) và đình thần Chân Lạp, cho phép chúa lập hai trạm thuế, thu thuế các xóm làng người Việt đông đúc, một ở Tài Gòn ( Chợ Lớn ) và một ở Bà Rịa- Mỗi Xuy. Sử Việt ghi là năm 1665, đã có độ 1000 người Việt, gồm nông dân nghèo nàn Thuận Quảng, tội đồ xứ Đàng Trong và tù binh quân Trịnh bắt được, lập nghiệp ở Mô Xòai. Chỉ trong vòng 5 năm kể từ ngày công chúa đi lấy chồng viễn xứ, người Việt đã có làng xóm từ Biên Hòa – Bà Rịa Tài Gòn – Bến Nghé, lên đến Châu Đốc – Tà Keo, tận Oudong – Phnom Penh và bên kia sông Mê Kông có thể qua tận Kampot, bên kia Mũi Mé ? - Hà Tiên ( theo Huỳnh văn Lang, Công chúa Ngọc Vạn - 2006 ). Năm 1660, Chúa Hiền Nguyễn Phúc Tần, cháu công nữ Ngọc Vạn, gửi 3000 quân tinh nhuệ tấn công Nặc Ông Chân, vua Chey Chetta II là vua tà đạo “ Prea Réam Chisas’” ( tà đạo vì hòang hậu là một công chúa Mã Lai theo đạo Hồi- Islam, dùng văn minh Hồi thay thế Phật Giáo tiểu thừa Chân Lạp), đánh Nặc Ông Chân thảm bại ở Mỗi Xuy – Bà Rịa. Năm 1679, Chúa Hiền chấp thuận cho nhóm quân binh thứ hai Quảng Đông - Phúc Kiến trung thành với Minh triều là Dương Ngạn Địch, Hòang Tiến chỉ huy, tiến xa vào vùng Mỹ Tho – Cao Lãnh làm đất dung thân. Trong cuộc cộng cư này, những cuộc hôn nhân giữa người Tàu là binh sĩ độc thân và phụ nữ Việt sớm thành hình. Năm 1698, Chúa Minh Nguyễn Phúc Chu sai thống suất Nguyễn hửu Cảnh ( Kỉnh ) làm kinh lược đất Đông Phố, lấy xứ Sài Côn đặt huyện Tân Bình, lập dinh Phiên Trấn tức là Gia Định. Và đặt phủ Gia Định thống thuộc hai dinh Trấn Biên và Phiên Trấn. Trấn Biên là đất Đồng Nai - Biên Hòa phía Nam, xa hơn dinh Trấn Biên Phú Yên cũ miền Trung. Chúa lại sai chiêu mộ thêm lưu dân từ Bố Chính trở vào Nam đến hai trấn mới khai khẩn ruộng đất, áp dụng chánh sách đồng hóa người Tàu: lập xã Thanh Hà ở Trấn Biên và xã Minh Hương ở Phiên Trấn cho người Tàu nhập tịch. Năm 1731, Chúa Ninh Nguyễn Phúc Trú ( Trăn ) buộc vua Chân Lạp Nặc Tha ( vua Sâtha II ) chánh thức nhường hai tỉnh Me Sa ( đất Mỹ Tho ) và Long Hồ (đất Vĩnh Long), đặt châu Định Viễn, lập dinh Long Hồ, cho thuộc châu Định Viễn. Nhưng mãi đến năm 1755, Chúa Võ Nguyễn Phúc Khóat chấp thuận lời khuyên của Nguyễn Cư Trinh, nhận phủ Tầm Bôn( tức Cần Thơ ngày nay ) và Lôi Lạp ( Gò Công và Tân An ), Nặc Nguyên ( vua Chey Chetta V ) nạp bù lễ cống 3 năm và chuộc tội. Trương Phước Du và Nguyễn Cư Trinh lập đạo (đạo là nơi có binh lính đóng, không có hành chánh dân sự ) Đông Khẩu ở Sa Đéc, đạo Tân Châu ở Tiền Giang ( Định Tường ,Mỹ Tho ) và đạo Châu Đốc ở Hậu Giang.


Sa Đéc, tên Khmer gọi là Phsar Dek nghĩa là Chợ Sắt, được Nguyễn Cư Trinh xem như là đất mới để khai hoang. Nguyễn Cư Trinh dời dinh Long Hồ, thiết lập năm 1732 lỵ sở đóng tại Cái Bè, qua xứ Tầm Bào tỉnh lỵ Vĩnh Long ngày nay. Dinh Long Hồ lúc bấy giờ là thủ phủ của cả miền Tây như vai trò Tây Đô- TP Cần Thơ sau này. Trong khỏang thời gian từ Ninh Vương tới Võ Vương năm 1765, dinh Long Hồ được yên ổn. Trong thời nội chiến giữa Tây Sơn và Nguyễn Phúc Ánh, Long Hồ cùng chung số phận với các dinh trấn khác, thay ngôi đổi chủ liên tiếp. Năm 1777 , sau khi bắt giết được Thái Thượng Vương Chúa Định Nguyễn Phúc Thuần và Tân Chính Vương, Phụ chính Long Nhương tướng quân Nguyễn Huệ cho là đã dẹp yên đất Gia Định, nên tháng 10 lưu tổng đốc Châu, hổ tướng Hản trấn giữ các nơi ở Gia Định, rồi rút về Qui Nhơn. Nguyễn Phúc Ánh thoát nạn được ở Long Xuyên, chạy ra tránh nạn ở đảo Thổ Chu (Châu), hay tin Nguyễn Huệ rút về, liền cử binh ở Long Xuyên, tiến đánh Sa Đéc. Tháng 11 năm 1777, quân binh tướng của Nguyễn Phúc Ánh đánh úp dinh Long Hồ ( Vĩnh Long ) và tháng 12 chiếm lại Sài Côn và tiếp tục chống đánh Tây Sơn các nơi. Năm 1778, ở Sài Côn, tướng Đổ Thanh Nhân và các tướng khác tôn Nguyễn Phúc Ánh làm Đại Nguyên súy, Nhiếp Quốc Chính; năm ấy Ánh chỉ mới 17 tuổi. Cũng năm đó, ở Qui Nhơn Tây Sơn Vương Nguyễn Nhạc lên ngôi hòang đế niên hiệu là Thái Đức, phong Nguyễn Lữ làm Tiết chế và Nguyễn Huệ làm Long Nhương tướng quân. Đại Nguyên Súy Ánh sai đóng chiến thuyền, đắp lũy phòng giữ Sài Côn, dựng nhà tông miếu, đặt công đường các dinh Trấn Biên, Phiên Trấn, Long Hồ chứa lương thảo. Năm 1781, Nguyễn Vương Ánh sai Tống Phước Thiêm, Nguyễn hửu Thụy, Dương công Trừng hợp với quân Nguyễn Phước Du và Châu văn Tiếp ở Nha Trang và Hòn Khói , đánh Tây Sơn. Nhưng quân Tây Sơn dàn trận voi chiến rất nhiều, khiến quân Nguyễn Vương phải rút lui. Cùng lúc ở Gia Định xảy ra cuộc biến Đông Sơn, Nguyễn Vương bắt giết tướng Đổ Thanh Nhân, người có công lớn với nhà Nguyễn và Vương, nhưng khi lên địa vị cao trở nên kiêu hảnh, tự phụ, sanh sát tự ý, cường ngạnh, vượt cả quyền Nguyễn Vương. Tháng 6 năm 1784, Nguyễn Vương từ Vọng Các trở về Gia Định rồi tháng 7, quân Nguyễn Vương và quân Tiêm ( Xiêm La, Thái Lan ) đánh lấy lại đạo Kiên Giang, phá được quân Tây Sơn ở Trấn Giang rồi tiến đến Ba Thắc,Trà Ôn, Sa Đéc, nhưng quân Tiêm sau khi thắng trận lại ỷ công, cướp bóc dân chúng, không kiềm chế được. Tháng 12 năm 1784, Long Nhương tướng quân Nguyễn Huệ đến đánh mấy trận đều không thắng. May có viên quan của Nguyễn Vương hàng Tây Sơn là Lê Xuân Giác, hiến kế cho quân Tây Sơn mai phục ở Sầm Giang ( Rạch Gầm ) và Miệt Giang ( Rạch Xòai Mút, trên Mỹ Tho), dụ quân Tiêm đến để đổ ra đánh. Quân Tiêm thua to, tàn binh chỉ còn vài nghìn, chạy sang Chân Lạp rồi trở về nước. Quân Nguyễn Vương cũng chạy về Trấn Giang. Tháng 5 năm 1786, Nguyễn Huệ chiếm thành Phú Xuân, rồi tiến ra Thăng Long, dứt họ Trịnh. Nguyễn Nhạc nghi em, cũng gấp đường theo ra, rồi hai anh em trở về. Nhạc phong Huệ làm Bắc Bình Vương, giữ Phú Xuân. Từ đó, hai anh em Tây Sơn bất hòa, không rảnh tay ngó đến phương Nam nữa. Tháng 9 năm 1787, Nguyễn Vương chiếm lại Long Hồ. Năm 1788, Tây Sơn đem binh tấn công Long Hồ, nhưng bị thua to ở trận thư hùng Bải Tiên - Cù Lao An Thành và từ đây lảnh thổ Miền Nam thuộc quyền cai trị của Nguyễn Vương, như đã nói. 

Đất Nam Kỳ thành Lục Tỉnh và đất Cam Bốt thành Trấn Tây Thành của Việt Nam

Năm 1802, chúa Nguyễn Phúc Ánh thắng cả hai anh em dòng họ nhà Nguyễn Tây Sơn, lên ngôi ở Huế lấy niên hiệu là Gia Long. Năm 1803, dinh Long Hồ đổi tên là Hòang Trấn, lỵ sở là Bãi Bà Lúa. Năm 1804 đổi thành dinh Vĩnh Trấn, nhập hai đạo Long Xuyên và Kiên Giang, trước giao cho Mạc Thiên Tứ ở Hà Tiên, vào dinh Vĩnh Trấn. Năm 1808, đổi tên là trấn Vĩnh Thanh, nâng châu Định Viễn làm phủ Định Viễn. Năm 1810, trả hai đạo Long Xuyên và Kiên Giang cho Hà Tiên. Năm 1832 Minh Mạng thứ 13, đổi tên trấn Vĩnh Thanh thành trấn Vĩnh Long. Thời Minh Mạng đổi tên trấn thành tỉnh. Miền Nam có 6 tỉnh – Nam Kỳ Lục Tỉnh : Gia Định, Biên Hòa , Định Tường, Vĩnh Long , An Giang và Hà Tiên. Vua Minh Mạng đặt chức Tổng Đốc cai trị hai ba tỉnh. Tổng Đốc Long Tường cai trị hai tỉnh Vĩnh Long và Định Tường. Đầu tỉnh có Tuần Phủ ( Vũ )- tỉnh trưởng, kế tiếp là Bố Chánh Sứ- đệ nhất phó tỉnh trưởng, Án Sát- đệ nhị phó tỉnh trưỡng, Lãnh Binh; thay cho tên gọi các chức vị đầu tỉnh cũ là Lưu Thủ, Cai Bạ ( Bộ ) , Ký Lục … Năm 1833 nhân trong nước có loạn Lê văn Khôi, binh Xiêm La chia làm 5 đạo tấn công Hà Tiên, Châu Đốc, Vĩnh Long. Xiêm chiếm các tỉnh Tolé Repou, Stung Chen và Mlu Prey ( theo Nguyễn Thế Anh “ Les Frontières du Việt Nam-1989). Hai tướng Trương Minh Giảng và Nguyễn Xuân đại phá thủy quân Xiêm trên sông Cổ Chiên. Chỉ trong vòng 1 tháng, quân Việt Nam đã đuổi quân Xiêm ra khỏi Vĩnh Long, lấy lại Hà Tiên và Châu Đốc, tiến chiếm Nam Vang -Pnom Penh và gần như tòan thể Cam Bốt. Năm 1834, vua Minh Mạng gọi đất Cam Bốt Trương Minh Giảng chiếm được là Trấn Tây Thành, chia ra làm 32 huyện, áp dụng một chánh sách đồng hóa triệt để. Cách cai trị quá đáng này làm dân Cam Bốt bất mản, nổi lên chống quân Việt xâm lăng. Hòang thân Nặc Ông Duang lảnh đạo cuộc kháng chiến mạnh mẽ, có quân Xiêm giúp đở. Khiến vua Thiệu Trị phải ra lệnh rời Nam Vang năm 1841. Nhưng quân Xiêm lại bóc lộc dân Cam Bốt quá độ khiến quân dân Cam bốt lại phải cầu cứu Việt Nam. Chiến tranh tái diễn năm 1845. Nhưng cả đôi bên Xiêm – Việt đều kiệt lực, cho nên phải ngưng chiến và Cam Bốt phải cam chịu làm chư hầu của hai nước Xiêm La và Việt Nam; mãi cho đến năm 1863 Pháp chiếm Sài Gòn, biến Cam Bốt thành nước Pháp bảo hộ, để Pháp có thể kiểm sóat hòan tòan lưu vực sông Cửu Long .

Pháp chiếm Lục Tỉnh biến thành thuộc địa Pháp và những cuộc kháng chiến chống Pháp
Tháng 2 năm 1859, như chúng ta đã biết Pháp hạ thành Gia Định. Ngày 25 – 2 – 1861, Pháp hạ đồn Kỳ Hòa. Thành mất, Kinh Lược Sứ Nam Kỳ Nguyễn Tri Phương bị thương nặng. Chiến lược chống giữ thành với chiến thuật thành cao, hào sâu không còn giá trị trước hỏa lực của Pháp. Các tỉnh liên tiếp thất thủ . Ngày 20 – 6- 1867, Pháp tấn công Vĩnh Long lần thứ hai. Phan Thanh Giản tuẩn tiết; kế tiếp 2 ngày sau các thành Hà Tiên và An Giang mất. Theo bà địa lý học Tâm Langlet ( Situation de guerre et de paix dans le Sud du Vietnam au 19e siècle, 1996 ), ở 6 tỉnh miền Nam ,năm 1867, đã có 1 500 000 dân Việt, 100 000 dân Khmer, 36 539 dân Hoa ( Tàu ), 10 000 dân Siêng và 9408 dân Chàm ( Chà Châu Giang ). Như đã nhắc trên, năm 2000, riêng tỉnh Đồng Tháp đã có 1 578 200 dân. Năm 2000, 12 tỉnh Đồng Bằng sông Cửu Long ngày nay đã có 16 344700 dân, không mấy thua kém 11 tỉnh - thành phố( Hà Nội, Hải Phòng ) Đồng Bằng Sông Hồng, cũng năm 2000 có 17 635 400 người.


Năm 1867, các quan tướng sĩ phu miền Nam đều khởi binh kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lăng. Đáng kể là Thiên Hộ Dương ở Đồng Tháp Mười và Nguyễn Trung Trực đưa nghĩa quân chiếm tỉnh Rạch Giá làm chủ tỉnh trong 4 ngày , tháng 6 năm 1868. Thật ra năm 1862, Đốc Binh Nguyễn Tấn Kiều đã chiêu mộ nghĩa quân ở Châu Đốc, Long Xuyên và Sa Đéc lập căn cứ kháng chiến chống quân Pháp, đang tiến về miền Tây. Đốc Binh Kiều sai xây một cái tháp cao mười tầng, khoảng 42 m, làm đài thám thính. Tháp nằm trong quận Mỹ An gần kinh Tháp Mười. Ngày nay, tháp chỉ còn một nền gạch bên cạnh ngôi mộ của Đốc Binh Kiều. Khi vua Tự Đức nhường 3 tỉnh miền Đông cho Pháp, dân chúng miền Nam bất mãn, tự động nổi lên kháng chiến chống Pháp. Trương Công Định lập chiến khu “ Đám Lá Tối Trời” ở Gò Công để đánh quân Pháp. Sau khi Trương Công Định chết, Võ Duy Dương rút quân về Đồng Tháp Mười lập căn cứ kháng chiến. Dựa vào căn cứ Đồng Tháp, Võ Duy Dương đánh khắp miền Hậu Giang, từ Hà Tiên đến Châu Đốc- Long Xuyên, từ Sa Đéc đến Long An - Mỹ Tho. Ngày 15 tháng tư năm 1865, quân Pháp vây kín căn cứ Đồng Tháp Mười. Nghĩa quân phục binh chận đánh ở Cái Thia mấy ngày liên tiếp. Sau trận này, Võ Duy Dương và nghĩa quân rút về Cao Lảnh, rồi sang vùng sông Vàm Cỏ Tây lập căn cứ kháng chiến mới. Tại đây, Võ Duy Dương mắc bệnh thương hàn và chết. ( theo Thiện Phương – 2005 ? ). 


Năm 1914, dưới triều vua Duy Tân ( 1907- 1916 ), huyện Cao Lảnh được thành lập , thuộc tỉnh Sa Đéc: huyện lỵ Cao Lãnh đặt tại làng Mỹ Trà. Lúc đó tỉnh Sa Đéc gồm 3 huyện là huyện Châu Thành, huyện Cao Lãnh và huyện Lai Vung. Năm 1945, sau khi Sài Gòn thất thủ, kháng chiến quân Nam Bộ tổ chức các chiến khu U Minh, Đồng Tháp Mười, Dương Minh Châu và chiến khu D, để trường kỳ kháng chiến và đồng thời lập nhiều căn cứ quân sự bao vây Sài Gòn: An Phú Đông, Bình Mỹ, khu 5 Hóc Môn, Vườn Thơm và Rừng Sát. Như đã nói ở bài về tỉnh Long An, năm 1946, tướng Trần Văn Trà xây dựng lại chiến khu Đồng Tháp Mười. Theo Trần Quang Hạo ( “ Cao Lãnh đến năm 1954”- tháng 7 năm 1963 ) tướng Nguyễn Hòa Hiệp thuộc Quốc Dân Đảng chỉ huy Đệ Tam Sư Đòan Kháng chiến Nam Bộ, khi còn liên minh với Việt Minh, cũng vào năm 1946, đã đến xin xăm ở miếu thờ ông bà Đổ Cao Tường ở làng Mỹ An, trước khi rút vô Đồng Tháp Mười. Năm 1956, Đệ nhất Cọng Hòa thành lập tỉnh Kiến Phong, tỉnh lỵ đặt tại Cao Lãnh. Từ đó Cao Lảnh tách rời khỏi tỉnh Sa Đéc. Tỉnh Kiến Phong gồm các quận ( thay tên huyện ) Hồng Ngự, Thanh Bình, Cao Lãnh … Sau ngày 30 tháng tư năm 1975, hai tỉnh Kiến Phong và Sa Đéc sáp nhập thành tỉnh Đồng Tháp, tỉnh lỵ là Cao Lảnh. Như vậy Sa Đéc không còn là tỉnh lỵ nữa, tuy vẫn còn là một trong 2 thị trấn lớn của tỉnh Đồng Tháp.

Chiến dịch Căm Bốt, vượt Mỏ Vẹt 1970

Tưởng cũng nên nhắc tới hai cuộc tranh hùng biên giới Miên Việt trong vùng, các năm 1970 và 1978- 79, mà Hoa Kỳ gọi là Chiến Tranh Việt Nam – Viêt Nam War. Theo Wikipedia, Chiến dịch Căm Bốt - Cambodian Campaign còn có tên là Xâm nhập Căm Bốt- Cambodian Incursion là một lọat họat động quân sự vào miền Đông Căm Bốt giữa năm 1970 của quân lực Hoa Kỳ và quân đội Việt Nam Cộng Hòa( ARVN ). Cả thảy là 23 trận đánh quan trọng của ARVN giữa 29 tháng tư và 22 tháng bảy và lực lượng Hoa Kỳ giữa ngày 1 tháng 5 và 30 tháng 6 . Mục đích của chiến dịch này là cố đánh bại 40 000 quân Quân đội Nhân dân miền Bắc – PAVN và quân đội Giải Phóng miền Nam - National Front for the Liberation of South Viêt Nam, NLF( lúc đó đã gọi tên là Việt Cọng – Vietnamese Communists ) đang chiếm đóng ở miền Đông Cam Bốt. Chánh sách chánh thức trung lập cũng như quân sự yếu ớt của Cam Bốt đã biến vùng này thành một nơi an tòan cho các lực lượng Cọng Sản Việt Nam thiết lập các căn cứ đánh Việt Nam Cọng Hòa -VNCH. Đồng thời chánh quyền Mỹ Nixon, đang thực thi chánh sách Việt Nam Hóa và rút hết quân đội Hoa Kỳ khỏi VNCH, cho nên cũng muốn cố làm tăng gia an ninh VNCH, bằng cách phá tan sào huyệt địch bên kia biên giới. Phía ARVN, các tướng tham chiến là Lữ Mộng Lan Quân Đòan II, Đổ Cao Trí Quân Đòan III và Nguyễn Viết Thanh Quân đòan IV gồm chừng 58 000 quân. Và tướng Creighton Abrams chỉ huy 50 600 quân ( lúc đó quân đội Mỹ ở Việt Nam MACV còn 330 648 quân và 55 039 Thủy Quân Lục Chiến ). Phía đối phương gọi vùng này là Mặt Trận B-3, chỉ huy quân sự là tướng Hòang văn Thái và chỉ huy chính trị là Phạm Hùng. Chiến dịch quân sự vượt Mỏ Vẹt -Parrot Beak ( Mỹ gọi là Lưỡi Câu – Fish Hook ) không phá tan được quân binh Cọng Sản, ( đã bị PAVN dự trù trước dù Mỹ hết sức giữ bí mật và di dời lên phía Bắc Kratié ) và cũng không bắt được ai cả của Trung Ương Cục miền Nam, Cục R - Central Office for South Viêt Nam ( COSVN ). Tuy Abrams tuyên bố là thắng trận, thành công, vì bắt được nhiều vỏ khí - lương thảo, nhưng thành-bại vẫn còn trong vòng tranh cải nhiều, phần Hoa Kỳ ( Phản chiến ? ) xem đó là thất bại cho đến ngày nay. 

Đánh trả Khmer Đỏ và tiến chiếm Kampuchia 1975- 79 ( cũng tóm tắt tài liệu Wikipedia )

Ngày 1 – 5- 1975, Kampuchia Khmer Đỏ tấn công Phú Quốc và ngày 10 -5 – 1975 chiếm đảo Thổ Chu giết hại 500 thường dân, nhưng bị Việt Nam phản công chiếm lại ngay sau đó và chiếm luôn đảo Koh Wai, gần cảng Sihanoukville, Trung Quốc giúp Căm Bốt xây dựng bên kia Hà Tiên – Kampot ( Cần Bột ). Tháng 8 năm 1975, Việt Nam hòan lại Koh Wai cho Kampuchia. Pol Pot, lảnh đạo Khmer Đỏ (tên Sihanouk gọi Cọng Sản cực tả Khmer kiểu Mao ), đã xem hiệp ước cộng tác giữa Lào và Việt Nam ngày 6 tháng 7 năm 1977 là một cuộc tấn công Kampuchia. Pol Pot hy vọng “ sai lầm” là dân Khmer Krom ( Khmer vùng trũng thấp) sẽ nổi loạn chống Việt Nam. Cho nên sang Bắc Kinh xin Trung Cọng giúp đở đánh Việt Nam, có Khmer Krom nội ứng ở Việt Nam. Lúc đó Hoa Quốc Phong vừa lên thay thế Mao Trạch Đông mới chết. Tàu Cọng hứa hòan tòan giúp đở Khmer Đỏ, chống đánh Việt Nam. Tháng tám 1977, Kampuchia tấn công 2 tỉnh An Giang và Châu Đốc. Tháng 9- 1977, Kampuchia pháo kích 6 làng ở tỉnh Đồng Tháp và tung 6 sư đoàn, tiến sâu 10km vào địa phận Việt Nam ở tỉnh Tây Ninh . Cho nên Việt Nam phải tập trung 60 000 quân ở Long An, Đồng Tháp và Tây Ninh hầu trả đủa. Ngày 16 tháng 12 – 1977, Không Quân Việt Nam vượt biên giới bắn phá làm quân Khmer Đỏ bị thiệt hại nặng nề. Trong năm 1977, Việt Nam đã gọi nhập ngũ 617 000 tân binh, huy động 900 xe tăng hạng nặng, 12 000 nhân viên không quân, 300 máy bay... Trong khi quân Kampuchia Khmer Đỏ chỉ có 70 000 binh lính, không có xe tăng hạng nặng, không có máy bay … Việc dự trù gọi nhập ngũ 2 triệu dân trong số 8 triệu dân Kampuchia lúc đó chưa thành hình và Pol Pot khinh địch, còn say mê chiến thắng Lon Nol, cho rằng sức chiến đấu 1 lính Khmer Đỏ bằng 30 lính Việt Nam ...Ngày 6 tháng 1 – 1978, quân đội Việt Nam tiến vào lảnh thổ Kampuchia cách Phnom Pênh chỉ có 38 km, nhưng lại rút lui ngay sau đó. Ngày 18 tháng giêng 1978, Phó thủ tướng Trung Quốc Deng Ying Chao - Đặng Doanh Chiêu ( vợ Châu Ân Lai ) đến Pnom Penh hứa tăng viện cho Kampuchia, sẽ gửi 10 000 – 20 000 cố vấn Tàu , cung cấp đại bác, máy bay chiến đấu, xe tăng nặng v.v… qua ngã Sihanoukville. Trong khi đó thì Nga Sô cho biết là Khmer Đỏ tập trung 14 -17 sư đòan và 16 đại đòan địa phương quân dọc theo biên giới Miên - Việt. Lê Duẫn cũng được Nga Sô hứa giúp đở và thật sự tàu Nga đang đổ bộ võ khí bổ sung cho quân đội Việt Nam tại cảng Cam Ranh. Ước lượng viện trợ của Nga Sô cho Việt Nam chừng 1.5 – 1.8 tỉ đô la Mỹ một năm vào thời gian này. Đúng là một cuộc chiến tranh đàn em trung gian cho Nga- Tàu. Tàu khuyên Việt Nam nhẫn nại, đừng xâm chiếm Kampuchia; nếu không sẽ bị Trung Quốc trừng phạt. Nhưng ngày 15 tháng chạp năm 1978, 10 sư đòan gồm 150 000 quân Việt, do tướng Lê Đức Anh chỉ huy, tràn ngập đánh bại Quân đội Cách Mạng Kampuchia – Khmer Đỏ, theo chiến tranh qui ước kiểu Nga đánh Tiệp Khắc năm 1968 ở Âu Châu, tiến chiếm Nam Vang và Kampuchia. Thành lập Cộng Hòa Nhân Dân Kampuchia- PRK thân Việt . Tháng 2 năm 1979, Đặng Tiểu Bình xua 300 000 quân tiến chiếm 20 thị trấn miền Bắc, gần tới Hà Nội, gọi là cho Việt Nam một bài học đã đánh Kampuchia. Cuộc chiếm đóng gần 100 000 quân Việt ở Kampuchia sau đó, bị quốc tế chỉ trích và nhiều nơi bị du kích Khmer Đỏ phản công, nên năm 1989, thừa cơ hội gọi là “ Đổi Mới”, Việt Nam rút hết quân đội khỏi Căm Bốt.

Địa hình

Tháp Mười sinh nghiệp phèn chua ,
Hổ mây, cá sấu thi đua vẫy vùng.
Tháp Mười nước mặn đồng chua
Nữa mùa nắng cháy, nữa mùa nước dâng. 
Ai ơi về miệt Tháp Mười,
Cá tôm sẳn bắt, lúa trời sẳn ăn.
Cá trê nướng, nước mắm gừng, 
Canh rau tập tàng, cá bống kho tiêu. 
Cơm khuya, cơm sáng, cơm chiều.
\ Cơm bao nhiều hột bấy nhiều nồng nàn
Điên điển mà đen mới chua,
Ăn cặp cá nướng đến vua cũng thèm.
Thương chồng nấu cháo le le, 
Nấu canh bông súng, nấu chè hột sen .
Thấy dừa thì nhớ Bến Tre, 
Thấy bông sen nhớ đồng quê Tháp Mười
Xòai nào ngon bằng xòai Cao Lảnh
Vú sửa nào ngọt bằng vú sửa Cần Thơ …
( Ca dao do Nguyễn thị Kim Thu và Trần Đăng Hồng trích dẫn , 2013) 
Đèn nào cao cho bằng đèn Sở Thượng 
Nghĩa nào trượng cho bằng nghĩa phu thê
Anh có đi đâu lạc Sở qua Tề 
Đôi ba năm cũng nhớ trở về với em .


( Sông Sở Thượng ở phía Tây Bắc tỉnh Đồng Tháp, biên giới Miên-Việt chảy về thị trấn Hồng Ngự. Ca Dao Miền Nam Nguyễn Hửu Phước trích dẫn, 2003 ) 

Địa mạo tỉnh Đồng Tháp thật bằng phằng, tuy rằng một nghiêng nhẹ từ Bắc xuống Nam và từ Tây sang Đông chia tỉnh ra hai phần: phía Bắc sông Tiền, diện tích 250 731 ha, thuộc vùng trũng Thấp Đồng Tháp Mười và phía Nam sông Tiền, diện tích 73 074 ha, nằm giữa sông Tiền và Sông Hậu. Đồng Tháp hưởng nhiều lợi lộc một hệ thống sông lớn kinh rạch đem bồi thêm đất thường do bùn đắp lên và nước luôn luôn ngọt, không bị nguồn nước mặn xâm nhập như các phần gần biển hai tỉnh Đồng Tháp Mười khác là Long An và Tiền Giang .

Khí hậu , thủy văn


Khí hậu tỉnh Đồng Tháp là khí hậu nhiệt đới khắp tỉnh. Có 2 mùa rỏ rệt: mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 11 và mùa khô từ tháng 12 đến tháng 4 năm sau. Lượng mưa trung bình hàng năm là 1682- 2005mm, mùa mưa chiếm 90- 95% lượng mưa này. Khí hậu mưa nắng này rất thích hợp cho nông nghiệp . Nhiệt độ trung bình là 270C, cao nhất là 34.3oC và thấp nhất là 21.80C. Thủy văn tỉnh nhà dưới ảnh hưởng 3 yếu tố là nước lũ từ thượng nguồn sông Mê Kông, mưa rơi xuống đồng ruộng và thủy triều biển Đông. Thủy văn cũng chia ra làm 2 mùa rỏ rệt mùa lũ từ tháng 7 đến tháng 11 và mùa khô từ tháng 12 đến tháng 6 năm sau . 
Như chúng ta đã biết, sông Mê Kông ( phần chảy ở Việt Nam ra biển Đông qua 9 cửa nên có tên là Cửu Long, Chín Con Rồng ) là một trong những sông lớn thế giới, dài 4220 km, lưu vực gần 800 000 km2 bao gồm lảnh thổ 6 nước : Trung Quốc ( tỉnh Vân Nam), Miến Điện – Myanmar, Lào, Thái Lan, Căm Bốt và Việt Nam. Dân số trong lưu vực năm 1997 là 65 triệu người. Trong 10 năm qua, đã có nhiều nghiên cứu kế họach và đề xướng cộng tác phát triễn kinh tế giữa các quốc gia Vùng Phụ Đại Mê Kông- Greater Mekong Sub Region - GMS. Tuy nhiên, lưu vực Hạ lưu sông Mêkông - Lower Mekong River Basin , chiếm 77 % lưu vực sông MeKong, mới được xem là phần quan trọng nhất của tòan thể lưu vực, cả trên phương diện môi sinh lẫn kinh tế. (Từ năm 1957 đó là phần lưu vực Ủy Ban sông Kekong - Mekong Committee phụ trách). Còn tỉnh Đồng Tháp nằm trong Trũng Đồng Tháp Mười , gồm chừng 700 000 ha lảnh thổ và mặt nước; ở Việt Nam thuộc 3 tỉnh Long An, Tiền Giang và Đồng Tháp ngày nay, nổi danh vì hệ thống sông kinh rạch chằng chịt. Trong mùa lũ từ tháng 6 đến tháng 12, kinh rạch đầy nhóc nước bùn - silt bearing water , giúp tái lập phì nhiêu cho đất đai Đồng Tháp Mười. Trũng Đồng Tháp là một hố to lớn, khi lũ đến trông như một đại hồ nước. Đồng Tháp Mười tương tự sông Tonlêsap ở Căm Bốt, hấp thu giữ nước, giúp cho Châu thổ Cửu Long ( Mekong ) xử lý được phần nào các nước lũ. Đọan đường từ tỉnh Long An đến Tân Thạnh nay đã trải nhựa. Đường nhựa chấm dứt ở Thạnh Hóa ( ? ) tỉnh Long An và chúng ta phải đến Gò ĐồngTháp Mười bằng đò. Gò Tháp ở huyện Đồng Tháp là nơi cao nhất tỉnh nhà, còn có thể xem đây là trung tâm trũng Đồng Tháp, thường không bị ngập lũ. Trái lại vùng đất rộng xung quanh Xẻo Quýt và Gào Giồng bị nước lũ ngập mỗi năm. Ngập lũ còn đe dọa 462 000 ha lúa và hơn 38 000 ha hoa màu phụ và cây công nghệ ngắn ngày. Mùa lúa hè- thu là mùa lúa bị đe dọa nhiều nhất. Từ lâu, các chánh quyền đã xây đắp hai hệ thống chống ngập lụt. Hệ thống bao ngạn đê cao – full dike , mặt đê cao hơn mực nước lũ tối đa - cao nhất, bảo vệ vùng bao ngạn suốt năm. Và hệ thống đê thấp ( đê tháng 8 ) – August / semi dike là hệ thống đê bị ngập tràn mùa lũ đến, thiết lập cố bảo vệ vụ lúa hè- thu, bảo đảm thu họach vụ lúa này, trước khi nước lũ ngập tràn ruộng. Mỗi hệ thống đều có ưu khuyết điểm. Theo báo cáo của Bộ Nông nghiệp năm 2009 ( ? ), vùng Đồng Tháp Mười có 45 kinh lớn dài 1068 km, 3 116 km kinh mức độ I, 674 2 km kinh mức độ II và 4200km kinh mức độ III.Trong số kênh lớn rộng 12- 60m , ở tỉnh ĐồngTháp có thể kể ra kinh Sở Hạ - Cái Cỏ - Lò Gạch, kinh Tân Thành – Lò Gạch, kinh Hồng Ngự- An Bình -Đồng Tiến – Lagrange ( tên địa phương là là kinh Lặc Giăng ), kinh An Phong – Mỹ Hòa, kinh số 79, kinh số 61, kinh 12 , kinh Bảy Thước, kinh Tháp Mười –Nguyễn văn Tiếp - Phước Xuyên… bên tả ngạn sông Tiền thuộc địa phận Cao Lãnh; giữa sông Hậu và sông Tiền là kinh Xáng Lớn chạy dọc theo liên tỉnh lộ số 8, từ Lấp Vò qua các xã Bình Thạnh Trung, Vĩnh Thạnh đổ ra sông Tiền là một con đường huyết mạch cho các ghe thuyền từ miền Tây về Sài Gòn; từ Lấp Vò về hướng Cái Tàu Thượng trỗ ra sông Tiền có kinh thuộc xã Hội An Đông, kinh Cũ hay kinh Cái Tàu nối liền chợ Lấp Vò với chợ Cái Tàu Thượng ; ở ngã tư Cây Bườn thuộc địa phận xã Vĩnh Thạnh là nơi tiếp giáp các con kinh Xáng Lớn từ Lấp Vò đổ về Long Hưng, Sa Đéc với con kinh vào ngã Thủ Ô , Gia Vàm trổ qua bến bắc Cao Lãnh … Hình như kinh Cái Cỏ nối rạch Cái Cái với sông Svay Riêng ( ? ) là kinh đào xưa nhất vùng từ năm 1815 ; và khởi sự đào năm 1988 ở miệt Đồng Tháp Mười là kinh Đường Thét, một con kinh khá lớn ( theo Lương Thư Trung, 2003 ). Nghiên cứu GIS - Geographic Information System ) của chuyên viên Thủy Lợi – Công Chánh và Trung Tâm GIS, viện đại học Fenchia, Đài Loan và khoa địa lý viện đại học Giáo dục Sư Phạm Quốc gia, Hà Nội, báo cáo năm 2009( ?) là mọi huyện và làng xã tỉnh Đồng Tháp đều ngập nước khi nước triều dâng vào mùa nước lũ. Hồng Ngự, Tam Nông, Thanh Bình, Cao Lãnh đều bị ảnh hưởng của châu thổ Sông Cửu Long. Hồng Ngự, Tam Nông luôn luôn thuộc vùng bị ngập, tỉ trọng dân số ít hơn 400 người/ một km2 . Lấp Vò, Lai Vung sống trên đất cao hơn mực nước lũ khỏang 60cm, rất đông dân, tỉ trọng dân số đã trên 600 người/ km2. Với chánh sách đô thị hóa, khi Việt Nam vượt qua giai đọan phát triễn ưu tiên nông nghiệp, ắt phải đầu tư mở rộng thêm, cải thiện thêm hệ thống đê cao; có khuyết điểm là thiết lập tốn kém, giảm bớt phì nhiêu đất đai, giảm bớt cá bắt, tăng thêm nhiều bệnh lúa và làm ô nhiễm nước. Nhưng lại bảo vệ được hòan tòan các vụ lúa, tạo điều kiện dễ chăn nuôi gia cầm, gia súc… hơn, cung cấp hạ tầng cơ sở xây dựng đường xá tốt đẹp hơn, tạo thêm nhiều công ăn việc làm cho dân sở tại hơn. 

Danh lam thắng cảnh, khai thác các tài nguyên Đồng Tháp , phát triễn thương mãi , du lịch dịch vụ ngày nay và tương lai

Nhờ thanh bình trở lại, ít nhất là sau năm 1979, tỉnh Đồng Tháp đã có thể thực thi các dự án phát triễn trên cả ba lảnh vực nông nghiệp, du lịch – dịch vụ - thương mãi, công nghệ -xây cất, những thời trước thường bị gián đọan vì nội chiến hay chiến tranh biên giới. Tỉ như chương trình khẩn hoang lập ấp đào kinh ( như kinh Đồng Tiến ) rửa phèn, chống lũ Đồng Tháp Mừời .., tại Hồng Ngự - Kiến Phong… dự trù năm 1957 , nới rộng thêm chương trình định cư Cái ( Cai ) Sắn phía biên giới ngập lũ Miên Việt Đồng Tháp Mười, đã bị gián đọan 3 năm sau. Đáng kể trước hết ngày nay là phát triễn ngành du lịch sinh thái, tham quan các địa điểm lịch sử văn hóa – văn minh, nhân sinh kim cổ (Ốc Eo, các chúa- vua nhà Nguyễn Phước khai khẩn vùng “đồng chua nước mặn” chế ngự “nữa mùa nắng cháy, nữa mùa nước ( lũ ) dâng”… ) Đồng Tháp , một số ghi ra sau đây : 

* Gào Giồng là một Đồng Tháp Mười thu nhỏ, một vùng du lịch sinh thái thiết lập tháng 3 năm 2003, ở thôn 6 xã Gào Giồng , huyện Cao Lảnh tỉnh Đồng Tháp, cách trung tâm thị xã Cao Lãnh 20km. Đây là một phong cảnh đẹp đẻ, yêu kiều. Từ Cao Lãnh, du khách đến đây theo con đường quốc lộ 30 là quốc lộ nối với quốc lộ 1, dọc theo sông Tiền vượt Hồng Ngự qua biên giới Cam Bốt rồi đến quốc lộ 1 Căm Bốt gần thị trấn Banam để đi đến Phnom Penh hay rẽ đường lên phía Bắc đến thị trấn Pray Veng. Vùng ốc đảo xanh này chia ra làm 4 khu có 70 km kinh và 20 km đê bao ngạn. Khu rừng sát – mangrove forest Gào Giồng chiếm 1700 ha, gồm luôn cả 250 ha rừng nguyên sinh - primitive forest hoang dã. Đứng trên đài quan sát giữa vùng sinh thái, du khách sẽ nhìn thấy theo tầm mắt chim bay một viễn cảnh trũng Đồng Tháp Mười rộng lớn, đã được phản ảnh ở phim Việt nổi tiếng “ Cánh Đồng Hoang” nghệ sĩ Hồng Sen đạo diễn và nhà văn Nguyễn Quang Sáng viết kịch bản. Trên xuồng ba lá nhỏ, các nữ du kích cũ, mặc áo bà ba khi chèo, khi chống sào nơi nước cạn, giữa các kinh mương chằng chịt qua lại rừng tràm, du khách sẽ đến một khu vườn bảo vệ chim muông ai cũng phải buộc ngừng xuồng trông nhìn. Thăm viếng vườn bảo vệ chim, từ sáng sớm tinh sương hay lúc hòang hôn, du khách sẽ ngạc nhiên về những đàn hàng ngàn chim chóc sống động và nhộn nhịp inh ỏi, bay lượn quanh một góc rừng. Nay vườn đã kiểm kê được 200 lòai ( trong số 900 lòai khắp nước ) và rất nhiều lòai đã ghi danh ở Sổ Đỏ Việt Nam và Thế giới. Tỉ như Ô Tắc họ Otitidae, Nhạn điểm và Giáng Sen Mycteria 

leucocephala. Vườn cũng là nơi sinh sống cho vài tá Trích Mồng đỏ, vịt huýt- whistling duck, vịt trời- wild duck và hàng ngàn cò trắng – white egret . Cho nên vùng đã được xem là sinh thái cò trắng lớn nhất Đồng Tháp Mười. Gào Giồng cũng nổi danh là nơi tràn đầy thủy sản đáng kể là cá tra – cà vồ snakehead , cá rô đồng Anabas, cá thát lát họ Notopridae và nhất là cá Rohu ? hồ cạn miềng Tây Cam Bốt. Đặc biệt xinh đẹp như một bức tranh vào mùa nước lũ, Gào Giồng là một cánh đồng hoang ngũ sắc, ít thấy trên thế giới: hoa vàng vàng cây điên điển Sesbania sesban, hoa bông súng đỏ water lily, hoa tím cây tử vi , bách nhật hồng crape myrtle, màu hồng hoa sen lotus Đồng Tháp và màu xanh cây rừng tràm, rừng sát.

*Căn cứ Kháng chiến Xẻo Quýt nay đã phục hồi 20 ha rừng tràm, làm thành một địa điểm du lịch sinh thái và nhân sinh miền Nam. Xẻo Quýt nguyên là một rừng tràm mênh mông thuộc Đồng Tháp Mười và vùng U Minh. Dù đã bị tàn phá nặng nề, năm 1975 vẫn còn hơn 100 000 ha rừng ngập nước ở các tỉnh Long An, An Giang, Kiên Giang, Bạc Liêu và Cà Mau. Như đã nói trên, rừng tràm là một nơi hấp thu, dự trữ nước ngọt chống lại nước mặn thủy triều cường xâm nhập và phèn trồi lên mặt đất, điều hòa ẩm độ vào mùa khô. Kinh mương chằng chịt, phần lớn thiết lập từ đầu thế kỷ thứ 20, đã trở thành những đường chuyên chở giúp dân gian địa phương khẩn hoang, trồng lại rừng và chống lữa cháy rừng. Lúc đó, khai thác phát triễn văn hóa, xã hội kinh tế rừng tràm đựợc khuyến khích, liên kết đến lịch sử quốc gia khai khẩn đất phèn hoang vu và bảo vệ đất nước. Tên khoa học của tràm trước gọi là Melaleuca leucadendron, nhưng G S Phạm Hòang Hộ cho biết là lòai M . leucadendron không có ở Việt Nam, chỉ có ở Úc, Tân Ghi Nê và Molucca, đổi tên là M. cajuputi( tên Anh là cajeput tree, paper bark tree, Niaouli, tên Pháp là cajeputier, essence de Niaouli) . Nay có người gọi tên là Melaleuca quinquenervia hay giữ tên củ là M. leucadendron . Đây là một đại mộc cao 8- 12m, bề ngang khỏang 7m, lá luôn luôn xanh hình thuẩn dài 5- 10cm và tàn cây khá rậm rạp. Hoa trắng vàng vàng, mọc thành cụm dài 2- 10 cm , nở hoa vào tháng 6 tháng 8 , trái là một nang quả - capsule, hột nâu cứng. Năm đầu khi mới trồng cần 4 tháng có đủ nước, năm thứ 2 hai 3 tháng và năm thứ ba chỉ 2 tháng. Ít cần săn sóc, chỉ cần xen tĩa cắt cành đôi chút hàng năm. Chịu đựng khô hạn, thóat thủy kém, mọc trên bất cứ lọai đất nào, chịu gió thổi mạnh hay gió lạnh, khói mù sương …. Thích sống dưới ánh nắng mặt trời. Ít nhạy cảm môi trường hơn là các loài Melaleuca khác, nhưng khi mới trồng bầu cây con vẫn cần săn sóc, nhất là tránh làm bể bầu. Đặc biệt kháng bệnh cây, sâu bọ và hút dẫn nhiều chim muông. Lá tràm rất thơm và chưng cất cho tinh dầu màu lục. Hình như ngày nay ở đất phèn nặng và điều kiện phong thổ khác khó khăn: ngập nước , thoát thủy kém… đã phổ biến các giống lòai khuynh diệp đỏ Eucalyptus camaludensis, tên Anh là Murray red gum, River red gum… , một đại mộc cùng họ Myrtaceae với lòai Tràm, nguồn gốc Úc Châu, nhưng mọc cao hơn đến 45m, thân ngay, to đến 1.5 m, vỏ già xám nâu, dễ tróc vỏ, nhánh non vuông, lá mốc mốc dài đến 12- 30cm… Rừng tràm khi ngập nước đỏ nâu là một nơi sinh sống lý tưởng cho nhiều lòai chim, và thú rừng hoang dã, đặc biệt của rừng nhiệt đới. Gỗ tràm vừa có thễ dễ uốn cong,vừa kháng được hư thối, thường được dùng xây cất và làm cọc cho tầng hầm, nền móng: cho nên hay bị khai thác bừa bải ở nền kinh tế thị trường ngày nay. Hơn nữa, vào mùa khô, cây tràm dễ cháy. Vụ lữa cháy rừng tràm, năm 1984, đã tiêu hủy hàng nghìn ha rừng tràm, làm tai hại sinh thái địa phương.

* Vườn Chim (công viên ) Tam Nông ở huyện Tam Nông, diện tích 8000 ha và 53 km lối mòn tham quan. Còn gọi là Công viên Quốc Gia Tràm Chim- Tràm Chim National Park . Từ tháng 8 đến tháng 11, vào những ngày triều cường nhất -highest tide du khách có thể dùng thuyền máy – motorboat đi xuyên qua rừng hoa lá và các cây tràm xanh dương lục , Tràm Chim được mệnh danh là Ốc Đảo Xanh – Green Island, một thắng cảnh vùng ngập lũ thiên nhiên điển hình Đồng Tháp Mười. Tràm Chim là nơi cư trú nhiều lòai thực vật cây cỏ đất nước và gần 200 lòai chim nước, thủy điểu – water birds , tính ra chiếm đến khỏang ¼ các lòai chim đã kiểm kê, định danh ở Việt Nam. Đáng kể nhất là các sếu đầu đỏ - red head cranes, một trong 15 lòai sếu thế giới bị nguy hiểm tuyệt tích. Được biết là có đến 60% sếu đầu đỏ Việt Nam cư ngụ ở Công viên Quốc gia Tràm Chim. Sếu đầu đỏ là lòai chim cao nhất thế giới, rất nhiều con cao, gần 2m. Lông xám mềm mại, cẳng dài và cổ dài. Chúng cất bước chầm chậm và mở rộng đôi cánh khi bay cao. Tiếng sếu kêu rất to, mạnh mẽ và nghe được cách đó 2- 3 km, nhờ sếu có một khí quản - windpipe tạo ra tiếng vọng dội như là một ống kèn thổi vậy đó. Các nhà khoa học cho biết sếu đầu đỏ xuất hiện trên thế giới đã 60 triệu năm nay, thời các khủng long ? bò sát khổng lồ- giagantic reptile và sống khắp 5 châu. Tràm Chim cũng chứa nhiều lòai chim đặc biệt khác, tỉ như vịt trời cánh trắng và bồ nông – pelicans. Từ cuối tháng chạp đến đầu tháng năm, những đàn sếu trở về lại Tràm Chim sinh sống, sau khi di cư tránh mùa nước lũ. Chúng bay lượn trên các ngọn cây tràm, tạo ra một cảnh ngọan mục. Tham quan công viên Tràm Chim lúc đó, giúp cho du khách hưởng thi vị một cảnh trời xanh đẹp đẻ, sông kinh mương và rừng tràm. Hàng trăm lòai chim khác như cò- storks, le le ( mòng két ) – teals, chim lặn – grebes, diệc – herons và vịt trời đậu trên cành cây tìm ăn. Tràm Chim cũng được xác nhận là một nơi có cây cỏ thiên nhiên vùng trũng Đồng Tháp Mười, rừng tràm mới tái tạo tuổi 10 – 18 năm, nhiều lòai hoa sen ( trắng , hồng, nữa trắng nữa hồng), hoa cây súng, lúa ma và hoa bìm bìm nước – water morning glory. Đầu năm 1999, chánh quyền chánh thức công nhận Công viên Quốc gia Tràm Chim. Tháng 5 năm 2012, Công Viên Tràm Chim được ghi vào danh sách một vị trí Ramsar ( Tổ chức Quốc tế Đất Ẩm ướt - Wetland , giúp đở 2000 vị trí đất ẩm ướt thế giới) thứ tư của Việt Nam, sau Xuân Thủy ( tỉnh Nam Định ), Bầu Sâu ( Cát Tiên tỉnh Đồng Nai) và Ba Bể ( tỉnh Bắc Kạn). Những vị trí Ramsar nước nhà kế tiếp có thể là Mũi Cà Mau, Láng Sen và U Minh Thượng. 

*Gò Tháp là một vùng cổ tích, ở xã Tân Kiều, huyện Tháp Mười, cách huyện lỵ 11 km và cách thị xã Cao Lảnh 43 km về hướng Tây Nam. Muốn đến Tháp Mười phải đi từ Mỹ Tho về phía Tây trên quốc lộ 1A, chừng 11km đến ngã ba đường rẽ nhỏ hướng Bắc dẫn tới làng Mỹ Cảnh. Một đường nhỏ khác cách Mỹ Tho chừng 20 km cũng dẫn tới làng Mỹ Cảnh. Nơi đây có một con đường khác đưa đến Tháp Mười cách Mỹ Cảnh khỏang 18km về hướng Tây. Cổ Tích Gò Tháp biết rỏ nhất là Mộ Đốc Binh Kiều, Tháp Cổ Tự, Miếu Minh Sử, Điện thờ Bà Chúa Xứ và Gò Tháp Mười. Các nơi này biểu hiện giá trị lớn văn hóa, lịch sử miền Nam Việt Nam. Tháp Cổ Tự cách gò Tháp Mười 100 m về phía Bắc. Tháp Cổ Tự được vua Thiệu Trị sai xây dựng năm 1841- 1842, nguyên là nơi có một đền thờ Chân Lạp ( ? ). Cách đây 2000 năm Gò Tháp là môt khu cư ngụ đông đúc; các nhà khảo cổ ( 1984, 1993) tìm thấy ở Gò Tháp nhiều di vật thời văn minh Ốc Eo. Năm 1932, nhà khảo cổ trứ danh Pháp Parmentier, đọc chữ Phạn khắc trên mấy bia đá nứt nẽ, tan tác ngổn ngang … cho biết đây là cái tháp thứ 10 trong số mười cái tháp vua chúa Thủy Chân Lạp dựng lên. Tháp Mười làm tòan bằng đá xanh trên một gò cát. Trước Tháp Mười là một tượng đá sư tử và trụ đá lớn cự thạch hình dạng Linga ( Dương vật ) , tượng trưng thần Siva- Bhadresvara ở tôn giáo Ấn Độ và cũng tượng trung cho sự sinh thành, sinh tồn, truyền giống. Còn Linga và Yoni ( Âm vật ) ở Bảo tàng viện Quốc gia Sài Gòn hợp lại là để tượng trưng sự sinh thành của vũ trụ; không rỏ có tìm thấy Yoni ở Gò Tháp không ? Gò Tháp đã được phép Bộ Văn hóa -Thể thao và Du lịch xây cất một khu du lịch sinh thái với nhiều cơ sơ tiêu khiển, một tháp 10 tầng hình hoa sen- lotus culinary tower , trình bày cách nấu ăn đặc thù Đồng Tháp : cá tra nướng chấm nước mắm gừng, Ốc bưu hấp hương vị Đồng Tháp, canh chua nấu bông điên điển, cơm gạo lúa trời trên mặt trải những nữa hột sen đã lấy tim, bọc lá sen v.v.. Đáng khuyến khích thêm là Lễ hội- Festival Gò Tháp mỗi tháng 3 và tháng 11 âm lịch hàng năm trình diễn ca kịch, nhảy múa điển hình văn hóa, nghệ thuật Đồng Tháp…


* Làng Hoa Tân Quí Đông – Flower Gardens cách Sa Đéc chừng 3 km là một trong những làng trồng hoa lớn nhất nước, rộng gần 300 ha, mỗi năm sản xuất hơn 12 triệu lọai hoa cây kiểng đủ lọai bán khắp nước và xuất khẩu, góp phần không nhỏ vào lợi tức GDP tỉnh nhà, đặc biệt là cúc, vạn thọ, thược dược, huệ hương, mồng gà, ớt kiểng, hoa hồng xứ nóng nổi tiếng trong nước, ngay cả nhiều lọai hoa lay yơn … nay thêm sản xuất và xuất khẩu các lọai lan nhiệt đới. Trước đây hoa Tân Qúi Đông chỉ để bán hoa kiểng ở các buổi chợ Tết TP HCM , nay cung cấp hoa cho làng mai Thủ Đức, làng hoa Gò Vấp bị sức ép đô thị hóa , giá đất cao không đủ làm nông nghiệp , nguồn nước bị ô nhiễm tưới cây không tốt, dùng nước máy không có phù sa cho hoa phát triễn mạnh mẽ, làng hoa Sa Đéc nay áp dụng kỷ thuật lai giống di truyền sinh học tiên tiến, cung cấp hàng ngày hoa kiểng cho các điểm bán hoa kiểng khu chợ hoa đường Thành Thái, làng mai Thủ Đức, làng hoa Gò Vấp có khi còn canh tranh thắng lợi bán ra cây kiểng làng Cái Mơn ở thị trường bonsai kiểng thú, kiểng nai: sung, si, khế, bùm sụm, tắc, cau, mai … cung cấp đủ lọai cây xanh cho thư phòng, cho các quán cà phê cây xanh, công viên hoa viên tư nhân , những nhà vòm cây xanh trang trí… hay sẽ thiết lập tương lai các nhà kiếng điều hòa không khí, trồng kiểu thủy sinh - hydroponics sản xuất thêm hoa hồng xứ lạnh cho các tiệm các tỉnh khác, cho Sài Gòn hay ngọai quốc và tiến mạnh hơn nữa về sản xuất các cây cỏ làm thuốc Nam , thuốc Bắc, như ở Trung tâm Khảo Cứu Thuốc Nam của ông “Ba Đất Phèn” nơi thử nghiệm 19 giống tràm cajeput, một số chỉ có ở đây : tràm gió , tràm trà ? v.v… Cũng như không quên ngừng lại xem các vườn cây trái đặc hửu tỉnh nhà: vườn xòai Cao Lảnh, vườn quýt Lai Vung, vườn nhãn Châu Thành , vườn bưởi Phong Hòa ra trái quanh năm; nay diện tích tổng cọng là 30 000 ha và mức sản xuất trên 150 000 tấn một năm.

Hướng phát triễn thương mãi, du lịch dịch vụ tương lai cho đến 2020 – 2030, mau hay chậm tùy thuộc cải thiện giao thông như nâng cấp hay xây dựng đường bộ đến tiêu chuẩn cấp II đổ bê tông và trải nhựa ; như các quốc lộ số 30 , 54, 80 và xa lộ HCM , đường N1 ( con đường di chuyễn các thời kháng chiến ?, phải đợi mùa khô mới dụng binh được để trả đủa Khmer Đỏ tấn công các tỉnh ĐBSCL ) , xa lộ Cần Thơ -TP HCM , tiến tới đường Cao Lãnh – An Hửu, các quốc lộ 30B và 80B. Đáng mừng là năm 2010, Chánh phủ Úc thời bà Julia Gillard làm thủ tướng, đã cung cấp ngân khoản( có sự đóng góp thêm của Hàn Quốc, Nam Hàn – Ngân hàng phát triễn Á Châu –ADB và ngân sách quốc gia.. . xây dựng hai cầu cáp treo cao ở Cao Lảnh và Vàm Cống, dài 5000 m, có 25 km đi vào và các đường nối giữa hai cầu, trị giá 160 triệu đô la Úc, 10 năm sau khi Úc đã làm xong cầu Mỹ Thuận. Hai cầu này thực hiện xong năm 2015?, sẽ cải tiến giao thông cho 170 000 người đi hàng ngày, tăng cường tỉ lệ tăng trưởng kinh tế, thương mãi và giảm nghèo cho 5 triệu dân Đồng Tháp, An Giang và Cần Thơ. Về phần tỉnh lộ nâng cấp để đạt tiêu chuẩn cấp III rộng 9m và trải nhựa. Trong thời gian 2011 – 2015 nâng cấp các tỉnh lộ ĐT 842, ĐT 853 và vào thời gian 2016- 2020 nâng cấp ĐT 841, ĐT 844 và ĐT 854 . Về đường sông, vét và đào sâu thêm 5 đường chánh nối với các tỉnh Châu thổ sông Cửu Long, đặc biệt ở hai sông Tiền và sông Hậu thiết lập các cảng tàu trọng tải 5000 tấn có thể cập bến và các nơi khác, các tàu ghe thuyền trọng tải 200 – 600 tấn cập bến được .

Thiết lập khu kinh tế rộng lớn hơn ở biên giới Miên Việt, diện tích là 31 836 ha năm 2013 ở 3 huyện: chợ tỉnh Hồng Ngự, hai huyện Hồng Ngự và Tân Hồng, chắc chắn sẽ bổ sung phát triễn thương mãi- du lịch - dịch vụ ngòai phát triễn kinh tế, công nghệ xây cất và nông nghiệp thị trấn. Nay ở các vùng phát triễn kinh tế đã có hai cửa khẩu quốc tế là Thượng Phước ( huyện Hồng Ngự ) và Dinh Bà (huyện Tân Hồng ) ngòai 5 của khẩu thứ yếu ( Bình Phú , Binh và Đồn Á châu - Asia Đon …). Đường đến các cửa khẩu cả đường bộ lẫn đường sông rất thuận tiện và chỉ cách TP HCM 180 km, Nam Vang - Pnom Penh 100km. Cầu Dinh Bà bắt ngang qua hai bờ Sông Tiền cũng rất thuận lợi cho thương mãi và chuyễn vận hàng hóa giữa hai quốc gia.


Mức phát triễn GDP trong các năm 2010- 13 đã đạt 13 % một năm, nông nghiệp tăng 6% một năm, công nghệ xây cất 19.5 % một năm và thương mãi dịch vụ 15 % . Hy vọng vào năm 2015 thành phần nông nghiệp là 37% GDP, công nghệ – xây cất là 30% và thương mãi dịch vụ là 33 % . Năm 2020, dự tính nông nghiệp chỉ còn 28.5 % , công nghệ xây cất lên 36 .5 % và thương mãi – dịch vụ 35 % . Hy vọng đạt GDP mỗi đầu người năm 2015 là 1500 đô la Mỹ - USD và năm 2020 là 2900 USD . Xuất tỉnh sẽ lên đến trị giá 650 triệu đô la năm 2015 và 1350 triệu đô la năm 2020.

Nông nghiệp

Đồng Tháp là tỉnh đứng thứ 3 về mức sản xuất lúa gạo, sau Kiên Giang và An Giang . Diện tích trồng lúa là 462 042 ha từ năm 2002, tăng thêm trên 60 000 ha so với diện tích trồng lúa cả năm là 361 000 ha năm 1995. Mức sản xuất xuất lúa cả năm đã trên 2, 800 000 tấn năm 2012, tăng hơn 600 000 tấn so với năm 2002 chỉ mới đạt 2 159 000 tấn. Đồng Tháp chỉ trồng 2 vụ lúa một năm vụ hè – thu ( tháng 4 – tháng 8) và vụ đông xuân ( sạ tháng 11- 12 và thu họach tháng 2- 3 ) . Vụ lúa mùa mưa, trước đây là lúa nổi – floating rice ở Đồng Tháp rất nổi tiếng vào thời Pháp thuộc ( sạ tháng tư, thu họach từ tháng 10 -11 đến tháng 1- 2 năm sau ) đặc biệt ở vùng Hồng Ngự đã hòan tòan bị bải bỏ ( thống kê còn ghi 31000 ha lúa mùa – lúa nổi năm 1995 ở tỉnh nhà và không còn ghi nữa các năm sau ), thay bằng các vụ lúa sớm mới năng xuất cao lúa hè – thu và thu- đông, kiểu lúa Thần Nông sớm hơn giống IR 8 cũ của cuộc Cách Mạng Xanh phát động các năm 1967- 78 ở ĐBSCL, năng xuất 4- 5/ha thay vì 1-1. 5 tấn /ha. Sản lượng lúa gạo Đồng Tháp còn có thể tăng thêm những năm tới nếu thay đổi phương cách lịch trình canh tác lúa hiện hửu, sạ lúa Đông -Xuân sớm hơn để thu họach lúa Hè-Thu hòan tất trước khi lũ đến. Lúa Đông Xuân cũng có năng xuất cao hơn , 6-8 tấn /ha ( tương lai có thể 9- 10 t/ha hay hơn nữa, với giống lai tân tuyễn, chu kỳ C4 như bắp và tàn - kiểu lá mọc có tỉ số hấp thu ánh sáng lớn hơn nữa v.v… ) vì là lúa tưới tiêu mùa nắng số giờ nhật chiếu nhiều hơn. Những cải thiện này lẽ dĩ nhiên tùy thuộc hệ thống sông rạch kinh mương, đê điều vùng dưới - down stream ( châu thổ sông Cửu Long ) khi lũ cao đến, đê điều vùng trên – upstream ( của hạ lưu sông Cửu Long ở Thái Lan, Lào, Tây Nguyên, Bắc Căm Bốt … ) có thể tăng thêm mực nước vùng thấp và tăng tốc độ dòng chảy các sông rạch kinh, gây xói mòn lỡ bờ…

Một thành công khác, ngòai lúa gạo, ở tỉnh Đồng Tháp là phát triễn thủy sản nước ngọt, đặc biệt là nuôi cá tra sọc( cá swai, sutchi , ba sa) Pangasianodon hypophthalmus một lọai cá trê( mèo ) da trơn - catfish và tôm càng xanh blue –legged prawns Macrobrachium rosenbergii. Diện tích nuôi thủy sản ở tỉnh nhà nay đã đến 5 285 ha, nông dân nuôi tôm càng xanh trong ruộng lúa vào mùa nước lũ và cá tra da trơn trong bè lồng lưới trên nhà dọc sông Tiền và sông Hậu. Nuôi cá tra sọc swai, cá bông lau Pangasius boncourti chỉ mới khởi sự từ cuối thập niên 1960 ở ĐBSCL, nhưng năm 2005, tỉnh Đồng Tháp đã sản xuất được 60 000 tấn cá tra, cá bông lau, đứng hàng thứ ba đất nước sau An Giang 119 000 tấn và Cần Thơ- Hậu Giang 90 000 tấn . Năm 2012, Đồng Tháp cung cấp trên 290 000 tấn cá trong đó cá Pangasius chiếm 256 400 tấn và gần một ngàn tấn tôm càng xanh. Hai lọai có thể phát triễn thêm ở Đồng Tháp là cá rô phi điêu hồng – red tilapia ( đáng lưu ý là nay có giống vi - fins to, thay thế vi cá mập ? ) giống tôm thẻ chân trẳng ? Điểm đáng nêu lên là kỷ thuật nuôi cá tra, basa … Việt Nam hay Đồng Tháp rất ưu việt , năng xuất rất cao 300 một mùa một bè lồng lưới ( hay 500- 600 t một năm ) vào năm 2010. Năm 2010, mức sản xuất Pangasius đã là 1 .140 triệu tấn cá ( 2 .5 tỉ cân Anh ) và năm 2012 là 1. 255 500 triệu tấn, trên tổng số diện tích cá da trơn là 5910 ha. Năm 2010 ,Việt Nam đã xuất khẩu 659 000 tấn cá Pangasius trị giá 1.43 tỉ đô la Mỹ . Nuôi cá Pangasius là một ngành tiểu nông, ngư trang nhỏ bé, thường nhỏ hơn 1 ha. Chỉ có một hai ngư trang Pangasius trên 40 ha. Theo tài liệu bộ Nông Nghiệp, năm 2010 Đồng Tháp có chừng 70 000 ha mặt nước có thể nuôi cá, nuôi tôm v.v… Chia ra làm 3 vùng : vùng 1 ở Lai Vung, Lấp Vò, Sa Đéc, Châu Thành có thể nuôi tốt tôm càng xanh; vùng 2 đất phù sa phía Bắc Sông Tiền nuôi tốt cá tra, cá basa và vùng 3 là vùng trũng Đồng Tháp Mười nuôi tốt nhiều lọai cá. Những khó khăn cho ngành nuôi cá, nuôi tôm ở Đồng Tháp, một số đã được giải quyết phần nào, là: ô nhiễm nước, sử dụng thuốc kháng sinh nhiều lọai bị cấm trên thế giới, thị trường chưa mở rộng được thêm nữa cho nên cung cấp cá có thể quá thừa thải ( nhất là khi vài nước như Hoa Kỳ đánh thuế trên cá da trơn để bảo vệ cá da trơn Mỹ, năm 2011?), n
ông dân thiếu tài sản để thế chấp vay tiền ngân hàng- nông tín , các nhà máy chế biến cá xuất khẩu hòan tiền mua cá chậm trễ … 


Xây cất đô thị - thị trấn hóa phát triễn mạnh mẽ ở tỉnh Đồng Tháp sau chiến tranh .
Như đã nêu trên, Đồng Tháp dự trù đạt tỉ xuất 13 % mỗi năm mọi ngành cho thời gian 2011- 2015. Ngành công nghệ - xây cất cố đạt 19,5% trung bình mỗi năm vào các năm 2011- 2015 và 15.2% vào thời gian 2016- 2020. Hy vọng này không có gì là quá đáng, GDP mỗi dân Đồng Tháp cố đạt 1500 USD năm 2015 và 2900 USD năm 2020 như đã nói trên. Năm 2020, tỉnh Đồng tháp sẽ có 7 khu công nghệ tập trung và 32 cụm công nghệ, tổng diện tích là 4 626 ha, kể cả khu kinh tế cửa khẩu biên giới. Trong cơ cấu kinh tế năm 2015, công nghệ- xây cất sẽ chiếm 30 % , nông nghiệp 37 % ( thay vì hơn 75 % thập niên 1950 – 1960). Năm 2020, cố đạt tỉ xuất 36,5% so với nông nghiệp rút xuống chỉ còn 28.5%. Tình trạng này xem ra có cơ hòan tất vì năm 2010, họat động Đồng Tháp đã xếp hạng ba “ Mức Cạnh tranh Phát triễn Các tỉnh - Provincial Competition Index PCI” trong các tỉnh nước nhà, thay vì lẹt đẹt đứng hạng 21 những năm trước. Đặc biệt là tiến triễn mức đô thị - thị trấn hóa tỉnh nhà. Năm 1990 còn ở tỉ xuất 19.5% đô thị hóa. Năm 2009 đã đến 30 % dân số và mong đạt 32.5 % năm 2015 và 38% năm 2020. Theo ba chiều hướng: a-Phát triễn vùng Đồng Tháp Mười, tụ điểm vào nông nghiệp, những quần cư nông thôn mới, tạo nền tảng ổn định cho phát triễn bền vững kinh tế xã hội và tăng gia mức hửu hiệu ; b- Phát triễn vùng dọc hai sông Tiền và sông Hậu và vùng dọc sông Sa Đéc – Kinh Xáng Lấp Vò, ( thuộc Hành lang Kinh tế Đông Tây của Châu thổ Mê Kông ) đặt nền tảng thu thêm lợi tức cho ngân sách quốc gia, cũng như tạo thêm công ăn việc làm, hút dẫn lực lượng lao động không là nông dân, và góp phần đề xướng đổi thay cơ cấu lao động địa phương.; c- Phát triễn kinh tế ngoại vi - biên giới theo phương cách làm dễ dàng khai thác và dàn trải tiềm năng, sức mạnh của lảnh thổ biên giới, cố chờ và đuổi bắt kịp các cơ hội đầu tư chánh phủ cống hiến cho phát triễn địa phương, thuộc hành lang kinh tế biên giới Châu thổ Mê Kông. Đến năm 2020, tỉnh phải có 1 đô thị hạng II tiêu chuẩn mới ( năm 2009 ?) là Cao Lãnh, một đô thị có thể là hạng II, ít nhất là hạng III là Sa Đéc, 4 thị trấn hạng IV ( Hồng Ngự , Lấp Vò, Mỹ An và Mỹ Thọ, trong số này Hồng Ngự cố đạt đô thị hạng III) và vài thị trấn hạng V. Cao Lãnh sẽ là một thị xã kiểu mới; Sa Đéc là thị trấn chuyên về công nghệ, dịch vụ, du lịch và cảng sông; Hồng Ngự là thị trấn biên giới. ( nhắc lại thị trấn hạng II phải có trên 300 000 dân, ngòai các tiện nghi đầy đủ thích nghi cho hạng này về hành chánh, lý học, kinh tế, nhân khẩu học, an sinh y tế, giáo dục, điện, nước sạch, cống thóat chất thải, mạng lưới thông tin cận đại, cơ sở nghệ thuật … ; hạng III phải có trên 150 000 dân ; hạng IV trên 50 000 dân và hạng V trên 4000 dân … ) .
( Irvine , Nam CaLi – Hoa Kỳ, ngày 22 tháng 7 năm 2013)




**************

Tổng số lượt xem trang