Thứ Hai, 15 tháng 12, 2014

HỒ CHÍ MINH - CHÂN DUNG MỘT CUỘC ĐỜI (1)


CHƯƠNG  I

THỜI KỲ MẤT NƯỚC


Trong khi những người chiến sĩ của ông hân hoan trên đường phố ăn mừng chiến thắng hay tiếp quản những cơ sở của quân địch thì ông lặng lẽ vào thành phố, không kèn không trống, sống tại toà nhà bình dân hai tầng trong khu thương mại phố Tàu (48 Hàng Ngang, Hà nội - chú thích của người dịch). Ông ở đó vài ngày, cách biệt với bên ngoài, hối hả làm việc với chiếc máy chữ cũ rích mà ông thường đem bên mình trong suốt hơn một thập niên đi đây đó từ Moscow đến miền nam Trung Hoa và sau cùng trở về quê hương trong những tuần đầu của năm 1941, nơi ba muơi năm trước ông đã ra đi.



  Căn nhà 48 Hàng Ngang Hà Nội
Cuối tháng ông viết xong bài diễn văn dự định sẽ đọc trước đồng bào của mình, tuyên bố sự ra đời của một quốc gia mới. Ngay 2 giờ chiều ngày 2 tháng 9 năm 1945, ông đã có mặt trên lễ đài được dựng trên một khu đất lớn sau này là Quảng trường Ba Đình - phía tây thành phố. Ông mặc bộ quần áo ka-ki bạc mầu rộng so với thân hình gầy gò và chân đi dép cao su. Hàng nghìn người đã tập trung từ sáng sớm để nghe ông phát biểu. Với giọng thanh cao xứ Nghệ, đặc trưng cho nơi ông sinh ra, ông tuyên bố đất nước được độc lập và đọc bản Tuyên ngôn Độc Lập.
Đối với một vài người Mỹ tình cờ có mặt tại đó, những lời đầu tiên của ông làm họ ngạc nhiên: “Tất cả mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng. Tạo hoá đã cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được: Trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”.
Lúc đó là cuối mùa hè năm 1945, ngay sau khi đế quốc Nhật đầu hàng trên toàn châu Á. Địa điểm là Hà Nội, một thời là cố đô của Việt Nam, giờ đây là thành phố thuộc địa im lìm nằm giữa đồng bằng sông Hồng thường gọi là Đông Dương thuộc Pháp. Suốt hai thập niên, Nguyễn Ái Quốc đã tận tụy hết lòng khơi dậy lòng căm thù còn e ngại trong đồng bào của mình và những công chức thực dân Pháp cai trị họ. Giờ đây dưới một cái tên mới, ông giới thiệu mình với nhân dân Việt Nam với tư cách là Chủ tịch đầu tiên của một đất nước mới.
Lúc đó cái tên Hồ Chí Minh không được ai biết đến trừ một số ít đồng bào yêu nước của ông. Chẳng mấy ai trong số những người nghe Tuyên ngôn Độc lập hay những người trên khắp đất nước biết, trước đây ông là đặc vụ của Quốc tế Cộng sản III (một tổ chức cách mạng còn được gọi là Đệ Tam Quốc tế do Lenin, người lãnh đạo Bolsevich sáng lập hai mươi sáu năm về trước) và là người sáng lập Đảng cộng sản Việt Nam năm 1930. Giờ đây ông miêu tả mình là “một người yêu nước đã phụng sự đất nước từ lâu”. Trong một phần tư thế kỷ tiếp theo, nhân dân Việt Nam và thế giới đã có đánh giá đúng về ông.
 Tàu chiến liên quân Pháp-Tây Ban Nha bắn phá cảng Đà Nẵng 1858.

Động lực khởi đầu cho hành trình lâu dài của ông tới Quảng trường Ba Đình đã bắt đầu từ cuối mùa hè năm 1858 khi một đội tàu chiến Pháp, với sự tham gia của một số tàu chiến của Tây Ban Nha, bất ngờ tấn công thành phố Đà Nẵng, một cảng biển thương mại cỡ trung bình thuộc duyên hải miền trung Việt Nam. Cuộc tấn công này không hoàn toàn bất ngờ. Trong nhiều thập niên, con mắt thèm thuồng của Pháp luôn hướng vào Việt Nam: Những nhà truyền giáo với con mắt dõi theo những linh hồn để cứu rỗi, những lái buôn đi khắp địa cầu tìm kiếm thị trường tiêu thụ mới cũng như tuyến đường sông tới Trung Hoa giàu có, những nhà chính trị tin rằng chỉ thiết lập các thuộc địa ở châu Á mới có thể đảm bảo được sự sống còn của Pháp như là một cường quốc. Đến giữa thế kỷ XIX, chính phủ Pháp tìm cách thiết lập sự có mặt tại Việt Nam qua đường ngoại giao, thậm chí đã cử một phái đoàn tới cố đô Huế, cách Đà Nẵng 90 cây số về phía bắc, nhằm thuyết phục vua Việt Nam mở cửa cho Pháp. Khi các cuộc thương thuyết thất bại, chính phủ của Hoàng đế Louis Napoleon đã quyết định sử dụng sức mạnh.
Đất nước khi mà các tàu chiến Pháp tấn công không xa lạ gì với chiến tranh hay nạn ngoại xâm. Đúng vậy, rất ít dân tộc ở châu Á buộc phải chiến đấu lâu dài và gian khổ như nhân dân Việt Nam để bảo vệ bản sắc của mình là một quốc gia độc lập và tự chủ. Một thực tế nổi bật trong lịch sử Việt Nam là cuộc đấu tranh lâu dài và gian khổ chống lại khuynh hướng bành trướng của Trung Hoa, người láng giềng phương Bắc. Vào thế kỷ thứ hai trước công nguyên, khi nền cộng hoà La Mã còn mới phát triển, Đế chế Trung Hoa đã xâm lược Việt Nam, tiến hành mạnh mẽ quá trình đồng hoá về chính trị, văn hoá và kinh tế. Mặc dù nhân dân Việt Nam đã cố gắng giành lại độc lập của mình vào thế kỷ thứ mười sau Công nguyên nhưng phải hàng trăm năm sau các Hoàng đế Trung Hoa mới chấp nhận Việt Nam tồn tại độc lập; trên thực tế, điều này chỉ xảy ra sau khi Việt Nam miễn cưỡng chấp nhận quan hệ chư hầu với các Hoàng đế Trung Hoa.
Quan hệ kéo dài giữa Việt Nam và Trung Hoa đã để lại những hậu quả triền miên. Hơn một thiên niên kỷ, thể chế chính trị, văn học, nghệ thuật, âm nhạc, tôn giáo, triết học của Trung Hoa và thậm chí cả tiếng Hán đã cắm rễ sâu trong đất Việt Nam. Kết quả là một Việt Nam “Khổng hoá” mà đối với người tìm hiểu không kỹ coi đây chỉ là một Trung Hoa thu nhỏ, một “con rồng nhỏ”, bản sao của người láng giềng phương Bắc hùng mạnh. Bản thân các triều đại vua Việt Nam cũng suy nghĩ như vậy, đã áp dụng cách ăn mặc giống hệt tuy không được oai phong, bệ vệ như Thiên Tử Trung Hoa. Chế độ tuyển chọn nhân tài quan chức của Việt Nam dần dần theo khuôn mẫu của Trung Hoa (ít ra cũng trên lý thuyết) - dựa trên các cuộc kiểm tra ngặt nghèo về kiến thức đạo Khổng. Nhiều thế hệ nam thanh niên Việt Nam học những cuốn kinh thư mà các bạn của họ ở Trung Hoa được học, thường là học thuộc lòng. Chị em gái của họ bị tục lệ Khổng giáo gia trưởng cứng nhắc không cho theo đuổi con đường sự nghiệp - hay hầu hết các nghề nghiệp gì khác - sống giam cầm trong giới hạn gia đình và được răn dạy phải chuyên tâm trở thành những người vợ và người mẹ hiền.
Việc Việt Nam du nhập văn hoá Trung Quốc có lẽ không phải là một vấn đề đặc biệt đau đớn bởi những điều kiện kinh tế và xã hội giúp tạo nên nền văn minh Khổng giáo ở Trung Hoa cũng đã tồn tại ở mức độ nhất định ở Việt Nam. Giống như nước láng giềng phương Bắc, xã hội Việt Nam cơ bản là xã hội nông nghiệp. Có khoảng chín trong mười người Việt Nam là nông dân trồng lúa nước sống trong các làng mạc nhỏ, rải rác trên khắp đồng bằng sông Hồng trải dài tới vịnh Bắc Bộ. Họ làm việc chăm chỉ, đặt lợi ích của cộng đồng trên lợi ích cá nhân cũng như một hệ thống chính trị xã hội ổn định là những điều được coi trọng. Sự tồn tại của một đội ngũ quan lại có học vấn, nhằm duy trì hệ thống tưới tiêu và mạng lưới đường sá là nhu cầu thiết yếu, tuy nhiên thương mại và sản xuất công nghiệp hầu như không tồn tại. Mặc dù những nhân tố bản xứ trong nền văn hoá của Việt Nam không hề bị mất, nhưng trong con mắt của những người không thông hiểu thì dường như Việt Nam là hình ảnh phản chiếu thu nhỏ của người láng giềng khổng lồ phương Bắc.
Nếu người Việt Nam tỏ ra sẵn sàng du nhập phần lớn phong tục Trung Hoa hùng mạnh, họ cũng tỏ ra rất kiên quyết trong vấn đề tự trị. Những nhân vật anh hùng của Việt Nam trong quá khứ đều có đặc điểm chung - đấu tranh chống lại sự đô hộ của Trung Hoa. Đó là cuộc nổi dậy như chị em Hai Bà Trưng (chống lại sự cai trị Trung Hoa trong thế kỷ thứ nhất sau Công nguyên), vua Lê Lợi và nhà chiến lược lỗi lạc Nguyễn Trãi đã chiến đấu chống lại nhà Minh vào 1.400 năm sau. Những thử thách gắt gao đó đã sản sinh ra một dân tộc có ý thức hệ sâu sắc về bản chất dân tộc, sẵn sàng hy sinh bảo vệ tổ quốc chống ngoại xâm.
Một trong những hệ quả lâu dài của cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam vì sự tồn vong của quốc gia là truyền thống quân sự mạnh mẽ, sẵn sàng sử dụng sức mạnh để bảo vệ quốc gia. Trong nhiều thế kỷ kể từ khi giành lại độc lập dân tộc từ tay Trung Hoa vào năm 939, nước Việt Nam mới với cái tên Đại Việt (nước Việt Nam to lớn) đã trải qua các cuộc chiến kéo dài với nước láng giềng phía nam, nước Champa có nền thương mại phát triển. Cuối cùng người Việt Nam đã giành được lợi thế và vào thế kỷ thứ 13 họ đã tiến mạnh về phía nam dọc theo bờ biển. Đến thế kỷ thứ 17, Champa bị thôn tính và lãnh thổ nước Đại Việt được mở rộng tới bán đảo Cà Mau trên vịnh Thái Lan. Những người định cư Việt Nam, phần lớn là những người lính trước đây, di cư về phía Nam tạo ra các cộng đồng trồng lúa nước mới trên mảnh đất phì nhiêu đồng bằng sông Cửu Long. Nước Đại Việt đã trở thành một trong những quốc gia hùng mạnh ở lục địa Đông Nam Á và vua của Việt Nam trong các mối quan hệ của mình với những người thống trị láng giềng đã bắt đầu cho mình không chỉ là một vị vua mà còn là một hoàng đế.
Tuy nhiên, thành công quân sự của Đại Việt cũng phải trả giá bởi việc mở rộng lãnh thổ đã dẫn tới sự cách biệt ngày càng lớn về chính trị và văn hoá giữa những người có lối suy nghĩ truyền thống ở các tỉnh tại đồng bằng sông Hồng và những người di cư có tư duy độc lập hơn ở những vùng biên giới phía nam mới giành được. Trong suốt hai thế kỷ, ở Việt Nam luôn xảy ra các cuộc nội chiến giữa các dòng họ cầm quyền ở miền Bắc và miền Nam. Vào đầu thế kỷ XIX, hậu duệ của dòng họ cai trị ở miền Nam là Nguyễn Ánh đã thống nhất đất nước và lấy niên hiệu là Gia Long. Lúc đầu triều đình nhà Nguyễn chỉ có ý định giải quyết hậu quả dai dẳng của cuộc nội chiến, tuy nhiên đến giữa thế kỷ những rạn nứt địa phương bắt đầu gia tăng do các khó khăn kinh tế như ruộng đất tập trung vào tay người giàu và càng trở nên phức tạp hơn do sự cai trị yếu kém của triều đình Huế.
Nội chiến ở Việt Nam đã xảy ra vào thời kỳ quan trọng trong lịch sử Đông Nam Á. Những đội tàu từ châu Âu tiếp bước nhà thám hiểm người Bồ Đào Nha Vasco da Gama chạy dọc theo bờ biển Đông và vịnh Thái Lan tìm kiếm đồ gia vị mới lạ, kim loại quý và những tâm hồn ngoại đạo để cứu rỗi. Trong số những nước châu Âu quan tâm nhất tới khu vực này có người Pháp và vào thế kỷ thứ XIX khi đối thủ kình định của họ là người Anh bắt đầu củng cố vị trí ở Ấn Độ và Miến Điện, nhà cầm quyền Pháp đã hướng con mắt thèm thuồng của mình vào Việt Nam.
Vào năm 1853, vị vua thứ ba của triều đại nhà Nguyễn băng hà và ngai vàng được chuyển cho nhà vua còn trẻ và thiếu kinh nghiệm là Tự Đức. Đó là điều không may đối với ông và cho cả thần dân của ông bởi trên vai ông là trách nhiệm đẩy lùi mối đe doạ nguy hiểm đầu tiên đối với nền độc lập của Việt Nam trong vài thế kỷ. Mặc dù có thiện chí và thông minh nhưng ông là người không quyết đoán và bệnh tật. Khi những toán quân Pháp đầu tiên đổ bộ vào cảng Đà Nẵng mùa hè năm 1858, phản ứng bản năng đầu tiên của Tự Đức là phải đánh trả. Từ chối đề nghị thương thuyết, ông cho tập trung quân đội triều đình ngay phía bên kia phòng tuyến quân Pháp ở ngoại vi thành phố. Đô đốc Charles Rigault de Genouilly, chỉ huy quân Pháp, được những nhà truyền giáo người Pháp đang làm việc tại khu vực bảo đảm rằng sẽ có một cuộc nổi dậy của dân địa phương chống lại triều đình, nhưng điều này đã không xảy ra. Lúc đầu, viên Đô đốc người Pháp hy vọng chỉ cần chờ đợi sẽ thắng quân địch nhưng khi dịch tả và bênh lỵ làm mất đi nhiều binh lính châu Âu, ông đã quyết định từ bỏ thành phố và tìm một nơi dễ tấn công hơn ở phía Nam. Đầu năm sau, người Pháp trở lại tấn công Sài Gòn, một cảng thương mại nhỏ nhưng phát triển trên một con sông nhỏ cách đồng bằng sông Cửu Long vài dặm về phía Bắc. Quân triều đình Việt Nam ở đó đã cố chống trả nhưng vì vũ khí khá lạc hậu không sánh được với vũ khí của quân xâm lược nên chỉ sau hai tuần đã không thể kháng cự được.
Mặc dù phản ứng đầu tiên của nhà vua là sử dụng quân đội để chống lại quân xâm lược nhưng thất bại ở miền Nam đã làm ông nản lòng. Bất chấp những lời kêu gọi tiếp tục chiến đấu của các cố vấn trong triều, Tự Đức đã quyết định thương lượng và vào năm 1862 chấp thuận nhượng ba tỉnh đồng bằng sông Cửu Long cho Pháp, cuối cùng ba tỉnh này (cùng với ba tỉnh khác vài năm sau) trở thành thuộc địa của Pháp ở Nam Kỳ. Vòng đầu Paris đã thắng.
Trong vài năm, triều đình Huế đã duy trì được nền độc lập mong manh nhưng cuối cùng hầu như đã bị tê liệt khi Pháp tiếp tục tấn công vào đầu những năm 1880, đánh thành Hà Nội và chiếm vài thành phố lớn ở đồng bằng sông Hồng, triều đình dường như bị tê liệt. Vua Tự Đức băng hà ngay trước khi chiến sự nổ ra và cuộc khủng hoảng về người kế vị khiến triều đình bị chia rẽ thành các phe đối lập. Nhiều tháng sau, một số vị vua mới, mà phần lớn còn nhỏ tuổi đã nhanh chóng được đưa lên ngôi, rồi bị phế truất. Cuối cùng, quyền lực đã rơi vào tay quan nhiếp chính có ảnh hưởng lớn là Tôn Thất Thuyết. Ông đã đưa người được ông bảo trợ là Hàm Nghi lên ngôi với hi vọng tiếp tục kháng chiến. Đáp lại yêu cầu của Việt Nam, triều đình nhà Thanh đã đưa quân đội đến giúp chư hầu, nhưng Việt Nam vẫn không thắng được. Năm 1885, Trung Hoa rút quân và ký thoả ước với Pháp rũ bỏ mối quan hệ chư hầu từ lâu với Việt Nam. Tại Huế, một vị vua bù nhìn được đưa lên ngôi thay cho Hàm Nghi trẻ tuổi đã bỏ trốn cùng Tôn Thất Thuyết - vị cố vấn không chịu đầu hàng - bỏ trốn lên núi để tiếp tục kháng chiến. Trong khi đó, phe thủ hoà chiếm đa số trong triều đã ký một thoả ước mới với Pháp chấp nhận Pháp chi phối về chính trị trên toàn bộ lãnh thổ còn lại của Việt Nam. Người Pháp chuyển vùng đất họ mới giành được trở thành xứ bảo hộ bao gồm Bắc Kỳ (gồm các tỉnh ở đồng bằng sông Hồng và các vùng núi lân cận) và Trung Kỳ (bao gồm các tỉnh duyên hải cho tới vùng thuộc địa Nam Kỳ về phía nam). Ở Trung Kỳ, người Pháp cho phép vua bù nhìn và triều đình của ông ta giữ lại những quyền hạn ít ỏi. Ở Bắc Kỳ, chế độ thuộc địa thực sự có quyền hạn tối cao. Trên thực tế, Việt Nam đã trở thành nhượng địa của Pháp.
Việc người Pháp chinh phục Việt Nam là một phần của quá trình mở rộng thuộc địa của châu Âu bắt đầu sau chiến tranh Napoleon và quá trình mở rộng này đã được đẩy nhanh trong cuối thế kỷ XIX khi các nước phương Tây phát triển bước vào kỷ nguyên công nghiệp. Vì rất mong tìm kiếm nguồn nguyên liệu thô rẻ và thị trường tiêu thụ hàng hoá do chính họ sản xuất, các nước tư bản phương Tây quay sang sử dụng vũ lực nhằm thiết lập quyền bá chủ của họ trên toàn khu vực. Tới cuối thế kỷ XIX, tất cả các nước ở Nam Á và Đông Nam Á trừ vương quốc Xiêm (nay là Thái Lan), đều bị thực dân cai trị theo các hình thức khác nhau.
Việc triều đình đầu hàng đã không ngăn được khát vọng độc lập của nhân dân Việt Nam. Nhiều thế kỷ chống Trung Hoa đã khắc sâu trong tầng lớp thượng lưu Việt Nam truyền thống phụng sự nhà vua và đất nước như bổn phận cơ bản nhất của Nho giáo. Rất nhiều văn võ cá quan quan đã không chịu chấp nhận việc triều đình đầu hàng trước sức mạnh quân sự và đã tổ chức các đội quân vũ trang địa phương nhằm đưa Hàm Nghi quay trở lại nắm quyền. Tại tỉnh Hà Tĩnh, vùng duyên hải Trung Kỳ, nhân sĩ Phan Đình Phùng đã khởi xướng phong trào Cần Vương để tập hợp sự ủng hộ đối với nhà vua bị phế truất và đánh đuổi giặc Pháp ra khỏi quê hương. Khi được Hoàng Cao Khải là bạn từ thời niên thiếu, người chạy theo hoàn cảnh mới, khuyên ông từ bỏ nỗ lực vô vọng để tránh đổ máu không cần thiết, ông Phùng đã trả lời với giọng cao ngạo của một nhà nho yêu nước:
“Nhiên đệ thoái nhi tư chi, ngã quốc thiên bách niên lai, địa bất quảng, binh bất cường, tài bất phú, sở thị dĩ lập quốc giả, quân thần phụ tử ngũ luân nhi dĩ. Hán Đường Tống Nguyên Minh luỹ dục quận huyện kỳ địa, chung bất khả đắc. Phù tha chi dữ ngã, địa tắc tương liên, lực tắc vạn bội, nhi chung bất khả dĩ vi cường giả, thử vô tha, Nam quốc sơn hà, tiệt nhiên định phận, thi thư chi trạch, thành hữu khả thị dã.
Tư giả, dương nhân dữ ngã, tương cách bất tri kỳ kỷ thiên vạn lý chi dao, việt hải nhi lai, sở chí phong mị, thiên tử bôn ba, cử quốc hoàng hoàng, viêm Tống sơn hà, thành Kim thế giới. Thiên hạ chi trầm nịch hà như, khỉ đồ nhất châu nhất gia đồ thán nhi dĩ tai.”
(Phúc ký Hoàng Cao Khải thư, phiên âm Hán ngữ)
Dịch nghĩa:
Nhưng tôi ngẫm nghĩ lại, nước mình ngàn năm nay, đất nước chẳng rộng, quân lính không mạnh, tiền của chẳng giàu, cái chỗ dựa để dựng nước, là nhờ có cái gốc vua tôi, cha con theo năm đạo thường mà thôi. Xưa kia nhà Hán, nhà Đường, nhà Tống, nhà Nguyên, nhà Minh, bao nhiêu phen lăm le muốn chiếm lấy đất ta làm quận huyện của họ mà rút cục vẫn chiếm không được. Ôi! Họ đối với nước ta, bờ cõi liền nhau, sức mạnh hơn ta vạn bội, thế mà trước sau họ không thể ỷ mạnh mà nuốt trôi nước ta được, nào có vì lẽ gì khác đâu, chẳng qua non sông nước Nam tự trời định phận riêng rõ ràng rồi, và cái ơn giáo hoá của thi thư vốn là chỗ dựa cho mình đấy. Đến nay người Tây với mình, cách xa nhau không biết là mấy muôn dặm, họ vượt bể lại đây, đi tới đâu như là gió lướt tới đó, đến nỗi nhà vua phải chạy, cả nước lao xao, bỗng chốc non sông nước mình biến thành bờ cõi người ta, thế là trọn cả nước nhà, dân nhà cũng bị đắm chìm hết thảy, có phải là riêng một châu nào hay một nhà ai phải chịu cảnh lầm than mà thôi đâu”.[7]
 Di ảnh cụ Phan Đình Phùng 1847-1895 (nguồn internet)
 Kinh Lược sứ Bắc Kỳ Hoàng Cao Khải 1850-1933 (nguồn internet)

Tuy nhiên, việc hai người xưng vua đã tạo ra thế tiến thoái lưỡng nan đối với những người Việt Nam luôn trung thành với vua. Liệu họ có nên tuân theo vua Đồng Khánh mới lên ngôi ở Huế với sự chấp thuận của Pháp hay không? Hay họ nên hưởng ứng lời kêu gọi của vua bị phế truất Hàm Nghi, là người từ nơi ẩn náu trên núi đã kêu gọi sự ủng hộ của tất cả những người yêu nước trong cuộc đấu tranh tuyệt vọng chống lại bọn hung bạo? Thế lưỡng nan trong việc chọn lựa giữa đấu tranh và thoả hiệp là một việc rất khó khăn đã chia rẽ giới cầm quyền, sự chia rẽ này đã không thể hàn gắn được hơn một nửa thế kỷ sau.
Trung tâm của phong trào kháng chiến chống Pháp là tỉnh Nghệ An. Một mảnh đất với những bãi biển yên lành, những rặng núi xanh ngắt, những cánh đồng lúa xanh mướt, những cánh rừng xanh thẫm, Nghệ An nằm ở vùng cán xoong giữa biển Đông và những ngọn núi của dãy Trường Sơn dọc theo biên giới Lào về phía tây. Đó là mảnh đất của những đợt gió nóng khô và những cơn mưa lớn mùa thu làm đổ rạp những cọng lúa và ngập những cánh đồng của nông dân. Nghịch lý là tuy mảnh đất này rất đẹp nhưng lại rất khắc nghiệt đối với những cư dân ở đó. Người Việt Nam sống trên mảnh đất này tập trung tại eo đất nhỏ giữa bờ biển và rặng núi trong đó hơn 90 phần trăm là nông dân phải xoay xở từ mảnh đất của mình và tự thấy cuộc sống là phải tranh đấu. Đất ít, lại bạc màu và thường xuyên ngập mặn. Thiên tai luôn rình rập và mỗi khi xảy ra thiên tai nông dân lại bị rơi vào những hoàn cảnh tuyệt vọng.
Có lẽ điều này giải thích tại sao trong lịch sử người dân Nghệ An được coi là những người Việt Nam cứng cổ hay chống đối nhất, được đồng bào đặt cho tên lóng là “trâu chọi xứ Nghệ”, Trong lịch sử, Nghệ An luôn đi tiên phong chống quân xâm lược cũng như kêu gọi nổi dậy chống lại kẻ cầm quyền không hợp lòng dân. Trong hai thập niên cuối thế kỷ XIX, Nghệ An trở thành một trong những trung tâm của phong trào kháng chiến chống Pháp. Nhiều người con ưu tú của Nghệ An đã chiến đấu, hy sinh dưới ngọn cờ của Phan Đình Phùng và phong trào Cần Vương.
Làng Kim Liên thuộc huyện Nam Đàn, trung tâm tỉnh Nghệ An, cách thị xã Vinh khoảng 16 cây số về phía tây. Huyện Nam Đàn nằm dọc theo bờ bắc sông Cả, con sông chính ở Nghệ An. Phần lớn địa hình ở đây bằng phẳng với những cánh đồng tắm nắng mặt trời vùng bán nhiệt đới vươn ra tới biển một vài dặm về phía đông, nơi những ngọn đồi nhỏ được che phủ bởi thảm thực vật rậm lá xanh xẫm nhô cao hơn vùng đồng bằng xung quanh. Những cây cọ tô điểm cho cảnh vật và tạo bóng mát cho những túp lều mái lá của những người nông dân nhấp nhô trong những xóm nhỏ. Trong mỗi xóm làng, những bụi chuối, gốc cam và những rặng tre là nguồn thức ăn khi cần và còn là nguyên vật liệu xây dựng. Trong thế kỷ XIX, hầu hết những người nông dân ở huyện Nam Đàn vẫn còn nghèo, bởi đây là nơi đông dân cư, đất ít lại bạc màu không đủ nuôi sống con người.
Chính tại đây vào năm 1863, Hà Thị Hy, vợ kế của người nông dân thuần thục nghề nông tên là Nguyễn Sinh Vương (đôi khi được gọi là Nguyễn Sinh Nhậm) - một người giỏi giang việc đồng áng, đã sinh hạ người con trai Nguyễn Sinh Sắc. Người vợ đầu của ông Vương mất trước đó vài năm sau khi sinh đứa con trai đầu lòng Nguyễn Sinh Trợ. Để nuôi con, ông Vương đã cưới Hà Thị Hy, con gái một gia đình nông dân làng bên. Khi lên bốn, Sắc đã mất cả cha lẫn mẹ và được ông Trợ - người anh cùng cha khác mẹ - nuôi dưỡng. Ông Trợ cày cấy trên mảnh đất của cha để lại. Đối với Trợ và những người hàng xóm, cuộc sống đồng áng thật khó khăn. Khi có bão lớn, ruộng ngập nước, mùa màng bị phá huỷ, khi hạn hán cây lúa bị khô cằn. Do vậy, nhiều nông dân trong làng phải làm thêm những nghề phụ khác như nghề mộc, làm gạch, dệt vải hay nghề rèn. Ngoài ra, nơi đây còn có truyền thống hiếu học lâu đời. Một số nhà nho vùng này tham dự các kỳ thi quan, một số người khác mở các lớp để gõ đầu trẻ, thêm thắt cho số thu nhập ít ỏi của mình.
Thoạt đầu, cậu bé Nguyễn Sinh Sắc hầu như không có cơ hội bắt đầu sự nghiệp nho học. Mặc dù lịch sử dòng họ Nguyễn có truyền thống hiếu học đã được khắc bằng chữ Hán trên bức hoành phi bằng gỗ gắn bên cạnh bàn thờ gia tiên, ghi lại rằng ngày xưa đã có nhiều người đỗ đạt trong các kỳ thi. Nhưng trong những thế hệ gần đây không có một ai đỗ đạt trong các kỳ thi. Trợ - người anh cùng cha khác mẹ của Sắc - lại chẳng quan tâm gì đến học hành. Tuy vậy, Sắc rất ham học. Cuối buổi sáng, sau khi chăn trâu Sắc thường ghé qua trường của hàn sĩ Vương Thúc Mậu ở địa phương, buộc trâu lại rồi quanh quẩn ngoài lớp học, lắng nghe thầy giáo giảng bài. Thời gian rỗi, Sắc thường học chữ Hán bằng cách viết lên đất hay lên lá cây hồng.[8]
Khi Sắc lớn, dân làng đều biết tính hiếu học của Sắc và điều này khiến cho Hoàng Đường (còn gọi là Hoàng Xuân Đường), một nho sĩ làng Hoàng Trù bên cạnh thường đi qua con đường đất sang Kim Liên để thăm bạn là Vương Thúc Mậu, chú ý. Thấy chàng thanh niên mải mê đọc sách trên lưng trâu trong khi bạn bè chơi đùa trên đồng, Hoàng Đường đã nói chuyện với Nguyễn Sinh Trợ và nhận nuôi cậu bé ăn học mà ông dạy tại nhà. Trợ đồng ý. Năm 1878, vào tuổi mười lăm, Nguyễn Sinh Sắc chuyển tới làng Hoàng Trù và bắt đầu chính thức học kinh thư với người cha nuôi và cũng là người bảo trợ của mình. Điều này không phải là một sự kiện bất thường, theo tục lệ, những bé trai thông minh xuất thân từ những gia đình nông dân nghèo thường được họ hàng hay hàng xóm giàu có bảo trợ và được học chữ Nho trong trường làng. Nếu như những đứa trẻ thành công trong học tập và trở thành nho sĩ hay quan lại thì họ hàng, làng xóm cũng sẽ thơm lây bởi uy tín và ảnh hưởng của người đó.
Giống như những nho sĩ khác trong vùng, ông Cử Đường (dân trong vùng gọi ông), vừa là thầy giáo vừa là nông dân. Quê quán của dòng họ Hoàng từ tỉnh Hải Hưng, đồng bằng sông Hồng, phía đông nam Hà Nội, có nhiều người nổi tiếng về học hành. Sau khi tới Nghệ An vào thế kỷ XV, tổ tiên của Hoàng Đường tiếp tục truyền thống hiếu học của gia đình. Bố ông đã thi ba lần và cuối cùng đỗ tú tài (bằng cấp thấp nhất trong hệ thống thi cử Nho học, tương đương với bằng cử nhân tại Hoa Kỳ ngày nay).
Trong khi ông Hoàng Đường dạy học trò tại hai phòng ngoài trong ngôi nhà chật hẹp, vợ ông là Nguyễn Thị Kép và hai cô con gái Hoàng Thị Loan, Hoàng Thị An làm việc ngoài đồng và dệt vải để phụ thêm cho gia đình. Giống như những người phụ nữ khác trong thôn, cũng như nông thôn khắp cả nước, không có người phụ nữ nào trong gia đình Cử Đường được học hành tử tế, vì việc học hành và làm quan chỉ giành riêng cho nam giới. Điều này thể hiện nguyên tắc đạo Khổng bắt nguồn từ Trung Hoa lâu đời - trọng nam khinh nữ. Ở Việt Nam, giống như ở Trung Hoa, theo truyền thống người phụ nữ có bổn phận đóng vai trò người mẹ, người nội trợ cũng như phục vụ và giúp đỡ chồng. Nhưng không phải lúc nào cũng như vậy, vì phụ nữ Việt Nam trong xã hội thời ấy ngày càng bị hạn chế. Trong gia đình, họ có vị trí thấp hơn người chồng. Người chồng có toàn quyền, sở hữu tài sản, được phép lấy vợ bé nếu vợ cả không sinh được con trai.
Tuy những giới hạn đó, Nguyễn Thị Kép và hai cô con gái may mắn hơn những người láng giềng vì có chút ít kiến thức văn chương. Bản thân gia đình Kép cùng có truyền thống hiếu học. Cha Kép đã đỗ tú tài giống như bố chồng. Là vợ của một nho sĩ địa phương, Kép được những người trong cộng đồng địa phương kính trọng và ghen tị. Tuy vậy, cuộc sống của Kép như những người con gái khác chẳng hơn gì những người trong làng ít may mắn cũng phải ngày qua ngày còng lưng trên những cánh đồng lầy lội ngoài làng, cần cù chăm sóc lúa cho đến mùa thu hoạch.
Sắc đã lớn lên trong không khí đồng quê ấy. Ông đã sớm chứng tỏ sự uyên thâm chữ Nho và khi Sắc thể hiện tình cảm với cô con gái đáng yêu của Cử Đường thì gia đình đã đồng ý tổ chức đám cưới mặc dù bà Kép lúc đầu dường như chưa bằng lòng vì Sắc mồ côi. Lễ cưới được tổ chức vào năm 1883. Thầy Đường tặng con rể căn nhà tranh một gian hai chái với một mảnh đất nhỏ sát nhà ông và coi đó là của hồi môn. Một gian nhà nhỏ bên cạnh được dùng làm nhà thờ họ để những người đàn ông trong gia đình cúng tổ tiên. Gian nhà dựng cho đôi vợ chồng mới cưới thật gọn gàng và ấm cúng. Gian giữa để tiếp khách, bếp ở phía sau, gian ngoài để Sắc học. Gia đình tuy có phần khá giả hơn phần lớn các gia đình khác trong làng nhưng họ không thuê người làm ruộng. Bảy năm sau, trong khi chồng tiếp tục học, Hoàng Thị Loan đã sinh ba người con, người con gái đầu lòng tên Nguyễn Thị Thanh sinh năm 1884, người con trai Nguyễn Sinh Khiêm 1888 và sau đó vào ngày 19 tháng 5 năm 1890 sinh người con trai thứ hai tên là Nguyễn Sinh Cung sau này là Hồ Chí Minh. (Ở Việt Nam trẻ con khi sinh ra được đặt “nhũ danh”. Khi trưởng thành bố mẹ sẽ đặt cho một tên mới thể hiện mong ước của mình đối với đứa trẻ).[9]
Trong khi Nguyễn Sinh Sắc chuẩn bị thi, theo truyền thống bà Loan tiếp tục lo lắng công việc đồng áng và nuôi dạy con cái. Theo như lời của những người cùng thời, bà là một người siêng năng, biết chăm lo vun vén gia đình, đây là hai đức hạnh Nho giáo truyền thống nhưng bà cũng rất giỏi và ham hiểu biết. Bà am hiểu văn học Việt Nam và thường ru con bằng những bài dân ca hay ngâm những câu thơ nổi tiếng trong truyện Kiều của Nguyễn Du, câu chuyện nghiệt ngã về tình yêu đôi lứa bị đạo đức cổ truyền trói buộc.
Năm 1891, Nguyễn Sinh Sắc đã tới thị xã Vinh thi tú tài, nhưng trượt. Tuy nhiên điểm số của ông rất khích lệ, ông lại học tiếp. Về làng, ông mở lớp gõ đầu trẻ để giúp đỡ gia đình. Bố vợ ông, thầy Đường mất năm 1893 làm cho gánh nặng kinh tế của gia đình thêm trầm trọng, Sắc buộc phải hoãn thi. Trong khi, chị cả làm các việc vặt trong gia đình, cậu bé Nguyễn Sinh Cung vui vẻ chơi đùa trên cánh đồng hoặc quanh quẩn xung quanh lớp học của bố. Vào buổi tối trước khi nằm trên võng, bà ngoại đã kể cho cậu nghe những câu chuyện về các vị anh hùng địa phương. Cung rất thông minh và nhanh chóng tiếp thụ tất cả.
Tháng 5 năm 1894, Sắc lên Vinh thi lần thứ hai và đỗ cử nhân, bằng cấp cao hơn tú tài (tương đương với thạc sĩ văn chương Hoa Kỳ). Thành công của Sắc là rất cao so với các nhà nho địa phương và khi trở lại làng Hoàng Trù ông được cấp một mảnh đất là phần thưởng truyền thống của làng dành cho những người đỗ đạt. Sắc đã nhận vì ông chỉ có ba mẫu ruộng là của hồi môn của gia đình vợ, tuy nhiên ông từ chối đề nghị tổ chức một bữa tiệc trọng thể, thay vào đó đề nghị phân phát thịt trâu cho người nghèo trong làng.
Thông thường những người có bằng cử nhân danh giá sẽ tìm một vị trí trong chính quyền để “vinh thân phì gia” nhưng Nguyễn Sinh Sắc đã chọn con đường tiếp tục học hành trong khi kiếm thêm thu nhập bằng cách dạy học. Theo truyền thống Nho giáo, người vợ phải hy sinh cho chồng con - như trong thành ngữ “võng anh đi trước, võng nàng theo sau”, đầy ý nghĩa của người Việt nam - Hoàng Thị Loan tiếp tục công việc đồng áng và nuôi gia đình.
Mùa xuân năm 1895, Nguyễn Sinh Sắc đi Huế tham gia kỳ thi hội, bậc cao nhất trong hệ thống giáo dục Nho giáo. Ông trượt nhưng đã quyết định ở lại Huế để vào Quốc Tử Giám chuẩn bị cho lần thi tiếp theo. Quốc Tử Giám bắt đầu có ở Hà Nội từ những năm đầu của nền độc lập dân tộc, nơi đào tạo những người muốn ra làm quan được triều đình bảo trợ. Sắc không đủ tiền trả học phí, cơm trọ nhưng may mắn trường có một số học bổng ỉt ỏi đài thọ chi phí ăn ở và nhờ bạn bè giúp đỡ, ông được cấp một học bổng. Sắc quay về Nghệ An đón bà Loan và hai người con trai vào Huế mong rằng vợ có thể tìm được việc làm đỡ đần chi tiêu gia đình.
Thời đó, đi từ thị xã Vinh (tỉnh Nghệ An) đến Huế rất gian nan và nguy hiểm. Chuyến đi kéo dài khoảng một tháng và phải đi qua rừng rậm, núi cao có nhiều cướp. Đi bằng đường biển nhanh và thuận tiện hơn nhưng một nông dân nghèo như Nguyễn Sinh Sắc không đủ tiền mua vé thuyền. Do đó, gia đình đã quyết định đi bộ, mỗi ngày đi khoảng được ba mươi cây số, đi theo nhóm cùng với những người khác để đề phòng cướp và thú dữ. Với đôi chân nhỏ bé, cậu bé Cung mới năm tuổi khó khăn lắm mới theo kịp mọi người nên đôi khi cha cậu phải cõng trong khi kể cho cậu nghe những chuyện về những nhân vật thần thoại và các vị anh hùng xưa của Việt Nam.
Huế, trước gọi là Phú Xuân, từng là đại bản doanh của chúa Nguyễn trị vì Nam Việt Nam trong suốt hai thế kỷ nội chiến. Sau khi nhà Nguyễn ra đời năm 1802, Vua Gia Long đã quyết định dời đô ra đó từ vị trí cũ ở đồng bằng sông Hồng, chứng tỏ quyết tâm thống nhất nước nhà dưới sự cai trị của nhà Nguyễn. Một đô thị nhỏ nép mình bên hai bờ sông Hương, giữa hai đồng bằng của hai con sông lớn, đã trở thành trung tâm hành chính sau khi triều đình rời đô về đó, tuy nhiên kinh đô mới nhỏ hơn nhiều so với kinh đô Hà Nội xưa (lúc đó gọi là Thăng Long), có lẽ số dân ở đó chưa tới mười nghìn.
Đến Huế, chắc đã kiệt sức, Nguyễn Sinh Sắc thu xếp tạm trú tại nhà một người bạn. Tuy nhiên, sau đó cả gia đình chuyển tới một căn phòng nhỏ ở phố Mai Thúc Loan, cách tường phiá đông kinh thành không xa trên bờ bắc sông Hương. Quốc Tử Giám nằm trên bờ nam cách phía tây kinh thành khoảng ba cây số nhưng Sắc ít khi đến trường mà dành phần lớn thời gian học tại nhà. Lúc rảnh rỗi ông dạy con trai ông và con của những viên chức trong vùng. Coi trọng việc học hành, đặc trưng cho xã hội Nho giáo, ông hết sức hối thúc các con trai, khuyên răn học hành chăm chỉ cũng như quan tâm đến chữ viết của các con. Theo lời hàng xóm, cậu bé Cung đã bắt đầu rất quan tâm đến thế giới quanh mình, cùng anh trai theo dõi lính triều đình luyện tập và cố gắng lẻn vào trong kinh thành để xem rõ hơn. Thấy kiệu vua rời cung trong một dịp lễ hội, cậu trở về hỏi mẹ liệu có phải vua đã bị thương ở chân hay không. Khi hỏi tại sao lại hỏi như vậy, Cung trả lời, cậu đã nhìn thấy nhà vua được phu khiêng trên kiệu.
Năm 1898, Sắc thi trượt kỳ thi hội lần thứ hai và quyết định tạm thời làm thầy giáo trong một trường học tại làng Dương Nỗ ngay phía đông kinh thành. Bà Loan, vợ ông, vẫn sống tại căn phòng nhỏ ở Huế dệt vải và giặt thuê để kiếm thêm thu nhập cho gia đình. Trường học ở Dương Nỗ được một phú nông trong làng xây dựng và người nông dân này đã cho phép hai con trai của ông Sắc học tại đó. Đây là lần đầu tiên hai chàng trai được học kinh thư chữ Hán.
Tháng tám năm 1900, Sắc được triều đình bổ nhiệm làm giám thị kỳ thi hương ở Thanh Hoá, một tỉnh lỵ cách kinh thành khoảng năm trăm cây số về phía bắc. Việc bổ nhiệm này là một vinh hạnh vì cử nhân thường không được phép làm giám thị. Người con trai cả của Sắc là Khiêm đã tới đó cùng ông, còn Cung thì ở lại Huế với mẹ. Khi từ Thanh Hoá trở về Huế, Sắc đã lưu lại làng Kim Liên - quê ông - một thời gian ngắn để xây mộ cho cha mẹ.
Quyết định này đã phải trả giá đắt. Ở Huế, vợ ông đã sinh con thứ tư, con trai tên là Nguyễn Sinh Xin (từ xin theo nghĩa đen là ăn xin). Tuy nhiên, việc sinh đẻ đã làm cho bà yếu đi và với thể trạng vốn đã ốm yếu, mặc dù đã được một lương y trong vùng chữa chạy, bà lâm bệnh và mất ngày 10-2-1901. Những người hàng xóm kể lại trong dịp Tết, cậu bé Cung vừa khóc vừa chạy từ nhà này sang nhà khác để xin sữa cho em và chỉ trong vài tuần lễ, vẻ vui tươi hàng ngày của cậu đã chuyển sang u sầu.[10]
Được tin vợ mất, Sắc lập tức trở về Huế để đưa các con về làng Hoàng Trù, tại đó ông tiếp tục dạy học. Trong một thời gian dài, bé Cung tiếp tục học với cha, nhưng sau đó ông Sắc đã gửi cậu cho một người bà con xa bên ngoại là nho sĩ Vương Thúc Đỗ. Cậu bé Cung bắt đầu đạt được những tiến bộ đáng kể trong học tập. Cậu có thể nhận mặt được nhiều chữ Hán - là phương tiện quan trọng trong nền giáo dục Nho giáo vẫn được sử dụng để thể hiện tiếng Việt thường ngày - và rất thích tập viết. Cung rất nhanh trí, ham học hỏi tuy nhiên cha cậu lại lo ngại bởi đôi khi cậu mải chơi, chểnh mảng học hành. Có lẽ thầy giáo mới của Cung đã giúp cậu nhiều trong chuyện này. Vương Thúc Đỗ thật sự yêu quý và theo như người khác kể lại không bao giờ đánh đập các học trò của mình - điều khác thường vào thời đó - và ông thường kể cho học trò nghe những câu chuyện về những vị anh hùng chính trực trong quá khứ, trong số đó có anh trai của ông, người đã tham gia chiến đấu trong phong trào Cần Vương chống Pháp của Phan Đình Phùng.
Sau vài tháng ở Hoàng Trù, ông Sắc lại vào Huế, mẹ vợ ông là Nguyễn Thị Kép trông nom các cháu. Khi những người còn lại trong gia đình vào Huế, Nguyễn Thị Thanh, con gái ông, cũng ở lại làng với bà ngoại. Thanh đã trưởng thành nhưng chưa lấy chồng, nên ở lại để giảm gánh nặng cho gia đình. Cung giúp đỡ việc nhà và vườn tược nhưng vẫn có thời gian vui chơi. Mùa hè, cậu cùng bạn câu cá trong ao làng, thả diều (nhiều năm sau, người làng vẫn kể lại rằng khi trời lặng gió các bạn của cậu đã chán, còn Cung vẫn cố gắng giữ cho diều bay), và leo lên những ngọn núi ở vùng lân cận. Ngọn núi đáng nhớ nhất là núi Chung trên đỉnh có đền thờ Nguyễn Đức Dụ - vị tướng vào thế kỷ thứ mười ba đã chiến đấu chống quân Nguyên xâm lược. Cũng chính tại đây, năm 1885, nhà nho yêu nước Vương Thúc Mậu đã chiêu mộ một nhóm người nổi dậy chiến đấu dưới ngọn cờ phòng trào Cần Vương. Chính tại nơi đây, ông Sắc đã thấy niềm ham học của con mình, cũng từ đỉnh núi Chung, người ta có thể thấy được cảnh ngoạn mục những đồng lúa, những rặng tre và những cây cọ, và một dãy núi xanh thẫm dọc hướng tây. Trong thời niên thiếu đầy hạnh phúc của cậu bé Cung chỉ có một thời gian buồn khi đứa em trai Xin của cậu ốm yếu và mất khi tròn một tuổi.
Trở lại Huế, Nguyễn Sinh Sắc thi lại kỳ thi hội và lần này ông đã đỗ tiến sĩ, loại hai (phó bảng). Tin ông đỗ phó bảng đã gây xôn xao ở làng Hoàng Trù và Kim Liên quê ông. Người ta kể rằng kể từ giữa thế kỷ 17, các làng trong vùng đã có gần hai trăm người có học vị cử nhân, nhưng ông là người đầu tiên đỗ phó bảng. Khi ông về làng Hoàng Trù, dân làng đã có kế hoạch tổ chức lễ rước, nhưng ông, -rõ ràng là không thích sự phô trương và lễ nghi- một lần nữa đã từ chối vinh hạnh đó. Mặc dù ông không đồng ý, dân làng vẫn tổ chức một bữa tiệc lớn để ăn mừng sự kiện này. Tuy nhiên, ông đề nghị, chia một số thức ăn cho người nghèo.
Theo phong tục, vinh hạnh được thí sinh thi đỗ là thuộc về làng - quê hương của người cha. Và tất nhiên Sắc cũng vậy, điều này có nghĩa là làng được coi là “đất văn vật, chốn thi thư”, chính là làng Kim Liên, nơi bố ông sinh ra chứ không phải là làng Hoàng Trù là nơi ông sống. Để thưởng cho người con của làng, chức sắc làng Kim Liên đã dùng tiền công dựng một ngôi nhà gỗ mái lá nhỏ trên mảnh đất của làng và mời ông tới sống ở đó. Sắc đồng ý sống trong ngôi nhà mới đã dành cho mình cùng ba người con. Ngôi nhà rộng hơn ngôi nhà của ông ở làng Hoàng Trù một chút có ba gian, một gian làm chuồng trâu, một gian nhỏ đặt bàn thờ bà Hoàng Thị Loan. Ngoài ngôi nhà ra, Sắc còn được vài mẫu ruộng và mảnh vườn nhỏ trồng khoai lang.
Trong xã hội Việt Nam xưa, học vị phó bảng là một vinh dự lớn đem lại danh tiếng và may mắn, thường là sự nghiệp quan trường. Tuy nhiên, Nguyễn Sinh Sắc không hề muốn ra làm quan, đặc biệt trong lúc nước nhà bị ô nhục. Từ chối làm quan trong triều với lý do đang để tang vợ, ông Sắc quyết định ở lại Kim Liên mở một lớp học nhỏ dạy chữ nho. Tiền dạy học đã ít ông Sắc còn gặp khó khăn hơn vì thường giúp những người nghèo trong làng. Tuy nhiên ông Sắc đã đổi tên thành Nguyễn Sinh Huy với ý “sinh để huy hoàng” cho phù hợp với địa vị mới của mình.[11]
Lên 11 tuổi, khi Cung chớm tuổi thanh niên, ông Sắc đã có một quyết định rất quan trọng đối với cuộc đời cậu. Theo phong tục của xã hội Việt Nam, để dánh dấu sự kiện này, cha cậu đã đặt cho cậu tên mới là Nguyễn Tất Thành, “người sẽ thành đạt”, ghi trong sổ sách của làng. Lúc đầu cậu bé học với cha, nhưng sau đó được gửi tới lớp học của Vương Thúc Quý là bạn của cha, con trai nhà nho Vương Thúc Mậu - người đã nhảy xuống ao tự vẫn để khỏi bị giặc Pháp bắt. Cũng là một người đỗ đạt giống như ông Sắc, ông Quý đã từ chối không ra làm quan mà dạy học ở làng và bí mật tham gia các hoạt động lật đổ chính quyền bù nhìn Huế. Khi dạy học trò, ông phản đối cách dạy mô phạm truyền thống bắt học trò phải học thuộc lòng sách vở, thay vào đó rất quan tâm hướng học trò vào tính nhân đạo cốt lõi của sách thánh hiền, đồng thời khắc sâu trong óc các học trò tinh thần yêu nước nồng nàn đối với sự sống còn của nước Việt Nam độc lập. Để soi sáng thông điệp của mình trong tâm hồn các học trò, trước khi bắt đầu mỗi bài học ông thường thắp ngọn đèn trên bàn thờ cha trên tường lớp học.
Nguyễn Tất Thành trưởng thành dưới sự dạy dỗ của người thầy mới, viết những bài luận yêu nước dưới sự hướng dẫn của ông Quý và những người thường tới lớp giúp giảng bài về những chủ đề khác nhau. Thật không may, việc này không kéo dài được lâu, ông Quý đóng cửa lớp học và rời làng tham gia hoạt động nổi dậy. Thành đã theo học một thầy giáo khác ở làng bên trong một thời gian ngắn, tuy nhiên cách dạy của thầy giáo mới quá cổ hủ đối với Thành và chàng thanh niên quyết định trở về học với cha - người có thái độ vị tha hơn trong việc dạy học. Cũng như Vương Thúc Quý, ông Sắc phê phán lối học vẹt, cho rằng học tả cảnh “hoa lá” là việc vô ích xa rời thực tế. Ông khuyên học trò không nên chỉ bước trên con đường quan trường mà cố gắng hiểu những điều cốt lõi trong sách thánh hiền để giúp đỡ đồng bào. Sắc đã nói với một người bạn “Tại sao tôi phải bắt học trò của mình học thuộc bài chỉ để thi? Tôi sẽ không bao giờ dạy con mình cách đó”.[12]
Thành rất thích quan điểm của cha mình, bởi vì Thành thích đọc những pho truyện nổi tiếng của Trung Hoa như Tam Quốc diễn nghĩa, một truyền thuyết về chủ nghĩa anh hùng trong thời kỳ hỗn loạn khi nhà Hán suy vong, Tây du ký, kể về nhà sư Đường Tăng trên đường qua Trung Á tới Ấn Độ thỉnh kinh Phật. (Trong khi Thành học ở làng Dương Nỗ, một học trò lớn tuổi hơn được giao nhiệm vụ trông nom thấy cần phải buộc một sợi dây vào chân Thành để biết Thành ở đâu mỗi khi Thành có ý định bỏ ra ngoài chơi và thường thì lúc đó Thành đã học xong bài).[13]
Nguyễn Tất Thành không chỉ học trong lớp. Nhà của cha Thành nằm cạnh một lò rèn của người thợ trong làng tên là Diễn - người đã dạy Thành cách sử dụng bễ rèn và thường cho cậu bắn chim. Sở thích kể chuyện của Diễn đã biến lò rèn thành một trong những nơi tụ họp quen thuộc trong vùng. Thường vào buổi tối, Thành cùng các thanh niên khác trong làng ngồi nghe Diễn kể chuyện về anh hùng địa phương theo nhóm Cần Vương đã thất bại trong việc đánh đuổi bọn hung tàn khỏi mảnh đất quê hương như thế nào. Cùng với những người khác, Thành được nghe về những chiến công hiển hách của những chiến sĩ đã hy sinh từ lâu như Lê Lợi và Mai Thúc Loan, những người đã chiến đấu bảo vệ quê hương chống quân xâm lược. Thành xúc động lắng nghe chuyện Vương Thúc Mậu tự vẫn, và chuyện về người lãnh đạo phong trào Cần Vương Phan Đình Phùng đã chết vì bệnh lỵ vào năm 1895, đem lại kết thúc bi thảm cho phong trào khi quân của ông bị suy yếu phải lùi sâu vào núi dọc theo biên giới Lào. Thành cũng rất vui khi được biết một số người trong gia đình của cha mình đã chiến đấu và hy sinh cho sự nghiệp cứu nước.
Từ đó, Thành bắt đầu mang trong mình chủ nghĩa yêu nước nồng nàn. Khi còn sống với cha mẹ ở Huế, Thành đã tham dự một lễ tưởng niệm liệt sĩ tại một đền gần nơi ông ở. Họ là những tử sĩ chiến đấu chống Pháp và cũng như những người khác Thành đã rơi nước mắt trước sự hy sinh của họ.
Trở về làng vào năm 1901, Thành rất khó chịu khi phát hiện ra hầu hết các cuốn sách cổ đang được sử dụng ở làng đều kể về lịch sử Trung Hoa thay vì lịch sử Việt Nam và quyết định đi bộ đến Vinh mua những cuốn sách nói về lịch sử đất nước mình. Khi thấy những cuốn sách đó quá đắt, Thành đã cố ghi nhớ những nội dung chính để có thể kể lại cho bạn bè khi trở về làng Kim Liên.
Mãi đến tận lúc bấy giờ, sự hiểu biết của Thành về người Pháp mới chỉ dừng lại ở sự quan sát của một đứa trẻ con trên những đường phố Huế, những người thời đó sau này kể lại, Thành tò mò không hiểu tại sao ngay cả những quan lại danh tiếng của Việt Nam đều phải cúi chào tất cả những người châu Âu, đôi khi Thành và anh trai mải mê theo dõi công nhân Pháp đang xây cầu sắt bắc qua sông Hương ngay phía đông kinh thành. Thỉnh thoảng những người công nhân chơi đùa và cho các cậu bé kẹo khiến Thành hỏi mẹ tại sao có người nước ngoài lại thân thiện hơn so với những người khác. Tuy nhiên, khi trở về quê, Thành càng trở nên không thích người nước ngoài khi nghe thấy việc người Pháp đối xử tồi tệ với những người lao động làm thuê trên một con đường đang được xây dựng chạy vòng vèo từ phía tây qua các ngọn núi sang Lào. Trong khi Thành và anh trai là con của một người thuộc tầng lớp có học được miễn lao dịch trong các dự án thì nhiều dân làng khác đã không có được may mắn đó. Trong số đó, những người may mắn trở về nhà mang theo thương tật cả thể xác lẫn tinh thần. Nhiều người khác sức khoẻ bị tàn phá bởi bệnh sốt rét, suy dinh dưỡng và làm việc quá sức đã bỏ xác. Mặc dù lao dịch thường áp dụng đối với những người nông dân vào thời kỳ đầu thực dân, nhưng những dự án như vậy thường có quy mô vừa và thời gian làm việc cũng không dài. Con đường sang Lào - là “con đường chết chóc” nổi tiếng với người Việt - đã trở thành nguyên nhân chính khiến nhân dân phản kháng chế độ thuộc địa mới.
Một trong những người bạn thân thiết của Nguyễn Sinh Sắc là nhà nho yêu nước nổi tiếng Phan Bội Châu, sống cách Kim Liên vài cây số. Cha của ông Châu đỗ tú tài, vì thế Châu được học hành từ nhỏ. Đối với Châu thì nỗi thống khổ của nước nhà còn quan trọng hơn hứa hẹn nơi quan trường. Khi còn trẻ, ông Châu đã lập một đội dân quân nhỏ gồm các thanh niên trong làng để tiếp bước cha anh chiến đấu chống quân Pháp xâm lược. Khi quân Pháp tiến vào làng đàn áp phong trào, Phan Bội Châu coi như chính bản thân mình bị sỉ nhục, trốn vào rừng cùng đồng đội ẩn náu.
Sau đó, ông Châu tiếp tục học chữ nho và năm 1900 ông đỗ giải nguyên trong kỳ thi hội. Giống như Nguyễn Sinh Sắc, Phan Bội Châu cũng không muốn ra làm quan, ngay sau đó đã đi khắp các tỉnh miền trung chiêu mộ các sĩ phu cho phong trào liên kết chống lại triều đình phong kiến và chính phủ bảo hộ thực dân Pháp. Lúc này ông Châu bắt đầu đọc các tác phẩm của những người theo chủ nghĩa cải lương tiến bộ Trung Hoa như Khang Hữu Vi và Lương Khải Siêu và tin rằng Việt Nam cần học phương Tây để tồn tại.
Khi đi đó đây, Phan Bội Châu thường dừng lại ở làng Kim Liên để thăm Nguyễn Sinh Sắc và Vương Thúc Quý, cùng bàn thế sự. Với khả năng ăn nói lưu loát và tính tình niềm nở, ông Châu là một người ủng hộ sự nghiệp cứu nước đầy thuyết phục đã gây được ấn tượng đối với Thành. Thành thường mang bình rượu hay ấm trà vào phòng khách khi ông Châu và ông Sắc cùng nhau đàm đạo trên chiếc chiếu mây. Người thanh niên nhạy cảm này đã đọc một số bài viết yêu nước của ông Châu khích lệ tinh thần phản kháng, cũng như coi thường truyền thống phong kiến và sự mục nát của triều đình Huế.[14]
Như nêu rõ trong các bài viết của mình, Phan Bội Châu cho rằng người Việt cần xoá bỏ hệ thống cũ tồn tại qua hàng nghìn năm để áp dụng những thể chế và công nghệ mới của nước ngoài. Tuy nhiên, ông tin rằng chỉ có tầng lớp sĩ phu mới có thể lãnh đạo nhân dân tiến hành cải cách và để nhận được sự ủng hộ của nhân dân, phong trào của ông phải đi theo con đường kỳ diệu của những thế kỷ trước. Kết quả là, đầu năm 1904, ông đã thành lập một tổ chức gọi là Duy Tân Hội nhằm thu hút sự ủng hộ của các sĩ phu yêu nước trên khắp đất nước, ông đã chọn Kỳ ngoại hầu Cường Để, một người bất đồng chính kiến trong hoàng tộc nhà Nguyễn, làm người lãnh đạo trên danh nghĩa của hội với mục tiêu đánh đuổi giặc Pháp, thành lập nền quân chủ lập hiến.
 Kỳ Ngoại Hầu Cường Để (bên trái) và Phan Bội Châu 1907. (Nguồn internet)

Giống như những nhân vật tiến bộ đương thời ở Trung Hoa, Phan Bội Châu đã tìm được một mô hình cho chương trình của mình tại Nhật Bản nơi các thành phần theo chủ nghĩa cải lương thuộc tầng lớp quý tộc tập hợp xung quanh Nhật hoàng Minh Trị với mục đích thúc đẩy cải cách xã hội truyền thống Nhật Bản. Như nhiều người Việt Nam khác, ông thán phục thành công của quân đội Nhật trong cuộc chiến vừa diễn ra với quân Sa hoàng Nga, coi đó là bằng chứng của việc người châu Á có khả năng đánh bại xâm lược phương Tây. Ông Châu tin rằng Việt Nam có thể yêu cầu hỗ trợ từ bên ngoài để biến kế hoạch của mình thành hiện thực. Cuối năm 1904, ông tới Nhật Bản và thành lập một trường học ở Yahama để đào tạo những thanh niên Việt Nam yêu nước cho cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc trong tương lai. Mùa hè năm sau, ông trở về Huế bắt đầu chiêu mộ người trên khắp đất nước.[15]
Ngay sau khi trở về Việt Nam, Phan Bội Châu đã tới làng Kim Liên, đề nghị Nguyễn Tất Thành và anh trai Thành tham gia phong trào Đông Du của mình. Tuy nhiên, Thành đã khước từ lời đề nghị đó. Theo một số tài liệu, Thành quyết định như vậy vì cho rằng dựa vào người Nhật Bản để đuổi người Pháp chẳng khác gì với việc “đuổi hổ cửa trước, rước sói cửa sau”. Một số tài liệu khác cho rằng quyết định đó chính là của cha Thành. Trong tự thuật của mình được ký dưới bí danh, sau này Hồ Chí Minh đã giải thích, ông rất muốn tới Pháp để tìm hiểu tận nguồn bí quyết thành công của phương Tây.[16]
Thành quyết định từ chối lời đề nghị của Phan Bội Châu, có thể do một trong những lời giải thích của ông Châu. Khi Thành hỏi làm thế nào Nhật Bản có được sự thành công về công nghệ, ông Châu đáp lại do người Nhật bản đã học hỏi phương Tây. Ngay sau đó, Thành nói với cha mình muốn học tiếng Pháp. Ông Sắc chần chừ không muốn, vì lúc đó chỉ có những người Việt Nam cộng tác với Pháp mới phải lo học tiếng Pháp. Nhưng bản thân ông Sắc cũng bắt đầu hiểu sơ qua văn hoá phương Tây khi ông tham gia một câu lạc bộ bạn đọc và đọc những bài viết của các tác giả là những trí thức Trung Hoa theo chủ nghĩa cải lương tìm cách thuyết phục triều đình nhà Thanh thay đổi đường lối, nên cuối cùng ông đã bị thuyết phục bởi lập luận của con trai.
Lúc đầu, Thành có rất ít cơ hội thực hiện mục tiêu mới của mình. Mùa hè năm 1905, Thành bắt đầu học tiếng Pháp và văn hoá Pháp dưới sự giúp đỡ của một người bạn của cha, cũng là nhà nho ở làng Kim Liên. Sau đó vào tháng Chín, ông Sắc đã cho cả hai con theo học trường dự bị Pháp - Việt ở Vinh. Theo đề nghị của toàn quyền Paul Doumer, chính quyền Pháp đã quyết định thành lập các trường dự bị sơ cấp dạy tiếng Pháp và văn hoá Pháp tại tất cả các tỉnh miền trung Việt Nam. Chủ đích của Doumer là thu hút các học sinh từ trường dạy chữ nho để tạo nguồn nhân lực sau này cho chính quyền thuộc địa mới; các quỹ học bổng dành cho những học sinh khó khăn đã được thành lập. Nguyễn Sinh Sắc, tuy đã cố cống hiến toàn bộ sự nghiệp của mình cho nền giáo dục Nho giáo cổ truyền, lại bắt đầu tin rằng thế hệ trẻ cần phải thích nghi với thực tế mới và cần học những người chủ mới của đất nước. Ông thường trích lời Nguyễn Trãi - nho sĩ của thế kỷ XV - người từng cho rằng để chiến thắng kẻ thù cần phảỉ hiểu kẻ thù. Trong năm học sau đó, Thành và anh trai lần đầu tiên được thực sự làm quen với tiếng Pháp và văn hoá Pháp. Họ cũng bắt đầu học chữ quốc ngữ, ngôn ngữ thường ngày Việt Nam được chuyển sang hệ chữ cái La-tinh, được các nhà truyền giáo dòng Chúa Cứu thế sử dụng lần đầu tiên vào thế kỷ 17 và được các sĩ phu tiến bộ truyền bá nhằm thay thế chữ Hán rắc rối đang được sử dụng trong nhiều thế kỷ.
Từ năm 1901, khi giành được học vị phó bảng, Nguyễn Sinh Sắc đã từ chối kiên quyết không ra làm quan với lý do sức khoẻ không tốt và nặng gánh gia đình, tuy nhiên khi được triệu vào triều vào tháng 5 năm 1906, ông thấy không thể từ chối được nữa nên đã nhận lời. Để người con gái trông nom ngôi nhà ở Kim Liên, ông Sắc trở lại kinh thành cùng với hai con trai vào tháng 6. Lần này họ lại đi bộ nhưng chắc thuận lợi hơn so với lần trước bởi hai cậu bé giờ đã đến tuổi trưởng thành. Trên đường đi, Sắc kể những câu chuyện về Nguyễn Trãi và các nhân vật lịch sử nổi tiếng khác trong khi Thành đố anh trai tên của những vị vua Việt Nam.[17]
Kinh thành đã thay đổi khá nhiều so với trước. Hoàng thành, với những tường cao màu xám và cột cờ lớn, vẫn sừng sững nằm trên bờ bắc sông Hương êm đềm chảy dọc dưới nước từ những rặng núi trên dãy Trường Sơn ở phía tây. Trên những thuyền tam bản dọc sông, những cô gái làng chơi với mái tóc đen bồng bềnh làm người Việt Nam say đắm chào mời khách trên bờ sông. Tuy nhiên, cũng có một số thay đổi dễ nhận thấy. Mùa hè hai năm trước, một cơn bão lớn đã đổ vào toàn bộ khu vực duyên hải miền trung, phá huỷ cây cối để lại những vũng nước đầy rêu hai bên bờ sông. Dọc theo bờ Nam, ngang qua dòng sông phía kinh thành, những cửa hàng không có gì đặc biệt trong khu thương mại cổ của thành phố đã nhanh chóng được thay thế bởi những ngôi nhà kiểu châu Âu được quét vôi trắng là nơi đặt văn phòng của các cố vấn Pháp.
Tới Huế, ông Sắc và hai con trai sống tạm tại nhà của một người bạn nhưng sau đó được phân một căn phòng nhỏ ở gần cổng chợ Đông Ba ở nam kinh thành. Ngôi nhà được dựng bằng gỗ có lợp ngói từng là trại lính, nay là nơi ở của các quan nhỏ trong triều. Phòng của ông Sắc nhỏ chỉ vừa đủ kê một chiếc bàn và một cái giường. Căn phòng không có bếp riêng và nước máy, do đó những người trong gia đình phải đi lấy nước giếng hoặc nước kênh gần kề ngay bên ngoài cổng chợ Đông Ba. Họ ăn uống đạm bạc, bữa ăn chủ yếu gồm cá kho mặn, rau, muối vừng và loại gạo rẻ tiền. Công việc nấu nướng do Thành đảm nhận. Mặc dù điều kiện ở đây tốt hơn nhiều so với phần lớn đồng bào của họ ở nông thôn nhưng rõ ràng điều kiện ăn ở của họ thật đơn sơ so với những quan lớn trong triều.[18]
Ngay sau khi tới Huế, ông Sắc đã nói chuyện với người đỡ đầu của mình là Cao Xuân Dục, một vị quan làm việc tại Viện Lịch sử và là người đã giúp đỡ ông trong lần đầu sống ở kinh thành. Nhờ sự can thiệp này tại triều đình, ông Sắc được bổ nhiệm làm thanh tra tại Bộ Lễ có trách nhiệm giám sát sinh viên trong Quốc Tử Giám. Đó không phải là vị trí có uy tín đặc biệt cho một người có bằng cấp như ông bởi phần lớn các phó bảng khoa 1901 đều đã được thăng tiến trở thành quan huyện hoặc các chức quan khác cao hơn trong triều. Tuy nhiên việc Nguyễn Sinh Sắc từ lâu đã từ chối ra làm quan khiến cho triều đình chú ý và nghi ngờ lòng trung thành của ông.[19]
Đối với ông Sắc, thời gian làm việc trong triều rõ ràng là quãng đời rất khó chịu. Ông bắt đầu không thoải mái đối với nghĩa vụ phục vụ nền quân chủ bù nhìn trong tay kẻ thống trị ngoại bang. Ông băn khoăn về ý nghĩa đương thời của câu nói truyền thống “trung quân ái quốc?” Ông bắt đầu trao đổi với bạn bè về sự cần thiết phải cách tân hệ thống cũ, vì theo ông đã ngày càng trở nên mục nát và không thích hợp, ông khuyên học trò không nên mưu cầu quan trường. Trong con mắt ông, sự hiện diện của quan lại chỉ để bức hại dân lành.
Nỗi thất vọng của Nguyễn Sinh Sắc về sự suy đồi của chế độ cũ rất có cơ sở. Mô hình hành chính Nho giáo luôn dựa vào đạo lý như là phương tiện để duy trì năng lực và sự liêm chính của các quan lại được tuyển chọn qua hệ thống thi cử. Trên lý thuyết, các quan địa phương, được thấm nhuần từ thời thơ ấu về một hệ thống các giá trị đạo đức xã hội dựa trên sự cống hiến cho cộng đồng, sự chính trực cá nhân và lòng nhân đức phải tuân theo những nguyên tắc này trong việc sử dụng quyền lực với các đối tượng dưới quyền. Khuynh hướng ngạo mạn và tự tư tự lợi của quan lại có thể được khống chế bởi người trị vì đầy nghị lực và lòng nhân đức đứng ở vị trí tối cao trong chế độ. Tuy nhiên, vào cuối thế kỷ XIX, sự suy yếu của triều đình đã dẫn tới sự tan rã thật sự của các thể chế Nho giáo trong xã hội Việt Nam cũng như tới uy tín và quyền lực của nhà vua. Thiếu sự chỉ đạo từ Huế, quan lại dễ dàng lạm dụng quyền hạn vơ vét cho đầy túi, làm lợi cho bạn bè và người thân. Đất công dành cho gia đình nghèo giờ đây bị những người giầu chiếm đoạt và những người này được miễn - giảm tô hằng năm.
Ông Sắc không phải là Nho sĩ duy nhất không tuân lệnh triều đình. Lúc đó tiếng nói của vị quan trong triều Phan Chu Trinh lần đầu tiên được nhân dân biết tới. Ông Trinh đỗ phó bảng cùng năm với Nguyễn Sinh Sắc. Sinh tại tỉnh Quảng Nam năm 1872, ông Trinh là con út trong số ba người con trong gia đình. Cha ông là một quan võ đã từng thi trượt. Tin rằng con đường cũ là vô dụng, cha ông đã đứng trong đội ngũ phong trào Cần Vương nhưng sau đó ông bị nghi là phản bội và bị những người nổi dậy hành quyết. Bản thân ông Trinh từng làm việc tại Bộ Lễ vào năm 1903, nhưng ông đã rất khó chịu về tệ tham nhũng, sự thiếu năng lực của quan lại trong triều đình và các quan lại địa phương. Ông công khai nêu vấn đề này trước học trò đang chuẩn bị cho kỳ thi hội năm 1904. Ông bắt đầu nghiên cứu các bài viết của các nhà cải lương Trung Hoa và năm 1905 ông từ quan, đi khắp đất nước trao đổi với các sĩ phu về các hoạt động tương lai.
Cuối cùng ông Trinh gặp Phan Bội Châu ở Hong Kong và cùng ông Châu tới Nhật Bản, ông Trinh ủng hộ nỗ lực của Châu trong việc đào tạo một thế hệ trí thức mới Việt Nam, nhằm cứu nước khỏi hoạ diệt vong, nhưng không tán thành quyết định của ông Châu dựa vào sự ủng hộ của một thành viên triều đình. Theo ông Trinh, nên hợp tác với người Pháp với hy vọng họ sẽ tiến hành cách tân để thay đổi xã hội Việt Nam. Tháng tám năm 1906 ông viết một bức thư gửi toàn quyền Paul Beau nói về những điều ông cho là “tình cảnh đặc biệt nguy cấp” của đất nước.
Trong thư, ông Trinh thừa nhận người Pháp đã mang lại một số lợi ích cho nhân dân Việt Nam bao gồm giai đoạn phát triển đầu tiên về hệ thống giao thông liên lạc hiện đại. Tuy nhiên, ông cho rằng sự dung túng bộ máy quan liêu triều đình ở miền trung Việt Nam, chính quyền thuộc địa đã duy trì bộ máy tham nhũng mục nát, làm phức tạp thêm tình hình bởi việc đối xử trịch thượng và khinh miệt đối với nhân dân Việt Nam, do đó làm nảy sinh thái độ thù địch trong dân chúng. Ông Trinh đề nghị Toàn quyền Paul Beau cách tân hệ thống pháp luật và giáo dục để phá bỏ chế độ cũ, đưa vào các thể chế chính trị hiện đại cũng như khái niệm dân chủ phương Tây. Nếu làm được như vậy, nhân dân Việt Nam sẽ biết ơn ông mãi mãi.
“Với nỗi đau sâu thẳm từ đáy lòng và không biết bày tỏ sự thật với ai, tôi đành mượn ngòi bút viết những suy nghĩ thẳng thắn của tôi tới ông. Nếu chính phủ Pháp, thực sự muốn đối xử với nhân dân An Nam tự do hơn, họ nên chấp thuận sáng kiến và lời khuyên của tôi. Chính phủ Pháp sẽ mời tôi trình bày trước các đại diện của chính phủ về vấn đề này. Khi tới ngày đó, tôi sẽ cởi mở hết mình, sẽ cho họ biết chúng tôi đã chịu đựng đau khổ và cần những gì. Tôi thật sự hy vọng những điều đó sẽ thức tỉnh cũng như sự hồi sinh của dân tộc tôi”.[20]
Lá thư của Phan Chu Trinh được công bố đã gây chấn động giới trí thức trong nước, nhất là những nơi chống lại nhà cầm quyền thuộc địa đang phát triển. Đằng sau chiếc mặt nạ “sứ mệnh truyền bá văn minh”, người Pháp ra sức khai thác các nguồn tài nguyên kinh tế Đông Dương, truyền bá nghi lễ ngoại lai gây ra sự bất bình trong mọi tầng lớp nhân dân Việt Nam. Quan lại, sĩ phu tức giận vì việc người Pháp chỉ trích các thể chế Nho giáo. Nông dân nổi giận vì các loại thuế mới ban hành đánh vào rượu, muối và thuốc phiện mà chính quyền Pháp áp đặt biến Đông Dương trở thành một lãnh địa tự cung tự cấp. Thuế rượu rất nặng, người Việt Nam bị cấm nấu rượu từ gạo - một truyền thống sản xuất rượu thủ công lâu đời qua nhiều thế kỷ - bắt họ phải mua các loại rượu đắt tiền nhập từ Pháp. Những người nông dân phải rời làng quê đi kiếm việc làm nhưng môi trường mới không đem lại kết quả tốt hơn. Điều kiện sống và làm việc trong các đồn điền cao su ở Nam Bộ rất khắc nghiệt, các phu đồn điền thường bị ốm và chết. Mặc dù việc mộ phu dựa trên nguyên tắc tự nguyện nhưng trên thực tế họ thường bị cưỡng bức. Tình cảnh của những người công nhân làm việc trong nhà máy hay tại các mỏ than cũng chẳng tốt hơn vì lương thấp, thời gian làm quá việc dài và điều kiện sống rất cùng cực.
Ấy thế Phan Chu Trinh vẫn hy vọng người Pháp sẽ thực hiện trách nhiệm truyền bá văn minh cho Đông Dương. Ông không phải là người duy nhất tìm kiếm câu trả lời từ phương Tây về nỗi thống khổ của dân tộc. Đầu năm 1907, một nhóm những người trí thức tiến bộ ở Hà Nội thành lập trường Đông Kinh Nghĩa Thục theo khuôn mẫu của một trường mới được nhà cách tân Fukuzawa Yukichi thành lập ở Nhật Bản. Trường là một thể chế độc lập với mục đích khuếch trương tiến bộ phương Tây và tư tưởng của Trung Hoa trong thế hệ người Việt Nam sau này. Đến giữa hè năm đó, trường đã có hơn 40 lớp học với 1.000 học sinh. Trong khi đó Phan Bội Châu tiếp tục hoạt động tích cực tại Nhật Bản, thu hút thanh niên Việt Nam đến với chương trình đào tạo của mình và viết những cuốn sách nhỏ gửi về Đông Dương nhằm khơi dậy tinh thần yêu nước của nhân dân. Trong số đó có cuốn Việt Nam Vong Quốc Sử, nhưng thật trớ trêu, cuốn sách lại viết bằng chữ Hán.
Trong một vài tháng, các hoạt động của phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục không hề bị quan chức Pháp ở Bắc Bộ để ý nhưng sau đó họ bắt đầu nghi ngờ mục tiêu của trường không chỉ là giáo dục và buộc trường phải đóng cửa vào tháng 12. Tuy nhiên, người Pháp đã không làm gì để làm lắng xuống cuộc tranh luận sôi nổi giữa những người Việt Nam về việc bảo đảm sự tồn tại của đất nước. Bản thân Nguyễn Sinh Sắc cũng rất tức giận, khi nhận xét về một bài giảng tại Quốc Tử Giám, rằng làm việc cho triều đình là hình thức nô lệ tồi tệ nhất - quan lại chẳng là gì và thực chất chỉ là kẻ nô lệ làm việc theo mệnh lệnh của một xã hội nô lệ. Tuy nhiên, ông Sắc thấy khó đưa ra một giải pháp. Nhiều năm sau, Hồ Chí Minh nhớ lại, cha ông thường hỏi đi hỏi lại, người Việt có thể tìm kiếm sự giúp đỡ của nước nào: Anh, Nhật Bản hay Hoa Kỳ?[21]
Ngay sau khi trở về Huế, theo lời khuyên của Cao Xuân Dục, ông Sắc đã cho hai con trai theo học trường cao đẳng tiểu học thuộc hệ thống giáo dục Pháp-Việt mới, nằm ngay bên ngoài thành trước cổng chợ Đông Ba. Trường trước đây là một phần của chợ nằm choán hết khu vực, nhưng sau khi chợ được chuyển tới một địa điểm khác vào năm 1899, toàn bộ ngôi nhà được sử dụng làm trường học. Trường có năm phòng, bốn phòng sử dụng làm lớp học và phòng còn lại làm văn phòng. Thực ra, Thành không có giấy chứng nhận để được theo học tại trường vì Thành chưa được giáo dục theo kiểu phương Tây, tuy nhiên vì Thành được thầy giáo ở làng Kim Liên dạy một ít tiếng Pháp và đã thể hiện rất tốt trong cuộc phỏng vấn nên đã được nhận vào học như một học sinh lớp đầu. Rõ ràng vốn tiếng Pháp của Thành chưa đủ để hiểu những từ nổi tiếng của Cách mạng Pháp: Tự do, Bình đẳng, Bác ái được ghi trên chiếc biển gắn trước cổng trường.
Các lớp được dạy bằng ba thứ tiếng: Việt Nam, Pháp và chữ Hán. Các lớp học càng cao tiếng Hán được sử dụng càng ít hơn. Một số người bảo thủ đã phản đối việc hạn chế vai trò tiếng Hán nhưng Thành và cha có lẽ rất vui với quyết định đó. Thầy dạy tiếng Pháp của Thành ở Kim Liên đã khuyên Thành: “Nếu trò muốn đánh bại người Pháp, trò phải hiểu họ. Để hiểu người Pháp, trò phải học tiếng Pháp”.[22]
Với đôi guốc mộc, quần áo nâu và mớ tóc dài, rõ ràng Thành là hình ảnh của một người nhà quê trong con mắt các bạn học - nhiều người trong số họ mặc quần chùng áo the hoặc mặc đồng phục kiểu phương Tây mua tại trường - nên Thành đã nhanh chóng quyết định cắt tóc ngắn và mặc quần áo giống như các bạn để khỏi bị chế nhạo. Thành đội mũ, bỏ chiếc nón lá gồi. Nhiều năm sau, một người bạn kể lại, Thành học rất chăm chỉ, ít chơi bời. Thành đã xin phép được làm bài tập sau mỗi buổi học tại nhà một thầy giáo và ôn bài cùng các bạn vào buổi tối. Một trong những người bạn của Thành kể lại, Thành thường nói với những bạn chán học rằng “Chỉ có khổ học mới thành công”. Thành học tiếng Pháp rất chăm chỉ, luyện âm với các bạn, viết những từ tiếng Pháp và tiếng Hán tương đương với những từ trong tiếng Việt vào vở. Do chăm học, chỉ sau một năm Thành đã hoàn thành khoá học hai năm.
Mùa thu năm 1907, Thành và anh trai đã thi đỗ, được theo học trường Quốc Học, cấp cao nhất trong hệ thống trường Pháp-Việt tại Huế. Trường được thành lập theo chiếu chỉ của Vua Thành Thái năm 1896, đặt dưới quyền của toàn quyền Pháp ở Trung Kỳ. Trường có bảy cấp học, bốn cấp đầu quan trọng và kết thúc ở cấp cuối cùng dành cho các học sinh cấp cao. Triều đình hy vọng việc thành lập trường có thể thay thế được Quốc Tử Giám cũng như để tạo ra nguồn nhân lực được đào tạo theo phương Tây cho triều đình, do đó chương trình học tập được tập trung vào văn hoá Pháp và tiếng Pháp, người dân địa phương đã đặt cho trường cái tên “trường địa đàng”.
 Cổng trường Quốc Học Huế ngày nay

Trường Quốc Học, toạ lạc bên bờ nam sông Hương, nhìn thẳng qua sông là cổng chính Hoàng Thành, nhưng điều kiện sống và học tập không tương xứng với danh tiếng của nhà trường. Toà nhà chính, từng là trại lính, xiêu vẹo mái tranh, dột khi trời mưa. Toà nhà này có vài phòng học, một hội trường lớn và một văn phòng. Xung quanh toà nhà có vài bụi tre, dăm túp lều tranh vách nứa. Đường vào trường nằm trên đại lộ Jules Ferry, một phố chính chạy sát bờ sông, nổi bật với cổng bằng gỗ hai tầng theo lối Tầu, tên trường viết bằng chữ Hán.
Hoàn cảnh của các học sinh trong trường rất khác nhau. Một số giống như Thành và anh trai, là học sinh được cấp học bổng phải đi bộ tới trường. Một số khác là con cái trong gia đình giàu có, nội trú tại trường hoặc tới trường vào buổi sáng bằng xe ngựa. Theo truyền thống thời đó, học sinh bị đối xử rất nghiêm khắc đôi khi tàn nhẫn. Hiệu trưởng đầu tiên, một doanh nhân tên là Nordemann. Ông lấy vợ Việt Nam và nói sõi tiếng Việt. Người kế nhiệm, Logiou, xuất thân từ lính Lê dương Pháp.
Mặc dù nhiều năm sau, Thành thường phàn nàn nhiều điều về trường cũng như về hành vi đối xử tàn nhẫn của một số giáo viên, nhưng Thành vẫn tiếp tục chăm chỉ học hành, tiến bộ trong học tập. Thành học lịch sử, địa lý, văn học và khoa học trong khi tiếp tục nâng cao trình độ tiếng Pháp. Các bạn học của Thành thường kể lại, Thành luôn ngồi cuối lớp, thường không để ý tới gì xảy ra trong lớp. Nhưng Thành cũng nổi tiếng là người hay đặt câu hỏi trong lớp và giỏi ngoại ngữ nên được hầu hết các giáo viên yêu quý. Các bạn học cũng kể lại một số câu hỏi của Thành rất tò mò, vì Thành muốn tìm hiểu ý nghĩa sâu xa các tác phẩm của các nhà triết học thời phục hưng Pháp. Một trong những thầy giáo mà Thành yêu thích là Lê Văn Miên, mới tốt nghiệp trường Mỹ thuật Paris. Mặc dù thày Miên thường hay chỉ trích chính sách của chính quyền thuộc địa, nhưng sự hiểu biết của ông về văn hoá Pháp đã khiến cho ông có được tiếng tốt đối với người Pháp sống ở kinh thành, giúp ông không bị chính quyền khiển trách. Miên kể cho các học sinh tại trường Quốc Học, những người Pháp ở chính quốc xử sự nhã nhặn hơn so với người Pháp ở Đông Dương. Điều này đã khiến cho Thành rất thích thú bởi những câu chuyện về thành phố Paris vĩ đại với những thư viện, bảo tàng cùng với những cuốn sách viết về nhiều lĩnh vực mà bất kỳ ai cũng có thể tự do đọc. Những câu chuyện của Miên đã khích lệ người thanh niên đạt nhiều thành tích hơn, khiến cho Thành được một trong những thầy giáo ngợi khen, “một học sinh thông minh và thực sự xuất sắc”.
Tuy nhiên, cách ăn nói, phong cách nông dân của Thành làm nảy sinh mâu thuẫn với các bạn thuộc giới thượng lưu. Họ thường giễu cợt Thành là anh chàng thộn, vì giọng nói nặng tiếng địa phương. Lúc đầu Thành không phản ứng, nhưng trong một lần mất bình tĩnh Thành đã đánh một người trêu ghẹo mình. Thày giáo trách Thành mất bình tĩnh và khuyên Thành tập trung vào những chuyện có ích hơn như nghiên cứu các vấn đề quốc tế. Thực ra, Thành cũng đã quan tâm nhiều đến chính trị và sau mỗi buổi học Thành thường lui tới bờ sông, nơi những đám đông tụ tập tranh luận về những tin tức mới nhất về Phan Bội Châu và cùng nhau đọc thơ “Á Tế Á” của ông Châu ngợi ca một châu Á không có sự thống trị của người da trắng và kêu gọi người đọc tranh đấu vì độc lập dân tộc.
Người khơi dậy lòng yêu nước của Thành là thày Hoàng Thông dạy chữ Hán, người có quan điểm chống Pháp nổi tiếng trong trường. Ông Thông nói với các học trò trong lớp, họa mất nước còn tồi tệ hơn họa mất gia đình, bởi khi mất nước thì toàn bộ giống nòi sẽ bị tuyệt duyệt. Thành đã đến chơi nhà ông Thông và say sưa đọc những cuốn sách trong tủ sách trong đó có tuyển tập các tác phẩm của những tác giả là nhà cải lương người Pháp, Trung Hoa và Việt Nam. Theo một số tài liệu, Hoàng Thông đã tham gia các hoạt động chính trị bí mật, thiết lập mối quan hệ giữa Thành với nhóm kháng chiến chống triều đình và chính quyền thuộc địa Pháp.
Mặc dù mức độ tham gia của Thành vào các hoạt động đó không thể xác định được, nhưng rõ ràng Thành đã ngày càng lên tiếng chỉ trích nhà cầm quyền. Trong một số dịp, Thành đã công khai trước đám đông học sinh trong sân trường, chỉ trích thái độ hèn hạ của triều đình, đòi giảm các loại thuế nông nghiệp quá nặng đối với nông dân. Một học sinh tố cáo hành động của Thành cho nhà chức trách, Thành đã bị gọi lên văn phòng của giám thị và bị khiển trách gay gắt.[23]
Mùa thu năm 1907, tình hình chính trị ngày càng trở nên căng thẳng. Vua Thành Thái, được người Pháp đưa lên ngôi từ năm 1889, buộc phải thoái vị vì bị nghi ngờ có dính líu đến các hoạt động phiến loạn. Tuy nhiên, trong thành đã có những tin đồn, người kế vị mới tám tuổi của ông là vua Duy Tân còn có tư tưởng chống Pháp mạnh hơn. Mặc dù tuổi nhỏ, để thể hiện quyết tâm cách tân đất nước nhà vua đã chọn niên hiệu Duy Tân, -“hiện đại hoá”-, một cử chỉ như để tuyên bố quan hệ gắn bó về tinh thần của ông với Vua Minh Trị của Nhật Bản.
Tuy vậy, đối với nhiều người Việt Nam tiến bộ, đã quá muộn không thể gắn triều đình với các hoạt động yêu nước. Nguyễn Quyến, sĩ phu trường Đông Kinh Nghĩa Thục, đã viết một bài thơ kêu gọi tất cả những người Việt Nam cắt tóc để biểu thị phản đối chế độ phong kiến cũ (lúc đó, người đàn ông Việt Nam vẫn búi tóc, như vẫn thường làm nhiều thế kỷ trước). Thành lúc này bỏ học cùng bạn bè đi khắp các đám đông cắt tóc cho những người qua đường cho dù nhiều người chẳng yêu cầu gì cả. Nhiều năm sau, Hồ Chí Minh vẫn nhớ bài ca của họ:
Lược bên tay trái
Kéo bên tay phải
Cắt! Cắt!
Cắt bỏ sự ngu dốt
Bỏ đi sự đần độn
Cắt! Cắt![24]
Rõ ràng những hành động như vậy đã khiến nhà chức trách Pháp lo ngại, dẫn tới việc chính quyền ở Bắc Kỳ quyết định ra lệnh đóng cửa Trường Đông Kinh Nghĩa Thục.
Cho tới lúc này, hầu hết giới trí thức rất bất mãn. Những tháng đầu năm 1908, thái độ bất mãn đã lan rộng sang khu vực nông thôn. Nông dân các tỉnh duyên hải miền Trung bắt đầu lên tiếng bất bình đối với việc tăng thuế, luật lao dịch và nạn tham nhũng của quan lại. Trong lá thư gửi cho Paul Beau, Phan Chu Trinh cảnh báo rằng quần chúng nhân dân bị quan lại địa phương áp bức, sách nhiễu đã phải sống trong “nỗi thống khổ”. Ở một số vùng duyên hải, chế độ lao dịch rất hà khắc, chẳng hạn những người nông dân phải dành nhiều thời gian nạo vét cát ở các bến cảng sau khi bão tan. Vào giữa tháng 3, một đám đông đã tụ tập tại huyện đường của một viên quan huyện ở tỉnh Quảng Nam sau đó kéo tới thủ phủ Hội An từng là một cảng biển phát triển cách Đà Nẵng 20 km về phía nam. Phong trào phản kháng nhận được sự ủng hộ tích cực của những trí thức là những người bắt đầu mở trường học và các cơ sở thương mại trên khắp miền Trung Việt Nam nhằm trang bị kiến thức mới cho giới trẻ và để huy động tài chính cho các hoạt động của mình. Giờ đây họ bắt đầu kêu gọi nông dân không đóng thuế cho nhà cầm quyền.
Sau khi tin tức về cuộc biểu tình đầu tiên được phát đi, phong trào đã nhanh chóng lan rộng từ Quảng Nam ra các tỉnh lân cận. Đôi khi các cuộc biểu tình chuyển thành các cuộc bạo động. Những người chống đối chiếm giữ các toà nhà của triều đình hay nơi ở của quan lại địa phương. Đáp lại, triều đình đã huy động quân lính đến giải tán những người nổi loạn làm cho một số người bị chết và hàng trăm người bị bắt. Những người nông dân đã bắt ép những người qua đường cắt tóc khiến cho các quan sát viên người Pháp đặt tên cho phòng trào là “cuộc nổi loạn của những người tóc ngắn”.
Đến mùa xuân, làn sóng nổi dậy của nông dân bắt đầu lan tới cổng kinh thành Huế. Trong đầu tuần tháng 5, nông dân Công Lương ở ngoại ô đã biểu tình chống sưu cao thuế nặng. Khi một viên quan địa phương cùng một toán lính tới nơi thì bạo loạn đã nổ ra và viên quan huyện đã bị lôi đi. Ngày hôm sau, một đám đông đã giải viên quan huyện trong chiếc cũi tre tới kinh đô và tập trung trước phòng làm việc của viên toàn quyền Pháp yêu cầu giảm thuế và bỏ lao dịch.
Đây là lần đầu tiên Thành trực tiếp tham gia hoạt động chính trị, Thành cũng đã theo dõi chặt chẽ các sự kiện tương tự thông qua mạng lưới truyền khẩu ở địa phương. Ngày 9 tháng 5, khi một nhóm học sinh tập trung bên bờ sông trước cửa trường Quốc Học theo dõi đám đông nông dân từ ngoại ô tràn vào thành phố, Thành bất ngờ túm lấy áo hai người bạn và đề nghị cùng tham gia vào đám đông với tư cách là phiên dịch cho những người nông dân phản đối nhà cầm quyền Pháp. Trên đường vào kinh thành, Thành lật ngược chiếc mũ lá - hàm ý cần phá bỏ hoàn toàn hiện trạng. Khi đám đông tới phòng làm việc của Khâm sứ Levecque thì tình hình đã rất căng thẳng, những người nông dân tức giận đối mặt với quan lại địa phương và lính tráng trong trạng thái căng thẳng. Bất ngờ viên quan chịu trách nhiệm ở đó ra lệnh cho toán lính xông tới dùng dùi cui đẩy lùi đám đông. Thành đứng hàng đầu cố gắng thông dịch những yêu cầu của nông dân cho nhà cầm quyền, nên đã bị trúng vài gậy.
Khi đám đông tiếp tục xông lên, Levecque đã đồng ý cho phép một đại diện của những người biểu tình vào phòng làm việc của mình để thương thuyết với điều kiện đám đông giải tán. Thành đã trở thành người phiên dịch. Tuy nhiên việc thương thuyết đã thất bại, không giải quyết được bất đồng và những người bên ngoài từ chối giải tán ngay cả khi vua Duy Tân đã cố can thiệp. Cuối cùng quân Pháp đã tới và bắn vào những người biểu tình đang tập trung trên chiếc cầu mới xây bắc qua sông Hương, làm nhiều người bị thương.[25]
Đêm đó, Thành đã trốn ở nhà một người bạn. Hôm sau các bạn học ở trường Quốc Học, nhiều người trong số họ rõ ràng đã được kể về hành động hôm trước của Thành, cho rằng Thành sẽ nghỉ học nhưng khi chuông vừa reo lần thứ hai thông báo giờ học bắt đầu thì Thành bất ngờ xuất hiện và ngồi vào chỗ của mình. Lúc chín giờ sáng, một viên cảnh sát Pháp đã tới trường cùng một toán cảnh sát và hỏi về cậu “học sinh cao và đen” đã tham gia cuộc biểu tình ngày hôm trước. Khi nhìn thấy Thành đang ngồi phía cuối lớp, viên cảnh sát đã nhận ra Thành và nói “Tôi có lệnh yêu cầu người có hành vi quấy rối này phải thôi học”. Đó là ngày cuối cùng của Thành đến trường.
Nhiều tuần sau sự kiện diễn ra tại Huế, cuộc khủng hoảng chính trị đã trở nên căng thẳng hơn. Cuối tháng 6, những người theo Phan Bội Châu định đảo chính bằng cách đầu độc các sĩ quan Pháp tham gia một bữa tiệc tại Hà Nội. Những người chủ mưu hy vọng rằng các lực lượng nổi dậy trong vùng có thể phát động một cuộc tổng khởi nghĩa khi tình hình rối loạn và chiếm các đồn bốt chủ chốt ở thành phố. Tuy nhiên, liều thuốc độc quá nhẹ không đạt được mục đích nên không có người Pháp nào tại bữa tiệc bị chết mặc dù một số bị ngộ độc. Hơn nữa, kế hoạch bị một trong những người thực hiện làm lộ khiến nhà cầm quyền Pháp tuyên bố thiết quân luật trên toàn bộ khu vực. Trong cơn hỗn loạn sau đó, quân của ông Châu ở các vùng ngoại ô phải giải tán trong khi những người khác bị nhà cầm quyền bắt. Mười ba người tham gia bị hành quyết trong khi nhiều người khác bị tù dài hạn. Các quan chức hoang mang đã bố ráp tất cả các sĩ phu bị tình nghi có thiện cảm với phong trào, thậm chí Phan Chu Trinh cũng bị bắt tại Hà Nội và bị đưa vào Huế xét xử. Công tố viên muốn ông bị hành quyết, nhưng nhờ sự can thiệp của viên toàn quyền nên ông chỉ bị tù chung thân, giam tại Côn Đảo. Đầu năm 1911, ông được trả tự do và được phép sống lưu vong tại Pháp.
Sau cuộc bạo động, Nguyễn Sinh Sắc bị khiển trách vì các “hành động của hai con trai tại trường Quốc Học”. Là phó bảng cùng khoá với Phan Chu Trinh, ông Sắc cũng bị triều đình theo dõi chặt chẽ, tuy nhiên triều đình đã không tìm thấy mối liên hệ cụ thể nào với ông giữa sự kiện đó. Thực hiện ý đồ chuyển ông khỏi Huế, mùa hè năm 1909, ông được chỉ định làm quan huyện Bình Khê, tỉnh Bình Định, cách kinh thành 320 cây số về phía nam. Mặc dù khá trù phú, vùng này từng diễn ra cuộc nổi loạn lớn chống lại nhà Nguyễn và nay là nơi giam giữ những kẻ du đãng và chống đối. Anh trai của Thành là Khiêm cũng bị quản thúc, đến năm 1914 bị kết tội mưu phản và bị tù vài năm. Ngay cả chị gái của Khiêm đang sống ở Kim Liên cũng bị thẩm vấn vì bị nghi ngờ đã chứa chấp những người bị tình nghi là đồng loã trong cuộc bạo loạn.
Sau khi bị đuổi học, Thành đã biệt vô âm tín trong vài tháng. Có tin một người bạn đã cố tìm cho Thành một việc làm tại một mỏ đá vôi nhưng không được, vì Thành đã nằm trong sổ đen của cảnh sát. Có thể là Thành đã tìm được việc làm hay sống với bạn bè, tuy nhiên Thành không trở về quê, vì nơi đó nhà cầm quyền đang theo dõi.
Cuối cùng, Thành quyết định rời bỏ Trung Kỳ đi về phía nam tới Nam Kỳ, thuộc địa của Pháp, để tránh sự theo dõi chặt chẽ của triều đình. Có thể là Thành đã quyết định ra nước ngoài tìm hiểu bí quyết tận nguồn thành công của phương Tây, trong trường hợp đó, nơi an toàn nhất để ra đi là cảng Sài Gòn, một cảng thương mại phát triển do người Pháp thay triều đình kiểm soát. Tháng 7 năm 1909, trên đường đi, Thành đã dừng lại ở Bình Khê, nơi cha Thành đã nhậm chức quan huyện. Để tránh bị bắt, Thành đã đi bộ suốt quãng đường từ Huế và làm các việc vặt kiếm sống. Tuy nhiên, theo một số tài liệu, cuộc gặp gỡ giữa hai cha con không được suôn sẻ vì ông Sắc lúc đó rất buồn và bắt đầu nghiện rượu. Ông Sắc trách mắng con trai về những hành động đó và đánh con.[26]
Sau khi dừng chân trong một thời gian ngắn ở Bình Khê, Thành đã tới thị xã duyên hải Quy Nhơn, ở lại nhà Phạm Ngọc Thơ - bạn cũ của cha (thân phụ bác sĩ Phạm Ngọc Thạch, bộ trưởng Bộ Y tế VNDCCH- chú thích của người dịch). Thành đã được học trong một thời gian ngắn tại trường địa phương, sau đó theo gợi ý của chủ nhà, Thành đã dự thi giáo viên trong một trường làng sử dụng tên Nguyễn Sinh Cung để khỏi lộ danh tính. Người đứng đầu hội đồng thi đã từng dạy Thành khi còn học ở trường Đông Ba ở Huế nên rất thiện cảm với Thành, tuy nhiên bằng cách nào đó viên toàn quyền tỉnh đã phát hiện ra mưu mẹo của Thành và đã gạt tên Thành ra khỏi danh sách ứng thi.[27]
Thất vọng không tìm được việc làm ở Quy Nhơn, Thành tiếp tục đi về phía nam tới thị xã cảng Phan Rang. Tại đây, Thành gặp sĩ phu Trương Gia Mỗ - người đã từng làm việc trong triều với Nguyễn Sinh Sắc tại Huế và cũng là bạn của Phan Chu Trinh. Thành rất muốn rời đất nước càng sớm càng tốt, tuy nhiên ông Mỗ đã thuyết phục Thành làm giáo viên tại trường Dục Thanh cách Phan Thiết khoảng 100 cây số ngay phía bắc ranh giới giữa Trung Kỳ và Nam Kỳ. Vì hết tiền đi đường nên Thành đã nhận lời. Tuy nhiên trước khi tới Phan Thiết, Thành đã chứng kiến một sự kiện rất thương tâm. Khi một cơn bão ập vào cảng Phan Rang, các quan Pháp ra lệnh cho công nhân cảng lặn xuống nước để cứu tàu. Theo Hồ Chí Minh thuật lại sau này, rõ ràng những người châu Âu rất thích thú khi đứng trên bờ nhìn quang cảnh nhiều người Việt bị chết đuối khi lặn xuống nước.
Trường Dục Thanh do các sĩ phu yêu nước địa phương thành lập năm 1907 với hy vọng có được sự thành công như trường Đông Kinh Nghĩa Thục. Trường nằm trên bờ nam sông Phan Thiết cách biển Đông khoảng 5 cây số. Gian nhà chính xây bằng gạch trên mảnh đất của một thi sĩ mới mất. Trường do hai người con của thi sĩ trông nom, gần đó có một hiệu sách phục vụ trường và là nơi bán sách báo truyền bá tư tưởng mới của các nhà cải lương. Trước cửa hiệu sách có ghi khẩu hiệu “Xóa bỏ cái cũ, xây dựng cái mới và kiểu mẫu”. Các lớp trong trường dạy chữ quốc ngữ tuy nhiên cũng có lớp học bằng tiếng Pháp và tiếng Hán. Học sinh trường còn học các môn khoa học xã hội, tự nhiên, nghệ thuật và thể dục.[28]
Trong khi vẫn phải lẩn tránh lực lượng an ninh triều đình, Thành đã tới Phan Thiết trước Tết nguyên đán đầu năm 1910, bắt đầu dạy chữ Hán và chữ quốc ngữ. Là giáo viên trẻ nhất trong trường, Thành còn có một số trách nhiệm khác như hướng dẫn võ thuật. Theo các học sinh trong trường nhớ lại, Thành là một giáo viên được nhiều người quý mến, tôn trọng học sinh và thường khuyên các bạn đồng nghiệp không nên đánh hay làm cho học sinh sợ hãi. Trong bộ quần áo ngủ mầu trắng và đôi guốc mộc, Thành sử dụng phương pháp của Socrat để khuyến khích học sinh động não và thể hiện suy nghĩ của bản thân. Thành cũng dẫn dắt học sinh đến với tư tưởng của Voltaire, Montesquieu và Rousseau, những người mà Thành đã hấp thụ qua tác phẩm của họ từ khi còn học ở trường Quốc Học Huế. Ngoài giờ học, Thành là người dễ gần gũi, cùng ăn với các học sinh và giáo viên khác trong đình của trường. Thành ở nội trú, sống như một học sinh. Thành thường dẫn học sinh đi thăm những di tích lịch sử, đi chơi trong rừng hay dọc theo bờ biển những vùng lân cận. Tuy nơi đó là phong cảnh đồng quê nhưng có mùi khó chịu do xưởng nước mắm trong vùng đôi khi nồng nặc làm ảnh hưởng tới việc học tập.
Chương trình giảng dạy của trường mang tính dân tộc chủ nghĩa. Buổi sáng, mỗi lớp cử một học sinh lên hát một bài yêu nước, sau đó tất cả mọi người thảo luận về bài hát. Thành đưa ra những chủ đề về lịch sử Việt Nam trong các bài giảng của mình và những câu thơ trong các bài thơ nổi tiếng như bài hớt tóc và bài thơ “Á Tế Á” của Phan Bội Châu. Bắt đầu buổi học Thành yêu cầu các học sinh đọc những câu thơ trong hợp tuyển thơ ca của Trường Đông Kinh Nghĩa Thục.
Non sông thẹn với nước nhà,
Vua là tượng gỗ, dân là thân trâu…
Cũng có lúc bầm gan tím ruột,
Vạch trời kêu mà tuốt gươm ra.
Cũng xương cũng thịt cũng da
Cùng hòn máu đỏ, giống nhà Lạc Long.[29]
Tuy nhiên, đối với cả nước nói chung, chủ đề gây nhiều tranh luận không phải là mục tiêu độc lập dân tộc mà làm thế nào để đạt được mục tiêu cuối cùng đó. Các giáo viên trong trường chia làm hai phe giữa những người ủng hộ cách giải quyết vấn đề theo chủ nghĩa cải lương của Phan Chu Trinh và những người ủng hộ kế hoạch kháng chiến bạo lực của Phan Bội Châu. Nguyễn Tất Thành là một trong số ít người không đứng về phía nào cả. Như ông viết sau này, ông muốn ra nước ngoài tìm hiểu tình hình trước. Theo nguồn tin của Việt Nam, ông tỏ ra kính trọng cả Phan Chu Trinh lẫn Phan Bội Châu nhưng ông lo ngại cách tiếp cận của hai người này. Ông không tán thành việc Phan Chu Trinh tin vào thiện chí của người Pháp, coi đó là ngây thơ và cũng không tán thành với việc Phan Bội Châu dựa vào Nhật bản cùng các thành viên trong triều đình vì cho rằng làm như vậy là lạc hướng.[30]
Đầu năm 1911, trước khi năm học kết thúc, Nguyễn Tất Thành biến mất. Lý do chính xác cho việc ra đi bất ngờ của Thành không được rõ ràng mặc dù có thể điều này liên quan đến tin cha của Thành tới Nam Kỳ. Đầu năm 1910, ông Sắc bị bãi nhiệm ở Bình Khê. Nhậm chức ở đây mùa hè năm trước, ông được nhân dân yêu quý, ông đã trả tự do cho những tù nhân bị bắt vì tội tham gia các cuộc biểu tình, bảo vệ những người nông dân trước bọn địa chủ tham tàn và trừng phạt những kẻ ức hiếp dân chúng. Ông đối xử nhân hậu với những người phạm tội vặt và cho rằng thật là ngớ ngẩn để mất nhiều thời gian cho chuyện này trong khi toàn bộ đất nước đã bị mất. Nhưng ông rất cứng rắn trong các bản án giành cho những kẻ giàu có và có quyền thế. Một lần vào tháng Giêng năm 1910 ông đã ra lệnh đánh một nhân vật có thế lực trong vùng 100 roi. Vài ngày sau khi người đàn ông này chết, họ hàng của ông ta kêu oan lên bạn bè trong triều và ông Sắc đã bị triệu về Huế xét xử. Ngày 19 tháng 5, hội đồng nhiếp chính buộc tội ông lạm dụng quyền lực đã phạt đòn và giáng chức ông xuống bốn cấp. Đến tháng 8, bản án chuyển từ giáng cấp thành chính thức bãi nhiệm. Để sống, ông Sắc đã dạy học trong thời gian ngắn ở Huế. Đối với bạn bè ông không tỏ vẻ cay cú về việc mất chức, nhưng ông kể lại với một người quen: “Khi nước mất làm thế nào anh giữ được nhà của mình”. Tháng giêng năm 1911, ông gửi thư cho nhà chức trách Pháp yêu cầu được tới Nam Kỳ, có thể là với hy vọng được gặp con trai. Tuy nhiên, yêu cầu của ông đã bị nhà chức trách từ chối, cũng có thể nhà chức trách nghi ngờ ông có liên quan tới các hoạt động nổi dậy. Theo một báo cáo của cảnh sát Pháp lúc đó:
 “Nguyễn Sinh Sắc rất có khả năng là đồng đảng của Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh và nhiều ngước khác. Con trai của Sắc, hai năm trước là học sinh ở Đông Ba, đã bất ngờ biệt tích. Người ta cho rằng anh ta đang ở Nam Kỳ. Nguyễn Sinh Sắc có thể có ý định tìm gặp anh ta và Phan Chu Trinh”.[31]
Ông Sắc đã tảng lờ việc nhà chức trách từ chối lời đề nghị và ngày 26 tháng 2 năm 1911 ông đã tới Tourane (tên mới của Đà Nẵng do người Pháp đặt) và lên một con tàu tới Sài Gòn, tại đó ông dạy tiếng Hán và mở cửa hàng thuốc bắc kiếm sống tại đây.[32]
Liệu Nguyễn Tất Thành có biết quyết định của cha tới Nam Kỳ khiến cho Thành rời Phan Thiết để tới Sài Gòn với hy vọng gặp được cha ở đó hay không? Một trong những bạn của Thành ở trường sau này kể lại,Thành đã chuẩn bị ăn Tết với cha. Hay Thành sợ rằng danh tính thực của mình đã bị nhà chức trách địa phương phát hiện ra và họ đã theo dõi trường học nên nói vậy. Chưa thể khẳng định nhà chức trách có biết Nguyễn Tất Thành đã dạy học tại trường hay không, tuy nhiên, ngay sau khi Thành biến mất, một viên quan Pháp đã tới trường hỏi Thành đi đâu, nhưng Thành đã không để lại một manh mối về việc ra đi của mình cho các học sinh mà đã ra đi ngay sau khi viết giấy báo lại cho học sinh rằng các cuốn sách của Thành phải trả lại cho một giáo viên khác. Bạn bè ở trường sau này phỏng đoán rằng có thể Thành đã rời Phan Thiết trên một chiếc tàu chở nước mắm đi Sài Gòn. Ít lâu sau, trường bị nhà chức trách buộc tạm đóng cửa.[33]
Vài ngày sau khi rời Phan Thiết, Nguyễn Tất Thành đã tới Sài Gòn. Thành phố đã mở rộng tầm mắt cho người thanh niên quê mùa Nghệ An. Từng là một thương cảng nhỏ trên sông Sài Gòn, sau khi người Pháp chiếm đóng, thành phố được chọn làm thủ phủ của thuộc địa mới ở Nam Kỳ. Khi dân số thuộc địa tăng nhanh chóng - vào năm 1910, Nam Kỳ có dân số bằng một phần tư tổng số 12 triệu dân sống trên toàn bộ ba miền Việt Nam, Sài Gòn phát triển theo và tới năm 1900 đã trở thành thành phố lớn nhất ở Đông Dương của Pháp sau Hà Nội. Ngay sau đó Sài Gòn đã vượt kinh đô cũ với dân số khoảng vài trăm nghìn người.
Tăng trưởng của thành phố chủ yếu dựa vào lợi thế kinh tế. Trong những năm người Pháp chiếm đóng, Nam Kỳ trở thành nguồn lợi của tầng lớp doanh nhân gồm những người châu Âu và Việt Nam, kể cả những người Hoa mà tổ tiên của họ đã tới đây sinh sống từ nhiều thế kỷ trước. Phần lớn lợi nhuận thu được là các đồn điền cao su dọc biên giới Campuchia (giống cây cao su được mang tới Đông Dương từ Brasil suốt 25 năm cuối thế kỷ XIX), và mở rộng diện tích trồng lúa nhờ nỗ lực của người Pháp trong việc cải tạo các kênh đào, đầm lầy ở đồng bằng sông Cửu Long. Các địa chủ giàu có mua những mảnh đất hoang sơ đó rồi cho nông dân thuê lại với giá cắt cổ (phần lớn nông dân là những người di cư đến từ những tỉnh đông dân phía bắc). Thóc người nông dân thuê đất trả cho địa chủ sau đó được chế biến tại các máy xay lúa của người Hoa và được chở tới các tỉnh phía bắc hoặc được xuất khẩu. Trong 25 năm đầu của thế kỷ XX, Nam Kỳ là nơi xuất khẩu gạo lớn thứ ba trên thế giới.
Bị thu hút bởi lợi nhuận thu được từ kinh doanh cao su và lúa gạo, hàng nghìn người châu Âu đã tới sống ở Sài Gòn với hy vọng tìm được may mắn cho chính mình. Tại đây họ cạnh tranh với các thương nhân Trung Hoa và giai cấp tư sản Việt Nam mới giàu lên, cung cấp hàng hoá và dịch vụ cho dân cư đang gia tăng. Với các xưởng dệt, nhà máy sản xuất xi măng và các nhà máy chế biến thực phẩm, Sài Gòn nhanh chóng trở thành trung tâm công nghiệp và thương mại quan trọng của Việt Nam. Tại trung tâm thành phố, mọc lên các toà nhà lớn mang phong cách kiến trúc tỉnh lẻ của Pháp và là văn phòng của các quan chức thuộc địa. Những đại lộ lớn nằm vuông góc với nhau, với những hàng cây chắn ánh sáng mặt trời nhiệt đới nóng bỏng. Đằng sau những bức tường cao là những ngôi nhà to đẹp của những người châu Âu và một số người Việt Nam - những người làm giàu nhờ sự có mặt của người nước ngoài. Còn lại đa số là công nhân trong các nhà máy, công nhân bốc vác, người kéo xe tay, những người nông dân tha hương đến từ vùng ngoại ô, phải sống chui rúc trong những ngôi nhà ổ chuột bẩn thỉu dọc kênh Bến Nghé và ngoại vi thành phố.
Khi tới Sài Gòn, Thành ở nhờ tại một kho thóc cũ. Chủ nhân Lê Văn Đạt, một người sản xuất chiếu có quan hệ với các giáo viên trường Dục Thanh ở Phan Thiết. Tại đó Thành đã tìm được cha đang tạm sống trong một kho hàng cho tới khi tìm được nơi ở ổn định. Thông qua các mối liên hệ khác ở trường, Thành chuyển tới một ngôi nhà trên phố Châu Văn Liêm, gần cảng Sài Gòn, một khu ổ chuột với những ngôi nhà mái tôn lụp xụp nằm giữa một con kênh và sông Sài Gòn. Được cha khuyến khích, Thành bắt đầu vạch ra kế hoạch đi ra nước ngoài. Vào tháng ba, Thành được biết người Pháp đã thành lập trường học vào năm 1904 dạy nghề thợ mộc và cơ khí. Với hy vọng dành đủ tiền cho chuyến xuất ngoại, Thành nộp đơn xin học, nhưng phát hiện khóa học 3 năm, Thành đã bỏ học đi bán báo với một người cùng làng Kim Liên tên là Hoàng.
Làng công nhân nơi Thành sống, gần bến Nhà Rồng của Sài Gòn nơi những chiếc tàu chở khách lớn cập bến trên đường tới châu Âu và các hải cảng khác ở châu Á. Thành đã quyết định tìm việc làm trên một trong những con tàu đó để có thể ra nước ngoài. Nhiều năm sau Hồ Chí Minh đã miêu tả trong cuốn tự thuật viết dưới bút danh Trần Dân Tiên:
“Trong khi tôi (một người bạn của Thành, được tác giả trích lời) chuẩn bị kết thúc việc học hành tại trường Sát–xơ–lúp Lô–ba (Chasseloup-Laubat) ở Sài Gòn… tôi đã gặp một thanh niên từ miền Trung Việt Nam tới. Tôi gặp anh ta tại nhà của một người bạn, vì bằng tuổi nhau nên chúng tôi đã nhanh chóng trở thành bạn thân. Tôi dẫn anh ta tới trước cửa một quán café mà người Pháp thường lui tới và cùng nhau ngắm nhìn ánh đèn điện. Chúng tôi đi xem phim. Tôi đã chỉ cho anh ta những đài phun nước công cộng. Rất nhiều thứ mà chàng trai trẻ Quốc, Nguyễn Tất Thành trước đây chưa từng thấy. Vào một ngày tôi mua cho Quốc một vài cây kem. Quốc rất ngạc nhiên bởi vì đó là lần đầu tiên Quốc được ăn kem.
Vài hôm sau, đột nhiên Quốc hỏi tôi:
“Này Lê, anh có yêu nước không?”
Rất ngạc nhiên tôi đã trả lời “tất nhiên rồi”
“Anh có giữ được bí mật không”?
“Được”
“Tôi muốn ra nước ngoài để tới Pháp và một số nước khác, khi tôi biết được họ làm gì ở đó tôi sẽ trở về giúp đỡ đồng bào. Nhưng nếu tôi đi một mình sẽ có nhiều rủi ro, chẳng hạn tôi có thể bị ốm…Anh có muốn đi cùng tôi không?”
“Nhưng chúng ta lấy đâu ra tiền để đi?”
“Tiền của chúng ta ở đây” và Quốc chìa đôi bàn tay ra. “Chúng ta sẽ làm việc, chúng ta sẽ làm bất cứ những gì cần thiết để sống và đi. Anh sẽ cùng đi với tôi chứ”,
Bị thuyết phục bởi sự nhiệt thành tôi đã đồng ý. Tuy nhiên sau khi ngẫm nghĩ hồi lâu về những điều có thể xảy ra trong chuyến đi tôi đã không còn đủ can đảm để giữ lời hứa.
Vài ngày sau, tôi không gặp lại anh bạn nữa. Tôi đoán là anh ta đã đi ngoại quốc. Anh ta đi bằng cách nào? Tôi không biết. Về sau, tôi chỉ biết người thanh niên yêu nước đầy nhiệt huyết ấy là Nguyễn Ái Quốc, là Hồ Chủ tịch của chúng ta ngày nay”.[34]
Vài tháng sau, Thành thường tới bến cảng quan sát những con tàu cập và rời bến. Tại đây có hai công ty tàu hơi nước với các con tàu hoạt động ngoài khu vực Sài Gòn - là công ty Messageries Maritimes và Chargeurs Reunis. Công ty Chargeurs Reunis thuê người Việt Nam làm công việc bồi bàn hoặc phụ bếp trên tàu và công ty quảng cáo rằng hành trình của tàu có đi qua các thành phố lãng mạn như Singapore, Colombo, Djibouti, Port Said, Marseilles, và Bordeaux. Qua một người bạn ở Hải Phòng làm việc cho công ty, Thành đã được thuyền trưởng tàu khách Admiral Latouche-Tréville thuộc hãng Chargeurs Réunis của công ty Chargeurs Réunis mới từ Tourane tới cảng Nhà Rồng phỏng vấn. Thành đã xếp hai bộ quần áo thuỷ thủ vào một chiếc va li nhỏ do một người bạn ở Phan Thiết đưa cho.
Ngày 2 tháng 6, một thanh niên tự xưng là “anh Ba” đã tới bến tàu. Thuyền trưởng Louis Eduard Maisen lúc đó rất ái ngại về người tới xin việc vì anh ta trông thông minh, nhưng quá gày gò. Khi Ba khăng khăng cho rằng mình có thể “làm được mọi việc” Maisen đã đồng ý thuê Ba làm phụ bếp. Ngày hôm sau, Ba được gọi đến làm việc, ngay lập tức được giao việc trong cả ngày, rửa bát đĩa, xoong chảo, lau chùi sàn bếp, rửa rau và xúc than vào lò. Ngày mồng 5, con tàu Admiral Latouche-Tréville đã đi qua vùng đầm lầy sông Sài Gòn hướng ra biển Đông để tới bến tiếp theo là Singapore, quân cảng Anh.[35]
Tại sao Nguyễn Tất Thành đã quyết định đi ra ngước ngoài? Nhiều năm sau, khi trao đổi với ký giả Liên Xô Ossip Mandelstam, Thành (lúc đó đang hoạt động dưới cái tên Nguyễn Ái Quốc) đã kể lại “Khi tôi khoảng mười ba tuổi, lần đầu tiên tôi nghe thấy những từ bằng tiếng Pháp “tự do”, “bình đẳng”, “bác ái”. Lúc đó tôi nghĩ tất cả những người da trắng đều là người Pháp. Bởi vì những từ đó do người Pháp viết ra, nên tôi muốn tìm hiểu về nền văn minh Pháp để hiểu ý nghĩa của những từ đó”. Sau này Nguyễn Ái Quốc cũng trả lời tương tự như vậy khi được ký giả người Mỹ Anna Louis Strong phỏng vấn.
“Những người Việt Nam, trong đó có cả cha tôi, thường tự hỏi nước nào có thể giúp phá bỏ ách đô hộ của người Pháp. Một số cho rằng Nhật Bản, những người khác cho rằng nước Anh, và một số khác lại cho rằng nước Mỹ. Tôi cho rằng cần phải ra nước ngoài để tự tìm lấy câu trả lời cho mình. Sau khi tôi biết được họ sống ra sao tôi sẽ trở về giúp đồng bào tôi”.[36]
Những người chuyên bình tiểu sử về những thánh nhân ở Hà Nội đã viết rất nhiều những lời bình trong những hồi ký. Họ mô tả quyết định rời Việt Nam của ông như một sứ mệnh cứu nước. Với xu hướng thần thánh hoá các sự kiện về cuộc đời ông với mục đích để người khác tự khám phá, chúng ta cần phải thận trọng khi xem xét những điều ông thuật lại. Tuy nhiên, điều chắc chắn ông rời Sài Gòn mùa hè năm 1911 với tấm lòng yêu tổ quốc cao độ cũng như thấu hiểu sự bất công mà chính quyền thuộc địa đã gây ra cho đồng bào của ông. Đối với Thành, dường như không có cách để giải quyết vấn đề này ở trong nước. Biết đâu điều đó có thể tìm thấy ở nước ngoài.
______________________

[7] Trương Bửu Lâm, “Việt Nam kháng chiến chống Pháp, 1858-1900” (NXB Đại học Yale, New Haven, 1967), trang 127-128
[8] Thông tin về Nguyễn Sinh Sắc rất khan hiếm. Tôi đã dựa trên cuộc phỏng vấn giữa tôi với nhân viên của Bảo tàng Hồ Chí Minh ở làng Kim Liên và hai nghiên cứu gần đây của Ban nghiên cứu của tỉnh Nghệ Tĩnh mới công bố tại Việt Nam. Cuốn “Bác Hồ thời niên thiếu (NXB Sự Thật, Hà Nội, 1989). Theo Trịnh Quang Phú, “Từ làng Sen đến bến Nhà Rồng”, lần theo dấu vết gia phả, dòng họ Nguyễn Bá Phụ di cư đến làng Kim Liên từ thế kỷ XVI (trang 13)
[9] Ngày sinh của Hồ Chí Minh gây rất nhiều tranh luận. Khi trưởng thành, ông đưa ra một số ngày sinh khác nhau, có thể đây là sự gây khó khăn cho chính quyền. Ví dụ, trong một bản tự khai ở Moscow, ông sinh năm 1903; trong một văn bản khác, ông đưa ra sinh năm 1894. Nguồn tin chính thức tại Hà Nội, khẳng định ông sinh vào năm 1890, nhưng một số nhà nghiêm cứu hoài nghi khi đi tìm sự thật với bằng chứng liên quan đến thời thơ ấu của ông. Chẳng hạn như chuyến đi dài ngày của ông đến Huế với gia đình năm 1895 và các hoạt động thời thơ ấu khác, những sự kiện đó làm cho người ta nghi ngờ về tính xác thực về ngày sinhXem Hồ Chí Minh biên niên tiểu sử, Tập I, trang 17. Có nhiều giả thuyết về ngày sinh của ông. Một số nó được chọn để trùng với ngày thành lập Mặt Trận Việt Minh năm 1941. Lại có ý kiến lấy cớ kỷ niệm sinh nhật ông treo cờ để chào đón phái đoàn Pháp đến Hà nội vào mùa xuân 1946. Xem Huỳnh Kim Khánh, “Cộng sản Việt nam, 1925-1945” (NXB Đại học Cornell, Ithaca, N.Y, 1982) trang 52. Cuộc phỏng vấn ông Vũ Thư Hiên (Tạp chí Chính trị Thế giới, 1997), tại thời điểm ông ra đời, người dân Việt nam thường sử dụng ngày tháng âm lịch và khả năng cao chính bản thân Hồ cũng không bao giờ biết rõ ngày sinh của mình
[10] Xem Sơn Tùng, “Chuyện thời niên thiếu Bác Hồ ở Huế”, trang 25-29. Xem thêm Trịnh Quang Phú, “Từ làng Sen đến bến Nhà Rồng”, trang 39-40. Theo Phú, hàng xóm đã dỗ cậu bé Cung đứng khóc trước hiên nhà, vì theo luật không được thể hiện sự đau khổ gần Hoàng Thành. Câu chuyện này dựa vào “Những mẩu chuyện về thời niên thiếu của Bác Hồ”; “Bác Hồ thời niên thiếu”; Đức Vượng, “Quá trình hình thành tư tưởng yêu nước của Hồ Chí Minh” (NXB Chính trị Quốc gia, 1993, Hà Nội); Nguyễn Đắc Xuân, “Thời niên thiếu của Bác ở Huế”; và “Di tích Kim Liên quê hương Bác Hồ” (NXB Nghệ Tĩnh, 1985); cũng như những cuộc phỏng vấn với cán bộ Khu lưu niệm Hồ Chí Minh ở Kim Liên
[11] Có lần Sắc nói đùa với một người khách, bằng cách chơi chữ hai người con trai của mình rằng tên của chúng là “không cơm” hoặc “không gạo” - xem “Những mẩu chuyện về thời niên thiếu của Bác Hồ”, trang 29. Xem thêm “Di tích Kim Liên…” trang 36-40. Nguyễn Sinh Sắc bi quan trước thời cuộc có lẽ do ảnh hưởng chuyện thi Hội và chỉ nhờ sự can thiệp của một người bạn có thế lực tại triều đình mà ông có được học vị - xem Nguyễn Đắc Xuân, “Thời niên thiếu của Bác ở Huế”, trang 46-47
[12] Trích “Chủ tịch Hồ Chí Minh của chúng ta” (NXB Ngoại văn, Hà Nội, 1967, trang 26). Những nhận xét tương tự, xem Trịnh Quang Phú, “Từ làng Sen đến bến Nhà Rồng”, trang 21, 36
[13] Nguyễn Đắc Xuân, “Thời niên thiếu của Bác ở Huế”, trang 34-35
[14] Trong một lần uống rượu tại nhà Sắc, Phan Bội Châu nhấn mạnh, ông không hề muốn học sách xưa và ngâm một bài thơ nhạo báng “sách thánh hiền”. Hai mươi năm sau, khi gặp lại Phan Bội Châu ở Hoa Nam, Nguyễn Tất Thành nhắc lại bài thơ này cho Phan Bội Châu. Xem “Những mẩu chuyện về thời niên thiếu của Bác Hồ”, trang 35; trích Phan Bội Châu “Phan Bội Châu niên biểu” (Tạp chí Văn Sử Địa, Hà Nội, 1955, trang 55). Xem thêm Trịnh Quang Phú, “Từ làng Sen đến bến Nhà Rồng”, trang 22-23, và Nguyễn Đắc Xuân, “Thời niên thiếu của Bác ở Huế”, trang 51-52
[15] Về sự nghiệp cách mạng của Phan Bội Châu có thể tìm thấy trong hai tự truyện của ông: “Phan Bội Châu niên biểu” và “Ngục Trung Thu” (xuất bản tại Sài gòn). Để phân tích, xem David G. Marr, “Việt Nam chống chủ nghĩa thực dân, 1885-1925” (NXB Đại học California, Berkeley, California, 1971); William Duiker, “Sự trỗi dậy chủ nghĩa dân tộc ở Việt Nam, 1900-1941” (NXB Đại học Cornell, Ithaca, New York, 1976); và Vinh Sinh, ed., “Phan Bội Châu và phong trào Đông Du” của (Yale Center for International và Area Studies, New Haven, 1988)
[16] Cuốn thứ nhất, xem Trường Chinh, “Chủ tịch Hồ Chí Minh: Lãnh tụ kính yên của nhân dân Việt Nam” (NXB Ngoại văn, 1966), trang 10-11. Bản thứ hai, xem Nguyễn Đắc Xuân, “Thời niên thiếu của Bác ở Huế”, trang 51. Theo Nguyễn Đắc Xuân, cụ Châu đã gặp Thành trên phà. Kobelev cho rằng, chẳng qua Thành mượn cớ phải xin phép bố để từ chối lời mời - xem Kobelev, “Hồ Chí Minh”, trang 18. Theo Hồng Hà, “Thời niên thiếu của Bác Hồ”, Phan Bội Châu cử người tới làng Kim Liên, chứ không phải cụ đích thân đến gặp, xem trang 11. Xem thêm “Bác Hồ” (NXB Ngoại văn, 1972, trang 15-16), chương đầu cuốn này trích dẫn từ cuốn “Những mẩu chuyện về thời niên thiếu của Bác Hồ”
[17] “Bác Hồ thời niên thiếu”, trang 53; Hồ Chí Minh biên niên tiểu sử, Tập I, trang 35; “Những mẩu chuyện về thời niên thiếu của Bác Hồ”, trang 51
[18] Nguyễn Đắc Xuân, “Thời niên thiếu của Bác ở Huế”, trong Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 186 (tháng 5 và 6-1979). Xem thêm Trịnh Quang Phú, “Từ làng Sen đến bến Nhà Rồng”, trang 45). Căn nhà này trên đường Mai Thúc Loan, gần nơi họ ở lần cuối tại Huế
[19] Thời đó, phẩm truật triều đình Huế chia ra làm cửu phẩm (chín phẩm hàm), mỗi phẩm chia ra làm hai cấp. Nguyễn Sinh Sắc được phong Thất Phẩm bậc 2 (Tòng Thất phẩm). Biên niên sử tập 1 trang 35. Theo Nguyễn Đắc Xuân, “Thời niên thiếu của Bác ở Huế”, trang 54-55, Cao Xuân Dục thuyết phục Sắc nhận một chỗ tại Bộ Lễ để Sắc có thể ở lại ở Huế và con cái có điều kiện học hành. Dục nói, ở tuổi Sắc, nếu không nhận một chức vụ trong triều thì chỉ còn cách trở thành kẻ nổi loạn. Sắc đồng ý, nhưng chỉ nhận chức quan mọn để ông không phải phụng sự chế độ tham nhũng
[20] Bản gốc tiếng Pháp trong Tập San Trường Viễn Đông (tháng 3 và 6-1907), trang 166-175. Để thảo luận, xem Phan Chu Trinh, “Nhà Nguyễn” (xuất bản ở Sài gòn, 1956)
[21] “Bác Hồ thời niên thiếu”, trang 60. Trong lá thư gửi người anh họ trong làng, Sắc viết một bài thơ ý thâm nho, bí ẩn:
Đời người như giấc chiêm bao
Trôi nhanh tựa đám mây hồng mà thôi
Có tài chớ cậy chi tài
Tài nhiều hạn lắm nhớ điều ai ơi!
Trong “Những mẩu chuyện về thời niên thiếu của Bác Hồ” trang 58
[22] “Bác Hồ thời niên thiếu”, trang 61; Nguyễn Đắc Xuân, trang 57-58
[23] Hồng Hà, “Thời niên thiếu của Bác Hồ”, trang 11. Nhiều người nhạo báng gọi Thành là “dân cá gỗ”, thằng nhà quê - xem Nguyễn Đắc Xuân, “Thời niên thiếu của Bác ở Huế”, trang 64. Theo Xuân (trang 66-67), Khi bị hiệu trưởng gọi lên, Thành đáp: “Những điều con nói có thấm vào đâu so với thư của cụ Phan Châu Trinh gởi cho ngài Toàn quyền Beau, so với những buổi diễn thuyết của ông Ấm Mộng, ông Trần Trinh Linh… sao các thầy không cấm những người ấy để cho học trò khỏi bắt chước?”. Viên hiệu trưởng tức giận: “Những người bất trị ấy trước sau rồi cũng bị nghiêm trị. Mi là thằng học sinh ăn học bổng của chính quyền Bảo hộ, tại sao mi dám nói những lời chống chính phủ Bảo hộ trước mặt các thầy giáo?”. Cuối cùng, ông ta cảnh báo các thầy giáo của Thành: “Tôi sẽ báo cho sở Liêm phóng biết hạnh kiểm của thằng học trò ngỗ nghịch đó và cả anh hắn. Nếu các ông không dạy được hắn, tôi sẽ đuổi cả các ông luôn. Tôi cũng sẽ gọi bố chúng đến đây. Nếu bố chúng không dạy được, tôi sẽ đề nghị Nam triều khiển trách tên Thừa phái không biết dạy con ấy!”
Một tài liệu xác nhận sự kiện này, trong báo cáo của cảnh sát Pháp ngày 23-2-1920, nói rằng họ đã thấy thái độ chống đối của hai anh em Thành quá rõ và đã báo lên chính quyền, khiến một số cán bộ nhà trường bị kỷ luật nặng. Bản sao tài liệu này có trong Bảo tàng Hồ Chí Minh ở t.p HCM
[24] Hồng Hà, “Thời niên thiếu của Bác Hồ”, trang 68
[25] Thời niên thiếu của Bác ở Huế”, trang 80; “Những mẩu chuyện về thời niên thiếu của Bác Hồ”, trang 70); “Bác Hồ thời niên thiếu”, trang 74. Một số nhà sử học Việt Nam cho rằng Nguyễn Tất Thành có liên quan trực tiếp với phong trào phản kháng - xem Nguyễn Đắc Xuân, “Thời niên thiếu của Bác ở Huế”, trang 65. Theo Nguyễn Đắc Xuân (trang 72-73), khi Levecque nói: “Bảo hộ bỏ ra hàng chục vạn bạc để làm Đập Đá ngăn nước mặn cho dân làm ruộng, bây giờ không nạp thuế thì lấy gì mà trả? Không nạp thuế thì lấy đâu mà bắc cầu Trường Tiền cho dân đi và còn biết bao công trình sẽ làm nữa?”. Thành trả lời “Bảo hộ làm Đập Đá ngăn mặn, nhưng nước mặn vẫn vào được bằng sông Lợi Nông và khi nước rút bị Đập Đá chận lại không có đường ra làm cho mùa màng càng thêm thất bát. Bảo hộ làm cầu Trường Tiền trước nhất để cho Bảo hộ đi, còn nông dân chúng tôi ở thôn quê có cần chi cầu Trường Tiền. Làm cầu chẳng qua chỉ là danh nghĩa để Bảo hộ tăng sưu cao, thuế nặng mà thôi!”. Levecque giận dữ: “Đồ làm loạn, khốn nạn!”. Câu chuyện đối thoại trong sách của Xuân tuy mang tính đề cao cá nhân nhưng có vẻ hợp lý. Sau sự kiện “Ngày 9-5”, thầy Hoàng Thông bị bắt và cảnh sát tìm thấy một số bài viết kêu gọi lòng yêu nước: “Nước dù bất hạnh mà mất, không phải mất nước của một họ (Nguyễn) riêng mà thôi; cùng với nước mất dân tộc bị diệt chủng”. Chúng cho rằng câu này là có ý phản nghịch. Để có thể chạy “tội” thầy phải nói: “Tôi lúc rượu say đã viết ra câu ấy. Lúc tỉnh rượu không còn nhớ nữa!”. Bọn Pháp biết thầy nói thế là ngụy biện, nhưng phạt 100 roi và đưa thầy vào giam ở lao Thừa Phủ. “Thời niên thiếu của Bác”, trang 81; Nguyễn Đắc Xuân, “Thời niên thiếu của Bác ở Huế”, trang 68
[26] Báo cáo của tình báo Pháp tháng 12-1920 nhắc chuyện Sắc nói với bạn rằng, Thành có lần đến Bình Khê thăm ông, nhưng ông đã đuổi đi sau khi đánh cho một trận. Theo ông Sắc, ông không muốn liên hệ với các con ông. Xem chú thích 27-12-1920, SPCE, hộp 364, CAOM. Về chuyện Sắc đánh con trai, xem thêm “Mộng ước đã thành” của Nguyễn Khắc Huyên, trang 9 (New York: Collier, 1971). Việc Sắc nói ông không muốn gặp con trai mình có thể không đúng, trong dẫn chứng sau này sẽ rõ sự thật. Có thể Sắc buông lời này trong một cơn nóng giận. Dù vậy, cũng có ý kiến cho rằng đôi khi ông Sắc cũng đánh con cái. Theo báo cáo của cảnh sát Pháp năm 1920, bà Thanh (con gái Sắc) khi thẩm vấn kể rằng bà phải rời Huế về quê năm 1906 vì không chịu nổi sự tàn nhẫn của Sắc, thường xuyên đánh bà - xem “Hồ Chí Minh: Từ Đông Dương tới Việt Nam” của Daniel Hemery (NXB Gallimard, Paris, 1990), trang 132-133
[27] “Bác Hồ thời niên thiếu”, trang 85-86. Phạm Ngọc Thọ, thân sinh Phạm Ngọc Thạch (người sau này trở thành đảng viên sáng giá của Đảng Cộng sản Đông Dương và người có mối quan hệ thân thiết với Hồ Chí Minh. Sau này Thạch có nhắc lại, Thành có đến thăm gia đình ở Quy Nhơn ngay sau khi Thạch chào đời. Theo Hà Huy Giáp, một cộng sự lâu năm của Hồ Chí Minh, Hồ có lần kể với nhà báo Mỹ Anna Louise Strong, ông từng lang thang dọc theo cảng để tìm cách theo tầu đi sang châu Âu - xem Trịnh Quang Phú, “Từ làng Sen đến bến Nhà Rồng”, trang 51
[28] Hiệu trưởng trường là Nguyễn Gia Anh, thầy giáo tỉnh Nghệ An. Tài trợ bởi Liên Thân Thương Quán, một cơ sở sản xuất nước mắm nổi tiếng của Việt Nam. Xem “Bác Hồ thời niên thiếu”, trang 90-91, và Nguyễn Đình Soạn,”Người trò cũ của Bác Hồ”, Báo Tổ Quốc, số 5 (tháng 5-1970), được dịch và đăng tải trong Tài liệu Việt Nam và Ghi chú nghiên cứu (Nhiệm vụ Mỹ tại Việt Nam, Sài Gòn) tài liệu 100, trang 28-2. Về nguồn gốc nhà trường xem Trịnh Quang Phú, “Từ làng Sen đến bến Nhà Rồng”, trang 53-55
[29] Theo Kobelev, “Hồ Chí Minh”, trang 23. Xem thêm Nguyễn Đình Soạn, “Người trò cũ của Bác Hồ”
[30] “Tiểu sử Hồ Chí Minh”, NXB Ba Nguyên Tư Ốc, Thượng Hải, 1949, trang 10; “Bác Hồ thời niên thiếu”, trang 86; Tôn Quang Phiệt, “Từ bến Nhà Rồng tới hang Pác Bó”, Tạp chí Cộng sản tháng 2-1980; Hồ Chí Minh biên niên tiểu sử, Tập I, trang 44; Kobelev, “Hồ Chí Minh”, trang 23
[31] Về yêu cầu của Sắc đi Nam Kỳ, xem hồ sơ “1920”, SPCE, hộp 364, COAM. Xem thêm “Bác Hồ thời niên thiếu”, trang 82-85; “Những mẩu chuyện về thời niên thiếu của Bác Hồ”, trang 97. Báo cáo của mật thám Pháp trong tài liệu 3780, ngày 8-3-1911 ở Bảo tàng Hồ Chí Minh
[32] Theo Khâm sứ An Nam, Sắc đã qua mặt được nhà chức trách Pháp vì quan lại địa phương cấp phép cho ông tới Tourane (Đà Nẵng)
[33] “Hồ Chí Minh biên niên tiểu sử”, Tập I, trang 43; Trịnh Quang Phú, “Từ làng Sen đến bến Nhà Rồng”, trang 79-82. Thanh lo ngại nhà cầm quyền Pháp biết mình có mặt tại trường Dục Thanh do một bức thư anh viết cho bạn thông báo mình đi châu Ấu tháng 6-1911. Trong thư, anh không hề đề cập chuyện gì với bạn bè khi anh rời trường, anh giữ bí mật tuyệt đối.Xem Tôn Quang Phiệt, “Từ bến Nhà Rồng đến hang Pác Bó”, trang 33. Theo báo cáo của Pháp, Thành bỏ trường trong cơn giận dữ sau khi bị kỷ luật vì một lỗi nhỏ nhặt. Xem Phụ lục 475, ngày 4-2-1928, Chánh Mật thám, Sài gòn, SPCE, hộp 368, CAOM
[34] “Với Bác Hồ”, trang 15-16. Trường Chasseloup-Laubat là trường trung học nổi tiếng do Pháp xây dựng dành cho học sinh xuất sắc
[35] Về tin tức Thành trong thời gian ở Sài gòn, xem “Từ bến Nhà Rồng đến hang Pác Bó” của Tôn Quang Phiệt; “Bác Hồ thời niên thiếu”, trang 95; “Hồ Chí Minh biên niên tiểu sử”, Tập I, trang 44; và Kobelev, “Hồ Chí Minh”, trang 24. Kobelev viết, Thành lấy tên là Văn Ba, có lẽ Thành xem mình là con thứ ba trong gia đình. Chữ Văn là tên đệm đặt cho con trai thường thấy trong các gia đình người Việt. Văn có nghĩa là “văn hóa, văn học”. Sự hoài nghi của viên thuyền trưởng Pháp cũng dễ hiểu. Theo các tài liệu thu thập, Thành nặng dưới 50 kg
[36] Cả hai bình luận được trích từ “Hồ Chí Minh biên niên tiểu sử”, Tập I, trang 47-48. Theo nhà sử học Trịnh Quang Phú (xem “Từ làng Sen đến bến Nhà Rồng”, trang 82, 97-98). Nguyễn Sinh Sắc đã đóng góp vai trò quan trọng trong việc khuyến khích con trai mình đi nước ngoài để phục vụ tổ quốc, nhưng xu hướng của Phú muốn tăng tầm quan trọng trong câu chuyện nâng cao uy tín của mình. Vì vậy tôi rất cẩn trọng trong những chứng cứ ông ta đưa ra

Tổng số lượt xem trang