Thứ Bảy, 9 tháng 8, 2014

Tương lai nào cho luật sư Việt Nam?

-Tương lai nào cho luật sư Việt Nam?
Luật sư Ngô Ngọc Trai - Bài tham gia Diễn đàn BBC Tiếng Việt
Cập nhật: 09:03 GMT - thứ tư, 6 tháng 8, 2014
-Ở Việt Nam quyền tư pháp yếu hơn nhiều so với quyền lập pháp và hành pháp.
Trong buổi tọa đàm giữa Đoàn luật sư Hà Nội và Đoàn luật sư thành phố Paris của Pháp, cử tọa đã hết sức thán phục khi được biết Đoàn luật sư Paris có lịch sử đã 800 năm.

Hãy hình dung, khi mà vua quan quân lính nhà Trần còn đang rong ruổi thanh gươm yên ngựa để chống giặc, thì ở thủ đô Paris của nước Pháp, đã có những người mặc áo choàng đứng ở phiên tòa mà biện hộ cho người bị cáo.


Các bài liên quan

Toà án VN 'không nhân danh công lý'
Xử án ở Việt Nam 'còn nhiều oan sai'

Chủ đề liên quan

Diễn đàn

Tức là khi ở Việt Nam sự sống còn của quốc gia dân tộc còn chưa được đảm bảo chứ đừng nói gì đến quyền của kẻ tội nhân ở chốn công đường, thì ở nước Pháp đã hình thành nên một thiết chế mà sự đúng đắn là bệ đỡ đã giúp nó tồn tại cho tới tận ngày nay.
Vai trò thủ lĩnh

Suốt lịch sử 800 năm hẳn những người luật sư của Paris đã đối diện với biết bao biến động thời cuộc. Để có thể vượt qua được mọi sóng gió như thế, hẳn phải có nhiều nguồn sức mạnh trụ đỡ.

Một nguồn sức mạnh cho nghề luật sư đó là nghề nghiệp này mang tính chính đáng nghĩa hiệp, phù hợp với luân thường đạo lý con người khi một người đứng ra bảo vệ cho kẻ yếu trước một sức mạnh áp đảo là cường quyền.

Nhưng chỉ sức mạnh từ luân lý sẽ không đủ để đoàn luật sư Pari tồn tại được cho tới ngày nay. Mà nó còn được dẫn dắt bởi những thế hệ người thủ lĩnh đoàn với đầy đủ tư cách đạo đức và sự uyên bác về trí tuệ.



"... hệ thống chính trị không coi trọng quyền tư pháp, quyền tư pháp yếu hơn rất nhiều so với quyền lập pháp và hành pháp."

Những thế hệ người thủ lĩnh chắc chắn phải nhận được sự tín nhiệm của các thành viên, được sự kính nể của cơ quan tư pháp đương quyền, có như thế tiếng nói và hành động mới có trọng lượng và sức thuyết phục.

Ví như các vị vua đời đầu của nhà Trần hoặc vị anh hùng Trần Hưng Đạo, hẳn là phải có kiến thức hiểu biết và phong độ uy tín như thế nào mới có thể điều binh khiển tướng chống giặc ngoại xâm ba lần thành công.

Trong bất kỳ một tổ chức nào, vai trò của người thủ lĩnh đều rất quan trọng, kinh nghiệm kiến thức của họ sẽ quyết định con đường mà tổ chức sẽ đi. Nhưng đặc biệt trong giới luật sư, khi thước đo nghề nghiệp là uy tín thương hiệu thì người đứng đầu càng phải là người có uy tín và danh dự nhất.

Cũng chỉ đặc biệt ở nghề luật sư, sự thành công là ở khả năng thuyết phục của lời nói, như thế thì điều tối kỵ là danh bất chính vì nếu thế thì ngôn sẽ bất thuận. Không có uy tín, không được tín nhiệm thì nói ai người ta nghe?
Sự áp đặt vô lý

Thấy được bề dày lịch sử của đoàn luật sư Paris như vậy, nhìn lại giới luật sư Việt Nam mà thấy buồn.

Nghề luật sư ở Việt Nam thực sự mới hoạt động từ vài ba chục năm nay, số lượng luật sư cả nước tính đến nay chỉ khoảng 8.000, con số rất nhỏ so với các hội đoàn khác, ví như hội luật gia số thành viên là 46.000.


Luât sư Venezuela tập trung phản đối chính phủ

Giới luật sư cũng chưa tạo dựng được hình ảnh đáng trân trọng trong xã hội. Nguyên do một phần vì hệ thống chính trị không coi trọng quyền tư pháp, quyền tư pháp yếu hơn rất nhiều so với quyền lập pháp và hành pháp, trong khung cảnh đó giới luật sư chịu chung số phận hẩm hiu.

Một nguyên nhân khác là sự yếu kém nội tại của giới luật sư mà chỉ người trong nghề mới hiểu, nhiều người thờ ơ vô trách nhiệm, không có bản lĩnh chính kiến trước các vấn đề của tổ chức, không có tinh thần dấn thân cho nghề nghiệp.

Thời điểm năm 2009 khi Liên đoàn Luật sư Việt Nam được thành lập, chính quyền đã sắp đặt để những người hầu như chưa bao giờ hành nghề luật sư lại đứng đầu tổ chức luật sư cả nước. Những người chưa hề có uy tín nghề nghiệp lại đứng trên cả những luật sư với thâm niêm mấy chục năm hành nghề.

Đứng đầu tổ chức luật sư nguyên là một phó chánh án tòa án tối cao, một người hầu như chưa bao giờ hành nghề luật sư. Cấp phó thường trực của ông này là một vị nguyên là vụ trưởng một vụ của Bộ Tư pháp, một người cũng hầu như chưa hề hành nghề luật sư.

Có thể họ tuy không hành nghề những cũng biết về nghề luật sư, nhưng biết với trải nghiệm là hoàn toàn khác nhau.

Những người chưa từng đổ một giọt mồ hôi lên các trang hồ sơ tài liệu và chưa từng khóc thầm vì những trái ngang của cơ chế, họ làm sao thấu hiểu những vấn đề của nghề luật sư?

Những người vì đã đến tuổi nghỉ hưu nên phải thôi chức ở cơ quan nhà nước, rồi lại được cơ cấu sang đứng đầu một tổ chức khác, thì lấy đâu ra nhiệt huyết cống hiến của những con người này.

Không sống bằng thu nhập nghề nghiệp, đã có nguồn thu nhập khác, hy vọng gì họ sẽ trăn trở thao thức để vạch đường tìm lối cho nghề luật sư phát triển?

Việc áp đặt nhân sự không chính đáng đã phạm phải vấn đề húy kỵ nhất của nền tư pháp đó là sức mạnh thuộc về công lý và chính nghĩa chứ không thuộc về cường quyền.

Xuất phát từ đâu mà chính quyền lại áp đặt lối nhân sự như vậy. Phải chăng đó là thâm ý của chính quyền, áp đặt nhân sự kém năng lực để kìm hãm giới luật sư trong trì trệ, níu giữ nền tư pháp nước nhà trong lạc hậu?
Còn nhiều khó khăn

Đứng trước sự áp đặt ngang trái như vậy nhưng hầu hết giới luật sư đều im lặng, cũng có vài người không đồng tình nhưng cuối cùng cũng cam chịu chấp nhận.

Chính quyền đã thiếu tôn trọng giới luật sư, người luật sư cũng vô trách nhiệm với tổ chức của mình, không biết cái nào là nguyên nhân của cái nào.

Tựu chung lại, giới luật sư đã thất bại trong việc bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình.

Khi không bảo vệ được quyền lợi của chính mình thì luật sư còn bảo vệ được cho ai?


Các luật sư Hong Kong tuần hành để bảo vệ quyền lợi của họ, còn Việt Nam thì sao?

Bao nhiêu tổ chức hội đoàn trong xã hội có lúc họ cần được bảo vệ quyền lợi, nhưng hẳn họ sẽ nghĩ là mấy người đó còn chẳng làm được gì ra hồn cho tổ chức của họ, sao bảo vệ được cho chúng ta?

Nhìn vào chính cách hành xử của giới luật sư, xã hội sẽ dành cho mức độ tín nhiệm tương xứng.

Người dân không nghĩ đến luật sư đầu tiên khi gặp vướng mắc, họ sẽ tự giải quyết lấy bằng cách nhờ vả người quen hay lo lót cán bộ chính quyền. Chỉ khi sự việc rối tung lên và không tự giải quyết nổi họ mới tìm đến luật sư.

Họ không móc nối được với cán bộ thì nhờ luật sư làm hộ.

Vì xã hội chưa tín nhiệm nên nghề luật sư ở Việt Nam không phải là một nghề đem lại thu nhập cao. Trừ một vài thành phố lớn như Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh và trừ ra những luật sư đã thành công kiếm tiền từ những mảng công việc khác rồi mới chuyển sang làm luật sư, số đông còn lại đời sống còn nhiều khó khăn.

Ở các tỉnh, khi không vào được công chức nhà nước hoặc không được làm tại các công ty lớn, nhiều người mới đành hài lòng với nghề luật sư.

Khi gặp gỡ trao đổi với luật sư các tỉnh, sẽ dễ dàng nhận thấy những nét ưu tư trăn trở trên gương mặt, qua những câu chuyện sẽ thấy tâm trạng bải hoải chán chường bế tắc.

Nhưng tất cả lại chỉ trông trờ vào sự thay đổi từ nơi khác, rất hiếm người có bản lĩnh táo bạo thấy được sự thay đổi cần ở ngay nơi mình.
Làm thế nào?

Giới luật sư ở Việt Nam chưa cho thấy là một nghề nghiệp của những con người có kiến thức thuộc tầng lớp trí thức nhận được sự tôn kính của xã hội.

Lâu nay giới luật sư được vinh danh một phần là nhờ hào quang quá khứ của giới luật sư thủa xưa vốn được nhân dân gọi là “thầy cãi”. Một phần là vay mượn giá trị của người luật sư phương Tây qua những bộ phim hình sự truyền hình.

Giới luật sư Việt Nam cần phải làm rất nhiều việc để xứng với kỳ vọng của xã hội về nghề luật sư.



"Tựu chung lại, giới luật sư đã thất bại trong việc bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình. Khi không bảo vệ được quyền lợi của chính mình thì luật sư còn bảo vệ được cho ai?"

Lâu nay các luật sư mới chỉ có thói quen vận dụng các quy định pháp luật hiện tại, không mấy ai đặt câu hỏi tại sao luật lại quy định như thế này mà không phải thế khác, để tạo cơ chế thông thoáng cho người dân và doanh nghiệp, bảo vệ các quyền tự do dân chủ của công dân.

Đứng trước quy định bất cập của pháp luật, khi tháo gỡ cho khách hàng nhiều luật sư chỉ biết luồn lọt sao cho được việc mà không mấy ai quan tâm đấu tranh để loại bỏ quy định bất cập ấy.

Ngay với những vấn đề liên quan đến quyền lợi của giới mình, như có những luật chưa tạo điều kiện để giới luật sư hành nghề, nhưng giới luật sư cũng không có tiếng nói phản ánh.

Gần gũi hơn nữa là công tác nhân sự của tổ chức luật sư, nhiều luật sư cũng chẳng thèm quan tâm, nhiều luật sư cho rằng họ vẫn hành nghề tốt mà chẳng cần biết đến ai là người đứng đầu tổ chức của họ.

Đó thực sự là lối suy nghĩ làm việc của đông đảo luật sư Việt Nam, không quan tâm đến tổ chức.

Và đó là cách làm nghề không bền vững và không có tương lai.

Bài viết phản ánh quan điểm và văn phong riêng của tác giả, giám đốc Công ty luật Công chính ở Hà Nội.


LS Lê Công Định
10 năm trước tôi từng mơ ước chương trình cải cách tư pháp được thực hiện theo chiều hướng văn minh chung của nhân loại, nên đã viết và đăng bài dưới đây. Thế nhưng chừng ấy năm trôi qua mọi việc đâu vẫn hoàn đấy. Luôn theo dõi phát biểu của các vị Trưởng ban Cải cách Tư pháp Trung ương (do Chủ tịch nước kiêm nhiệm) và những thành viên của ban này về đường lối và mục tiêu cải cách, tôi không khỏi mang cảm giác ngán ngẩm tột cùng cho "hậu sự" của nền tư pháp nước nhà. Chắc chắn lối mòn tư duy của thứ não trạng trì trệ và trì độn trong hệ thống tư pháp Việt Nam bấy lâu nay là nguyên nhân của mọi bế tắc. Tất nhiên, những đề xuất sơ lược đó của tôi không phải xuất phát từ lòng quý mến chế độ này, rồi thành tâm mong có sự thay đổi thực sự để nó tốt đẹp hơn, mà chỉ vì quá đau xót trước thân phận cam chịu của hàng triệu người dân nghèo thấp cổ bé họng không với tay được đến lẽ công bằng ở cuộc đời vốn dĩ do Tạo hóa ban cho như một lý tưởng cao đẹp về công lý.
TÍNH MINH BẠCH TRONG HOẠT ĐỘNG CỦA TÒA ÁN
(Đặc san Nghề Luật, Trường Đào tạo các Chức danh Tư pháp, Số 7 năm 2004)
Trong các thiết chế dân chủ hiện đại, tòa án hành xử quyền tài phán, một trong ba quyền nền tảng của hệ thống quyền lực quốc gia – vừa thực hiện vai trò xét xử tranh chấp để tạo lập và duy trì công lý trong xã hội, vừa thực thi trách nhiệm giải thích luật pháp thông qua những luận điểm pháp lý nêu trong phán quyết, và qua đó ấn định khuôn khổ ứng xử cho hành vi của các tổ chức và cá nhân. Hành xử thẩm quyền này đòi hỏi hoạt động của tòa án phải có tính minh bạch.
Tính minh bạch trong hoạt động của tòa án được thể hiện ở thủ tục tố tụng, tức là các quy định liên quan đến quy trình xét xử và xác lập chứng cứ khi giải quyết các vụ án và vụ kiện. Thủ tục tố tụng hiện hành phần nào đó đã ấn định tính minh bạch của hệ thống tư pháp Việt Nam, chẳng hạn các phiên xử được tổ chức công khai ngoại trừ trường hợp liên quan đến danh dự cá nhân hoặc thuần phong mỹ tục, hoặc các bên liên quan được quyền xuất trình chứng cứ và tranh luận công khai tại phiên xử. Tuy nhiên để nâng cao hơn nữa tính minh bạch cần phải thực hiện một số thay đổi quan trọng về thủ tục tố tụng của tòa án Việt Nam. Trong những cải cách cần thiết đó, chúng tôi nêu dưới đây hai vấn đề chủ yếu nhất để bình luận.
Thứ nhất, cần phải minh bạch hóa việc xác lập chứng cứ. Hẳn nhiên chúng ta đang thiếu một luật về chứng cứ, ít nhất dành cho hoạt động xét xử, nhưng không vì vậy mà thiếu lưu tâm đến sự minh bạch trong quy trình xác lập chứng cứ. Cho đến nay, liên quan đến tố tụng hình sự, chỉ cơ quan điều tra và công tố đuợc đặc quyền xác lập chứng cứ để bảo vệ quyền lợi xã hội, trong khi luật sư với vai trò bảo vệ quyền lợi cá nhân luôn gặp nhiều hạn chế khi thu thập chứng cứ và thường chỉ giới hạn trách nhiệm của mình vào việc nêu ra những điểm bất hợp lý của các chứng cứ đã được cơ quan điều tra và công tố xác lập sẵn. Cách xét xử theo lối “án tại hồ sơ” của hầu hết thẩm phán hiện nay, dù muốn dù không, đã trở thành thói quen xấu khó thay đổi. Sự thiếu minh bạch như vậy trong thủ tục tố tụng hình sự đã dẫn đến hậu quả là quyền tự do cá nhân và quyền lợi của công dân không được bảo đảm như Hiến Pháp hiện hành đã minh định. Các tranh luận gần đây về việc sửa đổi luật tố tụng hình sự đã chỉ rõ sự cần thiết phải mở rộng vai trò và sự tham gia của luật sư vào tiến trình xác lập chứng cứ, và như vậy mặc nhiên cho thấy tầm quan trọng của việc minh bạch hóa hoạt động xét xử của tòa án trong những vụ án hình sự.
Liên quan đến tố tụng dân sự và kinh tế, nguyên tắc “đối tụng”, một nguyên tắc tranh tụng thông dụng tại hầu hết các quốc gia trên thế giới, bao gồm cả những nước theo hệ thống Châu Âu lục địa (Civil Law) và Thông Luật (Common Law), vẫn chưa được công nhận và áp dụng tại Việt Nam. Theo nguyên tắc này, trước khi vụ kiện dân sự hoặc kinh tế được tòa án chính thức xét xử công khai, các đương sự có trách nhiệm trao đổi chứng cứ và tranh luận với nhau, chứ không đơn giản chỉ xuất trình chứng cứ và trình bày quan điểm của mình với thẩm phán mà thôi. Nói cách khác, phải có sự thông tri giữa các bên có liên quan về toàn bộ “bức tranh” của vụ kiện. Sự trao đổi chứng cứ vừa là nghĩa vụ vừa là quyền của các đương sự. Để bảo đảm sự thực thi quyền và nghĩa vụ này, trước khi phiên xử được khai mạc, các đương sự đều phải được dành đủ thời gian đánh giá và nhận xét chứng cứ của đối phương. Nguyên tắc đối tụng buộc thẩm phán tại phiên xử phải bác bỏ giá trị của những chứng cứ chưa được trao đổi và bình luận hợp lệ trước đó giữa các bên. Khiếm khuyết sự thông tri như vậy khiến việc xác lập chứng cứ trở nên thiếu minh bạch và do vậy công lý không được bảo đảm.
Quan sát các vụ tranh tụng dân sự và kinh tế tại Việt Nam, người ta dễ nhận thấy tình trạng các bên tranh tụng luôn tìm cách che giấu những chứng cứ quan trọng cho đến khi phiên xử chính thức bắt đầu mới tung ra nhằm “hạ độc thủ” đối phương để chiếm thế thượng phong (!). Do bị bất ngờ và thiếu thời gian chuẩn bị trong trường hợp như vậy, việc đánh giá chứng cứ của một bên sẽ không toàn diện và họ mặc nhiên bị tước mất sự công bằng mà lẽ ra thủ tục tố tụng phải bảo đảm đồng đều cho tất cả các bên tranh tụng. Hậu quả của sự thiếu minh bạch này trong tranh tụng là các luật sư thay vì dành thời gian và công sức để trao dồi kỹ năng nghề nghiệp, chỉ lo tìm kiếm những thủ đoạn vặt vãnh nhằm tranh thủ lợi thế so với đối thủ của mình.
Thứ hai, thủ tục công bố án lệ cần phải được minh bạch hóa. Nếu phán quyết được tuyên công khai tại các phiên xử công khai thì không lý do gì phải bảo mật án lệ đối với công chúng. Tại hầu hết các quốc gia trên thế giới, phán quyết đã tuyên của tòa án được tập hợp và xuất bản thành những tập án lệ, ít nhất dành cho giới nghiên cứu và thực hành pháp luật tham khảo và phê bình. Dù muốn dù không, do chức năng phản ánh thực tiễn pháp lý của mình, án lệ vẫn đóng vai trò chính trong việc giải thích luật pháp và qua đó xác lập khuôn khổ ứng xử cho xã hội. Công bố án lệ sẽ giúp giới thực hành pháp luật hiểu ý nghĩa và sự vận hành của các đạo luật theo nhãn quan của cơ quan tài phán, đồng thời tránh tình trạng áp dụng luật tùy tiện của cơ quan hành pháp. Mặt khác, các tạp chí luật chuyên ngành thường có mục phê bình án lệ của các giáo sư đại học, sự phê bình này góp phần vào việc nghiên cứu và đề xuất các học thuyết pháp lý mới. Công bố án lệ vì vậy rất cần thiết cho việc phát triển luật pháp nói chung.
Tuy nhiên, công bố án lệ lại không được chú trọng tại Việt Nam. Giới nghiên cứu và thực hành pháp luật muốn tham khảo án lệ buộc phải dựa dẫm vào mối quan hệ riêng nhất thời với các thẩm phán. Tìm được án lệ vì vậy là vấn đề may rủi. Chính hạn chế này đã làm giảm thói quen nghiên cứu và cập nhật thực tiễn pháp lý của giới nghiên cứu và thực hành pháp luật. Hậu quả là luật pháp được giải thích tùy tiện, thường theo ý kiến riêng của các quan chức hành chính, và các giảng đường đại học hoàn toàn thiếu vắng những học thuyết pháp lý giá trị. Điều này cản trở sự phát triển lành mạnh của hệ thống luật pháp Việt Nam.
Từ những phân tích sơ lược nêu trên có thể thấy rằng tính minh bạch trong hoạt động của tòa án không chỉ là vấn đề hình thức. Quyền xuất trình chứng cứ và tranh luận tại các phiên xử công khai là điều kiện cần nhưng chưa đủ của tính minh bạch, cần phải có cái nhìn mới, thực tế và khoa học hơn về quy trình xác lập chứng cứ và công bố án lệ. Minh bạch hóa hơn nữa hoạt động của tòa án sẽ góp phần đáng kể vào công cuộc cải cách tư pháp tại Việt Nam.
Luật sư Lê Công Định

Tổng số lượt xem trang