CHƯƠNG XII
HÙM XÁM VÀ VOI RỪNG
Đồ đạc của các gia đình huy động làm chiến lũy trên các con phố ở Hà nội 12-1946.
Hồ nói là làm. Khi Pháp mở chiến dịch càn quét ở Hà Nội và những thành phố công nghiệp khác ở Bắc Kỳ và Trung Bộ Việt Nam, Hồ và những đồng chí của ông bỏ trụ sở tạm thời đặt ở một hang động ở Hà Đông, cách Hà Nội chừng 20 km phía đông thủ đô, sau đó sơ tán đến căn cứ địa Tân Trào, giữa rừng Việt Bắc, để sẵn sàng cuộc chiến đấu lâu dài. Với sự khích lệ Hồ Chí Minh, Việt Nam đã đưa những yếu tố thích hợp mô hình chiến tranh nhân dân của Trung Quốc vào chiến lược của mình ngay từ đầu năm 1941. Ngày 22 tháng 12, chỉ ba ngày sau khi nổ súng ở thủ đô, chính phủ Việt Nam ra tuyên bố nói rằng cuộc kháng chiến sẽ trải qua ba giai đoạn. Lời tuyên bố này báo trước kịch bản nhắm thẳng học thuyết quân sự của Mao Trạch Đông. Trong giai đoạn đầu tiên, lực lượng Việt Nam sẽ cố gắng phòng thủ để xây dựng những khu đồn trú nhỏ ở rừng núi; trong giai đoạn hai, khi sức mạnh hai bên tương đương, lực lượng cách mạng từ trong rừng núi bất ngờ tấn công vào những đồn bốt quân thù; và giai đoạn ba sẽ là tổng phản công, lúc đó Việt Minh sẽ tung ra cuộc tổng tấn công cuối cùng đẩy quân địch xuống biển.[547]
Căn nhà tại làng Vạn Phúc (Hà Đông) nơi HCM viết lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến.
Ngay cả phải rút lui, Việt Nam đã gửi một tín hiệu rõ ràng cho Pháp biết cuộc chiến đấu này sẽ rất khốc liệt. Khi những quan chức chính phủ bỏ Hà Nội lên Tây Bắc, những đơn vị tự vệ vẫn duy trì kháng cự trên những phố hẹp của khu phố Tầu, với hơn ba mươi ngàn dân của thành phố. Tại đây họ kháng cự mãnh liệt chống những cố gắng của Pháp đánh đuổi họ. Tướng Valluy dự kiến dùng máy bay tấn công quét sạch những người phòng thủ, nhưng Morlière chọn lựa cách đánh chiếm dần từng phố để kiểm soát khu vực mà không gây đổ nát. Chiến dịch tiến hành chậm và người Pháp đã phải trả giá bằng thương vong. Mãi đến giữa tháng 1-1947, cuối cùng quân Pháp chiếm được chợ Đồng Xuân sát ngay khu phố Tầu, trong lúc đó những đơn vị Việt Minh, cùng nhiều dân thường, vượt sông Hồng rời bỏ thành phố. Ngay cả khi rời bỏ thành phố, quân đội Việt Minh viết bằng than hoặc phấn trắng lên tường Hoàng thành cổ “Chúng tôi sẽ trở về”.[548]
Trong hồi ký về cuộc rút lui này, lãnh sự Mỹ O'Sullivan báo cáo về Washington, quân đội Việt Nam chiến đấu“dũng cảm và ngoan cường chưa từng thấy”, tương tự quân đội Nhật Bản trong chiến tranh Thái Bình Dương. Ông ước tính hàng trăm người Việt Nam bị thương vong. Khoảng một trăm lính Pháp bỏ mạng và bốn mươi lăm thường dân châu Âu chết, hai trăm người mất tích. Sau khi bình định được ngoại thành, quân Pháp bắt đầu tiến vào nông thôn, họ thấy Việt Nam đã tiến hành chủ trương tiêu thổ kháng chiến, không cho kẻ thù kiếm được thực phẩm. Ở những nơi khác trong nước, những đơn vị tự vệ Việt Minh kìm chân quân Pháp trong thành phố để rút lực lượng chủ lực về nông thôn.
Hồ Chí Minh có lẽ chưa bỏ ý định tìm kiếm hoà bình. Ngay trong ngày đầu nổ súng, Việt Minh đã rải truyền đơn thông báo với “nhân dân Pháp” về nguyện vọng của chính phủ ông được sống hoà bình trong khối Liên hiệp Pháp và chiến tranh bùng nổ là do “những tên thực dân phản động đã đánh mất danh dự nước Pháp, chia rẽ hai dân tộc bằng cách khiêu chiến”. Chỉ cần Pháp công nhận Việt Nam độc lập, thống nhất lãnh thổ, sự hợp tác và hiểu biết lẫn nhau giữa hai dân tộc sẽ được vãn hồi ngay lập tức. Ngày hôm sau, đài phát thanh Việt Minh bắt đầu liên tục phát đi những lời kêu gọi nối lại thương lượng. Ngày 23 tháng 12, Hồ viết cho Marius Moutet, bộ trưởng hải ngoại và tướng Henri Leclerc, đề xuất một cuộc họp hai bên. Moutet và Leclerc vừa rời Paris tới Đông Dương thị sát tình hình theo lệnh của chính phủ Blum. Vài ngày sau, Hồ chính thức đề nghị ngừng bắn và họp hội nghị hoà bình mới ở Paris trong khuôn khổ hiệp định sơ bộ 6 tháng 3 trước đây.[549]
Nhưng Pháp chưa vội kết thúc đánh nhau. Ngày 23-12, thủ tướng Blum phát biểu trước quốc hội: “Chúng ta đang phải đối mặt với việc dẹp bạo loạn. Tôi tuyên bố, những binh sĩ Pháp đang chiến đấu tại đó, kiều dân Pháp đang sinh sống và các bạn bè Pháp ở Đông Dương có thể yên tâm vào sự kiên quyết của chính phủ”. Kết thúc, Blum để ngỏ cánh cửa dàn xếp hoà bình, khẳng định trật tự phải được vãn hồi ngay: “Chúng ta sẽ khôi phục lại cuộc đàm phán bị phá vỡ để có được một nước Việt Nam tự do trong liên bang Đông Dương, tự do trong Liên hiệp Pháp. Nhưng đầu tiên, trật tự phải được khôi phục”.[550]
Marius Moutet được tờ báo Pháp Le Populaire (Dân chúng) miêu tả là “một sứ giả hoà bình”. Tuy Moutet nổi tiếng là người có thiện cảm với cuộc chiến đấu của nhân dân Việt Nam giành độc lập, ông cũng chia sẻ nỗi bất bình của người Pháp trước cuộc tấn công bất ngờ ở Hà Nội. Ngay sau khi tới Sài Gòn vào hôm Giáng Sinh, ông tuyên bố với báo chí “trước khi có bất cứ những cuộc thương lượng nào, cần phải có một chiến thắng quân sự. Tôi rất tiếc, nhưng những gì mà Việt Minh đã làm phải bị trừng trị”. Moutet cũng chẳng đoái hoài tìm cách liên lạc với người bạn cũ Hồ Chí Minh trong Đảng Xã hội trước khi quay về Pháp đầu tháng Giêng và Moutet dành nhiều thời gian thảo luận với quan chức Pháp ở Lào và Campuchia. Về phần mình, Hồ Chí Minh đã gửi cho Moutet một bức thư ngày 3 tháng 1 với bản dự thảo ngừng bắn nối lại thương lượng, nhưng bức thư này bị chính quyền thực dân Pháp chặn và trả lại.[551]
Tướng Leclerc và Moutet tin rằng việc giáng trả mạnh mẽ của Pháp vào Việt Minh là cần thiết trước khi mở thương lượng hoà bình. Nhưng Leclerc cũng tin rằng giải pháp cuối cùng cho cuộc khủng hoảng này phải là giải pháp chính trị, việc Moutet từ chối gặp Hồ làm ông khó xử. Từ Đông Dương trở về Pháp ngày 1 tháng 1, Leclerc nhấn mạnh: “Có quá nhiều người tưởng có thể xây chiếc cầu nối giữa Việt Nam và Pháp bằng súng đạn”. Trong báo cáo gửi chính phủ, Leclerc nhấn mạnh “một giải pháp phức tạp chắc chắn hiện thực trong thời gian tới, trừ giải pháp chính trị”. Ông kết luận Pháp không thể dùng vũ lực để khuất phục hai mươi bốn triệu người với tinh thần dân tộc đang cao. Theo Leclerc, vấn đề chủ yếu làm thế nào thay thế hình thức đang tồn tại chủ nghĩa dân tộc của Việt Minh bằng những đảng phái chính trị ôn hoà hơn. Nếu vị thế quân sự của Pháp càng mạnh trên chiến trường, việc giải quyết vấn đề sẽ càng thuận lợi hơn.[552]
Do quan điểm Leclerc về tình hình nói chung hợp với quan điểm của chính Leon Blum, nên khi Leclerc về Pháp giữa tháng 1-1947, vị thủ tướng đánh tiếng đưa ông trở về Đông Dương làm Tổng tư lệnh và Cao uỷ, thay Thierry d'Argenlieu, người có quan điểm quá khích, đẩy tình hình vào ngõ cụt. Nhưng trong khi Leclerc còn cân nhắc, thủ tướng Blum bị thay thế bằng Paul Ramadier, cũng từ đảng Xã hội. Ramadier tán thành đường lối hiện thời phục hồi trật tự bằng vũ lực, đồng thời ông đồng ý xem xét việc thống nhất ba miền Việt Nam thành một quốc gia nằm trong Liên hiệp Pháp. Nhưng khi tân thủ tướng lưỡng lự tăng quân Pháp ở Đông Dương, Leclerc - nghe tướng De Gaulle khuyên - đã từ chối lời đề nghị làm Cao uỷ. Để lấp chỗ trống, Ramadier chọn Emile Bollaert, một chính trị gia có quan điểm tự do và uy tín, không thuộc bất cứ phái nào trong Quốc hội. Một nhà ngoại giao Mỹ mô tả Bollaert, “rất có năng lực và năng động nhưng ít ai biết tiếng”.[553]
Bollaert lên đường tới Đông Dương đầu tháng 3. Khi tới Sài Gòn, ông lập tức đối mặt với thách thức ngay trong nội bộ. Được d'Argenlieu ủng hộ, các quan chức thực dân địa phương ráo riết tìm cách qua mặt Việt Minh, thoả thuận với cựu hoàng Bảo Đại, lúc đó đang ở Hong Kong. Bảo Đại từ lâu đã bỏ danh xưng “Công dân Vĩnh Thụy”, vốn lười biếng và ăn chơi, Bảo Đại chẳng còn đoái hoài đến công việc quốc gia, vùi đầu trong sòng bạc và gái gú. Tuy những tiếp xúc đầu tiên của Pháp với vị cựu hoàng phì nộn này không kết quả, nhưng triển vọng sử dụng Bảo Đại được nhiều người ủng hộ, ở cả Pháp lẫn Đông Dương. Tuy vậy đối với Bollaert, kế hoạch này cũng ở thế lưỡng nan. Trong khi đó Việt Minh vẫn được sự ủng hộ của đông đảo dân chúng, và Hồ được thừa nhận như nhà lãnh đạo của dân tộc. Trước khi rời Paris, Leclerc khuyên Bollaert “nên thương lượng bằng mọi giá”.
Nhiều người thân cận Bollaert cũng tán đồng đàm phán với Việt Minh, gồm chánh văn phòng chính phủ Pierre Messmer và Paul Mus, cố vấn riêng của ông đồng thời là một học giả Đông Dương có tiếng. Tuy hơn một ngàn quân Pháp chết hoặc mất tích, nhưng tâm lý cộng đồng Pháp ở Đông Dương lúc này là cương quyết chống Việt Minh. Phương án dùng Bảo Đại là khả dĩ nhất, nhưng liệu Bảo Đại có thể là đối trọng với Hồ Chí Minh không? Trong khi vị cựu hoàng được sự ủng hộ nào đấy trong những người hoài cổ thì đa số nhân dân Việt Nam khinh bỉ ông về lối sống bê tha. Những người khác còn nghi ngờ ông không có đủ năng lực thống nhất những nhóm dân tộc chủ nghĩa cứng đầu, nhỏ nhen, manh mún.
Hồ Chí Minh vẫn cố gắng giữ mối liên lạc mỏng manh với Pháp. Ngày 23 tháng 4, Hoàng Minh Giám, một người không cộng sản, vừa được bổ nhiệm bộ trưởng Bộ ngoại giao hồi tháng 3-1947, gửi thông điệp của Hồ tới Bollaert đề xuất ngừng bắn tức khắc và mở lại thương lượng để chấm dứt xung đột. Nghi ngờ ý định kẻ thù và nghe các cố vấn của mình cam đoam tình thế quân sự bây giờ tốt đẹp, Bollaert đưa ra một loạt điều kiện thực chất đòi Việt Minh đầu hàng trước khi khôi phục hoà bình. Bollaert đưa thư cho Paul Mus. Người đã một lần gặp Hồ Chí Minh, để chuyển cho Hồ. Chiều ngày 12 tháng 5, trước tiên, Mus bí mật gặp Hoàng Minh Giám tại một địa điểm gần Hà Nội, sau đó gặp Hồ tại Thái Nguyên. Hồ nhã nhặn nghe Mus trình bày, nhưng thẳng thừng bác bỏ đòi hỏi của Pháp. Hồ nhấn mạnh: “Trong Liên hiệp Pháp không có chỗ đứng cho những kẻ hèn nhát. Nếu tôi chấp nhận những điều khoản này, tôi sẽ là người như vậy”.[554]
Thái độ khinh miệt trả lời những đề nghị của Việt Nam về thương lượng hoà bình rõ ràng làm Hồ Chí Minh thất vọng, dù ông luôn luôn bày tỏ hy vọng Pháp sẽ giảng hoà để không muốn mất thuộc địa Đông Dương. Tuy nhiên, khi đó không có sự chọn lựa nào tốt hơn bằng vũ lực. Cuối tháng đó, Hồ Chí Minh lại ra lời kêu gọi mới kháng chiến toàn quốc, tuyên bố rằng Pháp không chấp nhận hoà bình.
Nhưng Hồ tiếp tục theo đuổi khả năng quốc tế giải quyết vấn đề. Hồ biết sự đối đầu giữa hai khối siêu cường trên thế giới đang tăng lên, và Moscow vẫn thể hiện sự quan tâm quá nhỏ nhoi tới cuộc chiến tranh ở Đông Dương xa xôi. Dù vậy, vẫn có cơ hội để Mỹ tham gia vai trò hữu ích giải quyết xung đột. Thực vậy, chính quyền Truman theo dõi những hành động của Pháp từ khi tái chiến ở Đông Dương với vẻ không hài lòng. Mặc dù Hồ và những đồng chí của ông không nhận thấy điều này. Ít ngày sau khi nổ súng ở Hà Nội, thứ trưởng ngoại giao Dean Acheson mời Đại sứ Pháp Henri Bonnet tới Bộ ngoại giao, cảnh báo tình hình ở Đông Dương đang xấu đi và theo quan điểm Washington, không thể giải quyết bằng vũ lực. Acheson cam đoan với Bonnet Mỹ không muốn can thiệp, nhưng sau đấy gợi ý đưa một số sĩ quan Mỹ hiểu biết tình hình đến giải quyết. Paris thẳng thừng bác bỏ đề nghị này, khẳng định rằng Pháp sẽ khôi phục trật tự trước khi liên lạc với Việt Nam.
Vài tuần sau, tướng George C. Marshall, vừa từ Trung Quốc trở về, thay James Byrnes làm ngoại trưởng. Từ tháng 12-1945, Marshall thường xuyên tới Trùng Khánh tìm cách dàn hoà giữa những phần tử dân tộc chủ nghĩa và Đảng cộng sản Trung Quốc trong chính phủ liên hiệp do Tưởng Giới Thạch cầm đầu. Bất chấp những cố gắng của ông, nội chiến vẫn nổ ra vào cuối 1946. Sau khi bao quát tình hình ở Đông Dương, Marshall gửi điện cho đại sứ Hoa Kỳ Caffery ở Paris, đây là một văn bản dài mơ hồ, tối nghĩa, một thông điệp lần đầu tiên bày tỏ chính thức quan điểm Washington về vấn đề Việt Nam kể từ khi bắt đầu xung đột Pháp-Việt. Marshall vạch rõ, Mỹ chính thức công nhận chủ quyền của Pháp ở Đông Dương, và không có ý định can thiệp vào vùng này. Marshall nói thêm “Chúng tôi không thể làm ngơ trước thực tế cả hai phía có trách nhiệm giải quyết vấn đề này và báo cáo của chúng tôi cho thấy Pháp thiếu hiểu biết đối phương (tại Sài Gòn nhiều hơn ở Paris) vẫn còn cố bám lấy mô hình và cách suy nghĩ thực dân lạc hậu”.
Nhưng Marshall lập tức tự đào hố dưới chân mình khi thừa nhận thực chất tình thế khó xử của Pháp: “Chúng ta không quên rằng Hồ có những mối quan hệ trực tiếp với cộng sản và không muốn mô hình thực dân lại được thay thế bằng một tổ chức mới do Kremlin kiểm soát”. Cuối cùng, Marshall cũng chẳng đưa được ra giải pháp nào, ngoài việc khuyên Pháp nên để ngỏ quan hệ và “rộng lượng” hơn trong việc tìm giải pháp. Sự thiếu quả quyết đáng buồn của Marshall trong chủ trương rối mù về vấn đề Đông Dương kéo dài tới khi Truman rời chức vụ.[555]
Cuối tháng 2, Marshall chỉ thị lãnh sự Mỹ James O'Sullivan ở Hà Nội bắt liên lạc với giới lãnh đạo Việt Nam nếu gặp dịp. Chẳng cần đợi lâu. Tháng 4-1947, Phạm Ngọc Thạch, người một thời cầm đầu Đội thanh niên xung phong Sài Gòn, hiện là thứ trưởng trong chính phủ Hồ Chí Minh, có quan hệ với vài thương nhân Mỹ ở Thái Lan và trung tá William Law, trợ lý tuỳ viên quân sự tại Đại sứ quán Mỹ ở Bangkok. Sau những cuộc hội đàm không chính thức với đại tá Law, Thạch đồng ý trả lời một loạt câu hỏi bằng văn bản của Law và của đại sứ Hoa Kỳ Edwin F. Stanton. Thạch nhấn mạnh đặc tính rộng rãi, không đảng phái của chính phủ Việt Nam và cam kết mục đích của chính phủ là dân tộc chứ không phải cách mạng xã hội chủ nghĩa. Thạch khẳng định cương lĩnh kinh tế của chính phủ “tạo điều kiện phát triển quyền tự trị tư bản và kêu gọi tư bản nước ngoài giúp đỡ tái thiết đất nước”. Ngay sau đó, Thạch đệ trình lời kêu gọi đại diện cộng đồng doanh nhân Mỹ tại Thái Lan, đưa ra những nhượng bộ kinh tế đổi lấy các thiết bị công nghiệp một máy móc nông nghiệp cũng như các khoản vay có hoàn lại. Thạch cảnh báo rằng nếu không có dàn xếp hoà bình, Việt Nam chuẩn bị tiến hành chiến tranh du kích sáu năm. Cùng thời gian này, Hồ trả lời phỏng vấn của một nhà báo Mỹ, phủ nhận chính phủ ông theo tinh thần nguyên lý Marxist, lớn tiếng hỏi tại sao không thể có giải pháp tương tự như Philippin và Ấn Độ cho Việt Nam.[556]
Động thái của Việt Nam có ít nhiều tạo ra sự quan tâm trong hàng ngũ quan chức Bộ ngoại giao Hoa Kỳ, với việc bổ nhiệm phần tử ôn hoà Hoàng Minh Giám làm Bộ trưởng Bộ ngoại giao Việt Nam Dân chủ Cộng hoà hồi tháng 3. Trong lời nhận xét gửi về Washington, đại sứ Stanton nhấn mạnh, Phạm Ngọc Thạch - được quan chức Mỹ tại Sài Gòn cuối năm 1945 xem là có thiện cảm – “một người thông minh và rất năng động”. Từ Hà Nội, O'Sullivan đề nghị cho phép ông trực tiếp gặp Thạch ở Bangkok. O'Sullivan nhận xét Hồ là người “rất quỷ quyệt”, cho rằng một cuộc nói chuyện không chính thức với Thạch ít ra cũng cung cấp những thông tin hữu ích về bản chất chính phủ Việt Nam. Marshall chấp thuận, hy vọng cuộc gặp với Thạch có thể tiết lộ phạm vi kiểm soát của thế lực cộng sản trong chính phủ Việt Nam và “mức độ phục vụ cho Moscow”. Nhưng cuộc gặp không diễn ra. Ngày 7 tháng 5, Stanton thông báo Thạch bất ngờ rời Bangkok. Hai ngày sau, Marshall chỉ thị O'Sullivan bỏ kế hoạch đi Bangkok, nói Thạch đã rời Bangkok và lo ngại Pháp phản ứng về cuộc gặp dự kiến.
Nhưng sự cố này chưa hoàn toàn chấm dứt hy vọng. Ngày 8 tháng 5, Hoàng Minh Giám gửi thông điệp chính thức yêu cầu Hoa Kỳ công nhận về mặt ngoại giao chính phủ ông, bước đi này “nâng cao uy tín và ảnh hưởng của Hoa Kỳ và thiết lập hoà bình ở Đông Nam Á”. Phạm Ngọc Thạch đưa ra thông điệp thứ hai kêu gọi giúp đỡ văn hoá, kinh tế, chính trị và đề nghị Washington làm trung gian hoà giải xung đột Pháp-Việt. Khi những sáng kiến này tới ngoại trưởng Marshall, ông đề nghị các nhà ngoại giao Hoa Kỳ ở Paris, Sài Gòn, Hà Nội đánh giá chính phủ Việt Nam và phạm vi ảnh hưởng cộng sản trong giới lãnh đạo. Ông muốn biết quan điểm thực của ông Hồ là gì? Vai trò Trường Chinh và Hoàng Quốc Việt, những nhân vật hiếu chiến, trong chính quyền ra sao? Những phần tử dân tộc chủ nghĩa không cộng sản nghĩ gì về Việt Minh? Họ có biết xu hướng cộng sản của chính phủ không? Có phải họ định làm khuôn mẫu cộng sản ở Việt Nam? Cuối cùng, liệu Việt Nam Dân chủ Cộng hoà có thừa nhận “quyền tự do bày tỏ chính kiến một cách hợp lý” không?
Trong thư trả lời, O'Sullivan khẳng định, mặc dù những người cộng sản có ảnh hưởng đáng kể trong chính phủ, nhưng khó đưa đất nước theo con đường Liên Xô, “mặc dù có xu thế kéo về hướng này”. Ông bóng gió nói việc Hồ Chí Minh ngần ngừ không nhận mình thực sự là Nguyễn Ái Quốc, là dấu hiệu cho thấy Hồ nhận thức được ông cần làm việc với phương Tây. O'Sullivan kết luận, Hồ đang cố gắng tiếp nhận viện trợ từ bất cứ nguồn nào và sẽ lái chính sách của mình tới nơi nào giúp đỡ ông.
Những người khác nhận xét theo cách khác ít lạc quan hơn. Charles Reed miêu tả Hồ là một tay “cơ hội xảo quyệt” và “có thể dẫn đến một quốc gia cộng sản, cho dù phần đông nhân dân không mấy người quan tâm đến cộng sản là gì”. Đại sứ Hoa Kỳ tại Paris Caffery cân nhắc quan điểm của mình, cho rằng tuy nhân dân Việt Nam nói chung không ưa chủ nghĩa cộng sản, vì sự nghiệp của Hồ trong quá khứ “ít nghi ngờ là Hồ có những quan hệ mật thiết với cộng sản”.[557]
Việc Việt Minh bác bỏ những điều khoản hoà bình của Pháp làm thất vọng Bollaert, người có lẽ thật sự mong muốn dàn xếp chính trị cho cuộc xung đột, nhưng điều đó không ngăn cản ông tìm cách khác. Bộ trưởng chiến tranh Pháp Paul Coste-Floret, sau khi hoàn thành chuyến thị sát Đông Dương, nói “Không có vấn đề quân sự ở Đông Dương, vũ khí của chúng ta đem lại thành công”. Tin vào tình hình sáng sủa, Bollaert bây giờ bắt đầu nhìn Việt Minh không phải là đại diện duy nhất cho nhân dân Việt Nam mà đơn thuần chỉ là một trong những nhóm có thể tiếp xúc để tìm kiếm hoà bình. Chủ trương mới của Bollaert gặp được thuận lợi khi bối cảnh chính trị ở Pháp thay đổi, Đảng cộng sản không có chân trong chính phủ liên hiệp. Thủ tướng Ramadier lúc này cần sự ủng hộ của phái ôn hoà và bảo thủ để trụ lâu trên ghế. Một giải pháp chính trị lúc này sẽ mang tai mang tiếng dù chỉ là tạm thời, mọi con mắt bây giờ quay về tướng Valluy ở Đông Dương, người không còn tin Hồ Chí Minh muốn hoà bình và tin rằng chỉ có dùng quân sự mới giải quyết được vấn đề.
Coste-Floret đánh giá tình hình quân sự đang có lợi cho Pháp. Trên thực tế, những cố gắng của Việt Minh nhằm bảo tồn sức mạnh trong giai đoạn đầu cuộc chiến đã bị thất bại, lực lượng Việt Minh thường xuyên trong tình trạng lộn xộn khi đối mặt với quân Pháp. Đôi khi những đơn vị chủ lực tham chiến quá đông hoặc quá hung hăng dẫn đến thương vong nặng. Mặt khác, các sĩ quan chỉ huy yếu kém chiến thuật chiến tranh du kích, dẫn đến lộn xộn và nạn đào ngũ lan rộng trên chiến trường. Thêm nữa là rất thiếu vũ khí. Phần đông, quân đội Việt Nam chỉ có được vũ khí tự sản xuất ở địa phương, tịch thu được từ quân Nhật hoặc Pháp. Lãnh đạo Việt Minh cũng đánh giá quá cao sự ủng hộ từ những người giàu có ở nông thôn. Không làm được việc giảm tô, họ mất dịp may huy động sự ủng hộ của nông dân nghèo, những người đang lê chân khi được kêu gọi phụng sự chiến tranh.[558]
Tin vào thắng lợi trên chiến trường, tướng Valluy dự kiến mở cuộc tấn công lên Việt Bắc bắt Hồ Chí Minh và đánh tan lực lượng kháng chiến. Sau đó và chỉ sau đó, theo Valluy, mới thương lượng. Trong khi đó, Pháp cũng tấn công về mặt chính trị nhằm hạ bớt sự ủng hộ của dân chúng cho Việt Minh, đánh tan ý chí nóng bỏng những người Việt Nam nào muốn đuổi Pháp ra khỏi Đông Dương.
Chủ trương này của Valluy cần tăng quân số Pháp ở Đông Dương lên hơn 100.000 lính. Lúc này, cuộc xung đột ở Đông Dương được coi là chuyện vụn vặt thứ yếu ở một góc xa xôi của thế giới. Chính phủ Pháp đang bận tâm bận với cuộc nổi dậy trên Madagascar nên chỉ chấp thuận một phần yêu cầu của Valluy. Vì thế Valluy buộc phải thay đổi kế hoạch sử dụng một lực lượng nhỏ binh lính ông cho là cần thiết.
Một trong những điểm quan trọng trong chiến lược Valluy đánh giá những hoạt động của Việt Minh ở Nam Kỳ. Để đạt được mục tiêu của mình, Valluy tung gần một nửa Quân đội viễn chinh Pháp vào Nam Kỳ. Đối địch với Valluy là 18.000 quân thường trực Việt Minh dưới sự chỉ huy của Nguyễn Bình. Khắp Đông Dương, Việt Nam Dân chủ Cộng hoà bấy giờ chỉ có gần sáu mươi ngàn quân, chưa tính đến một lực lượng đông đảo tự vệ và du kích. Tuy thiếu vũ khí nhưng hoạt động hết sức linh động, được nhân dân địa phương ủng hộ đáng kể, các tiểu đoàn Việt Minh bây giờ né tránh những cuộc hành quân càn quét của Pháp và tiến hành tấn công chớp nhoáng kẻ thù tại những đồn bốt nhỏ theo cách họ chọn. Thành công duy nhất của Pháp trong mùa hè năm 1947 là thành công về mặt chính trị, do Nguyễn Bình sử dụng chiến thuật tàn bạo khiến nhiều đồng bào ở Nam Kỳ sợ hãi và đẩy những người cầm đầu hai giáo phái Cao Đài, Hoà Hảo chạy sang phía Pháp.[559]
Trong khi đó, Bollaert muốn đưa ra một chiến dịch hoà bình. Hồ Chí Minh đã gửi một tín hiệu vào tháng 8, loại bỏ hai phần tử hiếu chiến Tôn Đức Thắng và Võ Nguyên Giáp ra khỏi chức bộ trưởng nội vụ và quốc phòng, thay bằng những phần tử ôn hoà. Nhưng Valluy mạnh mẽ phản đối đề xuất của Bollaert, cả hai được triệu về Paris để tư vấn. Kết quả là thoả hiệp. Phát biểu tại Hà Nội vào tháng 9-1947, Bollaert đề nghị một nước Việt Nam thống nhất nằm trong Liên hiệp Pháp, nhưng ông không nói đến nền độc lập hoàn toàn. Ông không nhắc đến đối phương chính của ông và chỉ nói “tất cả các nhóm Việt Nam”. Theo những quan sát viên Hoa Kỳ, nhiều Pháp kiều ở Đông Dương hài lòng với bài phát biểu, nhưng người Việt Nam thì “sững sờ”. Ngày 15 tháng 9, Hoàng Minh Giám thay mặt chính phủ trả lời: “Không có tự do là không có độc lập hoàn toàn”. Ba ngày sau, Bảo Đại công khai chấp nhận đề xuất của Pháp để thay mặt nhân dân Việt Nam thương lượng. Nhưng ông cũng khăng khăng đòi độc lập và thống nhất quốc gia. Mặt trận quốc gia thống nhất vừa vội vàng thành lập gồm những đại diện của những nhóm dân tộc chủ nghĩa không cộng sản khác nhau họp ở Hong Kong cũng bác bỏ những điều kiện Bollaert đưa ra. Dân Sài Gòn đồn ầm lên là Hồ đi đêm với Bảo Đại.
Ngày 7 tháng 10 năm 1947, Pháp thực hiện một cuộc tấn công chờ đợi từ lâu vào Việt Bắc. Vì buộc phải hành quân với số lính ít hơn ông trù tính trước, Valluy thay đổi kế hoạch. Thay vì bao vây toàn bộ khu vực, sau đó tấn công từ mạn bắc cũng như mạn nam, ông chọn một cuộc hành quân nhỏ nhằm chiếm một căn cứ đầu não Việt Minh, sau đó giành quyền kiểm soát toàn bộ thung lũng sông Hồng từ Hà Nội tới biên giới tại Lào Cai. Tướng Raoul Salan, phụ trách hành quân, tiên đoán phải mất ba tuần lễ để đánh bật đầu não Việt Minh.
Chiến dịch Léa, mở màn bằng việc quân Pháp nhảy dù xuống Bắc Cạn, góc phía bắc của căn cứ địa Việt Minh. Khu vực này được phòng thủ mạnh bằng mìn chướng ngại vật và hầm chông bổ sung bằng địa hình hiểm trở. Valluy hy vọng chiếm sở chỉ huy đầu não Việt Minh ở giai đoạn đầu tiên của chiến dịch, sau đó mở rộng thành vòng cung, sử dụng xe bọc thép càn sang phía tây đến tận Lạng Sơn, trong lúc đó một nhóm khác từ phía bắc tràn xuống. Hai nhóm sẽ gặp nhau tại Bắc Cạn.
Quân Pháp tiến quân nhanh chóng, chiếm được căn cứ địa Việt Minh, nhưng họ không bắt được Hồ Chí Minh, lúc đó đang chủ trì một cuộc họp tại Sở chỉ huy đúng lúc Pháp tấn công. Họ hiểu ngay rằng lính dù Pháp ở khá gần, nên Hồ và những thành viên Ban chấp hành Trung ương cùng bộ tham mưu lẩn trốn ngay lập tức. Chu Văn Tấn, dân tộc Nùng, dẫn đường, họ hành quân suốt một ngày liền qua những đường mòn trơn dưới trời mưa, mỗi người khoác trên vai một túi vải nhỏ đựng các đồ cần thiết, và ngủ đêm trong rừng. Sáng hôm sau họ xuất phát để tìm trụ sở mới. Theo học giả Bernard Fall, quân Pháp tìm thấy mấu thuốc lá đang cháy dở và thư từ của Hồ Chí Minh đang đợi ký nằm trên bàn trong một căn lều.
Suốt mấy ngày sau, quân Pháp cố gắng tiêu diệt sự kháng cự khác trong vùng này, nhưng không đạt kết quả vì hiếm khi trực tiếp gặp Việt Minh, họ nhanh chóng biến mất vào rừng, sau đó bắt đầu quấy nhiễu quân Pháp tại những nơi họ muốn. Dù vậy, Salan báo cáo với cấp trên chiến dịch đã thành công, vì con đường chính tới Trung Hoa qua Cao Bằng ở biên giới phía bắc (con đường còn lại cuối cùng để Việt Minh liên lạc với thế giới bên ngoài) đã bị cắt đứt. Hồ Chí Minh bây giờ hoàn toàn bị cô lập. Tất cả những gì còn lại chỉ là “những nhóm cô lập tan tác, chỉ cần cảnh sát cũng đánh đuổi được”. Salan tuyên bố những vị trí cố thủ Việt Minh thực tế không còn tồn tại.[560]
Đó là tiên đoán sai lầm của Salan, vì thực tế cuộc chiến vừa mới bắt đầu. Tuy vậy, rõ ràng Chiến dịch Léa có được một thành công ít nhất là đẩy lùi tạm thời Việt Minh, buộc họ phải phân tán những đơn vị chủ lực và xé lẻ thành những đơn vị tuyên truyền vũ trang như nó được hình thành trước Cách mạng tháng Tám. Vài tháng sau, lãnh đạo Việt Nam cố gắng chuẩn bị con đường dài phía trước. Các chỉ huy Việt Minh bỏ lối giao chiến thông thường không thành công, và theo chiến thuật chiến tranh du kích. Để tập trung sự lãnh đạo tại địa phương, Uỷ ban Hành chính Kháng chiến được thành lập ở những làng do lực lượng kháng chiến kiểm soát. Mỗi làng không những phải đảm trách phòng thủ mà còn phải cung cấp nam nữ thanh niên cho lực lượng du kích.
Trở lại Việt Bắc cuối tháng 12-1946, Hồ Chí Minh trở lại với nếp sống cũ tưởng đã kết thúc khi lên làm chủ tịch trong Cách mạng tháng Tám. Ông tới căn cứ địa cũ với một toán tám người, bao gồm cả vệ sĩ, giao liên và cấp dưỡng. Nhóm của ông dựng lều bằng tre nứa gồm hai buồng. Một buồng cho Hồ, buồng kia dùng làm chỗ ăn, họp và chỗ tạm nghỉ cho những đồng chí của ông. Để chống thú rừng, họ nuôi một con chó săn, nhưng chẳng bao lâu bị hổ ăn thịt.
Hồ và nhóm tuỳ tùng sống đơn giản. Thức ăn chỉ có chút cơm với rau rừng. Thỉnh thoảng, thêm vào bữa ăn đạm bạc là thịt băm cả xương hoặc thái mỏng trộn với ớt, muối, sả, Hồ gọi đùa là “thịt Việt Minh”. Đôi khi thiếu lương thực tất cả phải nhịn đói. Cuối cùng cả nhóm bắt đầu trồng cây lương thực, trồng rau và sắn dọc sườn đồi. Lúc này, Hồ sống trong căn nhà sàn, ban ngày ông làm việc dưới gầm sàn, ban đêm ngủ ở tầng trên tránh muỗi, thú dữ và ẩm thấp. Nơi ngủ của Hồ nằm trên sàn với cái màn và mấy bộ quần áo để sẵn. Khi có lệnh phải di chuyển, chỉ trong mấy phút tất cả đã sẵn sàng. Đến cuối thập niên, Hồ sống ít nhất 12 chỗ khác nhau để tránh mật thám Pháp. Hồ mang mấy quyển sách, tài liệu trong một cái túi vải, một cần vụ được phân công chuyên trách mang chiếc máy chữ.
Hồ luôn dành thời gian tập thể dục cả sáng lẫn chiều. Ông thích chơi bóng chuyền. Khi đội bạn lợi dụng cứ nhằm chỗ Hồ mà bỏ nhỏ thì ông thường rất khoái trá: “Các chú đánh được Bác rồi”. Khi vượt suối, luôn có người bên cạnh Hồ; tuy nhiên, theo một kẻ đào ngũ kể lại thì sức chịu đựng và sự dẻo dai của Hồ hơn đa số các đồng đội trẻ của ông. Hồ thường đùa: “Bác là máy bay bà già cổ lỗ, còn các chú là phản lực”.[561]
Cuộc sống dần dần được cải thiện, quanh nhà có vườn hoa, vườn rau, sân bóng chuyền, xà kép, xà đơn. Hồ còn mua các dụng cụ âm nhạc của đồng bào địa phương, thỉnh thoảng tổ chức những đêm liên hoan văn nghệ cho dân địa phương. Hồ giảng giải cho họ về cuộc sống dưới xuôi, phát thuốc chữa bệnh. Nhưng mùa thu 1947, Chiến dịch Léa buộc Hồ và cả toán cần vụ phải sơ tán.
Sau Chiến dịch Léa, cuộc xung đột rơi vào giai đoạn mà một nhà bình luận quân sự Pháp miêu tả là “sa lầy”. Do ít quân, Valluy đành tập trung ở khu vực châu thổ để Việt Minh có cơ hội lập khu giải phóng ở Trung Bộ kéo dài 200 dặm từ Hội An tới mũi Kê Gà (Phan Thiết), do vậy gần như chia đôi đất nước. Ở Nam Bộ, Pháp tập trung tốt hơn, trong khi những đơn vị Việt Minh cách xa trụ sở và hầu như mất liên lạc với nhau. Quân của Nguyễn Bình bị đẩy tít vào sâu đầm lầy và vùng núi. Quân Pháp tiếp tục hành quân bình định những khu vực mới chiếm đóng cô lập đối phương.
Việt Minh còn phải đương đầu với những chống đối mạnh mẽ ở phía Nam, khi một số nhóm dân tộc chủ nghĩa muốn trở thành “lực lượng thứ ba” như một sự lựa chọn giữa Việt Minh và Pháp.
Trong bối cảnh, chiến dịch Léa không “đánh giập đầu” được Việt Minh, các phần tử dân tộc chủ nghĩa quan tâm đến mặt trận chính trị và vai trò của Bảo Đại. Tháng 12-1947, cựu hoàng Bảo Đại gặp Emile Bollaert trên tuần dương hạm Pháp ở Vịnh Hạ Long, nơi Hồ Chí Minh và Thierry d'Argenlieu gặp nhau lần đầu. Nhưng cuộc hội đàm không có kết quả, vì Bollaert từ chối làm rõ những quyền gì sẽ được chuyển giao cho quốc gia Việt Nam tương lai. Cuối cuộc hội đàm, Bảo Đại miễn cưỡng ký thông cáo chung, nhưng rồi lại thôi vì thấy những phần tử cực đoan trong Mặt trận dân tộc thống nhất phản đối quá mạnh. Tháng 3-1948, Bảo Đại gặp đại diện của Mặt trận này ở Hong Kong, chủ ý thành lập chính phủ lâm thời do tướng Nguyễn Văn Xuân làm thủ tướng. Nguyễn Văn Xuân sinh ở Nam Bộ nhưng mang quốc tịch Pháp. Đó là mánh khoé của Bảo Đại để tăng vị thế mặc cả với Pháp trong tương lai. Sau đôi chút ngần ngừ, Bollaert đồng ý công nhận chính phủ lâm thời Bảo Đại là đối tác thương lượng.
Tháng 6, cuộc hội đàm nối lại tại Vịnh Hạ Long, cuối cùng cả hai bên cũng đạt được một thoả thuận thành lập Quốc gia Liên hiệp Việt Nam mới dựa trên nguyên tắc độc lập của Việt Nam và thống nhất nằm trong Liên hiệp Pháp. Tuy nhiên, ý nghĩa chính xác của từ “độc lập” và quyền hạn của quốc gia này cũng không được xác định. Thêm nữa, không rõ việc thành lập chính phủ không cộng sản có thể dẫn đến chấm dứt xung đột với Việt Nam Dân chủ Cộng hoà hay không. Giải pháp Đông Dương hình như vẫn còn mờ mịt và xa vời.
Đối với Pháp, động cơ chủ yếu tiến hành thương lượng với Bảo Đại là nhử Hoa Kỳ cung cấp viện trợ quân sự và kinh tế cho cuộc chiến chống Việt Minh. Mặc dù không hài lòng với cách giải quyết mâu thuẫn của Pháp, Hoa Kỳ cũng không có nhiều lựa chọn trước sự đe doạ bành trướng của cộng sản Trung Quốc và quan hệ càng ngày càng xấu đi với Moscow.
Theo Pháp, thái độ Washington theo chiều hướng thuận lợi cho Pháp. Dù chính quyền Truman không hài lòng Pháp thất bại giải quyết vấn đề Đông Dương, nhưng Hoa Kỳ ngày càng lo lắng đe doạ của cộng sản châu Á, mối lo lắng này không những từ chiến thắng của cộng sản ở bắc Trung Hoa mà còn do mối quan hệ với Moscow xấu đi. Mùa hè năm 1948, Ngoại trưởng George Marshall chỉ thị quan chức ngoại giao Hoa Kỳ ở châu Á làm tất cả những gì có thể để vực “những nhóm dân tộc chủ nghĩa thực chất” ở Đông Dương để làm suy yếu lực lượng cộng sản.
Những quan chức Hoa Kỳ không ưa Bảo Đại (phần đông nhìn Bảo Đại như một tay ăn chơi đàng điếm, không có tinh thần đối đầu chính trị), nhưng họ cũng chúc mừng Hiệp định Vịnh Hạ Long coi đây là “một bước tiến”. Khi thương lượng tiến triển chậm, Hoa Kỳ cảnh báo Paris họ sẽ phải lựa chọn giữa việc chấp nhận thống nhất và độc lập thật sự cho nhân dân Việt Nam nằm trong Liên hiệp Pháp hoặc mất hết Đông Dương. Nếu Pháp không cam kết dứt khoát, Washington có thể sẽ xét lại chính sách viện trợ kinh tế hiện thời trực tiếp cho Pháp ở Đông Dương.
Trong bối cảnh ảm đạm, tháng 1-1949 cuối cùng Pháp đành phải chấp nhận đòi hỏi của Bảo Đại là thuộc địa Nam Kỳ phải nằm trong Quốc gia Liên hiệp Việt Nam. Sự nhượng bộ đó phá vỡ bế tắc, ngày 9 tháng 3 năm 1949, lễ ký tổ chức tại điện Elysée, Paris, đại diện hai bên ký một hiệp định, Pháp công nhận nền độc lập của Việt Nam và thống nhất lãnh thổ nằm trong Liên hiệp Pháp, trình Quốc hội Pháp thông qua chính thức. Quốc gia mới sẽ có ngoại giao, tài chính và quân đội riêng. Chỉ còn những trở ngại cho nền độc lập là những hạn chế do những thành viên trong Liên hiệp Pháp áp đặt và cuộc chiến hiện tại ở Đông Dương. Những hạn chế này thực ra quá lớn.
Tháng 1-1948, Ban thường vụ Đảng cộng sản Đông Dương, tin tưởng tình thế đã thay đổi có lợi cho cách mạng, chính thức ra lệnh kết thúc giai đoạn đầu tiên phòng ngự chuyển sang giai đoạn thứ hai là cầm cự. Lực lượng Việt Minh bây giờ bắt đầu khởi xướng chiến đấu với kẻ thù. Lãnh đạo Đảng cho rằng cần phải huy động nhân dân Lào, Cambodia vào cuộc chiến để tích cực đóng góp cho cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Bằng cách mở rộng chiến trường Đông Dương, những nhà chiến lược Việt Minh hy vọng sẽ phân tán quân Pháp, khiến chúng yếu đi khi bị tấn công. Theo một tài liệu của Đảng tháng 8-1948, nếu sông Rhine được coi là tuyến đầu phòng thủ nước Anh trong Thế chiến II, thì sông Mekong cũng tương tự đối với Việt Nam. Như Trường Chinh viết trong một bài báo năm 1947: “Nếu địch đánh phía trên, ta sẽ đánh chúng từ phía dưới. Nếu chúng đánh ở miền Bắc, ta sẽ đáp trả ở Trung Kỳ hoặc Nam Kỳ, hoặc Lào, Cambodia. Nếu địch thò chân vào căn cứ, ta sẽ đánh vào thắt lưng và hậu phương chúng, cắt chân chúng và phá huỷ đường xá”.[562]
Đảng đã hoạt động tích cực ở hai nước láng giềng Lào và Campuchia từ 1935, khi Đảng cộng sản Đông Dương họp Đại hội đảng toàn quốc lần thứ nhất ở Macao - đáp ứng yêu cầu Moscow rằng cách mạng ở ba nước Đông Dương phải liên kết chặt chẽ với nhau - và kêu gọi thành lập Liên bang Đông Dương tương lai dưới sự dẫn dắt của Việt Nam tương tự như Liên bang Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Xô viết. Nhưng nỗ lực xây dựng những chi bộ Đảng cộng sản Đông Dương ở công nhân thành thị (nhiều người trong số này gốc Việt Nam hoặc Trung Hoa) ở hai nước này chỉ thu được kết quả nhỏ nhoi tính đến trước Thế chiên II, khi lực lượng dân tộc chủ nghĩa địa phương thành lập những tổ chức mới Lào Issara và Khmer Issarak - thì mới thúc đẩy cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc. Khi xung đột Pháp-Việt xảy ra đầu năm 1947, những cán bộ đảng ở Lào và Campuchia được lệnh liên lạc với những tổ chức này, đặt họ dưới sự chỉ đạo của Việt Nam. Các cán bộ được hướng dẫn cẩn thận, tránh hạ thấp trong quan hệ với dân tộc Lào, Khmer và tránh để họ nhận thấy dấu hiệu sự thống trị Việt Nam.[563]
Chỉ có đám mây đen che phủ bầu trời là nguy cơ Hoa Kỳ can thiệp vào cuộc xung đột Đông Dương. Dù Hoa Kỳ từ chối xem xét đề nghị viện trợ trực tiếp cho tới khi nào Paris chính thức phê chuẩn Hiệp định Elysée, nhưng áp lực của Hoa Kỳ đối với cuộc chiến ngày một tăng. Nếu điều này xảy ra, Việt Minh cần người đỡ đầu hùng mạnh. Moscow hình như bàng quan với Việt Minh, Hồ và những đồng chí của ông chỉ còn một lựa chọn, quay sang Trung Quốc.
Từ khi kết thúc Thế chiến II, lãnh đạo Đảng cộng sản Đông Dương ít có liên lạc với Đảng cộng sản Trung Quốc. Mùa xuân năm 1947, một đường liên lạc vô tuyến được thành lập nối với trụ sở Đảng cộng sản Trung Quốc ở Diên An, Chu Ân Lai và Hồ Chí Minh trao đổi tin tức giữa hai đảng và tìm cách giúp đỡ lẫn nhau. Mối liên lạc cũng diễn ra giữa những đơn vị Việt Minh và những phần tử Đảng cộng sản Trung Quốc rải rác hoạt động ở các tỉnh sát biên giới, đôi khi cả hai bên phối hợp chung chống lại Pháp. Theo nguồn tin từ phía Pháp, một lúc nào đó năm 1946 những người cộng sản dọc biên giới đã thành lập những đơn vị hỗn hợp Trung-Việt gọi là Trung đoàn Độc Lập tiến hành chiến tranh du kích chống Pháp tại vùng này. Nhóm này hoạt động chủ yếu ở vùng dân tộc thiểu số Nùng và Thổ ở cả hai bên biên giới. Tuy nhiên, lúc đầu, lãnh đạo Việt Minh chủ trương giữ mối quan hệ hạn chế để tránh gây phức tạp trong mối quan hệ của họ với những phần tử dân tộc chủ nghĩa địa phương.[564]
Khi nội chiến Trung Hoa bắt đầu 1948, Quân đội giải phóng nhân dân Trung Quốc hoạt động mạnh hơn dọc biên giới và tăng cường hợp tác với những đơn vị Việt Minh. Việc cộng sản Trung Quốc tràn xuống nam Trung Hoa khiến Pháp bối rối, tháng 3, tướng Salan, thay thế tướng Valluy làm tư lệnh Quân đội viễn chinh Pháp, đề nghị hành động mạnh mẽ khôi phục kiểm soát của Pháp ở vùng biên giới trước thắng lợi của lực lượng Cộng sản Trung Hoa.
Để thực hiện những chiến dịch mới đánh vào Việt Bắc, Salan đòi tăng quân. Salan đã không tiếc lời chỉ trích chính phủ thờ ơ. Ngay lập tức tháng 4-1948, lấy cớ Salan còn trẻ và thiếu kinh nghiệm quân sự, Paris đã cử tướng Blaizot sang thay. Khi tới Đông Dương, Blaizot đề xuất rút lui chiến thuật khỏi biên giới, củng cố quân Pháp ở châu thổ sông Hồng nhằm chuẩn bị cho một tấn công lớn vào Việt Bắc. Cao uỷ Léon Pignon (Bollaert cũng bị thay) đồng ý, nhưng không mấy tin vào kế hoạch tấn công quân sự của Blaizot.
Để hoà giải mâu thuẫn, Paris cử tướng Revers đi thị sát vào tháng 5-1949. Revers đả kích chiến lược hiện thời cả về mặt chính trị lẫn quân sự, không tin tưởng gì chính phủ tham nhũng của Bảo Đại, đề nghị đặt chức Cao uỷ nắm cả quân sự lẫn chính trị. Nhưng ông cũng khá bi quan về giải pháp quân sự, cho rằng cách tốt nhất để cải thiện tình hình là thương lượng. Revers gợi ý quân Pháp củng cố vùng Bắc Bộ cho đến khi thuyết phục được Hoa Kỳ đưa quân tham chiến trực tiếp. Về chính sách, biên giới cần phải được giữ, nhưng quân Pháp không đủ sức giữ nổi toàn bộ. Tạm thời, Revers khuyên nên phòng thủ biên giới đoạn từ Móng Cái đến Thất Khê. Các chỗ biên giới còn lại thì rút hết.
Do quân Pháp suy yếu và những đơn vị Giải phóng quân Trung Quốc đầu tiên tiến sát biên giới, viễn cảnh Việt Nam bắt đầu cải thiện. Đầu năm 1949, du kích Việt Minh tấn công dọc vùng biên giới. Tình báo Pháp báo cáo những cuộc hành quân này đều có sự phối hợp với quân đội Trung Quốc phía bắc biên giới. Bản báo cáo khẳng định, cuối tháng 3, những đơn vị Giải phóng quân Trung Quốc chiếm thị trấn Móng Cái, sau đó rút lui về bên kia biên giới. Có tin vào tháng 4, Võ Nguyên Giáp đã ký một thoả thuận tạm thời với đại diện cộng sản Trung Quốc tại Tĩnh Tây kêu gọi cộng tác và liên kết quân đội hai nước ở vùng biên giới. Theo nguồn tin ngoại giao Hoa Kỳ, cũng tháng đó đài phát thanh Việt Minh tuyên bố, những đơn vị Giải phóng quân Trung Quốc đã tới vùng biên giới và đang có sự “giúp đỡ quan trọng” cho Việt Minh.[565]
Mùa xuân năm 1949, quân đội Cộng sản Trung Quốc vượt sông Dương Tử tiến vào nam Trung Hoa, chuẩn bị thành lập một chính quyền mới ở Bắc Kinh. Tưởng Giới Thạch chuẩn bị sơ tán chính phủ ông sang đảo Đài Loan. Lãnh đạo Việt Minh hy vọng một nước Trung Quốc anh em ở biên giới bắc Đông Dương sẽ tạo ra sự lạc quan về một cuộc tấn công chờ từ lâu nằm trong tầm tay. Tình báo Pháp báo cáo, có một cuộc họp lớn của giới lãnh đạo Việt Minh, có Hồ Chí Minh tham dự, tổ chức vào tháng 4 gần Vinh để đánh giá tình hình; Hồ tuyên bố, mặc dù Pháp tăng quân có tạo ra vấn đề, nhưng có thể tổng tấn công với sự giúp đỡ của Trung Quốc. Để chuẩn bị cho tình huống này, cuộc họp quyết định chuẩn bị mở một chiến tuyến dọc biên giới, tạo thuận lợi tiếp xúc với Giải phóng quân Trung Quốc.[566]
Tất cả điều này, tất nhiên, là tin tức tốt cho Việt Minh. Nhưng Hồ Chí Minh rõ ràng ý thức được bất kỳ một dự dính líu của Việt Minh với cộng sản Trung Hoa có thể đầu độc mối quan hệ những người Việt Nam ôn hoà và tạo cớ để Hoa Kỳ nhúng tay vào cuộc chiến với Pháp. Tránh bị ngờ vực đó, ông thường xuyên phủ nhận chính phủ ông có liên hệ với chính quyền mới ở Trung Hoa. Tháng 3-1949, ông phủ nhận đã có một thoả thuận với Trung Quốc chỉ là “tin đồn của bọn thực dân”. Tháng sau, ông nói với một nhà báo Mỹ trong một cuộc phỏng vấn ở Việt Bắc, độc lập sẽ đến qua những nỗ lực của bản thân Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và gạt bỏ lời cáo buộc “cộng sản thống trị Việt Minh” coi đó là “trò tuyên truyền của Pháp”. Tháng 8-1949, ông thú nhận có một số tươmg đồng giữa “nền dân chủ mới” của Mao Trạch Đông và những chính sách của chính phủ ông, nhưng “Nền dân chủ mới Trung Quốc là của Trung Quốc, của chúng tôi là Việt Nam”.[567]
Việc Pháp công nhận Quốc gia Liên hiệp của Bảo Đại là chính phủ hợp pháp duy nhất ở Việt Nam cũng gây thêm thách thức mới. Bởi vì việc này có thể làm Hoa Kỳ hết nghi ngờ những ý định của Pháp, đẩy Hoa Kỳ trực tiếp nhảy vào cuộc chiến tranh Pháp-Việt. Tháng 6-1949, trong một nỗ lực gây ảnh hưởng đến những sự kiện ở Paris, trả lời phỏng vấn của một nhà báo Indonesia, Hồ nói, Việt Minh muốn thương lượng với Pháp về điều kiện độc lập dân tộc và thống nhất. Nhưng thắng lợi cuối cùng của cộng sản Trung Hoa mùa hè năm đó chắc chắn thuyết phục nhiều người trong giới lãnh đạo đảng thắng lợi hoàn toàn chỉ đạt được bằng quân sự, do vậy cũng chẳng cần tìm cách thương lượng. Ngày 9 tháng 7, Phạm Ngọc Thạch, bấy giờ là đại diện Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ở Nam Bộ, vạch mặt Bảo Đại là “bù nhìn trong tay bọn can thiệp nước ngoài” với nhà báo Pháp, những thắng lợi mới đây của quân đội Trung Quốc báo trước kết thúc thời gian khó khăn của Việt Minh. Cuối tháng đó, tình báo Pháp báo cáo, Võ Nguyên Giáp ra lệnh chuẩn bị chuyển sang giai đoạn cuối cùng: Tổng tấn công.[568]
Giữa tháng 8, chính phủ họp bí mật quyết định chính thức yêu cầu chính phủ mới của Trung Quốc viện trợ để chống Pháp. Hồ Chí Minh cử hai đại diện đến Bắc Kinh chúc mừng Mao Trạch Đông chiến thắng Tưởng Giới Thạch. Hồ tuyên bố, thắng lợi đó khuyến khích những dân tộc châu Á khác và đặc biệt nhân dân Việt Nam cố gắng tự giải phóng bản thân khỏi sự áp bức của chế độ thuộc địa. Ngay sau đó, Hồ quyết định đi thăm Trung Hoa thắt chặt mối quan hệ của ông với những nhà lãnh đạo mới ở Bắc Kinh.[569]
Hai đại biểu Việt Nam đến Bắc Kinh giữa tháng 10, hội ý với những quan chức Trung Quốc. Họ tới đúng thời điểm tế nhị. Chính phủ mới vừa được thành lập tại cuộc mít tinh quần chúng Quảng trường Thiên An Môn ngày 1 tháng 10 và sẽ có vai trò trên chính trường thế giới. Dù Mao Trạch Đông tuyên bố, nước Trung Hoa mới “sẽ nghiêng về một phía” trong quan hệ với Liên Xô, nhưng độ nghiêng về Moscow vẫn chưa được xác định, khi cuộc gặp trực tiếp giữa Stalin và Mao vẫn chưa diễn ra. Trong khi quan hệ với Hoa Kỳ căng thẳng trong những tháng gần đây, những đại diện ngoại giao Hoa Kỳ còn lại ở Trung Hoa, một số quan chức ở Washington vẫn còn hy vọng - nếu không phải do Bắc Kinh - sự rạn vỡ ngoại giao có thể không xảy ra.
Chính phủ Trung Hoa mới lần đầu tiên công khai thái độ đối với cuộc chiến ở Đông Dương vào tháng 11-1949, khi Lưu Thiếu Kỳ - một người quen của Hồ từ những ngày ở Quảng Châu bây giờ đứng thứ hai sau Mao Trạch Đông trong hàng ngũ Đảng - có bài phát biểu quan trọng tại Hội nghị Liên hiệp Công đoàn thế giới ở Bắc Kinh. Trong bài phát biểu dài, Lưu Thiếu Kỳ tuyên bố chính phủ Trung Hoa sẽ tích cực giúp đỡ những phong trào giải phóng dân tộc ở châu Á. Ông đặc biệt kể đến cuộc đấu tranh ở Đông Dương và ở Malaysia, nơi những du kích cộng sản kháng chiến chống lại chính quyền thuộc địa Anh. Lần phát biểu thứ hai cuối tháng đó, Lưu Thiếu Kỳ kêu gọi nhân dân Trung Hoa tích cực ủng hộ các dân tộc bị áp bức tại các nước thuộc địa châu Á và châu Úc. Lúc đó, tất cả những chính phủ cộng sản khác trên thế giới công nhận về mặt ngoại giao chính phủ mới ở Bắc Kinh. Tháng 10, một bài báo của Trường Chinh đăng trên báo Sự thật (của Đảng cộng sản Đông Dương) chúc mừng chính phủ mới của Mao Trạch Đông. Trường Chinh tuyên bố thắng lợi của cộng sản Trung Hoa là thắng lợi của tất cả các dân tộc dân chủ và yêu chuộng hoà bình trên thế giới, đặc biệt của những dân tộc thuộc địa đang chiến đấu chống lại những thế lực chủ nghĩa đế quốc toàn cầu. Ngày 25-11-1950, Bắc Kinh đáp lại bằng một bài ngắn tuyên bố xúc tích rằng Trung Quốc và Việt Nam “cùng chung một chiến hào trong đội tiên phong đấu tranh chống lại chủ nghĩa đế quốc”.[570]
Tháng 12-1949, Việt Nam Dân chủ Cộng hoà họp hội nghị công đoàn toàn quốc lần đầu tiên ở Việt Bắc. Tại gian hội nghị, treo chân dung cỡ lớn Stalin, Mao, và Hồ Chí Minh, hai trăm đại biểu lắng nghe Trường Chinh công bố sự liên kết tư tưởng và chính trị của Việt Nam Dân chủ Cộng hoà với chính quyền mới ở Trung Hoa. Trong một bức thư đọc to tại hội nghị, Hồ Chí Minh chỉ rõ giai cấp công nhân phải là lực lượng lãnh đạo dân tộc. Nghị quyết Hội nghị chúc mừng nhân dân Trung Hoa, thắng lợi của nó “làm thay đổi cán cân lực lượng dân chủ”.[571]
Giữa tháng 12, Mao Trạch Đông đi Moscow đặt mối quan hệ với Liên Xô. Có lẽ không đủ thời gian để giới lãnh đạo Trung Quốc đáp lại đề nghị của Việt Minh trước khi Mao lên đường tới Liên Xô, nhưng vào giữa tháng 12, Lưu Thiếu Kỳ nói với La Quý Ba, sĩ quan trong Bộ Tổng tham mưu Giải phóng quân Trung Quốc, ông ta sẽ được cử tới Đông Dương gặp Hồ Chí Minh và những quan chức Việt Nam khác. Lưu Thiếu Kỳ giải thích, La Quý Ba có ba việc: cám ơn Việt Nam đã giúp đỡ trong thời gian nội chiến Trung Hoa; khôi phục liên lạc bình thường giữa hai đảng; và thu nhận tin tức tình hình Đông Dương. Sau ba tháng ở Việt Nam, La Quý Ba được lệnh trở về Trung Quốc báo cáo những phát hiện của mình.[572]
Ngày 24 tháng 12, một tuần sau khi Mao đi Liên Xô, Lưu Thiếu Kỳ họp Bộ Chính trị để phân tích tình hình Đông Dương, hoạch định chính sách. Bất kỳ sự giúp đỡ nào cho Việt Minh sẽ không phải là không trả giá, vì chính phủ Pháp vẫn chưa quyết định có công nhận về mặt ngoại giao nước Trung Hoa mới và sẽ bị xúc phạm nếu Bắc Kinh công nhận Việt Minh. Ngày hôm sau, thay mặt Mao, Lưu Thiếu Kỳ thông báo cho ban lãnh đạo Việt Nam bằng điện tín, chính phủ Trung Hoa chuẩn bị gửi một đoàn cán bộ giúp đỡ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Ông cũng mời Việt Nam cử đoàn đại biểu chính thức đến Bắc Kinh thảo luận vấn đề này.
Vài ngày sau, Lưu Thiếu Kỳ nhận được hồi âm từ Đông Dương nhận lời mời. Hồ Chí Minh bàn bạc tình hình với nội các giữa tháng 12, kết luận thắng lợi của Mao mở ra triển vọng sáng sủa cho cách mạng Việt Nam. So sánh thắng lợi của cộng sản trên đại lục Trung Hoa đối với bàn cờ trong đó “quân đỏ” đã chiến thắng thuyết phục, Hồ tiên đoán nước Trung Hoa mới sẽ có giúp đỡ đáng kể cho Việt Minh và kêu gọi tăng cường chuẩn bị cuộc tổng tấn công sắp tới.
Lúc này, những quan chức Bắc Kinh nhận được bức thư của Việt Nam, cho biết một đoàn đại biểu những quan chức Việt Nam đã rời Việt Nam đi bộ tới Trung Quốc. Mặc dù Bắc Kinh được thông báo trưởng đoàn là Cục trưởng hậu cần thuộc Bộ tham mưu Trần Đăng Ninh, thực chất Hồ chính là người dẫn đầu đoàn đại biểu Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Để tránh thu hút chú ý của lực lượng an ninh Pháp, mọi người trong đoàn của Hồ phải giữ bí mật; trên thực tế, chỉ hai thành viên trong toán biết được sự có mặt của ông. Sau khi rời căn cứ Việt Minh ở tỉnh Tuyên Quang ngày 20 tháng 12, toán đi bộ vượt biên giới. Hồ mặc bộ quần áo kiểu Tôn Dật Tiên bằng ka-ki quen thuộc, mang bí danh Ding. Ngày 16 tháng 1 năm 1950, đoàn đến Tĩnh Tây. Được một Giải phóng quân Trung Quốc hộ tống, họ tiếp tục tới Nam Ninh, tại đây đoàn gặp quan chức Trung Quốc và được thông báo, Cộng hoà nhân dân Trung Hoa vừa quyết định công nhận về mặt ngoại giao Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Tuyên bố này của Trung Quốc vào ngày 18 tháng 1, bốn ngày sau khi nguồn Việt Minh ở Bangkok tuyên bố Việt Nam Dân chủ Cộng hoà là chính phủ hợp pháp duy nhất ở Việt Nam. Sau khi nghỉ ngơi, Hồ và các đồng chí của ông lên tầu hoả đến thành phố cảng Vũ Hán trên sông Dương Tử.[573]
Vài ngày sau, đoàn đại biểu tới Bắc Kinh, tại đây Hồ gặp đồng chí cũ Hoàng Văn Hoan, người từ châu Âu tới quá muộn nên không dự Hội nghị Công đoàn thế giới tháng 11. Trung Quốc cố gắng giữ kín chuyến đi của phái đoàn Việt Nam, nhưng tình báo phương Tây vẫn biết. Tin này nhanh chóng xuất hiện trong giới thạo tin phương Tây. Lưu Thiếu Kỳ cử tướng Chu Đức đứng đầu phái đoàn hội đàm với Hồ Chí Minh, trong đó vấn đề quân sự chắc chắn sẽ đem ra bàn. Chu Đức là cánh tay phải của Mao, bây giờ phó chủ tịch nước kiêm Tư lệnh Giải phóng quân Trung Quốc, đồng thời Lưu Thiếu Kỳ thông báo cho Mao Trạch Đông ở Moscow về chuyến đi của Hồ. Mao điện trả lời, đề nghị Lưu Thiếu Kỳ chuyển lời chào nồng nhiệt của ông tới Hồ Chí Minh và chúc mừng Việt Nam Dân chủ Cộng hoà vào phe xã hội chủ nghĩa.
Tại Bắc Kinh, Hồ sống ở Trung Nam Hải, trong khu biệt thự xa hoa trong phía Tây của Hoàng cung nơi Mao Trạch Đông sống. Một số nhân vật Bộ Chính trị Đảng cộng sản Trung Quốc cũng sống ở Trung Nam Hải. Lưu Thiếu Kỳ chính thức thông báo cho Hồ Chí Minh biết, Trung Quốc quyết định công nhận về mặt ngoại giao nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, nhấn mạnh, giới lãnh đạo Trung Quốc cũng biết sẽ phải trả giá việc này trong quan hệ với Pháp. Tại bữa tiệc chiêu đãi đoàn, Lưu Thiếu Kỳ đề nghị đại sứ Liên Xô Roshin, Hồ Chí Minh muốn tới Moscow với tư cách cá nhân để hội đàm với Stalin và trình bày với Stalin tình hình hiện tại ở Đông Dương. Stalin chấp thuận bằng điện báo, Hồ và Trần Đăng Ninh cùng Chu Ân Lai rời Bắc Kinh lên đường tới Moscow ngày 3 tháng 2. Hoàng Văn Hoan ở lại Bắc Kinh lo chuẩn bị mở Đại sứ quán Việt Nam.[574]
Sau khi Thế chiến II kết thúc, sự quan tâm của Liên Xô đến vận mệnh cách mạng Việt Nam xuống tới mức thấp nhất. Trong một bài phát biểu nổi tiếng tháng 9-1947, Andrey Zhdanov - nhân vật đứng sau Stalin - tuyên bố Liên Xô ủng hộ cuộc đấu tranh của các dân tộc thuộc địa bị áp bức chống lại bọn thực dân đế quốc, ngụ ý Liên Xô ủng hộ những lực lượng dân tộc chủ nghĩa tư sản chiến đấu giành độc lập ở những nước thuộc địa. Nhưng đầu năm 1948, chính sách Liên Xô thay đổi hẳn, tỏ ra cực đoan hơn, khi những Đảng cộng sản ở châu Á được chỉ thị phải huỷ bỏ liên minh tạm thời với những tổ chức dân tộc chủ nghĩa và tự giành chính quyền. Chính sách đó, có lẽ được truyền đạt tại hội nghị thanh niên thế giới họp ở Calcutta, thật là một thảm hoạ, tại Đông Ấn Độ (thuộc Hà Lan) cuộc nổi dậy của những người cộng sản bị đàn áp, các Đảng cộng sản bị gạt ra khỏi mặt trận thống nhất bởi những kẻ thù dân tộc chủ nghĩa trên toàn Đông Nam Á.
Việc Moscow chống đối không khoan nhượng với những đảng tư sản dân tộc chủ nghĩa - quan điểm này khiến người ta nhớ lại chính sách đầu thập niên 1930 - đã phản ánh quan điểm của Stalin trước việc Quốc-Cộng mặt trận thống nhất trong thập niên 1920. Theo những người thân cận, Stalin từ lâu đã nghi ngờ quan điểm tư tưởng không chính thống của Hồ Chí Minh và càng nghi ngờ hơn khi Hồ tìm kiếm mối quan hệ với Hoa Kỳ ngay sau chiến tranh Thái Bình Dương. Stalin không hài lòng khi Đảng cộng sản Đông Dương chính thức tự giải tán tháng 11-1945. Hai năm sau, khi Moscow công nhận về mặt ngoại giao nước Cộng hoà Indonesia của Sukarno mà không công nhận Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, có lẽ nghi ngờ Việt Minh sẽ chiến thắng trong cuộc chiến chống Pháp.
Trong những năm đầu xung đột Pháp-Việt, Việt Nam có lẽ không có liên lạc trực tiếp với Liên Xô, mặc dù đoàn đại biểu Đảng cộng sản Pháp tới Đông Dương năm 1949 có thể nhận lệnh Moscow đánh giá tình hình. Dù thế nào đi nữa, cuối tháng 8-1949 Hồ cũng gửi thư cho Stalin, cám ơn Liên Xô ủng hộ Đảng cộng sản Trung Quốc trong nội chiến và giúp đỡ Liên hiệp Công đoàn thế giới.[575]
Stalin nghi Hồ và viễn cảnh Việt Minh thể hiện rõ ràng khi Hồ tới thăm Moscow. Theo Nikita Khrushchev, Stalin đối xử với Hồ với thái độ khinh miệt công khai trong chuyến thăm. Hai hoặc ba ngày sau khi Hồ tới, phía lãnh đạo Liên Xô họp với Stalin, theo lời Khrushchev, Stalin tỏ thái độ với Hồ một cách“khiêu khích và xúc phạm”. Khi Stalin và Mao Trạch Đông ký Hiệp ước Liên minh ngày 14-2-1950, Hồ Chí Minh tham dự lễ ký và đề nghị Stalin ký một Hiệp ước tương tự với Việt Nam. Stalin chối phắt, vì Hồ đi thăm Moscow bí mật. Khi Hồ đề nghị đưa ông lên trực thăng bay vòng Moscow và sau đó hạ cánh tại sân bay với nghi lễ thích hợp, Stalin đáp: “Ông đúng là người phương Đông! Người phương Đông các ông thật giàu trí tưởng tượng!” Hồ Chí Minh dùng mọi mưu mẹo quen thuộc của mình tranh thủ sự ủng hộ của vị chủ nhà thô lỗ. Cuối cuộc gặp, ông đề nghị Stalin ký vào tạp chí “Liên Xô kiến thiết”. Theo Khrushchev, Stalin phản ứng theo lối đa nghi vốn có, ký vào tạp chí, sau đó nói vệ sĩ riêng, ông lỡ ký và nói họ lấy về. Sau khi vệ sĩ đem lại, Stalin nói đùa với những người bạn: “Ông ta chắc vẫn đang đi tìm cuốn tạp chí, nhưng ông ta làm sao tìm được!”.[576]
Dù vậy, Stalin cuối cùng cũng phải chấp nhận một số đòi hỏi của Hồ Chí Minh. Ngày 30-1-1950, Moscow chính thức tuyên bố công nhận về mặt ngoại giao Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, chính phủ hợp pháp duy nhất của Việt Nam. Nhưng sự nghi ngờ của Stalin về quan điểm tư tưởng không chính thống của Hồ Chí Minh vẫn không bớt đi. Nguồn tin Việt Nam vẫn còn kể câu chuyện (nhưng chắc chắn) rằng tại một cuộc gặp giữa hai người vào năm 1952, Stalin chỉ hai chiếc ghế và nói: “Đồng chí Hồ, một chiếc là dành cho người dân tộc chủ nghĩa, một cho người quốc tế chủ nghĩa, đồng chí sẽ ngồi ghế nào?”. Hồ đáp, “Thưa đồng chí Stalin, tôi sẽ ngồi cả hai ghế này”.[577]
Tại sao Stalin quyết định công nhận về mặt ngoại giao nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, bất chấp sự dè chừng Đảng cộng sản Đông Dương và Hồ Chí Minh? Theo phía Trung Quốc, Stalin quan tâm đến cuộc hội đàm Mao Trạch Đông. Mao đến Moscow với mục đích phải ký được một Hiệp ước với Liên Xô đòi trả lại một số vùng đất Liên Xô chiếm của Trung Hoa theo Hội nghị thượng đỉnh Yalta tháng 2-1945. Stalin muốn giữ những vùng đất này vì lý do an ninh, nhưng Stalin sợ Trung Quốc trả đũa có thể làm việc trực tiếp với Hoa Kỳ. Do vậy, điều quan trọng với Stalin là phải bảo đảm chính sách đối ngoại Trung Quốc ở châu Á phải quá khích khiến Hoa Kỳ phải chống đối, do đó cản trở khả năng Bắc Kinh liên minh với Mỹ. Tại cuộc gặp ba bên ở Moscow, Stalin khuyến khích Mao cầm đầu cách mạng châu Á. Stalin hứa với Hồ Chí Minh, Liên Xô sẽ giúp Việt Nam tất cả những gì có thể, nhưng Trung Quốc phải có vai trò nổi bật trong đấu tranh trực tiếp. Stalin nói với Hồ “Chúng tôi quan tâm tới Việt Nam giống như chúng tôi quan tâm tới Trung Quốc, từ nay, ông có thể tin vào sự giúp đỡ của chúng tôi, đặc biệt trong kháng chiến, chúng tôi đủ vật tư hậu cần, và chúng tôi sẽ chở tới Việt Nam qua Trung Quốc. Nhưng do hoàn cảnh địa lý, Trung Quốc sẽ giúp Việt Nam là chính. Cái gì mà Trung Quốc thiếu, chúng tôi sẽ cung cấp”. Mao cam đoan với Hồ Chí Minh, “Bất cứ thứ gì mà Trung Quốc có và Việt Nam cần, chúng tôi sẽ cung cấp”.[578]
Ngày 17 tháng 2, Hồ theo Mao Trạch Đông và Chu Ân Lai đi tầu hoả qua Siberia trở về Bắc Kinh. Giống như Hồ Chí Minh, Mao đã có được một phần những gì ông muốn từ Moscow. Hiệp ước Trung-Xô ít nhiều đã loại bớt những yếu tố ô nhục trong Hiệp định Yalta và Moscow hứa viện trợ kinh tế. Những thứ kiếm được cũng khá nhọc nhằn. Sau này Mao kể cho những đồng chí của mình,“lấy được cái gì đó từ Stalin chẳng khác gì giằng miếng thịt ra khỏi miệng hổ”.
Tầu hoả về đến Bắc Kinh ngày 3-3-1950. Mao mở tiệc chiêu đãi Hồ Chí Minh tại Trung Nam Hải, có tất cả các quan chức lãnh đạo Trung Quốc tham dự. Trong các cuộc thương lượng chính thức, Cộng hoà nhân dân Trung Hoa đồng ý đảm bảo an ninh tại biên giới, cho phép Việt Nam lập lãnh sự quán tại thành phố Nam Ninh và Côn Minh ở Hoa Nam. Đổi lại, Hồ bổ nhiệm Hoàng Văn Hoan làm đại sứ Việt Nam đầu tiên tại Trung Hoa, chỉ thị Hoan chuyển trụ sở hải ngoại của Đảng cộng sản Đông Dương từ Thái Lan (trụ sở này đóng tại đó từ khi bắt đầu chiến tranh Pháp-Việt), về Trung Quốc. Theo lời một kẻ đào tẩu, Hồ cũng đồng ý cung cấp chỉ dẫn cho những Đảng cộng sản anh em khắp khu vực này, ông quay lại vai trò một nhân viên Quốc tế Cộng sản đầu thập niên 1930. Ngày 11-3, Hồ và những đồng chí của ông rời Bắc Kinh lên đường về nước.
Hồ Chí Minh chắc chắn hài lòng về kết quả chuyến đi. Ông đã giành được sự công nhận về mặt ngoại giao của hai nước xã hội chủ nghĩa lớn, lời hứa và viện trợ kinh tế, quân sự - tuy hạn chế - từ hai nước đàn anh. Việt Minh không còn chiến đấu đơn độc. Trong khi đó, Trung Quốc cũng kiếm lợi từ mối quan hệ mới được thiết lập với Việt Nam. Theo nguồn tin Trung Quốc, Mao Trạch Đông tin chiến tranh với Mỹ không thể tránh được, nó có thể nổ ra tại bất cứ điểm nào dọc biên giới Trung Hoa. Vì lý do đó, Mao cho rằng điều quan trọng với Trung Quốc là phải phòng thủ vững không những ở Triều Tiên, mà còn cả ở Đông Dương nữa.[579]
Nếu Hồ Chí Minh, bằng nhậy cảm chính xác của mình trước bối cảnh quốc tế thay đổi, lo ngại mối quan hệ gần gũi giữa chính phủ ông và chính quyền mới ở Trung Hoa có thể chọc tức Hoa Kỳ đang đóng vai trò quan trọng cuộc chiến Đông Dương thì nỗi lo này của ông rất chính đáng. Trên thực tế, quyết định của Bắc Kinh giữa tháng 1-1950 công nhận về mặt ngoại giao Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, tiếp đó hai tuần sau, Liên Xô cũng làm như vậy, đã tác động manh đến Washington. Chính quyền Truman cảm thấy lo ngại trước những nỗ lực của Pháp lôi kéo những phần tử không cộng sản ở Việt Nam chống lại Mặt trận Việt Minh. Pháp chọn Bảo Đại đối trọng với Hồ Chí Minh, đại diện hợp pháp của dân tộc Việt Nam, gây nên không ít nghi ngờ trong giới quan chức Mỹ, những người này xem vị cựu hoàng thiếu tính cả quyết và không có được lòng dân để đảm đương trách nhiệm đứng đầu quốc gia độc lập ở Việt Nam.
Việc ký Hiệp định Elysée tháng 3-1949, do vậy chỉ nhận được phản ứng lãnh đạm ở Washington. Dean Acheson, thay George C. Marshall làm ngoại trưởng đầu năm 1949, điện cho đại sứ Mỹ David Bruce ở Paris rằng theo ông, nếu Pháp không đảm bảo nhiều quyền tự trị thêm cho quốc gia Việt Nam non trẻ, họ sẽ không thành công. Giới báo chí loan tin Nhà Trắng đang chuẩn bị tiếp cận Hồ Chí Minh về việc tham gia chính phủ liên hiệp với Bảo Đại. Những tin đồn khác đánh giá, hai đối thủ Việt Nam đang đi đêm với nhau. Hồ Chí Minh, tất nhiên, tận dụng cơ hội những tin đồn như thế để kẻ thù của ông bớt giận. Trong một cuộc phỏng vấn với nhà báo Mỹ Harold Isaacs, ông tuyên bố không phải cộng sản. Ông khẳng định chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà là một chính phủ có thành phần rộng rãi gồm những người dân tộc chủ nghĩa có năng lực, không phải là chư hầu của Liên Xô.[580]
Tin đồn Hoa Kỳ đang chơi trò chính phủ liên hiệp Hồ-Bảo Đại cũng không được xác nhận. Dù Dean Acheson không tin Bảo Đại có khả năng đại diện cho nhân dân Đông Dương, song ông thậm chí nghi ngờ sự nguỵ trang Hồ Chí Minh dưới vỏ một “người cộng sản dân tộc” theo đường lối nhà lãnh đạo Nam Tư Josif Broz Tito, người mới đây bị khai trừ ra khỏi khối Liên Xô do ông có quan điểm độc lập. Phải chăng Hồ là một người dân tộc chủ nghĩa hay chỉ là một người cộng sản giáo điều, là điều mà Acheson lập luận vì trong xã hội thuộc địa tất cả những người cộng sản cũng đồng thời là những phần tử dân tộc chủ nghĩa. Khi nào nắm được quyền lực, thì xu hướng cực đoan Stalin sẽ lộ ra.[581]
Suốt sáu tháng cuối năm 1949, Nhà Trắng bác bỏ lời xin xỏ của Pháp đòi Mỹ công nhận về mặt ngoại giao chế độ Bảo Đại và từ chối giúp đỡ Pháp chiến đấu ở Đông Dương, đồng thời bắn tin, sẽ có viện trợ nếu Pháp chấp thuận độc lập thực sự cho quốc gia thân thiện mới này. Nhưng vấn đề này vẫn gây ra tranh cãi ngày càng mạnh trong Bộ ngoại giao Hoa Kỳ. Quan chức Vụ châu Âu lập luận, công nhận chính phủ Bảo Đại là cách nhân nhượng Pháp, nhưng quan chức Vụ châu Á cho rằng việc công nhận sẽ làm xa lánh những lực lượng dân tộc chủ nghĩa ở Việt Nam và những nơi khác. Tháng 6, Acheson thuyết phục Pháp nhượng bộ thêm, nhưng sau khi đại sứ Bruce cực lực phản đối những hành động đó sẽ làm Pháp phản ứng, Acheson (vốn là dân gốc châu Âu) lùi bước, chỉ thị Bruce thông báo cho Pháp biết những hành động của Hoa Kỳ trong tương lai sẽ phụ thuộc vào việc thực thi Hiệp định Elysée. Chỉ còn lại rất ít quan chức Mỹ tiếp tục phát biểu chống lại giải pháp Bảo Đại. Raymond Fosdick, cựu chủ tịch Quỹ Rockefeller Foundation, thành viên chủ chốt của nhóm cố vấn cho chính quyền Truman về chính sách châu Á, khuyến cáo, thí nghiệm Bảo Đại sẽ thất bại và Hiệp định Elysée chỉ là “chuyện làm ăn lèm nhèm” và “vật thế chấp rẻ tiền” cho độc lập. Dù Fosdick công nhận Hồ Chí Minh không phải là sự lựa chọn hấp dẫn, song ông cho Hồ là một nhân tố không thể tiên đoán được do những mối quan hệ phức tạp giữa Trung Quốc và Việt Nam, cái đó “cuối cùng có lợi cho chúng ta hơn”.[582]
Quan điểm của Fosdick không có tiếng vang ở một thành phố mà vấn đề cộng sản bây giờ được nhìn trong bóng mây đen Chiến tranh lạnh. Sự hình thành nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa ngày 1-10-1949, đã đổ thêm dầu vào ngọn lửa của Quốc hội đả kích chính quyền Truman không có chính sách chống lại sự lan toả “làn sóng đỏ” ở châu Á. Trong những tháng cuối năm, Washington vẫn chưa quyết định vấn đề chống lại áp lực của Pháp chiến đấu ở Đông Dương, hy vọng Paris sẽ chấp nhận quyền tự trị nhiều hơn cho chính quyền Bảo Đại.
Tuy nhiên, việc Quốc hội Pháp chính thức phê chuẩn Hiệp định Elysée ngày 29-1-1950, kết hợp với những báo cáo của Pháp về sự giúp đỡ của Trung Quốc cho Việt Minh, đã thay đổi tương quan.
Đầu tháng 2-1950, Nhà Trắng quyết định công nhận về mặt ngoại giao chính phủ Bảo Đại. Bản dự thảo nhanh chóng được chính phủ thông qua và tổng thống đặt bút ký. Anh và một số nước khác theo gương Hoa Kỳ, dù những nhà ngoại giao Mỹ hết sức vận động, đa số chính phủ ở châu Á từ chối theo Mỹ. Ngay sau đó Nhà Trắng chấp nhận yêu cầu viện trợ quân sự của Pháp trong cuộc chiến chống lại làn sóng đỏ ở châu Á. Ngày 10-3-1950, Truman thông qua gói viện trợ quân sự trị giá 15 triệu đô la cho Đông Dương và 10 triệu đô la cho Thái Lan. Mỹ cũng cử những phái đoàn cố vấn tới Đông Dương để thực hiện tốt nhất chương trình này.
Nhóm liên lạc Trung Quốc do La Quý Ba cầm đầu vượt biên giới Việt Nam ngày 26-2-1950. Họ được Võ Nguyên Giáp và Hoàng Văn Thái tiếp đón. Hoàng Văn Thái, Tổng tham mưu trưởng dẫn nhóm này đến căn cứ địa Việt Minh ở Việt Bắc. Tại đây nhóm La Quý Ba gặp Tổng bí thư Trường Chinh - thay mặt Đảng khi Hồ Chí Minh vắng mặt, do đang ở Trung Hoa và Liên Xô.[583]
Ba tuần lễ sau khi Hồ lên đường đi Trung Quốc, cuối tháng 12-1949, Trường Chinh triệu tập cuộc họp dài ngày với các nhà lãnh đạo dân sự và quân sự thảo luận những kế hoạch tổng tấn công sắp tới. Hội nghị ra bản Nghị quyết Hội nghị toàn quốc lần thứ III tỏ rõ tin tưởng triển vọng vào thắng lợi cuối cùng. Tại hội nghị, Trường Chinh tuyên bố với sự hình thành nước Trung Hoa mới: “Chúng ta không còn bị vây hãm nữa; con đường ra thế giới đã mở ra cho Việt Nam. Chúng ta bây giờ đã có một đồng minh lớn mạnh bên cạnh”. Để chuẩn bị cho tổng tấn công, ngày 21-2 giới lãnh đạo đảng kêu gọi tổng động viên nhân lực dưới khẩu hiệu “Tất cả cho mặt trận, tất cả cho chiến tranh nhân dân, tất cả cho thắng lợi”.
Chắc chắn sự hiện diện Giải phóng quân Trung Quốc tại biên giới Hoa-Việt làm thay đổi cục diện chiến tranh Pháp-Việt. Ít nhất Trung Quốc bây giờ cung cấp cho Việt Minh những khu trú ẩn an toàn, trong trường hợp phải rút chạy khi Pháp tấn công. Quan trọng chẳng kém, đó là sự có mặt những lực lượng hùng hậu phía bắc biên giới Đông Dương gây khó khăn cho Pháp trong nỗ lực chống lực lượng kháng chiến ở Việt Bắc. Tình hình mới mở ra những khả năng bất ngờ chuyển thành chiến lược công kích mạnh để đánh bại lực lượng thực dân và thu được thắng lợi khắp toàn quốc.
Dù vậy, trong báo cáo tại Hội nghị Đảng toàn quốc lần thứ III, Trường Chinh thừa nhận một số người trong Đảng còn hoài nghi hoàn cảnh đã chín muồi để chuyển sang giai đoạn ba và ngay cả người phe cánh ông cũng hoài nghi. Chinh thận trọng nói, chiến dịch chưa phải là đạt được thắng lợi nhanh chóng, và cảnh tỉnh về một cuộc can thiệp của Anh hoặc Mỹ giúp Pháp hoặc xuất hiện chính phủ bảo thủ hơn ở Paris. Trong khi đó, ông cảnh báo các đảng viên, sự giúp đỡ của Trung Quốc cũng không bảo đảm Việt Minh thành công và khuyên Đảng cần phải chủ yếu dựa vào sức mình để dẫn đến thắng lợi.[584]
Cuộc tranh cãi trong Đảng tại hội nghị phản ánh những phân tích lâu dài tình hình do Bộ trưởng quốc phòng Võ Nguyên Giáp phát biểu. Giáp cho rằng Pháp vẫn chiếm những ưu thế quân sự khắp Đông Dương, nhưng ông tin vào sức mạnh tinh thần, sự lãnh đạo chiến lược của lực lượng cách mạng, phối hợp với tình hình quốc tế thuận lợi (ý nói công nhận về mặt ngoại giao và Liên Xô và Trung Quốc giúp đỡ quân sự), tất cả sẽ góp phần cho một thắng lợi quyết định. Giáp giải thích tấn công không phải chỉ trong một chiến dịch đơn lẻ, mà phải gồm một chuỗi những cuộc tấn công trên nhiều điểm khác nhau ở Đông Dương, đẩy cán cân nghiêng dần sang phía Việt Nam.[585]
Trong vòng vài tháng sau đó, Trung Quốc bắt đầu cung cấp vũ khí cho Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Tổ cố vấn quân sự Trung Quốc do tướng Vi Quốc Thanh tới căn cứ địa Việt Bắc huấn luyện cán bộ, dạy về chiến lược và chiến thuật. Trước khi rời Bắc Kinh, nhóm cố vấn này được giới lãnh đạo Trung Quốc cho biết nhiệm vụ của họ ở Việt Nam mang “ý nghĩa toàn cầu”. Lưu Thiếu Kỳ dặn, nếu kẻ thù không bị quét sạch khỏi Đông Dương, bọn đế quốc vẫn còn ở đó Trung Quốc sẽ gặp khó khăn hơn và phức tạp hơn.
Những đơn vị chủ lực Việt Nam đến Vân Nam vào tháng 4-1950 để huấn luyện. Trang bị quân sự phần nhiều là vũ khí tịch thu của Nhật hoặc Mỹ sản xuất được chở đến bằng đường bộ hoặc từ cảng Du Lâm (nam đảo Hải Nam). Theo thoả thuận hai bên, quân đội Trung Quốc không tham chiến trừ khi Việt Minh bị đe doạ tiêu diệt. Theo yêu cầu của Bắc Kinh, mọi thoả thuận được giữ bí mật tránh làm xấu thêm quan hệ của Trung Quốc với Pháp. Sự cẩn thận này vô ích vì Pháp hoàn toàn biết rõ chuyến đi của Hồ Chí Minh và tầm quan trọng của nó.[586]
Cuối mùa xuân, những trường huấn luyện cho quân đội Việt Minh được thiết lập tại một số nơi ở Hoa Nam. Phần lớn chương trình kéo dài ba tháng và được các cán bộ Tập đoàn Giải phóng quân Trung Quốc số 2 giảng dạy. Tháng 9-1950, khoảng mười hai ngàn quân Việt Nam được trang bị và huấn luyện ở Hoa Nam; khi trở về nước, nhiều người đã hoà vào Sư đoàn 308 mới thành lập. Hai trường cán bộ chính trị mở ra tại Nam Ninh và Khai Viễn tỉnh Vân Nam với các khoá học sáu tháng. Các cố vấn giỏi của Trung Quốc như La Quý Ba, Vi Quốc Thanh đều đặn tham dự các cuộc họp quan trọng với ban lãnh đạo Đảng Việt Nam.[587]
Mối quan hệ với Trung Quốc có tầm quan trọng lớn lao cho tương lai cách mạng Việt Nam. Tuy Việt Minh bây giờ có hơn 160.000 quân (ít hơn của Pháp chút ít), nhưng trang bị vẫn nghèo nàn, hoàn toàn thiếu khả năng hậu cần và pháo binh. Lần đầu tiên trong lịch sử ngắn ngủi của mình, Việt Nam Dân chủ Cộng hoà bây giờ có được sự giúp đỡ to lớn của nước láng giềng hùng mạnh. Những lời hứa cung cấp vũ khí, cố vấn và những quân nhu khác tạo cơ sở chuyển hướng chiến lược chiến tranh sang giai đoạn ba - tấn công phòng ngự.
Giới lãnh đạo Việt Nam không giấu tầm quan trọng của mối quan hệ mới. Trong một cuộc phỏng vấn của nhà báo Mỹ Andrew Roth tháng 8-1950, Hồ Chí Minh không còn trầm lặng như trước đây, nhấn mạnh phong trào giải phóng Việt Nam đã thay đổi chiến thuật và bây giờ đang áp dụng mô hình Trung Quốc. Ông nhấn mạnh khắp Việt Bắc đang có một chiến dịch học tập kinh nghiệm Đảng cộng sản Trung Quốc trong cuộc chiến đấu chống Nhật và Tưởng Giới Thạch; các tài liệu được đưa vào Việt Nam và phát cho các cán bộ và binh sĩ vùng. Các khoá học được tổ chức thường xuyên khuyến khích những học viên tiếp thu mô hình Trung Quốc và áp dụng vào thực tế ở Đông Dương.
Những tuyên bố công khai của Việt Minh vô tình phù hợp bất ngờ mô hình Trung Quốc một phần là giả dối, bởi vì, như chúng ta đã thấy, giới lãnh đạo đảng đã nhiều năm học hỏi rút ra bài học hữu ích từ cách mạng Trung Quốc. Một trong những tuyên bố chính thức đầu tiên của Hồ Chí Minh sau khi kháng chiến bùng nổ 12-1946 nói, lãnh đạo Việt Minh sẽ đi theo mô hình chiến tranh nhân dân của Mao trong cuộc chiến đấu giành thắng lợi. Một năm trước đó, Trường Chinh viết cuốn sách nhỏ nhan đề “Kháng chiến trường kỳ nhất định thắng lợi”, trong đó cũng trích những bài viết của Mao Trạch Đông về chiến tranh du kích trong hai thập niên trước. Có lẽ Chinh viết cuốn sách đó với sự chấp thuận của toàn thể ban lãnh đạo đảng, bí danh cách mạng ông chọn (“Trường Chinh”) rõ ràng chứng tỏ ông ngưỡng mộ cách mạng Trung Quốc. Tuy nhiên, Chinh cẩn thận vạch ra một số yếu tố mô hình Trung Quốc không áp dụng được cho Việt Nam. Do Việt Nam là nước nhỏ và hoàn toàn dưới sự thống trị thuộc địa, Việt Minh không thể hy vọng xây dựng một căn cứ địa giải phóng rộng lớn tương tự như căn cứ địa Diên An ở bắc Trung Hoa trong thời kỳ chống Nhật. Có thể Trung Quốc không để ý tới tầm quan trọng những sáng kiến ngoại giao, những hoạt động này chỉ có vai trò hạn chế trong cuộc chiến đấu giành quyền lực ở Trung Hoa. Dù vậy, lãnh đạo Việt Minh cảm thấy mô hình Trung Quốc có giá trị lớn trong cuộc kháng chiến chống Pháp và bây giờ chấp nhận nhóm cố vấn của Trung Quốc để giúp họ hiệu quả hơn.
Nhưng chẳng mấy chốc, ảnh hưởng của Trung Quốc không chỉ trong quân sự, mà còn lan sang những chính sách đối nội và tổ chức Đảng. Ngay sau khi đến Việt Bắc cuối tháng 2, La Quý Ba trong đoàn cố vấn dân sự giúp Việt Nam chỉnh Đảng và chính phủ theo đường lối Trung Quốc. Từ Hội nghị lần thứ tám họp tại Pác Bó vào tháng 5-1941, giới lãnh đạo đảng đặt ưu tiên trước hết cho sự nghiệp giải phóng dân tộc chống lại đế quốc hơn là đấu tranh chống thế lực phong kiến trong nước, do vậy quay lại mô hình Lenin mà Hồ Chí Minh du nhập vào châu Á ở thập niên 1920. Theo kế hoạch này, cách mạng Việt Nam chia thành hai giai đoạn, giai đoạn đầu tiên hoàn thành nhiệm vụ giải phóng dân tộc, giai đoạn thứ hai thực hiện chuyển biến sang chủ nghĩa xã hội. Trong giai đoạn đầu tiên, vai trò trọng tâm của Đảng cộng sản Đông Dương trong cách mạng Việt Nam nổi bật ở chỗ lôi kéo những phần tử ôn hoà trong nước, tránh sự can thiệp của thế lực phản động ngoài nước điều này thể hiện trong chính sách Việt Nam Dân chủ Cộng hoà sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 và trong thời kỳ ba năm đầu kháng chiến chống Pháp.
Bây giờ, với thắng lợi của Trung Quốc và triển vọng đánh bại Pháp tăng cao, giới lãnh đạo đảng chuyển sang chiến lược mới dựa trên mô hình Trung Quốc, trong đó sự lãnh đạo của đảng đối với phong trào là công khai, đồng thời giai đoạn đầu tiên giải phóng dân tộc sẽ tiếp tục không cần chia ra thành giai đoạn hai cách mạng xã hội chủ nghĩa. Tiến trình này thể hiện tại Hội nghị toàn quốc lần thứ III cuối tháng 1- 1950, khi ban lãnh đạo đảng quyết định nhấn mạnh vấn đề giai cấp trong mặt trận thống nhất và chuẩn bị đưa Đảng cộng sản ra công khai. Những hành động đó sẽ thúc đẩy Việt Nam Dân chủ Cộng hoà vào gần hơn với phe xã hội chủ nghĩa, gồm Trung Quốc và những nước “dân chủ nhân dân” ở Đông Âu; nhưng điều này lại làm phức tạp cho những nỗ lực đạt được thương lượng và ngăn Mỹ nhảy vào chiến tranh bên phe Pháp. Vài tháng sau, giới lãnh đạo đảng mở một chiến dịch lớn để những người ủng hộ họ thấm nhuần tư tưởng, hành động của đảng cộng sản Trung Hoa và vị lãnh tụ Mao Trạch Đông của họ.[588]
Vai trò của Hồ trong việc chuẩn y thay đổi đường lối này đến đâu là một câu hỏi lớn. Quan điểm của Hồ là công thức cách mạng hai giai đoạn tiệm tiến từ giữa thập niên 1920 và chắc chắn quan điểm này được đưa vào Hội nghị lần thứ tám năm 1941. Chính sách mới không những chống lại khả năng của ông tranh thủ tình hình quốc tế theo hướng thuận lợi cho ông mà ở mức độ nào đó còn trói buộc ông vào sự giám sát của Trung Quốc mà ông từng chống lại được trong quá khứ.
Ngoài ra, có một điều lạ, Hội nghị Đảng toàn quốc lần thứ III họp khi Hồ vắng mặt. Có thể ở đây có sự nghi ngờ - cả trong nội bộ phong trào cộng sản quốc tế và trong những đồng sự của ông - về lòng trung thành của ông vào những nguyên tắc Marxist-Leninist chính thống được Moscow và Bắc Kinh phổ biến vào cuối thập niên 1940. Mùa đông năm 1949-1950, có nhiều tin đồn - phần nhiều dựa trên những nhận xét của một kẻ đào ngũ - Trường Chinh sẽ thay thế Hồ Chí Minh làm lãnh tụ phong trào cộng sản Việt Nam theo lệnh Stalin, hoặc thậm chí còn có tin ông chính thức bị coi là “kẻ dị giáo” vì ông từ chối đi theo đường lối Moscow. Khi Léo Figuères của Đảng cộng sản Pháp tới thăm Việt Bắc tháng 3-1950, có tin đồn ông này được cử đến không những để khôi phục liên lạc giữa hai đảng mà còn để phục hồi Đảng cộng sản Đông Dương, đội tiên phong của cách mạng Việt Nam.[589]
Dù vậy, mặc dù Hồ Chí Minh có lẽ chấp nhận đường lối mới với đôi chút miễn cưỡng, chắc chắn ông nhận ra sự ủng hộ đang tăng lên của Hoa Kỳ cho Pháp không thể tránh được, sự gần gũi với Moscow và Bắc Kinh sẽ giúp Việt Minh thắng lợi ở Đông Dương. Dù thế nào đi nữa, ông tự điều chỉnh trước hoàn cảnh mới và tìm cách tranh thủ nó. Trong thư gửi giới lãnh đạo Trung Quốc những năm sau này, Hồ quá lời tán dương ban lãnh đạo chính phủ Trung Quốc, đề xuất chính phủ và Đảng của ông sẽ theo mô hình Trung Quốc. Lúc này, tất nhiên, ông đã trở thành bậc thầy của nghệ thuật xu nịnh ân nhân của mình, ngụ ý rằng những lời khuyên và kinh nghiệm Trung Quốc đã đi vào trái tim của người Việt Nam. Thí dụ, không phải ngẫu nhiên mùa thu năm 1950, lần đầu tiên, ông bắt đầu ca tụng lợi ích của hợp tác hoá nông nghiệp cho sự thịnh vượng tương lai của nước Việt Nam độc lập.[590]
Mùa xuân năm 1949, khi các nhà chiến lược của Đảng kết luận một trong những điều kiện tiên quyết then chốt cho tổng tấn công thắng lợi mở rộng vùng biên giới, do vậy tạo điều kiện cho lực lượng cách mạng dễ dàng tiếp nhận viện trợ vật chất từ Trung Quốc. Tướng Blaizot vô tình đã giúp tướng Giáp dễ dàng thực hiện nhiệm vụ này bằng cách kêu gọi rút quân Pháp khỏi nhiều vị trí dọc biên giới bắc Lạng Sơn, để tăng cường kiểm soát khu vực từ Lạng Sơn đến Vịnh Bắc Bộ. Tuy nhiên, mùa hè năm 1950, kế hoạch Blaizot vẫn không chính thức thực thi một loạt đồn bốt đơn độc của Pháp dọc biên giới nối chuỗi dọc Quốc lộ 4 từ ven biển Móng Cái tới huyện lỵ Cao Bằng.
Pháp lập tức có lý do hối tiếc sự chậm trễ này. Tháng 4-1949, giới lãnh đạo đảng lần đầu tiên quyết định tập trung vào khu vực tây biên giới, nơi lực lượng Pháp không đáng kể. Tuy vậy, tháng 7-1950, Ban thường vụ Đảng quyết định chuyển trọng tâm sang khu vực phía đông biên giới, vì nó dễ xuống đồng bằng sông Hồng và có những đường quốc lộ dẫn tới Trung Hoa. Hồ nói với các đồng chí của ông lúc đó, đây là nơi “dễ giữ khi rút, dễ đánh khi tấn công”. Võ Nguyên Giáp được giao nhiệm vụ chỉ huy cuộc tấn công, tướng Trung Quốc Trần Canh được lệnh tới Việt Bắc giúp đỡ Việt Minh vạch kế hoạch chiến dịch. Khi Giáp thăm Hồ Chí Minh tại Tân Trào, Hồ ví tầm quan trọng thắng lợi. “Chiến dịch sắp tới là cực kỳ quan trọng. Chúng ta không được thua!” Hồ hứa sẽ đến biên giới quan sát chiến dịch với tư cách cá nhân. Tướng Trần Canh được mời đi cùng ông.[591]
Giữa tháng 9, Việt Minh tung hàng loạt cuộc tấn công sắc bén vào đồn bốt Pháp khắp vùng biên giới. Đồn Đông Khê bị tám ngàn quân đội Việt Minh tấn công, tình báo Pháp cho biết Việt Minh có cả bazooka, súng cối, pháo không giật và lần đầu tiên lực lượng tập trung lên tới trung đoàn. Bị tấn công bất ngờ, quân Pháp rối loạn, tháo chạy bỏ lại hàng trăm xác chết và thương binh, cùng hơn mười ngàn tấn đạn dược. Toán quân Pháp được đưa quân từ Cao Bằng đến cứu đồng đội bị bao vây cũng thiệt hại tương tự. Tướng Marcel Carpentier, tư lệnh quân Pháp ở vùng này, bất ngờ ra lệnh rút bỏ tất cả những đồn bốt khác ở biên giới, trừ thị trấn Móng Cái.
Ở Hà Nội, Cao uỷ Léon Pignon tăng thêm hoài nghi trước quyết định của tướng Carpentier. Léon Pignon nói với nhà ngoại giao Mỹ, Carpentier là người “quá thụ động, chỉ biết phòng thủ… và tài năng quân sự của ông ta đáng phải xem lại”. Cuối năm đó viên tướng này bị thay thế.[592] Nhưng sự thay đổi chỉ huy diễn ra quá muộn. Kết thúc chiến dịch biên giới cuối tháng 10, cuộc tấn công đã mở ra vùng rộng lớn bắc đồng bằng sông Hồng hầu như hoàn toàn do Việt Minh kiểm soát, thống trị. Hốt hoảng, Pháp ra lệnh đàn bà trẻ con Pháp rút khỏi Hà Nội, cảnh báo Paris rằng hơn một nửa dân chúng thành phố bây giờ có thiện cảm với Việt Minh. Thất bại của Pháp trong chiến dịch biên giới khiến Pháp không thể tự lừa dối mình sẽ có khả năng giành thắng lợi hoàn toàn trong cuộc chiến.
Hồ Chí Minh theo dõi mặt trận Đông Khê 5-1950.
Tâm lý hoảng loạn trước tình hình quân sự không chỉ đối với Pháp. Donald Heath, vừa đến Sài Gòn với tư cách đại diện của Hoa Kỳ tại Quốc gia Liên hiệp cũng cảnh báo, tình hình ở Bắc Kỳ rất bi đát. Ông báo cáo toàn bộ khu vực miền Bắc, trừ hành lang Hà Nội-Hải Phòng, đã bị xoá sổ, thậm chí chẳng cần sự can thiệp của Trung Quốc. Điều ông miêu tả chắc là đúng. Heath tuyên bố, chính phủ mới Việt Nam tại Sài Gòn do Quốc trưởng Bảo Đại cầm đầu lười nhác, không được dân chúng tin tưởng. Bảo Đại bản thân vốn thiếu năng động và không biết cách lãnh đạo. Tuỳ viên quân sự Mỹ tiên đoán sẽ không có sự can thiệp của Trung Quốc trừ khi Việt Minh bị đe doạ tiêu diệt.[593]
Việc cố vấn Trung Quốc nhúng tay trực tiếp vào việc vạch kế hoạch, điều hành chiến dịch biên giới, đã trở thành mục tiêu tranh cãi giữa hai nước từng là anh em sau cuộc chiến Việt Nam. Nguồn Việt Nam ghi nhận Võ Nguyên Giáp và những chỉ huy Việt Minh điều khiển chiến dịch. Tuy nhiên, theo Hoàng Văn Hoan, tướng Trần Canh khuyên Hồ Chí Minh tấn công vào Đông Khê hơn là vào Cao Bằng, một cứ điểm mạnh của Pháp được phòng thủ chắc chắn. Trần Canh nghe đồn đã khuyên các chỉ huy Việt Nam chỉ bao vây Cao Bằng rồi chiếm sau. Hồ Chí Minh đồng ý với lời khuyên, theo dõi chiến dịch này từ một vị trí quan sát ở trên núi nằm phía trên thị trấn. Hồ Chí Minh chấp thuận cố vấn Trung Quốc xuống tất cả những đơn vị Việt Minh từ cấp tiểu đoàn trở lên. Gần đây chính tướng Võ Nguyên Giáp khẳng định, chính ông độc lập đề xuất quyết định tấn công Đông Khê hơn là Cao Bằng và cả Hồ Chí Minh lẫn Trần Canh đã chấp thuận kế hoạch này.
Bất kể sự thật cuộc tranh cãi đúng sai thế nào đi nữa, chiến dịch đã kết thúc, Trần Canh quay về Trung Quốc, được bổ nhiệm chỉ huy Giải phóng quân Trung Quốc tại chiến trường Triều Tiên. Trước khi rời Việt Bắc, ông gửi bản báo cáo chi tiết phê bình gay gắt khả năng chiến đấu của Việt Minh cho cấp trên ở Trung Hoa. Trần Canh báo cáo với cấp trên, quân đội Việt Nam không có kỷ luật, không có kinh nghiệm chiến đấu, chưa sẵn sàng cho những trận đánh lớn, đồng thời những sĩ quan chỉ huy của họ không quan tâm đến sinh mạng binh sĩ và không muốn báo cáo tin tức xấu cho cấp trên.[594]
Các nhà chiến lược Việt Minh hài lòng về thắng lợi chiến dịch biên giới 1950 (nghe đồn Hồ Chí Minh nói rằng đây là chiến thắng lớn nhất mà ông mong đợi), chiến thắng này khuyến khích họ bàn đến việc tổng phản công vào trung tâm của châu thổ sông Hồng. Dù một số người lãnh đạo đảng còn hoài nghi lực lượng cách mạng chưa sẵn sàng một trận đánh lớn với kẻ thù (chính Hồ cũng khuyên một số chỉ huy nóng đầu, một cuộc tấn công lớn giống như người phụ nữ có thai, phải chờ thời gian thích hợp), mọi người nhất trí trong những điều kiện thuận lợi do thành công chiến dịch biên giới mang lại thì một tấn công mới đưa đến thắng lợi hoàn toàn phải có thời cơ hợp lý. Trong hai tháng cuối năm 1950, các nhà hoạch định kế hoạch Việt Minh, phối hợp với cố vấn Trung Quốc, vạch kế hoạch chiến dịch năm tới. Tại hội nghị chung họp vào tháng 12, phía Trung Quốc đồng ý cung cấp đủ vũ khí để Việt Minh tái tổ chức lực lượng thành những đơn vị lớn hơn có khả năng chiến đấu cao hơn.
Giáp có kế hoạch tấn công ba nơi khác nhau vùng rìa đồng bằng sông Hồng: Vĩnh Yên, một thị trấn tây bắc thủ đô, sát chân núi Tam Đảo; Mạo Khê, phía đông đồng bằng sông Hồng, gần Hải Phòng; và cuối cùng là một số cứ điểm khác nhau ở sông Đáy ngay phía nam Hà Nội. Nếu những cuộc tấn công vào những vị trí phòng thủ của Pháp thành công, giai đoạn tiếp theo có thể bắt đầu, một cuộc tấn công lớn mở đường tới thủ đô. Đài phát thanh Việt Minh lạc quan tiên đoán Chủ tịch Hồ sẽ đón Tết ở Hà Nội. Nếu tiên đoán lạc quan của các nhà chiến lược của Đảng là đúng, chiến tranh cũng sắp kết thúc.[595]
*****************************
[547] Bản tuyên bố bằng tiếng Anh ngày 22-12, xem Cơ quan nghiên cứu liên hợp xuất bản (Washington D.C) số 50,557, Dịch Bắc Việt Nam, 725, “Những tài liệu lịch sử của Đảng cộng sản Đông Dương. Ngày 4-6-1954, tướng Pháp Alessandri nói với nhà ngoại giao Mỹ Robert McChntock rằng Pháp thu được bản kế hoạch tiến hành chiến tranh của Việt Minh năm 1947. Alessandri nhận xét, bản kế hoạch rất đơn giản - nhằm tạo ra căn cứ địa ở đồng bằng sông Hồng, để có nguồn nhân lực và hậu cần, và mở đường thông tin liên lạc với Trung Quốc, dùng nguồn thiết bị sơ sài. Có thể đây là một cuộc chiến tập luyện, với Việt Bắc là chiến trường chính và nơi ẩn náu an toàn. Xem Sài gòn báo cáo nhanh 570 gửi Bộ ngoại giao, ngày 4-6-1954, RG 59, NXB Đại học Hoa Kỳ.
[548] Theo Georges Boudarel, nhiều đoàn quân Việt Minh qua gầm cầu Long Biên, sau đó vượt sông Hồng ở chỗ giữa hai đồn Pháp nằm xa thượng lưu con sông; cuộc rút quân của họ được thuận lợi vì khói dày đặc bao trùm thành phố do đạn của những những đơn vị bắn tỉa của Việt Minh từ sớm ngày hôm đó - xem Georges Boudarel và Nguyễn Văn Kỳ, “Hà Nội, 1936-1996: Màu cờ Đỏ và Xanh” (Paris: Editions Autrement, 1997), trang 118.
[549] Bản tiểu luận nhan đề “Kêu gọi nhân dân Pháp”, có trong Alain Ruscio, ed., “Những bài viết của Hồ Chí Minh, 1914-1969”, trang 135-36. Bài này bắt đầu xuất hiện trên đường phố thủ đô ngay sau khi nổ ra cuộc xung đột. Xem thêm Yves Gras, “Lịch sử cuộc chiến tranh Đông Dương” (NXB de Noel, Paris, 1992), trang 160. Bức thư của Hồ Chí Minh có trong Hà Nội 851 gửi Ngoại trưởng, ngày 24-4-1947, trong RG 59, NXB Đại học Hoa Kỳ.
[550] Trích trong Yves Gras, “Lịch sử cuộc chiến tranh Đông Dương” (NXB de Noel, Paris, 1992), trang 160. Trong bức điện gửi Hồ Chí Minh (chạy vòng qua tướng Valluy), Blum chủ trương đường lối cứng rắn, kêu gọi ngừng ngay lập tức những hoạt động thù địch nối lại thương lượng; Blum cảnh báo, không chấp nhận bạo lực - xem Philippe Devillers, “Lịch sử Việt Nam, 1940-1952” (Paris: Editions du Seuil, 1952), trang 299.
[551] Stein Tonnesson, “1946: bùng nổ cuộc chiến tranh Đông Dương: Bản kinh chiều Bắc Kỳ ngày 19-12” (NXB L’Harmattan, Paris, 1987), trang 245-46; về lá thư của Hồ Chí Minh, xem Philippe Devillers, “Paris - Sài Gòn - Hà Nội” (Paris: NXB Gallimard, 1988), trang 321, trích thư Hồ Chí Minh gửi Moutet, ngày 3-1-1947, trong Recueil Varet, trang 277.
[552] Devillers, “Paris - Sài Gòn - Hà Nội”, trang 324; Yves Gras, “Lịch sử cuộc chiến tranh Đông Dương” (NXB de Noel, Paris, 1992), trang 161.
[553] Paris 1007 gửi Bộ ngoại giao, ngày 3-6-1947, trong RG 59, NXB Đại học Hoa kỳ.
[554] Có nhiều tin tức xung quanh cuộc gặp của Mus với Hồ. Tin ban đầu cho biết “Chủ tịch Hồ Chí Minh thảo luận với đại diện của Cao ủy Bollaert”, không nói ngày tháng, trong hồ sơ nhãn “Hồ Chí Minh 1947-1948”, SPCE, hộp 370, CAOM. Tin tức của Mỹ về cuộc gặp này, xem Hà Nội A13 gửi Bộ ngoại giao, ngày 20-6-1947, RG 59, NXB Đại học Mỹ. O'Sullivan miêu tả cuộc họp “thân mật”.
[555] Điện tín của Marshall gửi về Paris trong Ngoại trưởng gửi Caffery, ngày 3-2-1947, RG 59, NXB Đại học Mỹ. Những thông điệp trước có trong Bộ ngoại giao gửi Paris 74, ngày 8-1-1947, và 431, ngày 3-2-1947, trong tài liệu đã dẫn.
[556] Hồ trả lời phỏng vấn của Harrie Jackson, hãng Associated Press (AP). Vấn đề Phạm Ngọc Thạch được thảo luận chi tiết trong Mark Bradley, “Dịp may bỏ lỡ: Mỹ và sáng kiến 1947 của Việt Nam Dân chủ Cộng hoà”, trong Jayne Werner và Lưu Doãn Huỳnh, eds., “Cuộc chiến tranh Việt Nam: Triển vọng Việt Nam và Mỹ” (Armonk, N.Y.: M.E. Sharpe, 1993). Trong điện tín gửi Washington ngày 17-4, Đại sứ Stanton báo cáo rằng ông vừa nhận được hai lá thư của Thạch. Thư đầu ghi ngày 12-4, gửi giác thư về cuộc xung đột ở Đông Dương và cũng được cho O'Sullivan ở Hà Nội trong tháng 1-1947 để chuyển cho Bộ ngoại giao. Ngày 20-4, Stanton báo cáo Thạch thông báo cho Đại tá Law rằng Việt Nam vỡ mộng với Đảng cộng sản Pháp, vì phản bội họ, đã tán thành những biện pháp quân sự của Pháp ở Đông Dương. Thạch cho rằng Mỹ là nước bảo vệ Hiến chương Đại Tây Dương Charter và chỉ có nước Mỹ có thể đưa cuộc chiến đến hồi kết. Xem Bangkok 289, ngày 17-4-1947, và 851, ngày 24-4-1947 gửi Ngoại trưởng, cùng với những tài liệu đi kèm, trong RG 59, NXB Đại học Hoa Kỳ.
[557] Xem William Duiker, “Chính sách ngăn chặn của Mỹ và cuộc xung đột ở Đông Dương” (Stanford, Calif.: NXB Đại học Stanford, 1994), trang 58-60, và Bradley, “Dịp may bỏ lỡ: Mỹ và sáng kiến 1947 của Việt Nam Dân chủ Cộng hoà”, trang 18-23.
[558] Nguồn tư liệu vấn đề quân sự Việt Minh trong những năm đầu kháng chiến là cuốn sách của Trường Chinh “Kháng chiến nhất định thắng lợi” được dịch và in trong “Trường Chinh: Tuyển tập” (NXB Ngoại văn, Hà Nội, 1977), trang 175-76, và “Cuộc kháng chiến thần thánh của nhân dân Việt Nam”, tập 1 (NXB Sự thật, 1958), trang 238-39.
[559] Về sự thay đổi chiến thuật quân sự của Việt Minh cuối thập niên 1940, xem Võ Nguyên Giáp, “Chiến tranh nhân dân” (New York: Praeger, 1962), trang 92.
[560] Trích Yves Gras, “Lịch sử cuộc chiến tranh Đông Dương” (NXB de Noel, Paris, 1992), trang 196.
[561] Về cuộc sống của Hồ Chí Minh ở chiến khu, xem “Tuyên bố về cuộc sống trong vùng Việt Minh ở vùng núi Bắc Kỳ, Việt Bắc: Hồ Chí Minh” trong Bộ quan hệ các nước liên kết, DGD, Sài gòn, ngày 9 và 15-2-1953.
[562] “Cuộc kháng chiến thần thánh của nhân dân Việt Nam”, Tập I, trang 239.
[563] Về cách nhìn xuất sắc quá trình này, xem Motoo Furuta, “Sự phân chia Đảng cộng sản Đông Dương thành ba Đảng: Chính sách của cộng sản Việt Nam đối với Lào và Campuchia”, in trong Motoo Furuta và Takashi Shiraishi, eds., “Đông Dương trong thập niên 1940 và thập niên 1950” (Ithaca, N.Y.: Chương trình Đông Nam Á Đại học Cornell, 1992), trang 143-63.
[564] Tháng 6-1954, Đại sứ quán Hoa Kỳ ở Tokyo gửi một tài liệu từ Đài Bắc cung cấp văn bản năm hiệp định bí mật “dường như” xuất hiện giữa 1940 và 1952. Một trong những hiệp định được ký ngày 6-6-1948, ở Vân Nam và chuẩn bị công nhận lẫn nhau, liên minh quân sự chính thức giữa hai đảng. Tin tức gần đây về quan hệ có giới hạn giữa hai nước giống như một thoả thuận giữa chính quyền địa phương ở vùng này, nhưng Võ Nguyên Giáp xác nhận, sự hợp tác ở cấp lãnh đạo hai nước bắt đầu từ đầu năm 1948 - xem Võ Nguyên Giáp “Đường tới Điện Biên Phủ” (NXB Quân đội Nhân dân, 1999) trang 13 - Xem thêm Đại sứ quán Hoa Kỳ ở Tokyo gửi Bộ ngoại giao, báo cáo nhanh 1671, ngày 10-6-1954, RG 59, NXB Đại học Mỹ. Về Trung đoàn Độc lập, xem Lãnh sự Mỹ ở Hà Nội, ngày 8-1-1951, chuyển nhanh một báo cáo của Đại uý Pháp Augier, trong tài liệu đã dẫn. Augier là chuyên gia về vấn đề Trung Quốc, nhấn mạnh hoạt động của Trung Quốc dọc biên giới gần Vịnh Bắc Bộ làm cho Việt Minh khá hoảng họ cuối cùng phải giải tán trung đoàn này. Một nhà ngoại giao Mỹ ngờ rằng hầu như chắc chắn, cả Pháp và Quốc Dân Đảng muốn tác động đến chính sách của Mỹ bằng cánh nhấn mạnh ảnh hưởng của Trung Quốc đối với Việt Minh và do đó có xu hướng bớt cảnh báo như thế. Dù vậy, thông tin từ Trung Quốc cho là tiếp xúc ở cấp thấp tồn tại lúc đó; tuy thế, thông tin gần đây cho thấy việc liên minh 1948 là không đúng. Về sự tiếp xúc ban đầu, xem La Quý Ba, “Hồi ức lịch sử” (NXB Trung Hoa, Bắc Kinh, 1995), trang 163-64. Việc thành lập đường liên lạc bằng radio được thuật lại in Hoàng Tranh, “Hồ Chí Minh và Trung Quốc”, trang 123.
[565] “Quan hệ đối ngoại của Mỹ (1949)”, tập 7, phần I, trang 140-41. Về sự thay đổi chỉ huy quân sự Pháp ở Đông Dương, xem Yves Gras, “Lịch sử cuộc chiến tranh Đông Dương” (NXB de Noel, Paris, 1992), trang 264-67. Về chuyến thăm của Võ Nguyên Giáp tháng 4-1949, xem chú thích trong những chiến dịch Trung-Việt, SPCE, hộp 366, CAOM. Theo nguồn này, hội nghị liên tịch tại Tĩnh Tây tháng đó, đồng ý hợp nhất quân đội hai nước và hợp tác rộng dọc biên giới. Một tài liệu khác trong lưu trữ Pháp cho thấy đầu tháng 1-1950, Những người lãnh đạo Đảng Việt Nam từ chối đề nghị hợp nhất quân đội hai nước do Trung Quốc đưa ra. Tôi không thể tìm được bất cứ sự xác nhận nào về tài liệu này, xuất hiện trước khi chính thức ký kết hiệp định viện trợ giữa hai lãnh đạo Đảng Việt Nam và Trung Quốc - có lẽ tham khảo những quyết định đưa ra ở Tĩnh Tây vào tháng 4. Xem 995/TNH, “Đông Dương Cộng sản Đảng, “Nghị quyết được thông qua trong phiên họp toàn thể của Hội đồng Nghị viện ngày 3-1-1950”.
[566] Báo cáo này nằm trong hồ sơ nhãn “1950”, SPCE, hộp 366, CAOM. Nguồn Việt Nam xác nhận có cuộc họp này - xem “Hồ Chí Minh biên niên tiểu sử”, tập 4, trang 308. Xem thêm Võ Nguyên Giáp, “Đường tới Điện Biên Phủ” trang 10.
[567] Trích Yves Gras, “Lịch sử cuộc chiến tranh Đông Dương” (NXB de Noel, Paris, 1992), trang 272.
[568] “Tuyên bố về cuộc sống trong vùng Việt Minh ở vùng núi Bắc Kỳ, Việt Bắc: Hồ Chí Minh” trong Bộ quan hệ các nước liên kết, DGD, Sài gòn, ngày 9 và 15-2-1953 ; Yves Gras, “Lịch sử cuộc chiến tranh Đông Dương” (NXB de Noel, Paris, 1992), trang 272.
[569] Thư của Hồ Chí Minh và phái bộ này, xem La Quý Ba, “Hồi ức lịch sử” (NXB Trung Hoa, Bắc Kinh, 1995), trang 150-51. Xem thêm Hoàng Tranh, “Hồ Chí Minh và Trung Quốc”, trang 21, 124. Hai đại biểu là Lý Ban (Lý Bích San) và Nguyễn Đức Thuỵ. Lý Ban, người Nam Bộ, sống ở Trung Quốc trước Thế chiến II nhưng trở lại Việt Nam năm 1947. Thuỵ nghe đồn là một thương gia ở Hà Nội. Tình báo Pháp viết về chuyến đi này trong một báo cáo ngày tháng 3-10-1949, SPCE, hộp 366, CAOM. Trong cuộc họp Hội đồng Bộ trưởng Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ngày tháng 18-8, xem SF de Bắc Kỳ, ngày 3-9-1949, trong tài liệu đã dẫn.
[570] Yves Gras, “Lịch sử cuộc chiến tranh Đông Dương” (NXB de Noel, Paris, 1992), trang 286. Bài báo của Trường Chinh có trong “Cuộc kháng chiến thần thánh”, Tập II, trang 293-298. Về bài phát biểu nổi tiếng của Lưu Thiếu Kỳ' ở Liên hiệp Công đoàn, xem Melvin Gurtov, “Cuộc khủng hoảng Việt Nam lần I: Chiến lược của Cộng sản Trung Quốc và sự dính líu của Mỹ, 1953-1954” (New York: Nhà in Đại học Columbia, 1967), trang 7-8. Xem thêm King C. Chen, “Việt Nam và Trung Quốc, 1938-1954” (Princeton, N.J.: NXB Đại học Princeton, 1969), trang 14-20
[571] “Việt Nam: Những sự kiện lịch sử (1945-1986)” (NXB Khoa học Xã hội, 1990), trang 49-50. Yves Gras, “Lịch sử cuộc chiến tranh Đông Dương” (NXB de Noel, Paris, 1992), trang 287.
[572] La Quý Ba, “Hồi ức lịch sử” (NXB Trung Hoa, Bắc Kinh, 1995), trang 151-53. Theo La Quý Ba, thông tin liên lạc điện tử đã được phục hồi giữa hai bên cuối thập niên 1940, nhưng hoạt động phập phù, thông tin liên lạc chủ yếu có lẽ giao liên chạy bộ.
[573] La Quý Ba, “Hồi ức lịch sử” (NXB Trung Hoa, Bắc Kinh, 1995), trang 157-60; Yves Gras, “Lịch sử cuộc chiến tranh Đông Dương” (NXB de Noel, Paris, 1992), trang 287. Toán hộ tống Trung Quốc ngờ ông Ding là Hồ Chí Minh và báo cáo sự thật đó cho chính quyền - xem Võ Nguyên Giáp, “Đường tới Điện Biên Phủ” trang 13-14. Về cuộc họp ở Việt Bắc giữa tháng 12, xem “Hồ Chí Minh biên niên tiểu sử”, tập 4, trang 376.
[574] Hoàng Văn Hoan “Giọt nước trong biển cả” (NXB Ngoại văn, Bắc Kinh), 1988), trang 275-78; “Hồ Chí Minh biên niên tiểu sử”, tập 4, trang 399; Võ Nguyên Giáp, “Đường tới Điện Biên Phủ” trang 14. Trong bức điện gửi Mao báo tin Hồ Chí Minh đến Bắc Kinh, Lưu Thiếu Kỳ cho biết giới lãnh đạo Trung Quốc lắng nghe thông cảm với lời yêu cầu giúp đỡ của phía Việt Nam - Xem “ Biên niên Lưu Thiếu Kỳ (1898-1969) (Nhà in Tài liệu Trung ương, 1996), trang 241.
[575] Bức thư của Hồ Chí Minh được phát trên Đài phát thanh Moscow ngày 29-8-1949 - xem SPCE, hộp 56, CAOM. Xem thêm Georges Boudarel, “Tự truyện” (Paris: Jacques Bertoin, 1991), trang 90. Một nhà ngoại giao Mỹ ở Moscow nói ông lưu tâm đến bài phát biểu của một quan chức Liên Xô ngày 23-2-1950, nhấn mạnh rằng Việt Nam là “một đảng kiểu mới, đang trong quá trình tự chuyển mình thành một đảng Marxist”. Bài phát biểu nhận xét, phải có những bài thuyết trình bắt buộc về chủ nghĩa Marx cho đảng viên Đảng cộng sản. Chiến lược này cho những người cộng sản để “thống nhất tạm thời trong một đảng dân tộc với những đảng giai cấp công nhân bất kỳ”. Vị quan chức này kết luận: khác với những đảng ở Đông Âu, là những quốc gia “phát triển nhiều hơn” Việt Nam, nên đảng ở Việt Nam chưa thiết lập chuyên chính vô sản hoặc nên dân chủ nhân dân. Một nhà chuyên môn Việt Nam ở Moscow kể với tôi, Liên Xô không tiếp Hồ Chí Minh trước 1949 và Stalin từng hoài nghi về thắng lợi của Việt Minh trước thời điểm đó.
[576] Jerrold L. Schector với Vyacheslav V. Luchkov, “Hồi ký Krushchev” (Boston: Little, Brown, 1990), trang 154-55. Về câu chuyện trực thăng, xem Ngũ Tu Quyền, “Nền ngoại giao nước Trung Hoa mới”, trích trong Harrison Salisbury, “Những vị hoàng đế mới” (Boston: Little, Brown, 1992), trang 93. Xem thêm cuốn sách của ông “Tám năm ở Bộ ngoại giao” (Bắc Kinh: n.p., 1985). Con trai Hoàng Văn Hoan kể với một chuyên gia Việt Nam học ở Christopher Goscha rằng năm 1950, cả Stalin lẫn Mao Trạch Đông không tin Hồ Chí Minh là một nhà Marxist-Leninist chân chính.
[577] Cuộc phỏng vấn với Đỗ Quang Hưng ở Hà Nội, ngày 15-12-1990.
[578] La Quý Ba, “Hồi ức lịch sử” (NXB Trung Hoa, Bắc Kinh, 1995), trang 161. Stalin giải thích quyết định của mình, viện cớ quan tâm của Liên Xô tập trung vào những đồng minh mới của họ ở Đông Âu. Theo một nguồn tin, Hồ Chí Minh đề nghị Stalin trang bị vũ khí cho 10 sư đoàn bộ binh và một trung đoàn pháo phòng không - xem Võ Nguyên Giáp, “Đường tới Điện Biên Phủ” trang 14-15.
[579] Về thế giới quan của Mao Trạch Đông lúc đó, xem Chen Jian, “Trung Quốc và chiến tranh Đông Dương lần I”, “Trung Hoa quý báo” (tháng 3-1993), trang 88-91. Xem thêm tài liệu của ông “Con đường Trung Quốc đến chiến tranh Triều Tiên: tạo ra sự đối đầu Trung-Mỹ” (New York: Nhà in Đại học Columbia, 1994). Vai trò mới của Hồ Chí Minh là giám đốc điều hành các Đảng cộng sản trong khu vực này, xem “Tuyên bố về cuộc sống trong vùng Việt Minh ở vùng núi Bắc Kỳ, Việt Bắc: Hồ Chí Minh” trong Bộ quan hệ các nước liên kết, DGD, Sài gòn, ngày 9 và 15-2-1953.
[580] Robert M. Blum, “Vạch đường lối: Khởi thuỷ chính sách ngăn chặn của Mỹ ở châu Á” (NXB Norton, New York, 1982), trang 122. Khả năng cuộc hội đàm Hồ Chí Minh - Bảo Đại theo nguồn tin Ấn Độ và trong “Vị thế của Hồ Chí Minh”, trong “To NA Mr. Bond” và SY Jack D. Neal” ngày 16-6-1950, RG 59, NXB Đại học Hoa Kỳ. Hồ hoàn toàn phủ nhận với một nhà báo khác ông tiếp xúc với kẻ phản bội như Bảo Đại - xem bài báo trong “Khổng Dịch”ngày 12-6-1949 trong báo cáo của Cao uỷ Pháp ngày 17-4-1950, SPCE, hộp 366, CAOM.
[581] Ngoại trưởng gửi Gibson, ngày 20-5-1949, “Quan hệ đối ngoại Mỹ”, 1949, tập 7 (Đông Á), phần I, trang 29-30.
[582] Trích Duiker, “Chính sách ngăn chặn của Mỹ và cuộc xung đột ở Đông Dương” (Stanford, Calif.: NXB Đại học Stanford, 1994), trang 81.
[583] La Quý Ba, “Hồi ức lịch sử” (NXB Trung Hoa, Bắc Kinh, 1995), trang 163-68. Như thường lệ, Hồ Chí Minh rất lo lắng điều kiện ăn ở của khách, nên đã chỉ thị cho thư ký riêng Vũ Đình Huỳnh thu xếp cho La Quý Ba và các đồng chí của ông có chỗ ở thích hợp: “Mình thế nào cũng xong, chứ với người ta thì phải chu đáo. Họ xét nét lắm đó!” Xem Vũ Thư Hiên, “Đêm giữa ban ngày” (NXB Văn Nghệ, Westminster, Calif., 1997), trang 108.
[584] Xem Trường Chinh, “Hoàn thành nhiệm vụ chuẩn bị chuyển mạnh sang tổng phản công”, trong “Văn kiện Đảng” (1945-1954), Tập II, phần 2, trang 265-338. Quyết định của Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đi đến tổng tấn công vào năm 1950 được Tân Hoa Xã thông báo ngay sau đó. Xem báo cáo của lãnh sự Mỹ Edmund Clubb, ở Bắc Kinh gửi Ngoại trưởng, 395, ngày 25-2-1950, RG 59, NXB Đại học Hoa Kỳ.
[585] Võ Nguyên Giáp, “Nhiệm vụ quân sự trước mắt chuyển sang tổng phản công” (Hà Nội, n.p., 1950). Tình báo Pháp nhận được một báo cáo ngày 15-7-1950, của Ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Đông Dương gửi Ban lãnh đạo Việt Minh ở miền Nam miêu tả cuộc tổng tấn công sẽ diễn ra trong vài giai đoạn và đòi hỏi hy sinh lớn lao - xem Sài gòn gửi Ngoại trưởng, ngày 21-8-1950, RG 59, NXB Đại học Mỹ. Văn kiện Hội nghị toàn quốc lần thứ III trong “Văn kiện Đảng (1945-1954)”, Tập II, phần 2, trang 241-431.
[586] Lưu Thiếu Kỳ gửi điện cho Hồ Chí Minh báo cáo sự bổ nhiệm tướng Vi Quốc Thanh; xem “Biên niên Lưu Thiếu Kỳ”, trang 247. Nhận xét của Lưu Thiếu Kỳ về ý nghĩa to lớn việc phân công này có rằng tài liệu đã dẫn, trang 256. Xem thêm bài báo của Hoàng Văn Hoan đăng ở “Tạp chí Bắc Kinh” ngày 23-11-1949. Về sự giúp đỡ của Trung Quốc cho Việt Minh trong thời kỳ này, xem Qiang Zhai, “Cấy ghép mô hình Trung Quốc: Cố vấn quân sự Trung Quốc và chiến tranh Việt Nam lần I, 1950-1954”, (Tạp chí Lịch sử quân sự, tháng 10-1993). Xem thêm Motoo Furuta, “Sự phân chia Đảng cộng sản Đông Dương thành ba Đảng: Chính sách của cộng sản Việt Nam đối với Lào và Campuchia”, trang 150. Những báo cáo của tình báo Pháp về sự kết nối với nước Trung Hoa mới được gửi tiếp tới quan chức Mỹ, những người lúc đầu phản ứng dè dặt và tỏ ra hoài nghi việc Trung Quốc sẽ dính líu trực tiếp vào cuộc xung đột. Một thông điệp của Bộ ngoại giao gửi Đại sứ quán Mỹ ở Paris mùa hè năm 1950 cũng nhận xét rằng sự không có sự can thiệp của Trung Quốc vì trong lịch sử, Việt Nam vẫn nghi ngờ Trung Quốc. Tối đa, một nhà văn nhận xét, hai nước hợp tác để đạt được mục đích chung. Xem gửi Bruce từ Ngoại trưởng, không dề ngày tháng, được soạn thảo bởi Gibson, ngày 15-8-1950, trong RG 59, NXB Đại học Hoa Kỳ.
[587] “Tổ cố vấn quân sự Trung Quốc ở Việt Nam trong kháng chiến chống Pháp” (NXB Giải phóng quân, Bắc Kinh, 1990), trang 44-46. Xem Guo Ming, “Bốn lăm năm quan hệ Trung-Việt”, (NXB Nam Ninh, tỉnh Quảng Tây, 1992), trang 28, và Yves Gras, “Lịch sử cuộc chiến tranh Đông Dương” (NXB de Noel, Paris, 1992), trang 315-16. Theo một nguồn tin, lãnh đạo Đảng Việt Nam xem xét thành lập một trụ sở hải ngoại tại Quế Lâm (Trung Quốc) để thắt chặt liên lạc với Bắc Kinh và cũng để tạo thuận lợi cho Hồ Chí Minh thúc đẩy cách mạng ở những nơi khác tại Đông Nam Á. Xem BR 9426 Cơ quan an ninh Dịch vụ an ninh của Cao ủy Pháp ở Bắc Việt Nam, ngày 13-7-1950, trong hồ sơ nhãn “Hồ Chí Minh 1949-1953”, SPCE, hộp 370, CAOM.
[588] Trường Chinh, “Chuyển mạnh sang tổng phản công” trong Văn kiện Đảng (1945-1954), Tập II, phần 2, trang 264-338. Xem thêm Motoo Furuta, “Sự phân chia Đảng cộng sản Đông Dương thành ba Đảng: Chính sách của cộng sản Việt Nam đối với Lào và Campuchia”, trang 157-58. Furuta vạch ra rằng Đảng cộng sản Đông Dương về mặt kỹ thuật đã tiếp thu khái niệm “bao trùm” của cách mạng Việt Nam rất sớm từ 1948, nhưng đã kiềm chế từng bước để đưa lý tưởng đến gần thực tế hơn trước khi bước vào thập niên mới.
[589] Theo một người đào ngũ từng đứng trong hàng ngũ phong trào, Hồ Chí Minh trở về nước sau chuyến đi đến Moscow và Bắc Kinh, trách nhiệm chính giải quyết công việc Đảng trong nước được trao cho Tổng bí thư Trường Chinh - xem “Tuyên bố về cuộc sống trong vùng Việt Minh ở vùng núi Bắc Kỳ, Việt Bắc: Hồ Chí Minh”. Một số nhận xét của báo chí trong mục này, xem đoạn trích tạp chí “Dân chủ” (Bangkok), tháng 6-1950, và “Tạp chí Viễn Đông”, ngày 13-6-1950, và Sài gòn bằng điện báo 1644 ngày tháng 13-3-1951, tất cả có trong trong SPCE, hộp 366, CAOM. Về chuyến thăm Việt Nam của Figueres, xem Jean Lacouture, “Hồ Chí Minh: Tiểu sử một chính trị gia”, Peter Wiles dịch sang tiếng Anh (New York: Vintage, 1968), trang 185-87. Theo tạp chí Pháp “Aux Ecoutes”, Moscow cảnh báo Hồ Chí Minh rằng mục tiêu cuối cùng của cách mạng không phải là độc lập dân tộc, mà là đi tới chủ nghĩa cộng sản toàn cầu, và khuyên Hồ Chí Minh chấp nhận lời khuyên và sự giúp đỡ của Trung Quốc. Không rõ báo cáo này có dựa trên trên thực tế hay không, dường như cả Moscow và Bắc Kinh vẫn nuôi dưỡng sự nghi ngờ ý nghĩ Hồ Chí Minh. Xem thư mục chuyến đi thăm Việt Nam của Figueres trong SPCE, hộp 366, CAOM.
[590] Dịch đoạn trích từ tạp chí “Gia Định” ngày 16-11-1950, phụ lục “Lưu ý chính sách cố vấn” 1257/C/SG, I, ngày 23-2-1951, trong hồ sơ nhãn “1951”, SPCE, hộp 366, CAOM.
[591] Xem Võ Nguyên Giáp, “Đường tới Điện Biên Phủ”, trang 17, 41-43. Xem thêm “Nhật ký Trần Canh”, tập 2 (NXB Giải phóng quân, Bắc Kinh, 1984), trang 37.
[592] Manila 788 gửi Ngoại trưởng, ngày 2-10-1950, RG 59, NXB Đại học Hoa Kỳ.
[593] Xem Heath gửi Ngoại trưởng, ngày 4-11-1950, trong “Quan hệ Mỹ - Việt Nam 1945-1967” (Washington, D.C., Văn phòng in ấn Chính phủ Mỹ, 1971), cuốn số 8, trang 405-458. Xem thêm Heath gửi Ngoại trưởng, ngày 15-10-1950, RG 59, NXB Đại học Hoa Kỳ.
[594] Hoàng Văn Hoan, “Giọt nước trong biển cả”, trang 295-96; Võ Nguyên Giáp, “Đường tới Điện Biên Phủ” trang 12, 36-44; Ngọc Châu, “Chiếc áo Bác Hồ” (NXB Thanh niên, 1987), trang 60; Boudarel và Nguyễn Văn Kỳ, Hà Nội, trang 123; Chen Jian, “Trung Quốc và chiến tranh Đông Dương lần I”, trang 93-94. Việc Trần Canh phê bình sự chấp hành mệnh lệnh của Việt Minh - và có nhiều - xem Qiang Zhai, “Cấy ghép mô hình Trung Quốc: Cố vấn quân sự Trung Quốc và chiến tranh Việt Nam lần I, 1950-1954”, (Tạp chí Lịch sử quân sự, tháng 10-1993), trang 700-703, và “Nhật ký Trần Canh”, trang 38-39. Theo “Nhật ký Trần Canh”, nhiều ý tưởng có lẽ được Hồ và Giáp thông qua trước khi Trần Canh về nước. Họ “vui vẻ” chấp nhận đề xuất của Trần Canh. Theo Võ Nguyên Giáp, “Đường tới Điện Biên Phủ”, trang 14, Hồ Chí Minh rất kính trọng Trần Canh, và ngay từ đầu Hồ đề nghị ông cầm đầu đoàn đại biểu Trung Quốc đầu tiên tới Đông Dương đầu năm 1950.