Bắt Trẻ Đồng Xanh - Võ Phiến
Dưới đây là một bài viết của nhà văn Võ Phiến, viết vào năm 1968, nói về việc chế độ miền Bắc đưa trẻ em ra Bắc để huấn luyện để rồi đưa trở về miền Nam. Bài viết này được đặt dưới tựa đề Bắt Trẻ Đồng Xanh. Phần đầu, Võ Phiến nhắc đến việc tập kết bộ đội và các thiếu nhi ra Bắc sau khi ký kết Hiệp Định Genève năm 1954. Sau đó Võ Phiến nói đến việc vào thời đó, năm 1968, nhiều toán thiếu nhi cũng được đưa ra Bắc theo lối đường mòn Hồ Chí Minh giống như thời 1954.
Bắt Trẻ Đồng Xanh
Trong những ngày gần đây ai nấy chỉ những xôn xao về chuyện ngưng chiến: Bao lâu nữa nhỉ? Làm gì bây giờ?
Trong bao nhiêu năm trời, chúng ta đã quen với nếp sống chiến tranh đến nỗi hòa bình làm chúng ta bối rối. Nhưng thiết tưởng ngưng chiến không đáng làm chúng ta bận tâm đến thế. Chiến tranh này sắp kết thúc, bằng cách này hay cách khác, hoặc sớm hơn một ít hoặc chậm hơn một ít. Chuyện phải đến rồi sẽ đến, nó xảy đến ra sao dường như cũng đã được trù liệu.
Bộ đội tập kết ra Bắc, 1954
Cái đáng bận tâm là những điều tiếp theo cuộc ngưng chiến ấy.
— Thì các vị lãnh đạo của chúng ta đã tiên liệu rồi: đấu tranh chính trị chứ gì? kinh tế hậu chiến chứ gì?
Đấu tranh chính trị, nó hiển nhiên quá, nó sờ sờ ra đấy, tưởng như rờ mó được. Nói rằng trong giai đoạn tới ta với cộng sản phải đấu tranh chính trị với nhau, nói thế gần như không phải là tiên liệu gì ráo. Đó là đối phó. Chuyện ấy đến ngay trước mắt rồi, ta buộc lòng phải đối phó tức khắc, thế thôi.
Nhưng nói thế còn là khá. Hầu hết mọi người chỉ chăm vào những cái gần hơn nữa: hàng mấy trăm ký giả mỗi tuần bu đến phòng họp báo của các phái đoàn Hoa Kỳ và Bắc Việt để ghi lấy dăm ba câu tuyên bố loanh quanh, các bình luận gia khét tiếng của báo này báo kia, đài này đài nọ bóp trán suy đoán xem lúc nào thì ngưng oanh tạc dưới vĩ tuyến 19 v.v… Thiên hạ theo dõi ý kiến của họ.
Trong lúc ấy nhóm lãnh đạo ở Hà Nội lặng lẽ lo liệu công việc mai sau: tức một cuộc chiến tranh khác. Một cuộc chiến tranh quân sự hẳn hòi. Và họ tiến hành thực hiện chuẩn bị, ngoài sự chú ý của dư luận: các bình luận gia có tiếng, khét hay không khét, gần như không mảy may quan tâm đến chuyện ấy.
Thế mà đó mới là chuyện đáng quan tâm. Thiết tưởng là chuyện đáng quan tâm hơn cả vào lúc này. Bởi vì nếu ta mù tịt về ý định của đối phương trong tương lai thì trong cuộc đối thoại thương thuyết với họ hiện thời ta làm sao biết đặt ra những điều kiện cần thiết?
Cuộc bắn giết sắp tới giữa Miền Nam và Miền Bắc đã được cộng sản xếp đặt từ lúc này, cũng như cuộc bắn giết thê thảm mười năm qua được họ xếp đặt từ trước tháng 7-1954, trước ngày đình chiến theo hiệp định Genève.
Thượng tuần tháng 7-68 một nhóm luật gia họp ở Grenoble buộc Hoa Kỳ vào tội gây chiến tại Việt Nam. Sau đó, nhóm luật gia tranh đấu chính trị Việt Nam họp tại Sài Gòn cãi lại: Mặt trận Giải phóng Miền Nam đã thành lập từ năm 1958 và ra mắt ngày 20-12-1960, còn người lính Mỹ đầu tiên chỉ mới tử trận trên lãnh thổ Miền Nam ngày 22-12-61.
Người của pháp luật, họ cãi lý với nhau, họ bắt bẻ nhau như thế. Không hiểu sao họ chỉ nói tới Mặt trận Giải phóng Miền Nam. Trước họ, nhiều người đã đi ngược lên tới Mặt trận Tổ quốc, và xa hơn Mặt trận Tổ quốc: tới cái nghị quyết của đảng Lao động đã đẻ ra Mặt trận này.
Mặt trận này, mặt trận nọ…, đó là những bằng chứng đã có tên gọi. Chờ cho cộng sản đặt tên rõ ràng các hoạt động của họ mới chịu cho rằng họ hoạt động tức là nghĩ tệ về họ nhiều quá. Họ đâu có chậm chạp như vậy? Trước những hoạt động có tên gọi đã từng xảy ra nhiều hoạt động không tên gọi, và trước cả các hoạt động không tên là những toan tính xếp đặt kỹ càng.
Khi họ nhận thấy không thể thanh toán cả nước Việt Nam một lần, mà phải chấp nhận điều đình với Pháp để giữ lấy nửa nước, thì họ đã đặt ngay vấn đề: còn lại nửa nước kia, phải giải quyết ra sao? Và họ đặt kế hoạch “giải quyết”, cùng lúc với kế hoạch điều đình. Nghĩa là vào năm 1954, chứ không phải năm 1958.
Thật vậy, hiệp định đình chiến vừa ký kết, thì những điều khoản ngưng cuộc chiến tranh bấy giờ được họ thi hành đồng thời với những điều chuẩn bị cuộc chiến tranh sau. Đồng thời, không muộn hơn một ngày nào.
Lúc ấy chính quyền quốc gia lo đùm túm kéo nhau vào Nam, và tổ chức cuộc di cư cho đồng bào Miền Bắc. Di cư là đi cả nam lẫn nữ, cả già lẫn trẻ: công chức già thì vào theo nhà nước để lãnh hương hưu, các cụ cố thì theo con cháu vào để được nuôi nấng và chết giữa đám con cháu v.v…
Bộ đội tập kết ra Bắc, 1954
Cũng lúc ấy, cộng sản lo liệu công việc của họ có lớp lang:
— Vũ khí, họ chôn giấu lại một số ở Miền Nam;
— Cán bộ và binh sĩ, họ chọn lựa một số cho ở lại: có hạng được bố trí để len lỏi vào các cơ quan quốc gia, có hạng trở về cuộc sống thường dân chờ thời cơ, có hạng đổi vùng để hoạt động, có hạng vừa lẩn trốn vừa bám lấy địa phương để hoạt động v.v…
— Địa chủ, phú nông, trót bị ngược đãi tù tội, đều được tha thứ, giải thích, dỗ dành để xóa bỏ hận thù. Những thành phần không dỗ dành được thì họ thủ tiêu, vì xét nguy hiểm đối với tính mạng những cán bộ nằm vùng của họ;
— Tập kết theo nguyên tắc: Đưa ra Bắc hạng trai trẻ có thể làm việc đắc lực và sản xuất giỏi cùng hạng có uy tín có khả năng; bỏ lại trong Nam hạng lão nhược có thể làm một gánh nặng cho quốc gia. Cố ý gây phân ly chia cách, làm thế nào để mỗi gia đình đều có kẻ đi người ở;
— Gấp rút tạo thêm nhiều liên hệ giữa thành phần tập kết ra Bắc và dân chúng Miền Nam: đặc biệt là tổ chức những đám cưới cấp tốc khiến cho hàng chục vạn binh sĩ và cán bộ Việt cộng ra đi bỏ lại trong Nam bấy nhiêu cô vợ trẻ, có những cô chỉ ăn ở với chồng được đôi ba hôm.
Bấy nhiêu cô vợ trẻ và gấp đôi gấp ba chừng ấy cha mẹ già cùng cô cậu chú bác v.v… là một lực lượng đáng kể. Bằng chính sách tập kết và gây liên hệ này, cộng sản cưỡng bức một số người về sau phải làm nội tuyến cho chúng.
Bộ đội tập kết ra Bắc, 1954, Qui Nhơn
Ngay từ đầu, tình cảm của những người này đã hướng về Bắc, theo bóng kẻ thân yêu. Thái độ và hoàn cảnh éo le của họ khiến nhà chức trách địa phương lo ngại, đề phòng. Do đó, họ thành một khối người dần dần sống cách biệt, nếu không là đối lập với chính quyền miền Nam. Một vài trường hợp đối xử vụng về bị khai thác, một vài sự hiểu lầm bị xuyên tạc: thế là mâu thuẫn giữa hai bên trở thành trầm trọng. Rồi một ngày kia, chuyện được tính trước sẽ xảy ra. Xin thử tưởng tượng: gia đình có đứa con hay người chồng ra Bắc năm 1954, hai năm sau, một đêm nào đó, có kẻ lạ mặt lẻn vào nhà, lén lút trao cho xem một lá thư và một tấm hình mới nhất của con hay của chồng từ Bắc mang vào, gia đình nọ làm sao nỡ tố giác kẻ lạ mặt, dù biết họ đang gây loạn. Đã không tố giác được, tất phải che giấu, nuôi dưỡng mối liên lạc. Từ việc này đến việc khác, gia đình nọ dần dần đi sâu vào sự cộng tác với tổ chức bí mật của đối phương, chịu mệnh lệnh của họ, rốt cuộc gia nhập hẳn vào hàng ngũ của họ.
Chính vì như thế mà thư từ hình bóng của cán binh tập kết có giá trị đặc biệt quan trọng: những năm 1956, 57, 58, cán bộ từ ngoài Bắc xâm nhập vào hoạt động, trong người họ bao giờ cũng mang theo một số thư từ, hình bóng của cán binh tập kết. Đó là lợi khí hết sức đắc dụng giúp họ đặt các cơ sở quần chúng đầu tiên.
Gây được cơ sở quần chúng, vận động được sự đóng góp số lương thực tiền bạc cần thiết để nuôi quân rồi, bấy giờ các lực lượng vũ trang tại chỗ bắt đầu được thành lập, các lực lượng vũ trang ngoài Bắc kéo vào. Sau đó mới có cái Mặt trận Giải phóng ra đời.
Như vậy, cuộc chiến hiện nay không hề khởi đầu từ những bất mãn chống một chế độ độc tài gia đình trị, không hề khởi đầu từ sau việc chính quyền Sài Gòn từ chối cuộc tổng tuyển cử 1956, không hề khởi đầu từ ngày khai sanh mặt trận nọ mặt trận kia.
Tàu Ba Lan Kilinsky chở bộ đội và thiếu nhì ra Bắc rời bến tại vàm sông Ông Đốc, Cà Mau, 1955. Lê Duẩn lên tàu này giả vờ làm như đi tập kết ra Bắc theo như qui định của Hiệp Định Genève rồi ban đêm đi xuống ca nô quay trở về đất liền, ở lại miền Nam để chỉ đạo cuộc nổi dậy lật đổ chế độ miền Nam sau này
Cuộc chiến này xuất hiện ngay từ những cuộc liên hoan chia tay giữa kẻ ở người đi trong thời hạn 300 ngày tập kết, những cuộc liên hoan có hát có múa, có bánh trái tiệc tùng… Nó xuất hiện ngay từ những đám cưới vội vã sau ngày đình chiến, những đám cưới lắm khi tổ chức tập thể, do trưởng cơ quan, trưởng đơn vị chủ tọa. Nạn nhân đầu tiên của cuộc chiến này không phải là những kẻ ngã gục vào 1958, 1959, mà là những cô gái tức khắc biến thành góa bụa từ 1954.
Dân chúng Miền Nam ai nấy đều biết những bận rộn tới tấp, những công việc bề bộn ngổn ngang mà nhà cầm quyền cộng sản hồi ấy phải làm cho kịp trước khi rút ra Bắc. Trong hoàn cảnh rộn ràng bấy giờ, nếu không vì lý do quan trọng, chắc chắc đảng và nhà nước cộng sản hồi ấy không đến nỗi quá sốt sắng lo cưới vợ cho cán binh như thế. Chắc chắn. Dù tìm trong bất cứ thời kỳ lịch sử nào của bất cứ dân tộc nào, cũng hiếm thấy một trường hợp chính phủ lo vợ cho quan binh túi bụi đến chừng ấy.
Cũng như hiện nay, trong giai đoạn ác liệt sau cùng của chiến cuộc tại miền Nam này, nếu không vì lý do quan trọng, đảng và nhà nước cộng sản nhất định không bao giờ khổ công gom góp thiếu nhi ở đây đưa ra Bắc, trải qua bao nhiêu gian nan khó nhọc, trong những điều kiện di chuyển nguy hiểm đến nỗi cả các binh sĩ khỏe mạnh của họ cũng phải hao mòn suy kiệt dọc đường.
Đưa thiếu nhi Miền Nam ra Bắc, không phải cộng sản họ nhằm làm nhẹ một gánh nặng nuôi dưỡng, giúp các ông tổng trưởng Kinh tế hoặc Xã hội của chúng ta. Mọi người đều rõ, tại Bắc Việt và Trung Cộng, người ta tiết giảm sinh sản rất gắt gao: họ hạn chế hôn nhân, hạn chế luyến ái.
Đưa thiếu nhi Miền Nam ra Bắc, cũng không phải cộng sản họ nhằm giúp ông tổng trưởng Giáo dục của chúng ta một tay để giải quyết nạn thiếu trường ở trong này.
Trong giới quan sát nhiều kẻ bảo rằng Bắc Việt kiệt quệ rồi, không đủ sức kéo dài chiến tranh nữa, họ bối rối lắm, luống cuống lắm. Dù không tin vào nhận định ấy, ít ra cũng phải chịu rằng lúc này họ bận trăm công nghìn việc, nếu chuyện bắt trẻ Miền Nam không có một tầm quan trọng đặc biệt thì họ không hơi đâu nghĩ đến. Đàng này họ đang ra sức thực hiện một kế hoạch bắt trẻ qui mô trên một phạm vi hết sức rộng lớn: đồng loạt, người ta phát giác ra trẻ em bị bắt ở khắp nơi trên toàn quốc Việt Nam Cộng hòa, từ Quảng Trị, Thừa Thiên, Pleiku, Kontum, đến Mỹ Tho, Cà Mau, người ta gặp những toán trẻ em chuyển ra Bắc Việt bằng phi cơ từ Cam-bốt, hoặc bị dẫn đi lũ lượt trên đường mòn Hồ Chí Minh, nghĩa là bằng mọi phương tiện, một cách gấp gáp.
Họ bổ sung quân số đó chăng? — Không đâu. Trẻ bị bắt có hạng mới tám chín tuổi. Trong những trường hợp khẩn cấp, họ có thể tạm sử dụng một số trẻ con bắt được ngay tại địa phương; chứ thành lập những đơn vị con nít như thế để dùng ngay vào chiến cuộc này là chuyện điên rồ. Không phải bổ sung quân số đưa vào chiến cuộc đang kết thúc đâu, mà là họ đang tổ chức chiến cuộc mai sau đấy.
Bộ dội tập kết ra Bắc, 1954
Đem chút ít kinh nghiệm về lần trước để suy nghiệm về lần này, chúng ta thấy trước dăm ba điều họ sẽ làm sau khi thỏa ước ngưng chiến được ký kết:
— Họ sẽ bỏ lại Miền Nam tất cả những thương phế binh, những cán bộ lâm nạn, tàn tật v.v… Mang mỗi phần tử vô dụng như thế về Bắc chỉ gây thêm xúc động tâm lý trong quần chúng ngoài ấy; để hạng ấy ở lại, họ tạo thêm gánh nặng cho kinh tế Miền Nam;
— Lúc cuộc “chiến tranh chính trị” mà các nhà lãnh đạo Miền Nam vẫn nói được bắt đầu, thì bao nhiêu ức vạn gia đình có con cháu ra Bắc (và những cô gái có chồng lính cưới vội cưới vàng trước khi về Bắc nữa) hóa ra những thành phần mà chánh quyền ta không sao lôi kéo tranh thủ nổi. Lòng họ hướng về những con tin ở ngoài Bắc, phân nửa sinh mạng họ do nhà đương cuộc Miền Bắc định đoạt. Thái độ của họ khiến nhà chức trách địa phương có thể phạm vào vài biện pháp kỳ thị vụng về: thế là phát sinh mâu thuẫn, bất mãn, chống đối v.v…
— Một ngày nào đó, những cán bộ từ Bắc lại lén lút xâm nhập , mang theo thư từ của con, của chồng họ: họ mừng như mở cờ trong bụng. Họ bắt tay cộng tác với những cán bộ nọ, cùng nhau hoạt động để tạo điều kiện cho chồng con họ sớm trở về ồ ạt theo những đơn vị Nam xâm v.v…
Cán binh gốc người Miền Nam đưa ra Bắc, rồi lại phái trở vào có nhiều cái lợi: khi được lệnh vào Nam hoạt động, họ mừng rỡ vì có cơ hội về quê; họ ra đi lặng lẽ, không có bà con thân thuộc ở Bắc nên không gây xao xuyến gì trong dân chúng, vừa giữ được yếu tố bí mật vừa tránh được tác động tâm lý bất lợi; họ lại được mong chờ đón đợi ở Miền Nam; và họ thông thạo am hiểu về dân tình cùng địa thế Miền Nam.
Như thế, chủ trương bắt đám trẻ em ở miền đồng bằng Nam Việt bát ngát, phì nhiêu đem ra xứ Bắc đông người đất hẹp, nhà cầm quyền Hà Nội chính đang bắt đầu chiến cuộc mai sau ngay từ lúc này, lúc mà chúng ta còn đang xôn xao mong ước ngưng chỉ chiến cuộc hiện tại. Nói họ bắt đầu lúc này cũng chưa đúng: thực ra các tài liệu về “Vấn đề gửi các cháu ra Miền Bắc” đã được phổ biến trong hàng ngũ cộng sản từ tháng 4-68, và thúc giục thực hiện trước mùa mưa năm nay. Tháng 4-68, tức là liền ngay sau khi tổng thống Mỹ mở miệng thốt ra vài dấu hiệu tỏ ý xuống thang chiến tranh để đi tới điều đình.
Điều đình để nghỉ ngơi, đối với Mỹ và chúng ta là thở ra một hơi dài nhẹ nhõm. Điều đình đối với cộng sản là bỏ cuộc nửa chừng, là đành không ăn được keo này. Thua keo này họ bày liền keo khác ngay, vì ngưng chiến thế nầy, theo họ, là một sự dở dang, là chưa hoàn tất công việc. “Thế này rồi thôi luôn hả? Nói thế mà nghe được! Sao có thể quan niệm một cách giải quyết giản đơn, vô duyên đến thế?”
Ý tưởng về ngưng chiến của chúng ta dính liền với một mơ ước xây dựng: bao nhiêu tỷ bạc cho Miền Nam, bao nhiêu tỷ bạc cho Miền Bắc, trao đổi kinh tế ra sao, trao đổi văn hóa thế nào v.v… Ý tưởng về ngưng chiến của cộng sản dính liền với một kế hoạch tấn công quân sự. Và những nạn nhân đầu tiên của trận chiến tương lai là những đứa bé con và bố mẹ chúng đã chịu đau thương từ sáu tháng qua rồi. Trận chiến tranh tương lai đã chọn nạn nhân của nó trong đám trẻ thơ, đàn bà Miền Nam, để biến họ thành con côi vợ góa. Xong rồi. Việc đã bắt đầu từ nửa năm nay rồi.
Trước một đối thủ như thế, thái độ của những chính khách Việt Mỹ hằng ngày đấm ngực đồm độp, băn khoăn, tự trách mình cái lỗi không kết thúc được chiến cuộc, thái độ ấy ngây ngô đã đành. Thái độ của những người hớn hở với một kế hoạch kinh tế hậu chiến nào đó, nghĩ cho cùng cũng mỉa mai tội nghiệp: liệu rồi hưởng được mấy năm hòa bình trước mắt mà hí hửng tính chuyện xây dựng, mà mơ cảnh thịnh vượng? Rồi đến thái độ của những kẻ nhìn xa để báo động về một cuộc chiến tranh chính trị: bảo rằng đối phương rồi đây chỉ có hoạt động chính trị, như vậy không khác gì chỉ vào con cọp mà gọi là con chó. Gần như tự lừa mình, như giúp địch ngụy trang.
Dù cho chỉ có chiến tranh chính trị với nhau, đố ai, đố đảng phái nào, liên minh nào, phong trào nào của chúng ta mà thuyết phục được mấy vạn ông bà cha mẹ có con cháu ở Bắc, mấy vạn góa phụ có chồng ở Bắc, thuyết phục được họ thành thực theo ta? Chỉ nắm lấy chừng ấy vạn người, cộng sản Bắc Việt đã có trong tay một lực lượng to lớn hơn mọi đoàn thể chính trị của chúng ta, lực lượng nằm ngay trong lòng quần chúng ta, hàng ngũ ta, mà hoạt động. Ấy là chỉ so sánh về lượng. Mặt khác, trong số các đoàn viên phong trào quốc gia, đảng viên quốc gia v.v… hạng thực sự nhiệt thành vì lý tưởng được bao nhiêu? Và riêng trong hạng nhiệt thành có được bao nhiêu kẻ mà lòng thiết tha đối với lý tưởng có thể mạnh hơn lòng thiết tha với chồng con của những phần tử bị cộng sản lợi dụng kia?
Dù cho chỉ có đấu tranh chính trị với nhau thôi, chúng ta đã bất lợi như thế. Huống chi đó chỉ là hành vi tốt lành lương thiện mà ta gán cho đối phương. Còn họ…, nếu vạn nhất trong thời gian năm bảy năm sắp tới mà đất nước này thoát khỏi một trận chiến tranh nữa, thì đó là ý trời, không phải là ý của họ đâu.
Ý của họ, nó tàn nhẫn đến nỗi chúng ta không dự liệu tới, không tưởng tượng được. Đó là chỗ nhược của ta.
Khóc thân nhân bị giết tại Huế trong trận Tổng Công Kích Tết Mậu Thân 1968
Năm 1954, sau chín năm ê chề mòn mỏi vì chiến tranh, thấy hòa bình ai nấy nhẹ nhõm; nếu có kẻ nào lúc đó mà xếp đặt một cuộc tàn sát nữa, kẻ ấy tất gan đồng dạ sắt. — Thì Hồ Chí Minh đã xếp đặt cuộc tàn sát ngay vào thời kỳ ấy.
Năm 1968, sau hăm ba năm chiến tranh thảm khốc, nghe nói hòa bình mọi người mừng rơn. Nghĩ tới hàng triệu người đã bỏ thây trong thời gian qua, ai cũng tưởng làm người Việt Nam mà có kẻ dám để ý nghĩ mon men đến chiến tranh nữa, kẻ ấy thật mặt dày mày dạn, tán tận lương tâm. — Thì Hồ Chí Minh chính đang xếp đặt thêm một cuộc chiến tranh.
Vậy mà ông ta vẫn an nhiên hưởng sự trọng vọng của bao nhiêu người, kể cả người Việt Nam! Cho hay cái sản phẩm quái dị của thế kỷ văn minh này là tuyên truyền chính trị, nó có một ma lực mê hoặc phi thường. Không phải thứ tuyên truyền yếu ớt vận dụng một cách khó khăn trong khung cảnh các nước tự do, mà là thứ tuyên truyền một chiều, qui mô, toàn diện, có thể sử dụng các quyền lợi kinh tế hỗ trợ cho nó như ở tại các quốc gia độc tài: Nga xô, Trung cộng, Bắc Việt, Đức quốc xã v.v…
Trẻ em và thường dân bị chết trong một vụ ném lựu đạn của đặc công Cộng Sản ngày 26-10-1962, là ngày Quốc Khánh dưới thời Ngô Đình Diệm. Tại trước tòa Đô Chánh Sài Gòn (Ủy Ban Nhân Dân Thành Phố ngày nay) có trưng bày một chiếc trực thăng. Đặc công Cộng Sản ném lựu đạn vào những người đang đứng xem chiếc trực thăng này làm 7 người chết, 47 người bị thương.
Kẻ vừa ném lựu đạn ngày 26-10-1962 vào đám đông bị người xung quanh xúm lại đánh trước khi cảnh sát đến bắt giữ
Và Hồ Chí Minh không phải chỉ được thứ tuyên truyền ấy xóa cho mình cái chân tướng hiếu sát phi nhân. Ông ta còn hóa thành thiên tài lỗi lạc dưới mắt nhiều người vì đã tổ chức giặc giã trong một phần tư thế kỷ để giành nửa nước, trong khi tại khắp các nước Á Phi, những lãnh tụ bất tài nhất cũng dần dần thu hồi được độc lập toàn vẹn cho quốc gia họ với những tổn thất nhẹ hơn nhiều. Ông ta còn hóa thành chính trị gia khôn ngoan, thành “cha già dân tộc” dưới mắt nhiều người, trong khi ở các xứ khác cùng lâm vào tình trạng lưỡng phân không có chính quyền nào nỡ giải quyết tình trạng một cách vô hiệu mà bất nhân đến thế, trải bao nhiêu năm cứ nhất mực khăng khăng chủ trương hết cuộc tàn sát này đến cuộc tàn sát nọ, không một mảy may sờn lòng xúc cảm trước cảnh chết chóc thê thảm làm cho cả nhân loại đều ái ngại.
Giáo sư Nguyễn Văn Bông bị đặc công Cộng Sản ám sát ngày 10-11-1971 bằng cách ném mìn và lựu đạn vào dưới gầm xe. Bên trên là ảnh hai người thực hiện vụ ám sát: Vũ Quang Hùng và Lê Văn Châu
Người như thế, không biết lòng dạ ra sao, tim óc ra sao. Bảo rằng cùng trong một người, vừa chứa đầy những kế hoạch xua ngay đồng bào mình vào chiến tranh liên tiếp vừa có chỗ cho tình yêu thương đồng bào, thật không thể hiểu thấu.
Những lời trên đây không được nhã nhặn. Quả thật không nhã nhặn. Và kẻ viết ra phải lấy làm ngượng về lời lẽ mình. Nhưng khi mình là dân một nước đã trải qua bao nhiêu năm khói lửa, rồi lại trông thấy trước mặt một viễn tượng đầy máu me, khi ấy nói về kẻ gây thảm họa thật khó giữ lòng bình thản để nói lời tao nhã.
Du kích Cộng Sản bắt cóc, ám sát các viên chức xã ấp, chặt đầu để làm cho người dân sợ hãi không dám cộng tác với chính quyền miền Nam. Tấm ảnh này ngày xưa đã được đăng trên báo ở miền Nam
Ảnh một người bị du kích Cộng Sản giết
Có thể nào không giận? Ông ta bảo phải đeo đuổi cuộc tàn sát nọ là vì nguyện vọng dân tộc? — Trời, dân tộc này ai cũng xưng biết rõ vanh vách nguyện vọng, ai cũng đòi hành động nhân danh nguyện vọng dân; có điều mỗi người nêu lên một nguyện vọng khác nhau, hoàn toàn khác nhau, lắm khi mâu thuẫn nhau. Đâu là nguyện vọng đích thực, để hồi sau phân giải. Cái chắc chắn là dân tộc này không hề nằng nặc thiết tha với cộng sản đến nỗi chịu chết năm ba thế hệ liên tiếp để rước kỳ được chế độ ấy về. Vả ông ta chừng ấy tuổi tác rồi, tai nghe mắt thấy đã nhiều, từng trải việc đời đã nhiều, ông ta đâu còn ngây thơ mà quáng mắt vì những danh từ khoác lác, những hứa hẹn hão huyền xa xôi của một chủ thuyết. Ông ta hẳn thừa rõ những gì đê tiện xấu xa xảy ra phía sau các khẩu hiệu tuyên truyền, thừa rõ sống ở Đông Đức đâu bằng ở Thụy-điển, Hòa-lan, thừa rõ con đường từ Hung-gia-lợi, Lỗ-ma-ni tiến đến dân chủ và hạnh phúc, phải xa hơn con đường từ Thụy-sĩ, Phần-lan.
Cảnh một trong những vụ đặt chất nổ tại Sài Gòn vào những năm 1965 - 1967
Mà dù ông ta có không nghĩ như thế, có cho rằng Tiệp-khắc sung sướng và tự do hơn Thụy-điển đi chăng nữa, thì sự hơn thua chút ít cũng không đến nỗi bắt phải đổi lấy bằng ba bốn cuộc chiến tranh trong đôi ba mươi năm liền. Đáng lẽ ông ta để cho dân tộc nhỏ bé đã chịu quá nhiều đọa đày vì ngoại thuộc này được yên thân để làm ăn, để sống cho ra sống trong ít lâu.
Đã không vì nguyện vọng, quyền lợi dân tộc, ông ta hành động vì lẽ đảng ông ta nhất định phải thắng các đảng khác, vì lẽ người như ông ta không chịu thất bại nửa đường?
— Chừng ấy tuổi tác rồi, lẽ nào vì tranh hơn tranh thua, mà ông mạnh tay sát hại đồng bào không xót thương đến thế? Người ta có thể vì tức khí, nóng giận mà tàn nhẫn, vung tay quá đà. Đó là chuyện nhất thời. Còn ông, ông dai dẳng quá.
Vì cuồng tín chăng? Vì tự ái chăng? Vì cái gì ông ta cũng đáng trách đáng giận quá.
Nhưng trong vấn đề này, trách móc với giận hờn đâu có ăn thua gì. Một biểu thị tình cảm: thật vu vơ, vô hiệu. Ăn thua chỉ có chiến lược thâm hiểm, hành động thích hợp. Lời nói — dù nhã hay bất nhã — rồi sẽ bay đi theo mây gió. Chỉ có hành động mới sửa đổi được tình thế. Mà hành động thì…
Xe đò chở thường dân cán phải mìn do Cộng Sản gài trên Quốc Lộ 1 gần Trảng Bàng, Tây Ninh ngày 30-4-1967 làm 1 người chết, 20 người bị thương. Khi chiếc xe đò này gặp một chiếc cầu đã bị Cộng Sản đặt mìn phá sập bèn quay đầu lại thì cán phải mìn gài ở trước chiếc cầu sập.
Thì rồi chắc chắn ở phía bên này thoạt tiên ai nấy sẽ nhảy lên mừng hòa bình, rồi tiếp sau đó sẽ bất đồng cãi cọ nhau ỏm tỏi về chuyện xây dựng, sẽ tranh nhau làm ăn tới tấp. Cùng lắm, lâu lâu sẽ có người sáng suốt nhắc khẽ đến chiến tranh chính trị. Thế thôi.
Trong lúc ấy Bắc Việt lặng lẽ điều khiển cán bộ của họ ở trong nầy âm thầm nhen nhóm cơ sở. Rồi đôi ba năm sau, một ngày nào đó xét thấy thuận tiện, họ cho lệnh bùng nổ. Thế là chiến tranh tái diễn.
Chiến tranh tái diễn: mọi người trên thế giới đang sống an lành bỗng bị quấy rầy, bị ảnh hưởng, có một số bị lôi cuốn vào chiến cuộc, lấy làm lo ngại, bực mình, quay đầu về cái xứ lắm chuyện này nhìn bằng cái nhìn xoi mói, nghiêm khắc, trách vấn: “Rầy rà thật! Ra cái xứ ấy tệ thật, tự xử không nên thân. Loạn lạc này đích thị do độc tài, tham nhũng, bất công, kỳ thị tôn giáo v.v… khiến dân chúng bất mãn nổi lên chống chế độ. Dung dưỡng những chính quyền, những chế độ như thế chỉ tổ tai hại v.v…”
Chiến tranh ác liệt thêm: lương tâm nhân loại bị xúc phạm, các nhà triết học gọi nhau họp ở Thụy-điển, các luật gia rủ nhau họp ở Grenoble v.v… trịnh trọng suy tư, trịnh trọng bàn cãi, rồi lên án, kết tội v.v… Trong khi ấy các lãnh tụ Hà Nội họ chỉ cần khéo che miệng nín cười. Đó là điều quan trọng: họ không được phép cười. Họ không được phép chế giễu lương tâm và trí thông minh của loài người. Họ không được vô lễ; họ chỉ được tiếp tục đánh thật mạnh.
Bộ trưởng Y Tế Lê Minh Trí bị Cộng Sản ám sát lúc 7 giờ 50, ngày 6-1-1969 tại góc đường Nguyễn Du - Hai Bà Trưng
Cứ thế cho đến khi hoặc chúng ta chịu không nổi những đòn đánh từ bên ngoài và những dằn xóc từ bên trong, chúng ta bỏ cuộc và cộng sản tiến đến Cà Mau; hoặc bên phía chúng ta cùng đồng minh có những kẻ thật chì, cộng sản liệu ăn không nổi, thế là lại điều đình và lại xếp đặt một kế hoạch khác… Như vậy không biết đến bao giờ.
Còn ba mươi hai năm nữa, chúng ta bước sang thế kỷ XXI. Nhiều người xem như bước sang một kỷ nguyên mới, một nền văn minh mới: con người sẽ không chỉ biết có quả đất, nhiều quốc gia sẽ tiến đến nền kinh tế kỹ nghệ hậu. Đó chưa hẳn là cực lạc, nhưng cũng là cái gì vượt xa tình trạng hiện tại. Thiên hạ nô nức đua nhau tiến đến mặt trăng, đến kinh tế kỹ nghệ hậu. Như thể cá vượt Vũ Môn.
Riêng dân tộc chúng ta, ba mươi hai năm nữa e vẫn còn đánh nhau, nửa nước túm lấy nửa nước dìm nhau trong bể máu. Các dân tộc, bất cứ da đen hay da đỏ, đều có thể nô nức, hy vọng ở thế kỷ XXI. Riêng chúng ta, chúng ta chỉ còn có mỗi một điều để đón đợi: là hết chiến cuộc này đến chiến cuộc khác, nếu Hà Nội không từ bỏ quyết tâm của họ. Và cho đến bây giờ, họ chưa có dấu hiệu từ bỏ.
Hỡi các em bé của đồng bằng Nam Việt xanh ngát bị bắt đưa đi, từng hàng từng lớp nối nhau dìu nhau ra núi rừng Việt Bắc! Riêng về phần mình, các em đã chịu côi cút ngay từ lúc này; còn đất nước thì sẽ vì những chuyến ra đi của các em mà lâm vào cảnh đau thương bất tận. Tai họa hiện xảy đến cho các em cũng là tai họa về sau cho xứ sở. Đã sáu tháng qua rồi. Dù người ta có thôi dài cổ ngóng về Ba-lê, để nghĩ cách cứu các em, thì cũng đã muộn.
Nhưng đâu có ai chịu thôi ngóng chờ? Và trong không khí thấp thỏm chờ đợi hòa bình, ngày ngày báo chí chỉ những rập rình từng thoáng tin ngưng oanh tạc, tôi hướng về các em những ý nghĩ vô cùng buồn thảm, đen tối.
Võ Phiến
Sài Gòn 10 – 1968
*Nhan đề bài này mượn từ một cuốn sách của Phùng Khánh, dịch truyện The Catcher in the Rye của J.D. Salinger. Sách Phùng Khánh do Thanh Hiên xuất bản năm 1967 tại Sài Gòn.
(Hết bài viết của Võ Phiến)
Bình Luận:
Trên đây là bài viết của nhà văn Võ Phiến tại miền Nam viết vào năm 1968 về kế hoạch đem thiếu nhi ra Bắc để rồi sau đó đưa trở lại miền Nam. Nếu chúng ta để ý thời điểm tác giả viết bài này là tháng 10 năm 1968 thì chúng ta thấy có một sự trùng hợp . Sau trận Tổng Công Kích Tết Mậu Thân 1968, có thể nói phần lớn cơ sở, cán bộ của Cộng Sản nằm vùng tại miền Nam từ trước đến nay đều bị lộ mặt khi họ tham gia trận Tổng Công Kich và phần lớn bị tiêu diệt . Như vậy việc Võ Phiến nhận ra rằng việc miền Bắc đang đưa thêm trẻ em ra Bắc vào thời điểm 1968 mà ông diễn tả là:
"một kế hoạch bắt trẻ qui mô trên một phạm vi hết sức rộng lớn: đồng loạt, người ta phát giác ra trẻ em bị bắt ở khắp nơi trên toàn quốc Việt Nam Cộng hòa, từ Quảng Trị, Thừa Thiên, Pleiku, Kontum, đến Mỹ Tho, Cà Mau, người ta gặp những toán trẻ em chuyển ra Bắc Việt bằng phi cơ từ Cam-bốt, hoặc bị dẫn đi lũ lượt trên đường mòn Hồ Chí Minh, nghĩa là bằng mọi phương tiện"
Phải chăng là kế hoạch của đảng Cộng Sản Việt Nam định gây dựng lại hạ tầng cơ sở tại miền Nam vốn đã bị tiêu diệt sau trận Tổng Công Kích? Trước đây vào năm 1954, đảng Cộng Sản Việt Nam đã gây dựng cơ sở tại miền Nam bằng cách đưa trẻ em ra Bắc huấn luyện rồi đưa trở vào Nam thì đến năm 1968 đảng Cộng Sản Việt Nam lại tiếp tục lập lại cách làm cũ.
Theo binh pháp thời xưa thì để thành lập đoàn quân cảm tử, người ta chọn những kẻ không cha, không mẹ, không gia đình người thân để huấn luyện. Vì không có người thân nên không bị tình cảnh gia đình ràng buộc những người này không sợ chết vì họ chẳng có gì ở cuộc đời để mà luyến tiếc cả. Vào thời 1954 hay thời 1968 thì tại Việt Nam không thiếu gì các trẻ mồ côi cha mẹ vì cha mẹ và gia đình đã bị chết trong chiến tranh thì việc đi tìm và tập họp các trẻ mồ côi không phải là việc khó khăn. Đem những đứa trẻ mồ côi ra Bắc dạy dỗ, huấn luyện, thì những đứa trẻ này không biết đến cha mẹ mình mà chỉ biết đến Đảng và nhà nước và sẽ hết lòng nghe lời những gì Đảng và nhà nước dạy, sẽ không tiếc mạng sống khi Đảng và nhà nước ra lệnh phải hy sinh.
Cũng cùng vào thời gian Võ Phiến viết bài này, tại miền Nam đã xảy ra vụ Làng Cô Nhi Long Thành. Làng Cô Nhi Long Thành nằm ở Long Thành, giữa đường từ Sài Gòn đi ra Vũng Tàu. Làng nay do một số người tu hành mà người đứng đầu tên là Tư Sự, gom góp các trẻ em mồ côi mà cha mẹ, gia đình đã chết trong chiến tranh rồi đem về Làng Cô Nhi mà nuôi. Một thời gian sau, chính quyền miền Nam ra lệnh giải tán vì cho rằng đây là cơ sở của Cộng Sản. Trước khi Làng Cô Nhi bị giải tán có bao nhiêu trẻ mồ côi đã được lọc lựa và đưa ra Bắc?
Dưới đây là bài viết "Hạt Giống Đỏ", của một trong những thiếu nhi đã được tập kết ra Bắc vào năm 1954:
Hạt giống đỏ
Truyện ký của Tống Quang Anh
Lời tác giả:
Tôi muốn viết một cái gì đó về “Học sinh miền Nam”, để nhớ lại cái thời “nhất quỷ, nhì ma, thứ ba học trò”của tuổi thiếu thời.
Cái thời mà lắm kẻ ghét, và cũng nhiều người thương.
Tôi chắc không nhớ những điều các bạn cùng học khác nhớ, nhưng có thể tôi nhớ được những điều mà các bạn khác không nhớ.
Tôi dùng những mảnh hồi ức vụn vặt của mình để đóng con thuyền quay về với tuổi thơ, với những năm tháng đã qua đi.
Đây là những đoạn viết tản mạn, chẳng theo thứ tự lớp lang gì. Thời gian trôi qua đã khá lâu, ký ức chắc chắn bị phai mờ nhiều.
Tôi nhớ gì thì viết nấy, nhớ đến đâu thì viết đến đó.
Thời học sinh có quá nhiều kỷ niệm, nhưng không thể nhớ hết, và cũng không thể viết hết ra đây, vì nhiều lý do, phụ thuộc những yếu tố tế nhị và trí nhớ của mình.
Để khỏi làm khổ đọc giả, tôi phải viết thành nhiều phần. Những phần được phân nhỏ ra cũng chỉ phù hợp một cách tương đối với tên đặt ra.
Tôi không phải là người có khả năng văn chương, nên khó thể hiện được phần nào mong muốn, vì vậy chỉ hy vọng bài viết này như một gợi ý nhỏ, cho các bạn đồng học có khả năng văn chương viết thêm những khía cạnh khác mà họ cảm nhận được.
Bài viết này có vài dụng ý :
- Để cho bản thân tôi và những ai từng là học sinh miền Nam đọc được bài viết này, nhớ về một thời tuy có nhiều điều chưa ưng ý, nhưng đầy ắp kỷ niệm về tình người, tình bạn, tình thầy trò và những buồn vui trên đất Bắc;
- Để bạn đọc nói chung và con cháu các thế hệ học sinh miền Nam nói riêng, hiểu thêm về cha, chú, cô, dì của họ. Đồng thời cũng để cho các bậc phụ huynh hiểu thêm về con em họ;
- Để các bậc làm cha, làm mẹ nhớ lại thời trẻ mà đánh giá đúng hơn về con cháu của mình. Tuổi trẻ luôn tiềm ẩn một khả năng to lớn, nếu khai thác được thì vô cùng có ích cho xã hội, cho gia đình;
- Để các nhà sư phạm có thêm những bài học kinh nghiệm trong việc giáo dục thanh thiếu niên ngày nay...
Ai đã từng đi học, đều biết câu : “nhất quỷ, nhì ma, thứ ba học trò”. Quỷ, ma thì chưa thấy, chứ học trò thì thời nào cũng có.
Và nhắc đến học trò, thì chuyện đầu tiên là các vấn đề về sự nghịch ngợm, quậy phá, đánh nhau, đâm chém, trốn học, trộm cắp... Sự kiện ở lại lớp chỉ là vấn đề “nhỏ như con thỏ”.
Nói chuyện với hầu như bất kỳ ai về cái thời học trò, dù đó là đại nhân vật, nếu trong không khí thân mật, thì họ đều kể say sưa về những chuyện nghịch ngợm, và chẳng ai chịu thua ai về cái khoản nghịch ngợm này.
Thế nhưng cũng có nhiều người cảm thấy “dị ứng” với cái tập thể học sinh miền Nam này, họ chỉ hiểu ở khía cạnh chúng quậy phá, nghịch ngợm vì ỷ lại, công thần, vì được nhiều đặc ân... mà không thấy, hay không chịu thừa nhận vai trò tích cực của học sinh miền Nam trong xã hội, trong thời gian chiến tranh cũng như trong xây dựng đất nước sau này.
Một số học sinh miền Nam tập kết ra Bắc sau 1954
Phần 1: Quá trình hình thành
Kết thúc cuộc kháng chiến chín năm chống thực dân Pháp bằng chiến thắng Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”, rồi đến Hiệp định đình chiến Geneve, Switzerland (Thụy Sỹ) ký ngày 20 tháng 7 năm 1954.
Trong nội dung Hiệp định này có vấn đề tạm phân chia hai miền Nam Bắc trong vòng hai năm để tiến tới tổng tuyển cử và thống nhất đất nước.
Và cái “hai năm” ghi trong hiệp định này đã được nhân với mười, cộng với bao nhiêu cuộc sanh ly tử biệt, thêm vào bao nhiêu là máu và nước mắt.
Chính cái thời hạn hai năm của hiệp định này đã khơi nguồn cho một bài thơ “Bên kia cầu Hiền Lương” của Đằng Giao, mà sau này được nhạc sỹ Hoàng Hiệp phổ nhạc. Một bài thơ chứa đựng đầy những nhớ nhung, những đau thương vì sự chia cắt hai miền.
Miền Bắc sẽ thuộc về chính quyền của những người cộng sản đã từng lãnh đạo cuộc kháng chiến chống thực dân xâm lược. Nơi đây sẽ xây dựng một chính quyền theo mô hình của phe xã hội chủ nghĩa.
Miền Nam thuộc chính quyền của vua Bảo Đại do Pháp dựng lên, với mục đích dành cho những người không đi theo Việt Minh cộng sản.
Trên cơ sở đó, chính quyền Việt Minh chủ trương đưa đại bộ phận cán bộ, bộ đội cùng với thân nhân, mà thành phần chính là trẻ em trong độ tuổi học sinh của miền Nam, ra miền Bắc để học tập, đào tạo, sau này trở về xây dựng miền Nam.
Số người đi tất cả các diện, theo thống kê lúc đó khoảng hai mươi vạn. Không biết con số này chính xác đến mức nào.
Thời gian chuyển quân theo ấn định, từ sau Hiệp định đình chiến cho đến đầu năm 1955.
Liên Xô và Ba Lan đưa tàu khách qua giúp chính quyền Việt Minh chuyển người ra miền Bắc. Chiếc tàu Ba Lan mang tên Kilanhski (Kilinsky).
Tàu Ba Lan và Liên Xô chở bộ đội và thiếu nhi tập kết ra Bắc, 1954
Việc chuyển người từ miền Nam ra miền Bắc này được gọi là “tập kết”.
Một danh từ bình thường, trở nên mang tính đặc biệt.
Sau khi tập kết ra miền Bắc, cán bộ, bộ đội được phiên chế theo các ngành, các đơn vị và dần dần ổn định để hòa nhập vào tổ chức xã hội mới, lần đầu tiên xuất hiện trong lịch sử Việt Nam.
Số trẻ em, học sinh và kể cả cán bộ, bộ đội còn đang độ tuổi đi học, được gom lại vào các trường nội trú, thành lập riêng biệt, gọi là trường học sinh miền Nam và học sinh của trường thì gọi là học sinh miền Nam (HSMN). Học Sinh Miền Nam
Đây là cách gọi để phân biệt với học sinh ở miền Bắc.
Và một danh từ tưởng như bình thường đã trở thành một danh từ có tính đặc biệt.
Trường Học Sinh Miền Nam đó là cách nói chung hiện nay, nhưng thực ra, các loại học sinh này được phân thành các loại trường, Trường Học Sinh Miền Nam, Trường học sinh dân tộc miền Nam và Trường học sinh bổ túc miền Nam.
Các con em người dân tộc từ miền Nam đi tập kết thì học ở các trường học sinh dân tộc miền Nam.
Các học sinh lớn tuổi thì học ở các trường học sinh bổ túc miền Nam. Ngoài ra, thời kỳ đầu còn có một số học sinh người Hoa thì tập trung học ở trường riêng.
Thật ra, thành phần Học Sinh Miền Nam phức tạp hơn nhiều. Vì thời gian tổ chức tập kết quá ngắn, nên rất khó đưa ra tiêu chuẩn và càng khó chọn lọc thành phần đưa đi tập kết. Mỗi địa phương có qui định riêng, tùy quan điểm của lãnh đạo.
Chính vì vậy mà thành phần đi tập kết rất phức tạp, chắc chắn không tránh khỏi thành phần xấu, như đám lưu manh, côn đồ, trộm cướp... hoặc phản động, gián điệp lọt vào, vì không thể sàng lọc được.
Những người thuộc thành phần xấu này cũng được cho vào học tại các trường Học Sinh Miền Nam, hay làm việc tại các cơ quan nhà nước. Có thể đây là những hạt nhân kích hoạt thêm sự quậy phá vừa có tính đặc thù của tuổi trẻ, vừa có tính đặc biệt của các thế hệ Học Sinh Miền Nam.
Như vậy, Học Sinh Miền Nam là sản phẩm của lịch sử phân chia hai miền Nam Bắc Việt Nam trong thời gian chờ tổng tuyển cử và chiến tranh chống Mỹ sau này.
Có thể nói đây là sản phẩm độc nhất, vô nhị của lịch sử Việt Nam. Ngàn năm trước không có, ngàn năm sau cũng khó có thể tái diễn.
Tôi cùng đoàn học sinh ra tập kết vào cuối năm 1954, trên chiếc tàu Kilanhski của Ba Lan. Tất nhiên tôi không thể nhớ tên tàu, nếu không nhờ mấy quyển sách nói về Học Sinh Miền Nam.
Trường Học Sinh Miền Nam 18. Ảnh chụp học sinh lớp 2, năm 1956
Có một lần, khi còn học ở trường Học Sinh Miền Nam số 21, Hài Phòng, ba tôi ghé thăm và đưa ra cảng thăm mấy người bạn của ông. Ông chợt nhìn thấy một chiếc tàu nước ngoài đang đậu ở cảng, mang cờ Ba Lan, ông mừng ra mặt, nói :“Con đi tập kết trên chiếc tàu này nè”.
Như vậy, tôi vô cùng may mắn được nhìn thấy lại chiếc tàu đã đưa mình đi tập kết.
Theo các anh chị lớn tuổi kể lại, thì tôi là người vào loại nhỏ bé nhất trong đoàn.
Vì tôi vốn đã nhỏ người, lại ốm nhách, nên các thủy thủ Ba Lan chuyền tôi lên tàu như ném một con búp bê vậy.
Sau khi Việt Nam hoàn toàn thống nhất, gia đình tôi đoàn tụ, cậu em út nói : “Ba má liều thật, dám trao đứa con mới gần 7 tuổi cho một tập thể mà mình không hề biết gì về nó”.
Tàu đưa chúng tôi đến biển Sầm Sơn, Thanh Hóa. Vì tại đây không có cảng, nên tàu phải neo đậu ngoài khơi. Nhân dân Thanh Hóa đem xuồng ra tận tàu đón chúng tôi vào bờ.
Vào bờ, chúng tôi được bố trí ở những cái lán làm tạm. Hàng ngày sinh hoạt rất vui, có múa hát, biểu diễn văn nghệ, hát bóng (chiếu phim)...
Chẳng nhớ chúng tôi sống như thế được bao lâu. Rồi sau đó chúng tôi được chia thành trường, lớp. Nhưng vì thời đó vẫn chưa có khu trường riêng biệt nên chúng tôi được phân công ở chung với nhân dân. Các lớp học cũng chỉ là dựng tạm, sơ sài, thậm chí các lớp học còn tận dụng đình làng.
Thế rồi, chỉ khoảng hơn một năm, các trường nội trú đã mọc lên tại nhiều nơi trên miền Bắc. Chúng tôi chính thức được phân chia ngay vào các trường nội trú mới dựng lên này.
Điều này quả là một sự cố gắng phi thường của chính quyền cách mạng non trẻ.
Trong hai mươi vạn người đi tập kết, thì chắc cũng phải có vài vạn học sinh ? Giải quyết những chuyện ăn, ở, học tập… như thế nào ? Quả là phi thường !
Ở miền Bắc lúc đó học phổ thông theo hệ 10 năm và một lớp vỡ lòng. Cấp một từ lớp 1 đến hết lớp 4, cấp hai từ lớp 5 đến hết lớp 7 và cấp ba từ lớp 8 đến hết lớp 10.
Các trường HSMN chủ yếu được gọi theo số, từ số 1 đến số 28 (nếu tôi không nhầm). Bảng tên trường thường được ghi, ví dụ : “Trường HSMN cấp 1 số 19”... và chúng tôi gọi tắt là “Trường 2”, “Trường 19”, “Trường 21”...
Tuy nhiên, các trường này không đồng thời tồn tại. Ví dụ, thời kỳ đầu có trường 1, trường 2, trường 23... ở Hà Đông. Sau đó xóa sổ trường 1, trường 2, xuất hiện trường 4, trường 6, trường 8, trường 9, trường 14, trường 19, trường 21, trường 22 ở Hải Phòng. Trường 23, trường 24, trường 25 ở Vạn Phúc, Đa Sỹ, tỉnh Hà Đông. Đến năm 1965 thì gom gần như toàn bộ Học Sinh Miền Nam vào trường Học Sinh Miền Nam Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh. Sau 1972 lại tái xuất hiện trường 2, trường 8 ở Vĩnh Yên..., còn các trường khác thì bị xóa sổ...
Song song với việc ổn định trường Học Sinh Miền Nam, thì trường Học sinh dân tộc miền Nam (HSDTMN), trường học sinh bổ túc miền Nam cũng ra đời.
Có vài trường không gọi theo số, như trường Nguyễn Văn Trỗi, trường Nguyễn Văn Bé, trường bổ túc Từ Hồ, trường bổ túc Đông Triều, trường dân tộc trung ương.
Những năm cuối chương trình phổ thông, chúng tôi học ở trường Học Sinh Miền Nam cấp 3 Đông Triều. Trường này không có số và không chỉ có cấp 3. Trong trường còn có mấy lớp cấp 2 và cấp 1, chiếm số lượng rất nhỏ.
Thời gian đầu, có khá nhiều trường chủ yếu tập trung ở Hải Phòng.
Nữ sinh thì học ở các trường 4, trường 6, trường 8 và trường 13.
Nam sinh thì học ở các trường 9, 14, 19, 21...
Một số trường cũng thay đổi thành phần học sinh, ví như trường 9 ban đầu dành cho học sinh nam, nhưng sau đó lại dành cho học sinh nữ. Đến năm 1962 thì giải tán, sáp nhập vô trường Học Sinh Miền Nam số 11 ở Hải phòng, sau thì dời về Kiến An, gần hồ Hạnh Phúc và núi Phù Liễn. Trường 25 ở Chương Mỹ Hà Đông, trước dành cho học sinh nam, đến khoảng năm 1963-1964 thì dành cho học sinh nữ cấp 3.
Ở Hải Phòng ban đầu còn có trường Trung học bổ túc, dành cho học sinh miền Nam là Hoa kiều. Ngoài ra, còn có trường Học Sinh Miền Nam số 17 thì dành cho Học Sinh Miền Nam Hoa kiều.
Được một, hai năm thì hai trường này giải tán.
Những học sinh Hoa kiều này trước đây từng theo kháng chiến nên đều lớn tuổi, vì vậy hoặc là vào các trường nghề, trường trung cấp, trường đại học, hoặc học ở trường bổ túc
Trên cơ sở trường Trung học bổ túc, người ta tổ chức thành trường Học Sinh Miền Nam số 22, dành cho Học Sinh Miền Nam cấp một chúng tôi, khoảng hai năm thì xóa sổ hẳn.
Trường Học Sinh Miền Nam số 17 thì dành cho học sinh nữ.
Khoảng năm học 1958-1959, tôi học lớp 3 và cậu em kế tôi mới từ trong Nam ra, học lớp 2 cùng trường 22 này.
Càng ngày, số Học Sinh Miền Nam trưởng thành dần, tốt nghiệp phổ thông để học nghề, vào đại học... con số cũng giảm theo năm tháng, do đó số trường cũng giảm theo.
Đến năm học 1963-1964 Mỹ tạo ra sự kiện Vịnh Bắc bộ, bắt đầu leo thang đánh phá miền Bắc, mà mục tiêu đầu tiên là đảo Cồn Cỏ và đảo Bạch Long Vĩ.
Khi đó, trung ương tính đến việc sơ tán các trường Học Sinh Miền Nam để tránh tổn thất.
Bước đầu, trung ương đưa những học sinh có cha mẹ đi tập kết, về với gia đình để giảm áp lực cho các trường Học Sinh Miền Nam.
Từ đó có sự phân loại Học Sinh Miền Nam trong các trường. Loại đặc biệt là những Học Sinh Miền Nam có cha, mẹ đi B hoặc đang hoạt động, chiến đấu trong Nam. Loại một, là những Học Sinh Miền Nam diện con em liệt sỹ, hoặc có cha, mẹ đang hoạt động ở các vùng tiếp cận chiến trường, gần kề nguy hiểm. Loại hai, là các Học Sinh Miền Nam có cha, mẹ tập kết ra Bắc nhưng không có điều kiện nuôi con (cha, mẹ là bộ đội, công an, hoặc đang đi công tác dài hạn ở nước ngoài...).
Vì số lượng giảm, nên thời gian này (1963-1964), ở Hải Phòng còn lại trường 19 và 21, ở Hà Nam còn trường 28, ở Hà Đông còn lại ba trường 24, 25, và 26, trường 27 bị xóa sổ.
Năm học 1964 - 1965 thì chỉ còn ba trường 24, 25 và 26 ở khu Hà Đông và trường 28 ở Hà Nam. Ngoài ra, còn có trường bổ túc ở Đông Triều, Quảng Ninh (tôi nhớ không chính xác) và hình như còn có một, hai trường cấp một, cấp hai dành cho các em mới ra Bắc sau này.
Đến những năm học 1965 - 1967 thì toàn bộ Học Sinh Miền Nam cả nam lẫn nữ từ cấp một đến cấp ba, được gom về trường Học Sinh Miền Nam Đông Triều.
Bắt đầu một cuộc đại sơ tán.
Toàn bộ các lớp học phân bố về các thôn Phúc Đa, Tân Lập, Tân Thành, Hổ Lao, An Tiến, Tràng Bản của huyện Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh.
Các thôn này tọa lạc cách nhau vài cây số, riêng hai thôn Tân Lập và Tân Thành chỉ cách nhau một con đường đất.
Thôn Hổ Lao thì cách hai thôn nói trên một con suối lớn, rộng khoảng một hai trăm mét.
Trong đó, thôn Tràng Bản cách trường hơn bốn cây số, xa nhất trong các khu sơ tán.
Bác Hồ với học sinh miền Nam theo học ở Hải Phòng
Chúng tôi gọi các nơi sơ tán này theo đơn vị khu, mỗi khu có vài lớp. Ví dụ, khu Hổ Lao có năm lớp, gồm hai lớp 10, hai lớp 9 và một lớp 5. Khu Tân lập và Tân Thành, mỗi khu đều có một lớp 10 và một lớp 9 ...
Nếu tôi nhớ không lầm, thì lúc đó còn có trường 11 và trường 13 ở Kiến An, sau đó dời về Móng Cái, tỉnh Quảng Ninh, hay ở đâu đó mà không gom về Trường Đông Triều.
Các trường này gồm các em Học Sinh Miền Nam ra Bắc sau này, chủ yếu là con em cán bộ trung, cao cấp hiện đang ở miền Nam.
Khoảng đầu năm học 1966-1967 thì đại bộ phận Học Sinh Miền Nam từ lớp 8 trở xuống, cùng với Học Sinh Miền Nam ở hai trường nói trên, được đưa qua Quế Lâm, Trung Quốc để sơ tán.
Sau hiệp định Paris (1973), thì số học sinh này từ Trung Quốc trở về VN và thành lập bốn, năm trường Học Sinh Miền Nam gì gì đó. Tôi không biết chính xác, vì lúc này đang học đại học ở Liên Xô.
Học sinh các trường Học Sinh Miền Nam trong suốt quá trình hình thành và tồn tại có thể tạm phân chia thành hai loại bất thành văn :
Loại thứ nhất là những học sinh đi theo đoàn tập kết ra Bắc và những học sinh ra Bắc rải rác theo đường hàng không từ Campuchia, trước khi có Mặt trận giải phóng miền Nam. Những học sinh này thường rất mơ hồ về lý lịch của mình, kể cả tuổi tác. Chính vì vậy mà xuất hiện nhiều chuyện khôi hài, như anh chàng Nghĩa đen, bạn tôi, khai lý lịch sinh năm Mậu Tý (1948), về Nam, gặp thằng em, cũng sinh năm Mậu Tý, nhưng lại không cùng ngày cùng tháng.
Châu Nhật Sinh, vợ của Lê Việt Dũng, người mà tôi viết bài, tự ý đặt cho y cái tên “Tư Ỉn”, kể rằng, khi ra Bắc, cô ta còn không biết họ của mình, nên lấy họ Trần của mẹ.
Sinh là con một cán bộ cao cấp, lại có nhiều người biết gia đình cô mà còn lẫn lộn, thì việc chúng tôi mơ hồ về tuổi tác, họ tên, quê quán là rất bình thường.
Chúng tôi cứ học cùng lớp, cùng trường, biết nhau là “mày, tao” ráo, chẳng kể tuổi tác gì. Thậm chí lớn hơn nhau 5-6 tuổi cũng “mày, tao”. Trừ vài học sinh tỏ ra người lớn, được nể trọng thì mọi đứa khác mới gọi là “anh, chị” dù học cùng lớp.
Ví như, cách đây hai năm, đến dự tiệc ở nhà một anh bạn. Có một anh khách khá cao tuổi, tên Năm Trúc, tôi một điều anh, hai điều anh. Khi kể lại chuyện cũ, thì biết là tôi và anh ta từng học với nhau ở lớp 2D, trường HSMN số 21, Hải Phòng.
Quan điểm của tụi tôi là “mày lớn hơn tao vài tuổi, cũng chỉ ỉa, đái với khóc, chứ làm được gì”.
Loại thứ hai thì ra miền Bắc sau khi có Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam. Họ đi theo từng đoàn, chủ yếu bằng đường mòn Hồ Chí Minh.
Loại này thì xác định rõ lý lịch, con ông này, bà kia. Thậm chí có nhiều học sinh cũng từng tham gia kháng chiến, có thành tích, từng giữ các chức vụ trong vùng giải phóng, nên nhiều học sinh cũng có lương như cán bộ.
Số học sinh từng tham gia các đơn vị trong chiến khu này đa số đã lớn tuổi, chủ yếu học ở trường bổ túc Từ Hồ hay trường dân tộc trung ương.
Khi tôi tốt nghiệp đại học, về nước, vô tình quen với một cậu em, tên Kiều Xuân Tiến. Hắn từng là cán bộ trong chiến khu, được cử ra Bắc học tập.
Một hôm, Tiến dẫn tôi đến trường Từ Hồ, nơi tập trung cán bộ từ miền Nam ra học tập.
Địa danh Từ Hồ hình như ở Hải Dương.
Tại đây làm quen với một số nhân vật như Tư Công, Nguyễn Chí Dũng, Chín Tý, Mười Hồ, Anh Văn… nhờ thế mà biết có trường Bổ Túc Văn Hóa (Học Sinh Miền Nam) Từ Hồ. Những người vừa kể tên, đều từng tham gia cách mạng, trước khi ra miền Bắc học văn hóa.
Nhân đây cũng xin kể qua cái nhân vật Tiến họ Kiều, người mà tôi nhắc ở phần trên này.
Xét ra, hắn cũng tầm thường như mọi đứa học sinh khác. Ba của Tiến cũng chỉ là một bác sỹ nha khoa bình thường, ông ra miền Bắc cái thời tập kết. Như vậy, Tiến chẳng phải con ông cháu cha, chẳng phải anh hùng dũng sỹ gì. Nhưng bọn Học Sinh Miền Nam sau này gán cho hắn cái biệt danh Tiến Hippy.
Chính cái nguyên nhân để có biệt danh này mới làm cho hắn nổi tiếng.
Tiến không thuộc lứa tập kết như chúng tôi, hắn ở lại trong miền Nam và học ở Saigon. Má của Tiến hoạt động bí mật, Sau ngày giải phóng, bà làm phó bí thư hay phó chủ tịch gì đó của tỉnh Khánh Hòa. Anh hai của Tiến tên Kiều Xuân Long làm trong ban tuyên giáo Saigon - Gia Định.
Chính vì vậy, đến tuổi trưởng thành, cả má lẫn anh hai sợ Tiến bị bắt lính nên cho anh chàng ra chiến khu. Rồi từ đó, người ta đưa Tiến ra Bắc theo đường bộ, tức đường mòn Hồ Chí Minh.
Ra Bắc, hắn nhảy cóc hết trường Học Sinh Miền Nam đến trường bổ túc Từ Hồ. Đến đâu hắn cũng kể về thời học sinh ở Saigon, về bọn hippy, về nhạc Rock n Roll, về Beatle, về Three Dogs Night, về Rolling Stone... Hắn lại còn dạy bọn học sinh nhảy đầm. Thêm vào đó, hắn thuộc loại “một tấc đến giời”, nên chẳng bao lâu, bon bạn học gán ngay cho hắn tên “Tiến Hippy”.
Người ta kể về Tiến rằng, khi còn ở trong chiến khu, một lần quân đội Saigon tấn công chiến khu. Trận càn này do tướng Đỗ Cao Trí làm tư lệnh.
Tiến lại là bạn học của con gái Đỗ Cao Trí.
Trong khi các đơn vị lo rút lui, tránh trận càn thì Tiến ngẫu hứng kể “... ngày trước từng ngồi chung máy bay trực thăng với Đỗ Cao Trí...”, làm cho phe ta giựt mình, tưởng Tiến là gián điệp.
Khi học ở trường Học Sinh Miền Nam số 8, vì hắn làm những chuyện khó hiểu kể trên, thêm vào đó có thành tích cùng đám bạn đốt nhà. Hình như lúc đó Tiến cùng đám bạn do bất cẩn khi nấu ăn mà làm cháy nhà.
Và thế là ngành an ninh càng nghi Tiến là gián điệp của địch. Người ta đến gặp bác sỹ Kiều Xuân Cư, ba của Tiến đặt vấn đề. Họ cho rằng bọn địch đã sát hại Kiều Xuân Tiến thật, thay vào đó một người giả mang tên Kiều Xuân Tiến hiện nay.
Bác sỹ Cư khi đi tập kết thì con mình mới sanh nên làm sao có thể xác định được. Ông bèn liên lạc với vợ và con trai cả nhờ xác minh. Trong thời gian đó, Tiến nằm trong vòng kiểm soát bí mật của ngành an ninh. Cũng phải hai ba tháng sau, khi má của Tiến nhắn ra Bắc, nói các đặc điểm kín của Tiến, lúc đó mới biết là anh chàng chỉ vì nghịch ngợm chứ chẳng phải gián gì cả.
Kể chuyện này để đưa ra một điều nghi vấn, rất có thể kẻ địch đã gài gián điệp vào số người đi tập kết, số người đi ra Bắc sau này bằng nhiều con đường.
Trong thời gian chiến tranh, bắt đầu từ những năm 1965-1966, các trường Học Sinh Miền Nam đều không có bảng tên, chỉ hiểu ngầm với nhau.
Toàn bộ giáo viên và học sinh thì cho sơ tán, ở trộn lẫn với dân địa phương.
Học sinh cùng thầy, cô giáo phải tự đào hầm tránh bom, tự lên rừng chặt tre, đốn gỗ, cắt lá tranh về làm lớp học, rồi thì giúp dân mọi chuyện, như cày bừa, gặt hái, đắp đập, gánh nước...
Mọi sự khéo léo tay chân cũng thể hiện rõ trong các việc làm này, như đào hầm trú ẩn đẹp và chắc chắn lại kín đáo, làm các lớp học dưới hầm, đóng bàn ghế, làm nón rơm để phòng bom bi, làm đèn con cóc để học ban đêm, rèn công cụ lao động...
Có thể nói, đây là thời kỳ mà Học Sinh Miền Nam có nhiều chuyển biến tốt nhất, lập được nhiều thành tích giúp dân và cũng rất được dân yêu mến.
Đến nay đã hơn 40 năm trôi qua, vậy mà một số bạn bè lớp tôi quay về Đông Triều thăm bà con dân làng, họ vẫn còn nhớ, nhắc đến chúng tôi và tiếp đãi những người bạn đó rất nồng hậu.
Còn tiếp
50 năm học sinh miền Nam trên đất Bắc
Một ngày cuối thu của miền Bắc, trên chuyến xe từ Hà Nội đi Hải Phòng, bà Xuân Hạnh, bà Vấn, bà Đính - giảng viên Đại học Bách khoa Hà Nội, ông Châu Nam Long - đại tá công an, ông Đức Lượng - phó tổng biên tập báo Nhân Dân, bà Ngọc Lan - vụ phó của Bộ Kế hoạch - đầu tư, mừng rỡ hàn huyên, vẫn mày tao chi tớ, vẫn giọng Trung pha Bắc pha Nam.
Xe càng gần đến Hải Phòng, ký ức của họ càng sống dậy: “Sông Tam Bạc này là đoạn mà các buổi sáng cô giáo hay cùng chúng mình ra đây ngâm chiếu cho hết rận. Sao hồi ấy rận nhiều thế nhỉ, cả chấy nữa”... “Phố Cát Dài là nơi lần đầu tiên mình được mặc áo dài. Trường mở lễ hội, không đứa con gái nào biết áo dài là gì, ra phố mượn đồng bào.
Chỉ biết mình là học sinh miền Nam, không biết tên, nhớ mặt, thế mà các mẹ các chị vẫn cho mượn”. 50 năm đã qua, từ ngày họ đặt chân lên những bãi biển miền Bắc: cửa Hội, Sầm Sơn, Đồ Sơn..., các cô bé cậu bé xa nhà khóc nhớ mẹ và đái dầm cả đêm nay đã nên ông nên bà. Họ là các cựu học sinh Trường Học sinh miền Nam trên đất Bắc.
Bác Hồ với các cháu thiếu nhi miền Nam tập kết tại Thanh Hóa, 1957
Ươm mầm cho cách mạng
Cùng với việc thực thi Hiệp định Genève, hàng chục vạn cán bộ của miền Nam đã tập kết ra Bắc. Họ ra đi với lời ước hẹn được hình tượng bằng hai ngón tay: hai năm sau sẽ về gặp lại người thân, xây lại quê hương. Nhưng Đảng và Bác Hồ thì đã biết là cuộc cách mạng còn lâu dài và gian khổ. Muốn giành thắng lợi, ngay từ bây giờ phải ươm những hạt giống đỏ cách mạng cho thế hệ sau.
Bác đã nhiều lần trực tiếp nhắc nhở các đồng chí lãnh đạo miền Nam: cố gắng đưa các cháu thiếu nhi ra Bắc, nuôi dưỡng, cho ăn học thành người để về chiến đấu và xây dựng lại quê hương. Từ 1954-1974, đã có ba đợt đưa các em ra Bắc với qui mô lớn: 1954-1955: đưa ra theo con đường tập kết, chủ yếu bằng tàu biển; 1960-1964: đưa ra qua đường công khai đi Campuchia, tư Campuchia bay về Hà Nội; 1968-1972: đi bằng đường giao liên vượt Trường Sơn. Suốt 21 năm cho đến ngày đất nước thống nhất, gần 30.000 học sinh miền Nam - những núm ruột của miền Nam đau thương, ngoan cường, bất khuất - đã được những nếp nhà, vòng tay của các bà mẹ, người cha, các thầy cô giáo miền Bắc nâng niu đùm bọc.
Vừa dốc hết sức người sức của cho chiến dịch Điện Biên, miền Bắc những năm 1955-1956 đói kém, khó khăn. Dân đói, các thầy cô giáo cũng đói, nhưng các con em miền Nam thì phải được ăn no mặc ấm. Tàu Ba Lan, tàu Liên Xô vừa cập bến miền Bắc, đã có những chú bộ đội hay các thầy cô giáo lội nước biển mùa đông cắt da cắt thịt để cõng từng em lên bờ. Trường học chưa kịp xây thì dành đình, chùa... cho các em học.
Tuyệt đại đa số trong gần 30.000 học sinh miền Nam ngày ấy nay đã trưởng thành, hơn nữa, thành những người giữ vị trí lãnh đạo chủ chốt các địa phương và trung ương thành các nhà khoa học, nhà văn, nhà báo, nghệ sĩ... Trong hồi ức của những cậu bé, cô bé ngày ấy, hình ảnh in dấu đậm đà nhất vẫn là Bác Hồ với những lần về thăm trường mỗi độ tết đến, xuân về, biết các cháu nhớ nhà nên đến cho kẹo, động viên, hoặc lúc nào Bác có thời gian.
Và sau đó là hình ảnh các thầy các cô. Những con người đã hi sinh cả tuổi xuân, xa gia đình, gửi con đi sơ tán... để chăm lo cho các học sinh hơn cả cho con mình. Ông Trương Quang Được - phó chủ tịch Quốc hội, ông Nguyễn Xuân Phúc - chủ tịch tỉnh Quảng Nam, bà Trần Thị Thanh Thanh - nguyên bộ trưởng, chủ nhiệm Ủy ban Chăm sóc và bảo vệ bà mẹ trẻ em, phó giáo sư tiến sĩ Lê Thị Cúc - giảng viên Viện Công nghệ sinh học... đều một lòng nhớ về các thầy cô giáo của mình với lòng biết ơn vô hạn: “Chúng tôi coi thầy giáo như cha, gọi các cô là má; và không chỉ dạy học, các cô còn tắm giặt, cắt tóc, gội đầu, bôi thuốc ghẻ lở, nấu cháo khi ốm đau”.
Thay mặt các đồng nghiệp của mình, thầy giáo Nguyễn Vạn Phiên xúc động nghẹn ngào: “Xa nhà quá hai năm mà vẫn chưa được về, nhiều cháu nhớ nhà, bỏ ăn, không học, trả lại sách vở, chăn màn quần áo, trốn đi giữa đêm mưa gió, cả trường phải đốt đuốc đi tìm suốt đêm.
Có lúc cả lớp lại khóc òa lên chỉ vì một bạn có ba đến thăm, các em đòi cũng được gặp ba má. Nhiều thầy cô ở với học sinh lâu quá, hết lứa này đến lứa khác, đến khi thống nhất học sinh về hết, trường giải tán thì tuổi xuân đã lặng lẽ qua tự bao giờ ”.
Có một nhân vật lạ lùng mà hầu như học sinh nào cũng nhớ, đó là “chú Phát xi-nê”. Không ai rõ vợ con chú ra sao, gia cảnh thế nào, chỉ biết chú một mình cứ vác máy chiếu phim đi tất cả các trường miền Nam trên đất Bắc, vừa là kỹ thuật, vừa thuyết minh tất cả thể loại phim từ truyện, cổ tích, hoạt hình, tài liệu… cho các cháu.
Cứ thế, hết một vòng chú lại quay về trường cũ, chiếu bộ phim mới. Ông Nguyễn Liêm - một cựu học sinh, quê Quảng Nam, giờ là một doanh nhân thành đạt ở TP.HCM - cứ ao ước: “Giá mà tôi được gặp lại chú Phát, người đã đóng dấu ấn trong đời sống tinh thần tuổi thơ của chúng tôi”.
Chỉ có 400 người trong số 30.000 cựu học sinh về được để dự cuộc gặp mặt này. Có rất nhiều người trong họ đã không bao giờ về lại miền Bắc được nữa: đó là các liệt sĩ - nhà thơ Lê Anh Xuân, Chu Cẩm Phong, là anh hùng phi công Đồng Văn Đe…và bao nhiêu liệt sĩ khác.
VIỆT HOÀI
Một cựu học sinh của Trường bổ túc công nông - mô hình Trường Học sinh miền Nam nhưng dành cho các cán bộ trẻ từ Nam tập kết ra, người luôn luôn quan tâm và chia sẻ khó khăn cũng như niềm vui với các cựu học sinh Trường Học sinh miền Nam - Thủ tướng Phan Văn Khải đã tự nhận mình là người anh của các học sinh miền Nam.
Hôm nay, 50 năm sau ngày em học sinh đầu tiên đặt chân lên đất Bắc, ông xúc động và tự hào nói với họ: “Sự trưởng thành của các em hôm nay càng cho thấy tầm nhìn xa trông rộng của Đảng và Bác Hồ.
Nếu không thành lập ba trường (Học sinh miền Nam, Bổ túc công nông, Phổ thông lao động - bồi dưỡng cán bộ có thành tích xuất sắc trong lao động chiến đấu nhưng văn hóa thấp như La Văn Cầu, Nguyễn Thị Chiên) thì chắc chắn chúng ta đã bị hẫng hụt, thiếu cán bộ. 30.000 học sinh miền Nam và 10.000 học sinh bổ túc công nông là một lực lượng lãnh đạo quan trọng.
Khi gửi các em ra Bắc, gia đình, quê hương đã đặt trọn niềm tin: có Bác Hồ, có đồng bào miền Bắc, nhất định các em sẽ nên người… Hôm nay, gặp nhau qua 50 năm, dù đã thành ông bà nội ngoại, nhưng các em vẫn còn tính cách của học sinh miền Nam, tâm hồn của học sinh miền Nam vẫn một lòng nhớ ơn thầy cô, nhớ ơn đồng bào miền Bắc. Đó là cái tình, cái nghĩa, đạo lý của người VN, ai làm trái đi thì là kẻ phản bội”.
Việt Báo (Theo_TuoiTre)