CHƯƠNG IV
CON RỒNG CHÁU TIÊN
Nguyễn Ái Quốc quay trở về Á châu vào cuối năm 1924 khác hẳn so với châu Á ông ra đi 13 năm trước. Trong khi hệ thống thuộc địa ở Nam và Đông Nam Á vẫn không thay đổi sau Thế Chiến I (1914-1918), tình hình ở Trung Hoa đã thay đổi mạnh mẽ. Mùa thu năm 1911, một biến động lớn đã gây ra sự tan rã của hệ thống phong kiến ở Bắc Kinh. Vào tháng sáu, bốn tháng sau khi Nguyễn Ái Quốc rời cảng Nhà Rồng, một cuộc nổi dậy của các thành viên đảng cách mạng của Tôn Dật Tiên dẫn đến sự sụp đổ triều đại Mãn Thanh rất nhanh chóng và ra đời một chính phủ mới ở Trung Hoa. Nhưng những đảng viên của Tôn Dật Tiên đã không tận dụng được tình thế. Tướng Viên Thế Khải, -tổng tư lệnh các lực lượng vũ trang Mãn Thanh, khéo léo và khôn ngoan cả về chính trị lẫn quân sự, -tháng 2 năm 1912-, ông Tôn buộc phải nhường cho tướng Viên Thế Khải chức tổng thống nước cộng hoà mới sẽ được thiết lập ở Bắc Kinh.
Viên Thế Khải hy vọng sẽ thành lập một triều đại mới mang tên mình nên ra sức khôi phục luật pháp và lập lại trật tự dựa vào các phương pháp cai trị của nền quân chủ chuyên chính cũ. Điều này gây xung đột với đảng của Tôn Dật Tiên mà số đảng viên của Tôn chiếm gần một nửa số ghế trong Quốc Hội mới được thành lập. Tháng Giêng năm 1914, Viên giải tán quốc hội, nắm quyền cai trị bằng sắc lệnh, tuyên bố đảng của Tôn vi phạm pháp luật. Tôn Dật Tiên trốn sang Nhật. Nhưng khi Viên chết đột ngột sau cơn bạo bệnh năm 1916, Trung Hoa lại bắt đầu lâm vào khủng hoảng, tan rã, vì các tư lệnh vùng đã trở thành các lãnh chúa nắm quyền kiểm soát từng tỉnh trên toàn quốc. Mặc dù chính phủ suy yếu nhưng vẫn nắm quyền ở Bắc Kinh, làn sóng bất an trong xã hội và sự chống đối của giới trí thức bắt đầu bùng nổ khắp nơi. Năm 1919, nhiều cuộc biểu tình lớn của sinh viên đã nổ ra ở thủ đô và các thành phố lớn khác. Cùng năm đó, Tôn Dật Tiên đã thiết lập thành công cơ sở đảng cách mạng, - tên mới Quốc Dân Đảng-, ở Quảng Châu, thủ phủ của tỉnh Quảng Đông, dưới sự bảo hộ của Trần Quýnh Minh tư lệnh vùng. Tháng Tư năm 1921, Tôn Dật Tiên chính thức tuyên bố thành lập một chính phủ quốc gia mới do ông làm tổng thống.
Trong hai năm liền sau cuộc cách mạng Bolshevik, chính phủ Xô Viết mới ở Moscow không thể tận dụng được những sự kiện đang diễn ra ở Trung Hoa và lúc này chính phủ buộc phải quan tâm hơn đến việc thiết lập quyền kiểm soát các vùng lãnh thổ rộng lớn một thời thuộc đế chế Nga ở Seberia, lúc đó đang bị các lực lượng chống cộng chiếm giữ. Đến mùa xuân năm 1920, Liên Xô đã củng cố xong sự thống trị ở vùng này, Ban Bí thư Viễn Đông được thành lập ở Irkutsk để trực tiếp chỉ đạo các hoạt động của cộng sản ở khu vực Đông Á và Thái Bình Dương rộng lớn. Tháng Tư năm đó, Grigory Voitinsky, đặc vụ của Đệ Tam Quốc Tế đóng ở Irkutsky đi Bắc Kinh. Sau khi dừng lại ở Bắc Kinh một thời gian ngắn, ông đi tiếp đến Thượng Hải, giúp địa phương thành lập một tổ chức lâm thời gồm những nhà cách mạng đang hoạt động trong thành phố. Hè năm sau, những người theo đường lối cấp tiến trên khắp đất nước Trung Hoa đã tập trung tại Thượng Hải, chính thức thành lập Đảng Cộng sản Trung Quốc.
Một trong những quyết định đầu tiên mà đảng mới phải đưa ra là có hợp tác với chế độ cách mạng mới của Tôn Dật Tiên ở Quảng Châu hay không. Một số đảng viên, do tin rằng các thành viên chủ chốt của đảng của ông Tôn Dật Tiên về cơ bản là phản cách mạng, nên không muốn hợp tác với Quốc dân đảng. Nhưng nhà cộng sản người Hà Lan, ông Maring, người kế nhiệm Voitinsky làm trưởng đại diện của Quốc tế Cộng sản ở Trung Hoa lại rất cương quyết. Tháng 1-1923, Tôn Dật Tiên và đại diện Liên Xô Adolf Joffe đã ký một thoả thuận ở Thượng Hải nhằm thiết lập một mặt trận thống nhất giữa hai đảng và dàn xếp để Liên Xô hỗ trợ cho việc hoàn thành thống nhất Trung Hoa. Thoả thuận đó, được mô tả là “liên minh bên trong”, kêu gọi các đảng viên đảng cộng sản Trung Quốc gia nhập Quốc dân đảng, là lực lượng chính trị chủ chốt ở Quảng Châu.[133]
Từ cuối năm 1923, hai đảng này với sự giúp đỡ phái bộ mới của Cộng sản Quốc tế Mikhail Borodin, bắt đầu chuẩn bị cho một cuộc hành trình về phương bắc để hạ bệ các lãnh chúa tư lệnh tham lam ở Trung Hoa kể từ sau cái chết của Viên Thế Khải. Tuy là thành phần nhỏ trong liên minh và thiếu sự ủng hộ cũng như uy tín như Quốc Dân Đảng, nhưng Đảng cộng sản Trung Quốc là một lực lượng mới, năng động trong nền chính trị Trung Hoa, một đảng của tương lai chứ không phải của quá khứ.
Ở Đông Dương thuộc Pháp cũng đang có những thay đổi, mặc dù không cùng tốc độ với Trung Hoa. Dân số của ba vùng này gia tăng nhanh chóng. Từ bảy triệu năm 1880 đã lên đến khoảng mười sáu triệu năm 1926, với sáu triệu ở Bắc Kỳ, năm triệu ở Trung Kỳ và khoảng bốn triệu ở Nam Kỳ. Mặc dù hơn ba phần tư dân số vẫn sống ở nông thôn, dân số thành thị đã tăng mạnh, lên đến gần một triệu người vào giữa những năm 1920. Hầu hết sống ở các thành phố lớn Sài Gòn và Hà Nội.
Trong mười ba năm kể từ khi Nguyễn Ái Quốc rời Sài Gòn, phong trào khôi phục nền độc lập của Việt Nam đã mất chỗ đứng. Với việc Phan Châu Trinh bị bắt và đày sang Pháp, người chủ trương cải cách phi bạo lực uy tín nhất đã tạm thời im lặng. Trong khi đó, tổ chức của Phan Bội Châu - một thời đầy hứa hẹn, được sự ủng hộ của nhiều nhà yêu nước có uy tín nhất Việt Nam - đã dần dần không còn quan trọng như trước nữa sau nhiều lần nổi dậy không thành công và tiếp đó là việc chính nhà lãnh đạo phong trào dân tộc chủ nghĩa bị bắt và bị đày ở nam Trung Hoa.
Khi nghe tin về cuộc Cách mạng Tân Hợi năm 1911 ở Trung Hoa, Phan Bội Châu bỏ kế hoạch thành lập một chế độ quân chủ lập hiến và thay vào đó thành lập một chính đảng mới - Quang Phục Hội - nhằm thiết lập một nền cộng hoà độc lập theo mô hình của Tôn Dật Tiên. Phan Bội Châu hy vọng sẽ được Trung Hoa giúp đỡ để lật đổ Pháp. Trong một cuộc họp với Tôn Dật Tiên ở Quảng Châu đầu năm 1912, ông Tôn hứa với Phan Bội Châu, Việt Nam sẽ là nước đầu tiên được Trung Hoa giúp đỡ một khi các nhà cách mạng củng cố và nắm quyền ở Trung Hoa. Tuy nhiên, ít lâu sau, Phan Bộ Châu bị một tư lệnh địa phương bắt vì tội thực hiện các hoạt động lật đổ. Phan Bội Châu ra tù năm 1917, đảng của Tôn Dật Tiên đã mất quyền và bản thân ông Tôn đang ở Nhật Bản. Hy vọng được sự giúp đỡ của nước ngoài lại một lần nữa tiêu tan, Phan Bội Châu mất phương hướng. Trong lúc tuyệt vọng, ông thậm chí đã đề xuất hợp tác với người Pháp miễn là họ giữ lời hứa thực hiện các cuộc cải cách kinh tế chính trị ở Đông Dương. Cho đến đầu những năm 1920, tổ chức cách mạng ở Việt Nam hầu như đã tan rã. Phan Bội Châu bị đày ở Trung Hoa, xung quanh là một nhóm môn đệ trung thành, ông trở thành nhân vật ngày càng không hợp thời - rõ ràng ông đã hết thời.[134]
Sự sụp đổ phong trào của Phan Bội Châu và việc Phan Châu Trinh bị đi đày là những thay đổi lớn diễn ra trong xã hội Việt Nam. Dấu chấm hết của hai người họ Phan cùng với sự đi xuống của giới Nhà Nho đã từng có ảnh hưởng lớn đối với nền chính trị Việt Nam trong nhiều thế kỷ. Mặc dù được hối thúc của các nhà yêu nước như Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh, nhiều nhà Nho đã bỏ niềm tin cũ, cố gắng tham gia vào chính trị quần chúng, với tư cách một giai cấp họ chưa bao giờ cảm thấy thoải mái thực sự trong vai trò mới này. Nhiều người thấy khó có thể thích nghi với những điều kiện đang thay đổi dưới sự thống trị của thực dân Pháp. Phan Bội Châu rất thích phong trào “mười nghìn anh hùng vô danh” được in trên sách báo. Họ là những người sẽ đuổi Pháp ra biển, nhưng xét cho cùng, đảng của ông chủ yếu bao gồm những người thuộc giới thượng lưu, được giáo dục trong xã hội và hầu như không có nông dân tham gia. Phong trào đã cố gắng thúc đẩy thương mại và công nghiệp làm phương tiện để làm giàu cho xã hội Việt Nam, các thành viên có thâm niên của phong trào lại là đại diện của giới quý tộc địa chủ. Các nhà Nho yêu nước có thiện chí lại mặc quần chùng áo thụng mở cửa hàng để gây quỹ và khuyến khích thương mại ở địa phương. Nhưng sau đó đã làm khách hàng xa lánh do thái độ kẻ cả, hách dịch của họ.
Cuối Thế Chiến thứ Nhất, ảnh hưởng của các nhà Nho, -(khoảng 20.000 người vào cuối thế kỷ XIX), trong xã hội Việt Nam đã bắt đầu suy yếu. Các kỳ thi Nho học đã bị loại bỏ trên cả ba vùng lãnh thổ, được thay thế bằng một hệ thống giáo dục mới do người Pháp đặt ra. Quốc ngữ, tiếng Việt, -tiếng nói hàng ngày-, chuyển sang hệ chữ cái La-tinh, lúc đó được thúc đẩy mạnh mẽ bởi cả các nhà truyền giáo Đạo Cơ Đốc ở Nam Kỳ, các trí thức theo đường lối cải cách ở Bắc Kỳ, Trung Kỳ và ngày càng được thừa nhận là hệ thống thay thế hữu ích cho hệ thống chữ Hán-Nôm phức tạp. Trong khi hầu hết trẻ em Việt Nam tiếp tục học theo hệ thống giáo dục cũ ở làng quê thì con em trong giới Nho sĩ theo hệ thống giáo dục mới, tiến bộ được đào tạo ở các trường Pháp Việt mới, như trường Quốc Học Huế, nơi mà các bài giảng bằng tiếng Pháp. Nhiều người sang Pháp học tiếp.
Trong khi đó, một tầng lớp trung lưu người Việt mới và Âu hoá đã xuất hiện. Một số thành lập các công ty thương mại, nhà máy đáp ứng như cầu và nguyện vọng của các gia đình khá giả sống ở các thành phố lớn. Những người khác làm cho các công ty của châu Âu, theo các nghề khác nhau hoặc giữ một vị trí trong bộ máy hành chính quan lại. Mặc dù nhiều thành viên của giới thành thị mới này ngưỡng mộ Phan Bội Châu và các môn đệ của ông về lòng yêu nước, nhưng họ kín đáo chế nhạo các bậc đàn anh về thái độ bảo thủ và cổ hủ. Những người thuộc thế hệ mới cũng cam kết đối với sự nghiệp độc lập dân tộc, từ bỏ quá khứ và có kiến thức tinh tế hơn về phương Tây. Nhiều người mặc đồ Tây, uống rượu Pháp, nói chuyện bằng tiếng Pháp. Nhà báo Pháp Paul Monet viết, những người thuộc thế hệ mới này là “bản sao mẫu của nền văn hoá (Pháp) của chúng ta, không còn niềm tin truyền thống và rời bỏ mảnh đất của tổ tiên, hoàn toàn không quan tâm đến đạo Khổng, đạo đức mà họ không thích bởi vì họ không hiểu về nó”[135]. Các quan chức Pháp thường coi những bước phát triển này như là một dấu hiệu về sự thành công của sứ mệnh khai hoá, nhưng họ cũng sớm nhận ra thế hệ này sẽ là một thách thức lớn hơn so với các cha ông của họ.
Quan chức cao cấp của Pháp đã vô tình làm người Việt Nam càng bực tức hơn đối với những hậu quả của chế độ thực dân. Năm 1919, kẻ thù tương lai của Nguyễn Ái Quốc là Albert Sarraut, -toàn quyền Đông Dương lúc đó-, đã làm cho những trái tim Việt Nam cảm động vì ông hứa về một kỷ nguyên cải cách mới. Ông nói với những người cấp dưới: “Tôi sẽ đối xử với các bạn như một người anh đối với một người em và sẽ dần dần trả lại cho các bạn chân giá trị của một con người.” Những lời lẽ đó đã làm loé lên hy vọng ở Việt Nam và thậm chí Nguyễn Ái Quốc đã khâm phục lời lẽ đó. Ông vẫn là người luôn ngưỡng mộ nền văn hoá đã sản sinh ra khẩu hiệu cách mạng “tự do, bình đẳng và bác ái”.
Sau khi Sarraut rời Hà Nội đi Paris nhận chức Bộ trưởng Bộ Thuộc địa, những lời hứa của ông về cải cách vẫn chưa được thực hiện. Thí dụ, hệ thống giáo dục mới hầu như không nhận được nguồn tài trợ nào từ chính quyền thực dân và kết quả chỉ có ảnh hưởng rất hạn chế đối với dân chúng địa phương. Các trường làng quê đặc biệt thiếu kinh phí và đa số trẻ Việt Nam được đi học không đến bốn năm. Vào giữa những năm 1920, chỉ khoảng năm ngàn học sinh trên toàn quốc được học đến bậc trung học. Những thống kê đó cho thấy đạo đức giả của người Pháp khi họ nói đang thực hiện sứ mệnh khai hoá văn minh ở Đông Dương. Trong khi đó theo hệ thống cũ, khoảng một phần tư dân số có thể đọc được các bài viết bằng chữ Hán, trong thập niên sau Thế chiến I, tỷ lệ biết chữ quốc ngữ và chữ Nôm ước tính chỉ khoảng năm phần trăm dân số.
Trong khi đó, mặc dù nhiều người Việt Nam đã đóng góp cho sự nghiệp của Pháp trong Thế chiến I, nhà cầm quyền thực dân vẫn từ chối cho dân chúng quyền đóng một vai trò tích cực trong nền chính trị quốc gia. Khoảng 10.000 viên chức thực dân ở Đông Dương được trả lương cao hơn so với người Việt Nam làm cùng một công việc. Nhiều người trong số 40.000 người châu Âu sống và làm việc ở Đông Dương, một số khi đến hầu như tay không ngoài bộ quần áo khoác trên người, ấy thế hàng ngày họ đối xử thô bạo, thái độ trịch thượng đối với dân bản xứ. Người nước ngoài, kể cả hơn 200.000 Hoa kiều sống chủ yếu ở các thành phố và thị trấn chi phối nền kinh tế đô thị. Một nhà văn Pháp đã cho các chính sách cải cách của Sarraut là sự ghê tởm, những chính sách đôi khi được mô tả là “nền chính trị hợp tác”, là sự gian dối, trong khi Tổng thống Pháp Raymond Poincaré thừa nhận “các chính sách đó chỉ được thể hiện về mặt hình thức”.[136]
Đa số dân chúng phải chịu các mức thuế gia tăng và sự độc quyền của chính phủ trong việc sản xuất và buôn bán thuốc phiện, muối và rượu gây giá bán lẻ tăng cao tất cả ba loại sản phẩm này. Ở Nam Kỳ, các chủ đất giấu mặt mua đất hoang ở châu thổ sông Cửu Long đã đòi thu tô quá cao với người thuê mới, đôi khi lên tới hơn 50 phần trăm tổng giá trị mùa màng trên mảnh đất đó, trong khi địa chủ sống trong các dinh cơ ở Sài Gòn. Cả nước có khoảng hơn nửa triệu nông dân không có đất, so với khoảng 50 nghìn địa chủ. Trong cuốn Quyền Con Người (Forceries Humaines) được viết vào giữa thập niên, tác giả Georges Garros nhận xét, nếu người Pháp cũng bị áp bức như vậy chắc hẳn đã nổi dậy rồi. Thực ra, như Nguyễn Ái Quốc nhận xét một cách cay đắng với ký giả Ossip Mandelstam trong cuộc phỏng vấn năm 1923 ở Moscow, Việt Nam là “quốc gia bị chìm trong bóng tối.”
Sự thất vọng đã dấy lên làn sóng chính trị mạnh mẽ mới vào giữa những năm 1920. Đứng đầu là một thế hệ trí thức trẻ tuổi thuộc tầng lớp trung lưu được giáo dục theo hệ thống của Pháp. Như những người cùng cảnh ngộ ở thế giới thuộc địa, nhiều người có suy nghĩ đa dạng với nền văn hoá phương Tây, ngưỡng mộ nhưng không chấp nhận nền văn hoá đó. Nhiều người trong số họ đọc tiểu thuyết và tạp chí bằng Pháp ngữ, trong đó có các tạp chí bằng chữ quốc ngữ như Phụ Nữ Tân Văn phục vụ theo thị hiếu phương Tây, viết theo cách nhìn nhận của các thanh niên có học thức. Nhưng họ lại phẫn nộ về việc người Pháp đối xử với dân bản xứ bằng một thái độ trịch thượng và nảy sinh nghi ngờ, tại sao các quan niệm của Pháp được quảng cáo nhiều như tự do, bình đẳng và bác ái mà họ được học ở trường lại không áp dụng ở Đông Dương.
Những dấu hiệu thay đổi đầu tiên xuất hiện ở Sài Gòn, thành phố chịu ảnh hưởng trực tiếp nhất bởi sự có mặt của thực dân Pháp. Một tỷ lệ lớn người châu Âu ở Đông Dương đã đến định cư ở đây vì Nam Kỳ là thuộc địa, trực thuộc chính quyền Pháp và vì có cơ hội thu lợi nhuận từ các đồn điền cao su, chè và cà phê được dựng nên các khu vực phụ cận. Ở Sài Gòn, có nhiều công nhân nhà máy hơn bất cứ vùng nào ở Việt Nam. Tại Sài Gòn, khoảng cách giữa người giàu và người nghèo, người bản xứ và người nước ngoài rõ ràng nhất. Ngay cả người Việt Nam giàu có nhất cũng có lý do bất bình về việc người nước ngoài thâu tóm toàn bộ nền kinh tế. Các thương nhân Hoa Kiều quản lý các nhà máy sản xuất gạo, các ngân hàng và các tiệm cầm đồ, trong khi người châu Âu sở hữu hầu hết các nhà máy lớn và chi phối xuất nhập khẩu. Nhà nông học giàu có Bùi Quang Chiêu - Nguyễn Ái Quốc gặp trước khi đi sang châu Âu - đã đi đầu trong việc thổi bùng lên thái độ bất bình này. Là một chủ đất nhưng sống ở Sài Gòn, ông Chiêu cũng tham gia nhiều hoạt động kinh doanh và sáng lập ra tạp chí “Diễn đàn người bản xứ” đại diện cho lợi ích của thương gia địa phương. Vài năm sau, ông cùng với người quen thành lập Đảng Lập Hiến Đông Dương , đảng chính trị chính thức đầu tiên ở Đông Dương thuộc Pháp. Bùi Quang Chiêu và các cộng sự của mình hy vọng ép người Pháp dành cho người Việt Nam một vị trí cao hơn trong tiến trình chính trị và một mục tiêu nữa là giảm sự chi phối của các thương nhân Trung Hoa đối với nền kinh tế ở Nam Kỳ.[137]
Cũng như ở nhiều xã hội khác ở Đông Nam Á, các thương gia Trung Hoa từ lâu đã là lực lượng chi phối các nền kinh tế đô thị ở Việt Nam, Lào và Campuchia. Con cháu của những người nhập cư trong các thế kỷ trước đến nơi này từ các vùng duyên hải ở nam Trung Hoa thường được đám chúa đất địa phương khuyến khích tham gia sản xuất và thương mại trong khi dân bản xứ không được đối xử như vậy. Thường thì họ sống trong các khu nhà ổ chuột ở đô thị và tiếp tục duy trì văn hoá Trung Hoa, trong đó có đạo Khổng và tiếng Trung. Khi Bùi Quang Chiêu và các cộng sự của ông chú trọng đến việc làm giảm ảnh hưởng của Hoa Kiều hơn là các nhà cầm quyền thực dân, họ có thái độ tương tự như thái độ ở một số thuộc địa khác trong khu vực.
Bùi Quang Chiêu 1873 - 1945
Một đối thủ nguy hiểm hơn ông Chiêu, theo quan điểm người Pháp - một trí thức được đào tạo ở Paris - là Nguyễn An Ninh. Là con của một nhà nho Nam Kỳ có liên hệ với Trường Đông Kinh Nghĩa Thục Hà Nội, sau đó phục vụ trong phong trào của Phan Bội Châu, ông Ninh học luật ở Pháp - nơi ông đã gặp Nguyễn Ái Quốc - và từ đó say mê chính trị. Khi trở về Sài Gòn vào đầu những năm 1920, ông sáng lập tờ báo Cái Chuông Rè, nhằm nâng cao tinh thần yêu nước của người Việt Nam và thúc giục người Pháp tiến hành cải cách chính trị. Giống như Phan Châu Trinh, Nguyễn An Ninh cũng là người ngưỡng mộ cuồng nhiệt văn hoá phương Tây, tin rằng nó là chuẩn mực để điều chỉnh hệ thống Nho giáo truyền thống đã bóp nghẹt khả năng sáng tạo của đồng bào mình và giúp Pháp chinh phục họ.
Nguyễn An Ninh 1990 -1943
Vào đầu và giữa thập niên 1920, nhà báo trẻ theo trường phái châm biếm này đã trở nên nổi tiếng trong giới thanh niên Nam Kỳ. Các bài phát biểu không thường xuyên của ông được người đọc mong đợi. Trong một bài phát biểu tháng 10-1923 tại Nha Học Chính ở Sài Gòn, ông đã kêu gọi mọi người hưởng ứng một nền văn hoá mới không bị ảnh hưởng bởi các ý tưởng du nhập của Khổng Tử, Mạnh Tử và Lão Tử. Giống như Mahatma Gandhi ở Ấn Độ, ông Ninh lập luận, giải pháp cho các vấn đề của Việt Nam cơ bản là tinh thần và câu trả lời chỉ có thể do người dân tìm ra.
Ảnh hưởng của các hoạt động của Nguyễn An Ninh đối với thanh niên Nam Kỳ ngày càng làm cho các nhà chức trách Pháp lo ngại. Cuối cùng ông bị triệu đến gặp Toàn quyền lâm thời Maurice Cognacq, cảnh báo các hoạt động của ông sẽ bị nhà chức trách kiểm soát chặt chẽ và nếu ông quyết định tiếp tục thực hiện các hoạt động, họ sẽ dùng các biện pháp cần thiết để buộc ông chấm dứt. Cognacq cho rằng người Việt Nam quá thật thà, chất phác làm sao có thể hiểu thông điệp của ông Ninh. Ông nói thêm một cách châm biếm, nếu ông Ninh muốn kêu gọi các trí thức thì hãy đến Moscow. Lời cảnh báo của Cognacq bị bỏ qua và Nguyễn An Ninh vẫn thực hiện chiến dịch của ông.[138]
Ngày Nguyễn Ái Quốc đến Quảng Châu bằng tàu từ Vladivostok giữa tháng 11 năm 1924 đúng ngày thành phố sôi động, hàng ngàn người chen lấn trên đường phố gần bến cảng bày tỏ sự ủng hộ đối với chính phủ Tôn Dật Tiên và tiễn tổng thống đi Bắc Kinh. Từ tháng 2 năm 1923, ông Tôn thực hiện chiến lược “Khối Liên minh bên trong” sau khi thương lượng với đặc vụ Maring của Đệ Tam Quốc Tế mấy tháng trước. Ông Tôn đã chuyển Quốc Dân Đảng sang cánh tả bằng cách đưa thêm một số đảng viên Đảng Cộng sản Trung Quốc vào các vị trí quan trọng. Từ tháng Mười khi đặc vụ Đệ Tam Quốc Tế Mikhail Borodin từ Moscow đến, đảng tổ chức lại theo đường lối của chủ nghĩa Lenin, một học viện quân sự được thành lập ở đảo Hoàng Phố để đào tạo các sĩ quan. Tưởng Giới Thạch, một trong những sĩ quan trẻ tin cậy của Tôn Dật Tiên, được chỉ định phụ trách nhà trường. Trường nằm cách thành phố vài dặm xuôi theo dòng sông. Chu Ân Lai trở thành chính uỷ nhà trường.
Tuy vậy, việc Tôn Dật Tiên chuyển sang cánh tả không phải là không phải trả giá. Quan hệ giữa chính phủ ông với các đại diện quyền lợi châu Âu ở Quảng Châu đã bắt đầu xấu đi. Đối với nhiều thương gia và nhà ngoại giao phương Tây ở thành phố, quyết định của ông Tôn thiết lập một quan hệ chính thức với nước Nga Xô viết và Đảng cộng sản Trung Quốc là bằng chứng hiển nhiên, ông và đảng của ông về cơ bản chống phương Tây và đã trở thành tay sai của Moscow.
Những tháng tiếp theo, tình hình càng trở nên căng thẳng hơn. Mùa hè năm 1924, các cuộc đình công phản đối các công ty của Anh ở Quảng Châu đã nổ ra trước một sự cố do các nhà chức trách Anh gây ra. Người Anh đã áp đặt sự kiểm soát của cảnh sát để trấn áp các cuộc biểu tình trên đường phố ở đảo Sa Diện - đất nhượng tô của người Pháp dọc bờ sông phía tây. Chính phủ Tôn Dật Tiên tuyên bố ủng hộ những người đình công. Mùa thu năm đó, Hiệp hội các thương gia Quảng Châu - bị chi phối bởi những lợi ích thương mại của châu Âu - đã thiết lập một lực lượng quân sự chống chính phủ Tôn Dật Tiên và các vụ xô xát đã xảy ra giữa các đơn vị dân quân và quân đội của chính phủ.
Trong khi đó, tình hình bên ngoài Quảng Châu thay đổi đột ngột, Ngô Bội Phu, một tư lệnh nhiều năm kiểm soát các vùng ở phía bắc Trung Hoa, bị lật đổ bởi “vị tướng theo Thiên Chúa Giáo”, Phùng Ngọc Tường. Mặc dù Phùng cũng là một tư lệnh, ở Quảng Châu ông được coi là thấu hiểu công cuộc cách mạng Trung Hoa hơn là Ngô Bội Phu khi Phùng mời Tôn Dật Tiên đến Bắc Kinh để đàm phán một dàn xếp hoà bình, ông Tôn đã đồng ý.
Mặc dù Nguyễn Ái Quốc không được cử đi Trung Hoa với tư cách chính thức nhưng không phải là ông không có liên lạc với ai. Ngay lập tức ông đã liên hệ với Mikhail Borodin. Mikhail Borodin đã mời Nguyễn Ái Quốc đến ở căn hộ của ông ở Bảo Công Quán, một biệt thự kiểu phương Tây rộng rãi, bao quanh là một khu vườn trải dài từ các trụ sở của Cộng sản Quốc tế đến trung tâm thành phố. Tầng trệt toà nhà là văn phòng của hai mươi đại diện của Cộng sản Quốc tế được cử từ Moscow đến. Trên tầng hai là căn hộ riêng của Borodin, Nguyễn Ái Quốc sử dụng một phòng để ở. Để tự vệ trước sự giám sát của Pháp và không bị các nhà chức trách bắt giữ vì nhập cư trái phép, Nguyễn Ái Quốc tự nhận là người Trung Hoa với cái tên Lý Thuỵ. Chỉ có vợ chồng Borodin biết danh tính thực của ông.
Borodin quen biết Nguyễn Ái Quốc tại khách sạn Lux khi cả hai sống ở Moscow một năm trước đây. Cả hai nói tiếng Anh, (Borodin từng có thời gian là người tổ chức công nhân ở Chicago trước Thế chiến I), họ chia sẻ mối quan tâm chung khát khao thúc đẩy phát triển phong trào cách mạng ở châu Á. Là người đứng đầu phái bộ Cộng sản Quốc tế bên cạnh chính phủ Tôn Dật Tiên ở Quảng Châu, Borodin có thể là người rất cần thiết cho người đồng sự trẻ của mình.[139]
Sau khi dọn đến ở nơi ở mới, Nguyễn Ái Quốc được cử làm tại văn phòng của Thông tấn xã Xô viết (ROSTA) nằm tầng trệt của trụ sở của Quốc tế Cộng sản ở Bảo Công Quán. Nguyễn Ái Quốc viết bài cho thông tấn xã, những bài báo này gửi về Moscow đăng với bút danh Nilovesky, ông vừa làm phiên dịch vừa là đại diện địa phương không chính thức của Quốc tế Nông dân. Tuy vậy, mục tiêu chính của ông, gây dựng hạt nhân cho đảng cách mạng Việt Nam mới được xây dựng theo mô hình của Lenin. Sau đó ông có thể theo đuổi mục tiêu dài hạn hơn là lập trật tự cho phong trào kháng chiến của Việt Nam và biến nó thành một lực lượng đáp ứng những mong ước của ông.
Chiến lược cách mạng do Cộng sản Quốc tế đưa ra tại Đại hội lần thứ II ở Moscow đã cho ông đường lối chung để khởi động tiến trình cách mạng. Một trong những chỉ dẫn đó là cần phải có biện pháp hợp tác với các nhóm chủ nghĩa dân tộc phi cộng sản hiện đang hoạt động, một mục tiêu mà ông đã đưa ra trong các báo cáo của mình gửi lãnh đạo của Cộng sản Quốc tế ở Moscow. Nhưng Nguyễn Ái Quốc đã nhận thức được những chỉ dẫn đó chưa đáp ứng hoàn toàn và đầy đủ nhu cầu ông đòi hỏi. Tại một cuộc họp nhằm thảo luận vấn đề thuộc địa tại Đại hội Cộng sản Quốc tế V mùa hè năm 1924, ông đã hỏi Dimitri Manuilsky - chuyên gia về thuộc địa - những người công nhân cộng sản châu Á cần phải làm gì khi không có đảng dân tộc nhân dân lớn mạnh. Không rõ Manuilsky - một người ít có kinh nghiệm về các vấn đề châu Á - đã bao giờ nghĩ đến câu hỏi này chưa. Tuy nhiên, ông vẫn cố gắng giải thích chiến lược “mặt trận thống nhất” của Lenin theo lối ứng khẩu, cho rằng khi không có phong trào dân tộc quần chúng, đảng cộng sản trong nước cần phải có sáng kiến thành lập một phong trào dưới sự lãnh đạo của đảng.[140]
Thực hiện gợi ý của Manuilsky ở Đông Dương không dễ chút nào. Như Nguyễn Ái Quốc đã báo cáo cho các đồng nghiệp của Cộng sản Quốc tế khi ông sống ở Moscow, giai cấp công nhân Việt Nam, có thể là lực lượng đầu đàn trong đảng Marx Lenin sau này, nhưng vẫn còn trong giai đoạn phôi thai, chỉ chiếm khoảng 2 phần trăm dân số, bao gồm công nhân mỏ, những người sống rải rác ở cả ba miền Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ. Về nhận thức chính trị, công nhân Việt Nam xếp sau các đồng nghiệp của mình ở nước Trung Hoa láng giềng và thiếu nhiều khả năng lãnh đạo phát động một cuộc khởi nghĩa của nhân dân chống thực dân Pháp.
Ở Moscow, Nguyễn Ái Quốc nhận thấy, các trí thức yêu nước đã lãnh đạo cuộc kháng chiến đầu tiên của người Việt Nam chống lại hệ thống thuộc địa. Thật không may, ở Pháp chẳng mấy người hiểu biết tư tưởng Marxist. Ở Pháp quan điểm cấp tiến về xã hội trong giới trí thức đã có ít nhất từ cuộc cách mạng năm 1789. Tại Nga, những quan điểm này đã nảy sinh vào giữa thế kỷ 19 với những người theo chủ nghĩa dân tuý. Ngay ở Trung Hoa, các tư tưởng cấp tiến từ phương Tây như chủ nghĩa vô chính phủ và chủ nghĩa cộng sản đã trở nên quen thuộc với các thành viên hàng đầu của phong trào tiến bộ vào đầu thế kỷ XX. Nhưng ở Việt Nam, những tư tưởng cách mạng nước ngoài bị cấm đoán, chỉ bắt đầu du nhập trong những năm sau Thế chiến II. Ngay cả khi các trí thức Việt Nam bắt đầu biết về cuộc cách mạng Bolsevich thì những tin tức về cuộc cách mạng chủ yếu là tin tiêu cực hoặc bị Pháp kiểm duyệt bóp méo nghiệm trọng. Sách về Karl Marx hay nước Nga Xô viết bị cấm ở Đông Dương trong khi các bài trên những tờ báo và tạp chí địa phương nói đến các đề tài đó bị các quan chức Pháp thường xuyên tịch thu. Chỉ một số người có đủ may mắn để có được các bản sao về các tác phẩm của Karl Marx hoặc tờ Người Cùng Khổ của Nguyễn Ái Quốc được lén lút truyền cho nhau đọc hiểu mặt trái của sự kiện.
Người Việt Nam bình thường do không có kiến thức sâu sắc về chủ nghĩa Marx nên không thể hiểu về cách mạng Bolsevich. Thành phần xã hội và quan điểm thế giới của giới cách mạng của Việt Nam làm cho các tư tưởng Marxist khó được chấp nhận một cách thực sự, khi những tư tưởng này trở nên phổ biến hơn. Đối với đa số trí thức Việt Nam, cuộc sống đô thị khá mới mẻ. Trong tư tưởng Nho giáo - tư tưởng có thành kiến sâu sắc chống lại việc chạy theo lối sống đô thị công - thương - nghiệp - họ hầu như không thấy mối liên quan giữa học thuyết Marx với những vấn đề của một nước Việt Nam thuần nông. Tuy nhiên, chủ nghĩa Marx được những người đang chờ đợi sự thay đổi có thể thay thế cho thế giới quan Nho giáo đã chấp nhận. Những người theo chủ nghĩa Marx có ác cảm sâu sắc đối với chủ nghĩa đế quốc phương Tây, họ chẳng gây tác hại cho ai. Như một người theo chủ nghĩa dân tộc Việt Nam đã nói: “Chúng tôi không đi theo chủ nghĩa cộng sản mà đến với những người theo chủ nghĩa cộng sản. Vì ở đây, giống như ở các nước khác, khi những người cộng sản hứa hẹn đem lại cho người dân quyền tự quyết, họ sẽ được mong đợi như những vị cứu tinh”. Nhưng như lẽ thường, thái độ của họ là ngây thơ. Một người Việt yêu nước khác nói: “Nếu bị phương Tây ghét thì người Nga và những người cộng sản phải là những người tốt”.[141]
Nguyễn Ái Quốc ý thức được điều này. Năm 1922, trong một bài báo viết ở Paris, ông đã nhận xét, chỉ có một số ít trí thức ở các thuộc địa như Việt Nam hiểu được ý nghĩa của chủ nghĩa cộng sản, còn hầu hết những người hiểu được lại thuộc giới tư sản trong nước và thích “mặc áo hàng hiệu và chỉ quan tâm đến quyền lợi bản thân”. Ông nhận thấy, hầu hết người dân ở các thuộc địa, chủ nghĩa Bolsevich“có nghĩa là thủ tiêu tất cả hoặc giải phóng khỏi ách áp bức của nước ngoài”. Ý nghĩa thứ nhất lôi kéo dân chúng ít học, nhút nhát rời xa chúng ta. Ý nghĩa thứ hai đưa họ lại gần với chủ nghĩa dân tộc. Cả hai nghĩa này đều nguy hiểm như nhau.[142]
Có nghĩa là Việt Nam vẫn chưa sẵn sàng cho sự thành lập một đảng cộng sản. Dân chúng “tỏ ra sẵn sàng nổi dậy nhưng hoàn toàn không có hiểu biết. Họ muốn tự giải phóng nhưng lại không biết làm như thế nào”. Giới trí thức bồn chồn không biết phải làm gì nhưng không sẵn sàng chấp nhận luận thuyết Marx. Cần phải có thời gian để người Việt Nam dần dần nhận thấy, cách mạng xã hội chính là câu trả lời cho các vấn đề của họ. Trong khi đó, một chính đảng cần được thành lập để có thể đại diện cho các ý tưởng của Marx và Lenin tuy ở dạng phôi thai nhưng có thể tập hợp quần chúng xoay quanh một vấn đề chính: độc lập dân tộc.
Phan Bội Châu - người bất đồng chính kiến nổi tiếng nhất - lúc đó sống ở Trung Hoa. Ra tù năm 1917, sau một thời gian thử nghiệm tư tưởng thoả hiệp với người Pháp, Phan Bội Châu đã quay lại với quan điểm chống Pháp trước khi ông bị bắt. Tuy già nhưng vẫn khoẻ mạnh, với bộ râu màu muối tiêu và cặp kính, người chiến binh năm mươi nhăm tuổi đến ở Hàng Châu, một khu nghỉ có quang cảnh đẹp ở tây nam Thượng Hải - nhà của Hồ Học Lâm - một người ủng hộ, sau này đóng vai trò chính của phong trào trong suốt thời kỳ Thế chiến II. Dù Phan Bội Châu không còn các hạt nhân của tổ chức chống thực dân yêu nước ở Đông Dương, nhưng tên tuổi ông vẫn có sức lôi cuốn quần chúng. Đầu thập niên 1920, một số người Việt Nam yêu nước đầy nhiệt huyết đã đến nam Trung Hoa gia nhập đội ngũ của những môn đệ của ông. Trong số này nổi bật nhất có Lê Hồng Phong, Lê Văn Phan (Lê Hồng Sơn), Lê Quang Đạt và Trương Văn Lệnh. Tất cả những người này cuối cùng đã trở thành thành viên sáng lập của tổ chức cách mạng đầu tiên của Nguyễn Ái Quốc.[143]
Khi ở nam Trung Hoa, những thanh niên đầy nhiệt huyết này trở nên mất kiên nhẫn trước hoạt động kém hiệu quả của tổ chức của Phan Bội Châu. Tháng 3-1924, tám tháng trước khi Nguyễn Ái Quốc đến Quảng Châu, họ quyết định tách ra, thành lập một đảng mới gọi là Tâm Tâm Xã. Cũng như hầu hết các tổ chức yêu nước được thành lập ở Việt Nam vào đầu thế kỷ XX, lãnh đạo của đảng mới đều là các sĩ phu yêu nước. Các cuộc biểu tình của học sinh sinh viên nổ ra vào giữa thập niên 1920, những người có tư tưởng cấp tiến, họ quyết định bãi khóa để tham gia các hoạt động chống thực dân. Một vài người trong số họ làm lao động chân tay trước khi quyết định ra nước ngoài. Hầu hết tất cả đều cùng quê Nghệ An với Nguyễn Ái Quốc.
Các thành viên của tổ chức mới, với tính hoạt động sôi nổi và dễ nghiêng ngả về thiên hướng chính trị, đã cho rằng hệ tư tưởng không phù hợp với nhu cầu cách mạng trước mắt. Triết lý của họ tương tự như triết lý trong phong trào nổi dậy của Auguste Blanqui ở châu Âu ở thế kỷ XIX. Phong trào khuyến khích nổi dậy, tuy không thành công ở Pháp, Ý và Tây Ban Nha. Mục tiêu cuối cùng của họ là dùng tuyên truyền và các hành động khủng bố để làm dấy lên một biến động của dân chúng nhằm lật đổ chế độ thực dân Pháp ở Đông Dương.[144]
Một trong những việc đầu tiên mà đảng mới dự định thực hiện là ám sát viên Toàn quyền Đông Dương Martial Merlin, nhân chuyến thăm Quảng Châu của ông sau chuyến thăm chính thức một số thành phố ở Đông Á giữa tháng 6-1924. Với sự cố vấn và hỗ trợ về tài chính của Lâm Đức Thụ, một công dân 36 tuổi từ Bắc Kỳ, đã đến Quảng Châu để gặp Phan Bội Châu cách đó vài năm, nhóm này đã đưa ra kế hoạch giết Merlin bằng cách đánh bom trong lễ kỷ niệm ở tô giới châu Âu - đảo Sa Diện. Mặc dù lấy một người vợ giàu có và bản thân ông già hơn nhiều so với các đồng sự của mình, ông Thụ (tên thật Nguyễn Công Viễn) được xem là một thành viên tích cực của tổ chức vì có khả năng gây quỹ và liên hệ với người Pháp. Do xuất thân từ một gia đình phản đối Pháp xâm lược, không ai nghi ngờ sự trung thành của ông đối với công cuộc chống chủ nghĩa thực dân. Trụ sở của tổ chức được đặt ở tiệm thuốc tây do ông Thụ và vợ quản lý trong một ngõ nhỏ trên đường Tô Trương và cách trụ sở của Quốc tế Cộng sản không xa.
Lúc đầu, người ta quyết định, nhà cách mạng trẻ tuổi đẹp trai có nước da ngăm ngăm đen Lê Hồng Sơn sẽ được chọn để thực hiện, bởi vì ông đã ám sát một gián điệp nhị trùng trong nội bộ đảng. Do cách biểu lộ tình cảm mạnh mẽ của ông nên thậm chí ngay cả các đồng sự cũng sợ ông nằm trong một tổ chức “chuyên đâm thuê chém mướn”. Nhưng Lê Hồng Sơn cũng bị các nhà chức trách biết rõ tung tích, do đó việc này cuối cùng được giao cho Phạm Hồng Thái, một thanh niên Việt Nam vừa mới đến từ Đông Dương gia nhập tổ chức khủng bố. Thái là con trai của một công chức tỉnh Nghệ An, thời thanh niên tham gia phong trào Cần Vương của Phan Đình Phùng. Thái đã học tại trường Pháp Việt ở Hà Nội, sớm say mê lý tưởng cách mạng. Sau khi học xong, ông xin làm thợ cơ khí ở xưởng chữa ô-tô, sau đó làm việc ở mỏ than. Đầu năm 1924, ông đến Trung Hoa với bạn là Hồ Tùng Mậu và Lê Hồng Phong, trở thành thành viên của Tâm Tâm Xã.
Khao khát được hy sinh vì sự nghiệp, Phạm Hồng Thái đồng ý nhận trách nhiệm đem bom đến mục tiêu định trước. Tối ngày 19-6-1924, các quan chức Pháp mở tiệc chiêu đãi ở khách sạn Victoria trên đảo Sa Diện để chào mừng Toàn quyền Merlin và giới thiệu ông với các thành viên có uy tín của cộng đồng doanh nhân địa phương. Bữa tiệc được tổ chức ở sảnh đường lớn gần khu phố đó. Vào khoảng 8 giờ 30 tối, ngay khi món súp được đem ra, ông Thái đã ném quả bom qua cửa sổ vào phòng tiệc. Quang cảnh được một tờ báo địa phương mô tả như sau:
“Tiếng nổ kinh hoàng vang khắp đảo Sa Diện. Sức của nó mạnh đến nỗi tất cả dao dĩa trên bàn tiệc văng vào các khách mời, gây ra những vết thương khủng khiếp… Một nhân chứng ở gần khách sạn vào thời điểm xảy ra vụ việc đến giúp, mô tả cảnh tượng cho chúng tôi bằng những từ đơn giản: kinh hoàng, rất kinh hoàng. Khách nằm trên ghế hoặc trên đất với những vết thương khủng khiếp”.
Năm người khách thiệt mạng - ba người chết tại chỗ, hai người do vết thương quá nặng - và hàng chục người bị thương. Tuy nhiên, thật kỳ lạ Toàn quyền Martial Merlin đã sống sót. Trong khi tìm cách chạy vào đất liền, Phạm Hồng Thái đã nhảy từ trên cầu xuống sông Châu Giang và chết đuối. Merlin đã trở về Hà Nội trên một tàu chở khách của Pháp ngay hôm sau để tránh có thể lại bị tấn công trong lễ tang của kẻ ám sát trẻ tuổi.[145]
Merlin đã thoát chết vì trong số khách mời, một người có ngoại hình rất giống Merlin, người ấy đã chết vì trúng bom. Nhưng những người chủ mưu lại nghi ngờ có kẻ phản bội trong hàng ngũ đã chuyển thông tin về kế hoạch ám sát cho Pháp. Nghi ngờ dồn về Lâm Đức Thụ do những thói quen và mối quan hệ với các quan chức Pháp đã làm ông trở thành kẻ bị tình nghi. Lê Quang Đạt, một trong những thành viên của Tâm Tâm Xã đã kể cho Lê Hồng Sơn về mối nghi ngờ của mình, nhưng Sơn trả lời, chính Lâm Đức Thụ đã liên hệ với người Pháp để gây các quỹ cho các hoạt động bí mật của tổ chức. Vì thế quan hệ của Thụ với tổ chức vẫn tạm được duy trì.[146]
Vụ đánh bom ở khách sạn Victoria là cố gắng đầu tiên của các nhà cách mạng châu Á nhằm ám sát một quan chức cao cấp thực dân Pháp. Việc này làm cho cộng đồng người Pháp ở Đông Dương bị sốc. Ở Hà Nội, báo chí thực dân đổ lỗi vụ tấn công cho các đặc vụ của phong trào Xô viết. Nhưng vụ ám sát này đã làm cho Phạm Hồng Thái thành người đầu tiên hy sinh vì sự nghiệp chống chủ nghĩa đế quốc. Chính phủ Tôn Dật Tiên đã xây một ngôi mộ cho người thanh niên Việt Nam yêu nước tại nghĩa trang ở Quảng Châu, nghĩa trang dành riêng cho các liệt sĩ hy sinh vì cách mạng Trung Hoa. Phan Bội Châu gián tiếp tuyên bố, ông Thái là thành viên của tổ chức của ông và tuyên bố kế hoạch ám sát nhằm trả đũa các hoạt động tàn ác của người Pháp ở Đông Dương. Phan Bội Châu đặt một câu hỏi có tính chất hùng biện, “giết người và áp bức người thì việc nào tồi tệ hơn?” Sau đó ông viết một bài miêu tả đầy chi tiết không đúng sự thật về cuộc đời của Phạm Hồng Thái.[147]
Sự kiện Sa Diện cũng được Phan Bội Châu lợi dụng để khôi phục tổ chức chính trị của mình ở nam Trung Hoa - tổ chức này đã trở nên suy yếu trong những năm ông ở trong tù. Tháng 7 năm 1924, ông đến Quảng Châu tham dự một lễ xây mộ cho Phạm Hồng Thái. Ở đó ông nói chuyện với một số môn đệ việc thay thế Việt Nam Quang Phục Hội của ông bằng một số tổ chức chính trị mới có tên là Việt Nam Quốc Dân Đảng, theo đường lối Quốc Dân Đảng của Tôn Dật Tiên. Phan Bội Châu trở lại Hàng Châu vào tháng 9.
Nguyễn Ái Quốc đến Quảng Châu năm tháng sau vụ ám sát hụt ở đảo Sa Diện. Vài ngày sau đó, trong vai nhà báo Trung Hoa Hoàng Sơn Tử, ông đã liên lạc với các thành viên của Tâm Tâm Xã. Hoạt động cấp tiến của họ rõ ràng là đã làm nhà cách mạng trẻ tuổi đồng cảm. Việc họ thiếu lý tưởng chủ đạo sẽ tạo nhiều thuận lợi vì như vậy chủ nghĩa Marxit - Lenin sẽ lấp lỗ hổng đó. Hơn nữa nhiều thành viên hàng đầu của nhóm là đồng hương nên không gây phiền phức gì cả. Nguyễn Ái Quốc có ấn tượng tốt với Lê Hồng Sơn và Hồ Tùng Mậu, nhưng đặc biệt với Lê Hồng Phong, người thấp, chắc nịch, có đôi vai rộng, con của một gia đình gia giáo ở Nghệ An mà Phan Bội Châu đã tuyển đi du học.
Nguyễn Ái Quốc không mất nhiều thời gian thuyết phục những người này theo quan điểm của ông. Trong một bức thư gửi trụ sở của Quốc tế Cộng sản ở Moscow đề ngày 18 tháng 12 năm 1924, ông báo cáo đã liên lạc với một số “nhà cách mạng dân tộc” Việt Nam và bắt đầu hợp tác với họ. Cho đến tháng 2-1925, ông đã thành lập một nhóm bí mật gồm 9 thành viên, lấy tên là Đông Dương Quốc Dân Đảng. Một số người trở về Đông Dương để tuyển thêm người, trong khi những người khác gia nhập quân đội của Tôn Dật Tiên hoặc gia nhập đảng cộng sản Trung Quốc. Năm người trong số này được ông mô tả là ứng cử viên của một đảng cộng sản tương lai. Mặc dù vậy, ông nhấn mạnh, rất cần có thêm kinh phí và tài liệu tuyên truyền để thực hiện các hoạt động bổ sung.[148]
Có thể qua các thành viên của Tâm Tâm Xã, Nguyễn Ái Quốc liên lạc được với Phan Bội Châu. Mặc dù Nguyễn Ái Quốc không đồng tình với các phương pháp của nhà hoạt động lớn tuổi này, có thể ông đã coi Phan Bội Châu là một công cụ hữu ích để xây dựng một tổ chức cho riêng mình. Về phần mình, Phan Bội Châu đã nghe nhiều những kỳ công của một con người bí ẩn Nguyễn Ái Quốc khi ông sống ở Hàng Châu, mặc dù có thể ông chưa nhận ra ngay được lai lịch thực của Nguyễn Ái Quốc, con trai người bạn đồng khoa Nguyễn Sinh Sắc. Hơn nữa, Phan Bội Châu đã quan tâm hơn đến chủ nghĩa xã hội và tư tưởng Karl Marx, mặc dù nhìn chung, sự hiểu biết của ông về hệ tư tưởng Marx còn rất sơ sài.[149]
Nguyễn Ái Quốc đến Quảng Châu hai tháng sau khi Phan Bội Châu đi Hàng Châu vào tháng Chín, nhưng ông đã biết đến bài phát biểu từ các thành viên của Tâm Tâm Xã. Theo các nguồn tin tình báo Pháp, Nguyễn Ái Quốc đến Thượng Hải vào tháng 1-1925 để gặp Phan Bội Châu. Tuy nhiên, mật thám Pháp đã tường trình, không có sự liên hệ nào giữa hai người vào thời điểm đó.
Đến lúc đó, Phan Bội Châu biết được lai lịch thật của Lý Thuỵ, vì vào khoảng tháng 2 hay tháng 3-1925, Phan viết thư cho Nguyễn Ái Quốc từ Hàng Châu, ca ngợi công việc của Quốc và làm ông nhớ về cuộc gặp gỡ ở làng Kim Liên hai thập niên trước. Phan Bội Châu cũng bày tỏ mong muốn cộng tác với người đồng hương trẻ và muốn đến Quảng Châu để gặp mặt. Đáp lại, Nguyễn Ái Quốc cố gắng giải thích về sự cần thiết phải tổ chức lại đảng của Phan Bội Châu, nói về chiến lược của ông và học thuyết Lenin đằng sau chiến lược đó. Phan Bội Châu đã đồng ý hợp tác, cung cấp cho Quốc danh sách các thành viên trong tổ chức của mình.[150]
Nhưng Nguyễn Ái Quốc nhanh chóng nhận ra, Phan Bội Châu và nhiều đồng sự lớn tuổi của ông không thể làm cơ sở cho phong trào cách mạng mới. Ông nhanh chóng tập trung mọi sức lực để chuyển Tâm Tâm Xã thành một tổ chức cách mạng Marx - Lenin mới. Bước đầu tiên, ông thành lập một tổ chức hạt nhân gồm những môn đệ tận tâm thành một Cộng sản Đoàn, hoạt động dưới danh nghĩa một tổ chức lớn hơn mà ông vừa thành lập. Trong số những thành viên sáng lập này là năm nhân vật chủ chốt của Đông Dương Quốc Dân Đảng, trong đó có Lê Hồng Sơn, Lê Hồng Phong và Hồ Tùng Mậu. Họ cùng lập một danh sách các cá nhân từ năm tỉnh khác nhau ở Đông Dương làm cơ sở cho một tổ chức cách mạng trong nước. Các đặc phái viên được cử từ Quảng Châu đến tháp tùng họ sang Trung Hoa để đào tạo phương pháp tổ chức. Sau đó, những người được tuyển dụng sẽ quay về các tỉnh nhà. Các thành viên nhiều hứa hẹn khác của phong trào sẽ được cử đến Moscow để được truyền bá học thuyết và thực hành cách mạng ở Trường Stalin. Nguyễn Ái Quốc cũng thực hiện các bước để thiết lập một cơ sở cách mạng ở Xiêm cũng như ở một số thành phố khác ở nam Trung Hoa, nơi một trụ sở tạm thời có thể sẽ được đặt ở đó trong trường hợp các hoạt động ở Quảng Châu bị gián đoạn. Cuối cùng, ông có kế hoạch tuyển dụng các đảng viên trong số những thuỷ thủ Việt Nam phục vụ trên tàu chạy dọc theo bờ biển Nam Trung Hoa, làm đầu mối liên lạc tin cậy giữa các trụ sở với những cơ sở đảng ở Đông Dương.[151]
Sự xuất hiện đột ngột của người thanh niên lạ mặt đầy nhiệt huyết ở trụ sở của Cộng sản Quốc tế đã không qua khỏi con mắt của các nhà chức trách Pháp ở Quảng Châu và cả ở Đông Dương. Trung tuần tháng 2-1925, theo các báo cáo, người mới đến tự xưng Lý Thuỵ đã liên lạc với các thành phần quá khích trong cộng đồng người Việt lưu vong ở nam Trung Hoa dẫn đến việc các nhà chức trách Pháp ở Hà Nội và Quảng Châu lo lắng kêu gọi Bộ Thuộc địa làm rõ nơi ở hiện tại của Nguyễn Ái Quốc. Lúc đầu, Paris báo cáo Nguyễn Ái Quốc vẫn đang ở Moscow, nhưng sau vài tuần các nhà chức trách Pháp bắt đầu nghi ngờ ông Lý Thuỵ đầy bí ẩn thực ra là Nguyễn Ái Quốc giả danh. Ở Quảng Châu, viên sĩ quan cảnh sát người Pháp mới đến, biệt danh “Noel”, đã thúc điệp viên của mình xác minh lai lịch của người lạ đó.
Điệp viên sáng giá nhất của Noel lại là đồng sự của Nguyễn Ái Quốc - Lâm Đức Thụ, tuy yêu nước nhưng lại đồng ý làm chỉ điểm cho Pháp. Với bí danh “Pinot”, Thụ đã cung cấp cho Pháp tin tức rất hữu ích về các hoạt động của phong trào cách mạng Việt Nam cho đến cuối thập niên 1920. Lúc đầu, Thụ khó chịu khi phải cố sức thu thập thông tin để xác minh lai lịch của người mới đến. Ông cho biết, Lý Thuỵ rất thận trọng và từ chối không chụp ảnh. Nhưng ông đã chụp được ảnh của Lý Thuỵ cùng với một nhóm đông người trước trụ sở của Quốc Dân Đảng vào tháng 3-1925. Từ bức ảnh đó, các điệp viên của Sở Mật thám khẳng định, Lý Thuỵ chính là Nguyễn Ái Quốc.[152]
Cuối mùa xuân, nỗ lực của Nguyễn Ái Quốc nhằm thiết lập một tổ chức cách mạng hoạt động theo các nguyên tắc Marx - Lenin với sự hướng dẫn của Cộng sản Quốc tế tiến triển tốt đẹp. Theo một trong những thành viên chính nhớ lại, quyết định chính thức về việc thành lập một đảng cách mạng mới được đưa ra vào đầu tháng 6-1925. Vài ngày sau đó, cuộc họp đầu tiên được tổ chức tại nhà của Lâm Đức Thụ ở khu thương mại Quảng Châu. Các thành viên chủ chốt của Cộng sản Đoàn của Nguyễn Ái Quốc tham gia với tư cách là sáng lập viên. Mặc dù tên chính thức của tổ chức mới này vẫn còn chưa ngã ngũ, chẳng bao lâu sau nó được biết đến với cái tên Hội Việt Nam Thanh niên Cách mạng.
Nguyễn Ái Quốc xuất bản tạp chí Thanh Niên, tuyên truyền tư tưởng của nhóm, thành lập một trường huấn luyện ở trung tâm buôn bán Quảng Châu tuyên truyền cho những người mới được tuyển. Nguyễn Ái Quốc áp dụng chiến thuật đã sử dụng thành công ở Paris bằng cách thiết lập một liên minh mở rộng gồm các nhà hoạt động cấp tiến từ một số nước thuộc địa và bán thuộc địa ở châu Á. Vào cuối tháng 6, phối hợp với đặc vụ Cộng sản Quốc tế người Ấn Độ - M.N. Roy và nhà lãnh đạo cánh tả Quốc Dân Đảng Liêu Trọng Khải thành lập “Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức”. Liêu Trọng Khải lãnh đạo tổ chức, Nguyễn Ái Quốc làm tổng thư ký kiêm thủ quỹ. Hội bao gồm các thành viên từ Triều Tiên, Ấn Độ, Trung Hoa, Đông Ấn thuộc Hà Lan và từ Đông Dương - (Vì Quảng Châu đã thu hút rất nhiều người nên mang biệt danh “Đông Moscow”, do quan hệ giữa Tôn Dật Tiên với Quốc tế Cộng sản). Hội tổ chức cuộc họp đầu tiên ở Quảng Châu vào trung tuần tháng 7-1925. Nhân dịp đó, ra tuyên bố lên án nghiêm khắc những hành động tàn ác của chủ nghĩa đế quốc và kêu gọi nhân dân bị áp bức ủng hộ phong trào cách mạng thế giới.[153]
Trong thời gian ngắn lưu lại ở Quảng Châu, Nguyễn Ái Quốc chủ yếu dành thời gian cho hoạt động của hội. Hội thể hiện sự từng trải bằng những đánh giá đúng của ông về tình hình đang nổi lên ở Đông Dương. Nhu cầu trước mắt là thu hút các trí thức yêu nước, các thành phần cách mạng dân tộc khác tham gia sự nghiệp chung để chọn lọc những nhân vật chủ chốt cho việc thành lập đảng cộng sản. Vấn đề thực tiễn là nền tảng chính cho lời kêu gọi đấu tranh vì độc lập dân tộc. Nhưng điều cần thiết trước mắt là giành được sự ủng hộ của công nhân và nông dân bị áp bức, những người mà đối với họ độc lập dân tộc không thiết thực bằng cuộc đấu tranh cùng cực vì miếng cơm manh áo hàng ngày. Hội cũng cần đặt nền móng cho giai đoạn hai của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa. Những bài của tờ Thanh Niên, nhiều mục do chính Nguyễn Ái Quốc viết, thận trọng đặt nền móng cho một tầm nhìn mới vượt qua vấn đề độc lập dân tộc, bao gồm cả mục tiêu liên kết với cách mạng thế giới rộng lớn.
Do đó, chương trình của Hội Việt Nam Thanh niên Cách mạng đã tập trung vào hai trụ cột, chủ nghĩa dân tộc và cách mạng xã hội. Gắn kết hai vấn đề này, Nguyễn Ái Quốc trung thành với mô hình của Lenin mà trước đó đã được Đại hội Cộng sản Quốc tế lần thứ II thông qua năm 1920. Nhưng Lenin coi tình cảm dân tộc chủ yếu chỉ là một tiểu xảo mang tính chiến thuật để giành sự ủng hộ của các thành phần theo chủ nghĩa dân tộc chống kẻ thù chung là chủ nghĩa đế quốc thế giới, chương trình của Hội và nhiều bài viết trong tờ báo của Hội dường như coi trọng vấn đề chủ nghĩa dân tộc không kém, nếu không muốn nói là hơn so với vấn đề cách mạng thế giới.
Việc nhấn mạnh chủ nghĩa dân tộc trong Cương lĩnh của hội, một đặc điểm sau này trở thành một phần không thể thiếu được của hình ảnh Nguyễn Ái Quốc với tư cách là một người yêu nước và một nhà cách mạng, một trong các yếu tố mà qua thời gian, một số quan sát viên đã đặt dấu hỏi về sự gắn bó của ông đối với ý thức hệ Marxist và cuộc đấu tranh để xây dựng xã hội cộng sản không tưởng. Thực ra, trong những năm 1920, nghi ngờ về sự trung thành của ông với học thuyết Marxist thậm chí đã xuất hiện ở Moscow, một số thành viên của chính tổ chức đảng của ông; như chúng ta thấy, vài năm sau, sự chỉ trích đó đã xuất hiện trên các ấn phẩm.
Có nhiều lý do xác đáng để lý giải, Nguyễn Ái Quốc trước hết là một nhà yêu nước. Năm 1960, chính ông đã thừa nhận trong một bài báo ngắn “Con đường đưa tôi đến chủ nghĩa Lenin”, chính khát vọng giành độc lập cho Việt Nam trước tiên đã đưa ông đến với chủ nghĩa Marx. Trong khi người thầy của ông, Lenin, dường như xem mối quan hệ giữa những người cộng sản và những người tư sản dân tộc như một xảo thuật để tăng cường sức mạnh của đảng cộng sản ở các xã hội mà giai cấp công nhân còn yếu kém thì Nguyễn Ái Quốc lại nhìn nhận vấn đề độc lập dân tộc như là mục tiêu cuối cùng. Còn với chế độ cộng sản không tưởng chỉ là một ý tưởng đến sau và có thể trì hoãn đến một tương lai vô định. Ông thường nói, cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam sẽ được tiến hành vào thời điểm thích hợp.
Tuy nhiên, lại cũng có các bằng chứng thuyết phục chứng tỏ Nguyễn Ái Quốc thời trẻ nhìn nhận chủ nghĩa Marx - Lenin không chỉ là một công cụ để đánh đuổi người Pháp. Dù it khi đề cập học thuyết Marxist trong các bài viết những năm ông ở Paris và trong thời gian học tập sau này ở Moscow, ông luôn nói về tương lai của cách mạng thế giới với sự nhiệt thành ngày càng tăng. Theo suy nghĩ của ông, cách mạng thế giới nhất định sẽ chấm dứt hệ thống bóc lột của chủ nghĩa tư bản. Ông cho rằng cuộc đấu tranh chống lại các lực lượng đế quốc ở châu Á sẽ lên đến đỉnh cao chính là cuộc cách mạng toàn cầu. Trả lời phỏng vấn một nhà báo Xô viết trước khi qua đời, Hồ Chí Minh thừa nhận, nhiệt tình cách mạng tuổi trẻ của ông có thể đã hơi thái quá và buồn rầu nói rằng khi sống ở Liên Xô, ông đã mắng một thiếu nữ vì đã mặc váy lụa và đi giày cao gót. Ông nhớ lại, cô này đã đáp lại đầy phẫn uất, cô đã phải làm việc để có tất cả những thứ đó. Cô hỏi: “Thanh niên ngày nay có cơ hội để ăn ngon mặc đẹp có phải là điều tồi tệ không?” [154]. Nhiều thập niên sau, lời nói của cô vẫn còn đọng lại trong tâm trí ông.
Nếu nói hồi đó ông vừa là người quốc gia, vừa là nhà Marxist là đúng thì làm thế nào ông có thể kết hợp hài hoà giữa chủ nghĩa yêu nước và những đòi hỏi của chủ nghĩa Marxist quốc tế ? Câu trả lời có thể tìm thấy ở Lenin. Khi định nghĩa về khái niệm cuộc cách mạng hai giai đoạn trong “Luận cương về các vấn đề dân tộc và thuộc địa”, Lenin đã đưa ra khái niệm “liên bang” đóng vai trò như một giai đoạn chuyển tiếp giữa độc lập dân tộc và giai đoạn cuối cùng của chủ nghĩa cộng sản, khi có sự “thống nhất hoàn toàn của nhân dân lao động thuộc các quốc gia khác nhau”, Lenin xem các liên bang được lập ra vào đầu những năm 1920 giữa nước Nga cách mạng và Phần Lan, Hungary và Latvia, giữa Azerbaijan và Armenia như là các mô hình có thể cho các nước liên kết các quốc gia độc lập và “các liên minh liên bang” như các thí dụ làm thế nào các liên minh có thể được thiết lập trong giai đoạn quá độ chuyển sang chủ nghĩa cộng sản toàn cầu trong một tương lai lâu dài. Nguyễn Ái Quốc rõ ràng đã tiếp thụ các học thuyết đó khi ông sống tại Liên Xô thời kỳ 1923-1924, và ông đã đề cập khái niệm này trong một bức thư gửi Ban Chấp hành Cộng sản Quốc tế vào tháng 5 năm 1934 khi ông cố gắng biện minh cho đề xuất tuyển thêm các nhà cách mạng châu Á vào Trường Stalin như là một bước tạo “nền tảng mà trên đó Liên bang Cộng sản của phương Đông có thể được xây dựng”.[155]
Lần thứ hai Nguyễn Ái Quốc đề cập vấn đề một liên bang quá độ trong một văn bản được phát hiện mới đây trong kho lưu trữ của Moscow. Trong khi tác giả văn bản chỉ được nêu là “Nguyễn” thì gần như chắc chắn tài liệu này được Nguyễn Ái Quốc viết vào khoảng thời gian năm 1924. Trong báo cáo, “Nguyễn” bàn về ý tưởng một đảng cộng sản Việt Nam tương lai và tuyên bố, với tầm quan trọng của vấn đề quốc gia tại đó, điều tối quan trọng phải “giương cao ngọn cờ chủ nghĩa dân tộc bản địa dưới danh nghĩa Quốc tế Cộng sản”. Theo nhận xét của một người quan sát tư sản, đây là một “nghịch lý táo bạo”, nhưng lại là một “thực tế tuyệt vời”. Ông lý giải, thời kỳ ấy không thể nào giúp nhân dân Việt Nam mà lại không tôn trọng thực tế cơ bản về tình hình xã hội đặc trưng của họ. Ông tiên đoán, vào thời điểm cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc của họ thắng lợi “phần lớn thế giới đã được Xô viết hoá, và như vậy, chủ nghĩa quốc gia tất yếu sẽ trở thành chủ nghĩa quốc tế”.[156]
Sau khi đến Quảng Châu, Nguyễn Ái Quốc một lần nữa đề cập khái niệm này trong một dự thảo cương lĩnh cho tương lai của Hội Việt Nam Thanh niên Cách mạng được viết vào tháng 2-1925. Bản thảo hứa hẹn dành cho tất cả những ai muốn gia nhập tổ chức mới: đầu tiên, tham gia cuộc đấu tranh lật đổ chủ nghĩa đế quốc và tái thiết lập độc lập dân tộc. Sau đó chuyển sang cuộc đấu tranh xoá bỏ phân biệt giai cấp và tham gia cách mạng thế giới,”mục tiêu cuối cùng của cuộc đấu tranh của chúng ta”. Lời cam kết xuất hiện trong chương trình của Hội. Cuối cùng được đưa ra vào tháng Sáu và được đề cập trong một bài báo phát hành tháng Bảy trên tờ Thanh Niên: “Sau cuộc cách mạng chính trị và xã hội vẫn còn có những dân tộc bị áp bức. Vẫn còn có sự khác biệt giữa các quốc gia. Khi đó điều cần thiết phải có một cuộc cách mạng thế giới. Sau đó, các dân tộc ở khắp bốn phương trên trái đất sẽ là bè bạn của nhau. Đó sẽ là kỷ nguyên của tình anh em trên toàn thế giới”.[157]
Tại sao Nguyễn Ái Quốc lại tin cần phải có cuộc cách mạng thế giới? Tại sao cuộc đấu tranh phi bạo lực để giành độc lập dân tộc lại không thực hiện được? Suy nghĩ về các vấn đề này thường không xuất hiện trên các ấn phẩm, nhưng một bức thư ông viết từ Quảng Châu cho Nguyễn Thượng Huyền, một học trò của Phan Bội Châu đang sống cùng với nhà yêu nước lớn tuổi này ở Hàng Châu, đã cho thấy một số điểm thú vị về những quan điểm của ông. Ông Huyền là cháu họ Nguyễn Thượng Hiền, một học giả yêu nước, từng làm hiệu trưởng Trường Đông Kinh Nghĩa Thục Hà Nội. Mùa xuân năm 1925, ông Huyền đã gửi cho ông Nguyễn Ái Quốc một bản sao về cách mạng mà ông vừa viết dự định sẽ cho xuất bản và hỏi ý kiến ông Nguyễn. Trong bài viết, ông Huyền lấy nguồn gốc khái niệm cách mạng từ cuốn Kinh Dịch - sách cổ Trung Hoa, trong đó nói, cách mạng đồng nghĩa thay đổi triều đại. Sau đó, ông kết luận, cuộc đấu tranh chống chế độ thuộc địa đã thất bại bởi sự tàn bạo của người Pháp và cách tốt nhất để giành độc lập là bằng các chiến thuật phi bạo lực tương tự phong trào tẩy chay mà Mahatma Gandhi phát động ở Ấn Độ thuộc Anh.
Trong thư trả lời, Nguyễn Ái Quốc nêu lên sự hoài nghi về nguồn gốc Trung Hoa của khái niệm này, (Nguyễn Ái Quốc cho rằng cách mạng có nguồn gốc văn hoá phương Tây), đưa ra định nghĩa riêng của mình, trong đó đối lập cách mạng với cải cách. Cải cách, theo như Nguyễn Ái Quốc, liên quan đến những thay đổi về thể chế của một nước cụ thể nào đó. Cho dù cải cách có hay không đi kèm bạo lực thì một số trật tự cũ vẫn luôn tồn tại. Cách mạng - khác hoàn toàn, xoá bỏ một hệ thống và thay bằng một hệ thống khác. Vì vậy, thay đổi triều đại không tương đương với cách mạng, vì những người chiến thắng vẫn giữ lại hệ thống quân chủ. Đối với trường hợp của Mahatma Gandhi, Nguyễn Ái Quốc nói thêm, vị lãnh đạo tinh thần của Ấn Độ là một người cải cách hơn là nhà cách mạng, vì ông chỉ đòi hỏi người Anh cải cách các thể chế của Ấn Độ mà không kêu gọi người Ấn Độ nổi dậy giành độc lập. Ông cũng không đòi hỏi người Anh tiến hành thay đổi toàn diện trong chính phủ Ấn Độ. Nguyễn Ái Quốc nhận xét, chỉ sau khi Anh từ chối các yêu sách của mình, Mahatma Gandhi mới kêu gọi tẩy chay.
Đối với nhận xét của ông Huyền, cách mạng đã thất bại ở Việt Nam vì sự tàn ác của người Pháp, Nguyễn Ái Quốc đáp lại với sự bực bội:
“Anh trông đợi điều gì? Anh nghĩ rằng họ sẽ cho chúng ta tự do muốn làm gì thì làm, để chúng ta tìm mọi cách đánh đuổi họ đi ư? Anh nghĩ rằng họ sẽ khoanh tay ngồi nhìn chúng ta tấn công vào lợi ích của họ ư? Thay vì trách cứ người khác, tôi cho rằng tốt hơn hết là tự trách mình. Chúng ta phải tự hỏi “Tại sao người Pháp lại có thể đàn áp chúng ta? Tại sao nhân dân chúng ta lại ngu muội như vậy? Tại sao cách mạng của chúng ta chưa thành công? Bây giờ chúng ta phải làm gì?” Anh so sánh chúng ta với những kinh nghiệm thành công của Ai Cập và Ấn Độ, nhưng họ giống như cái ô tô có bánh xe và cả tài xế, còn chúng ta chỉ như cái khung xe. Ấn Độ và Ai Cập có các đảng chính trị, có các đảng viên, các nhóm nghiên cứu, các hội nông dân. Và tất cả họ đều biết phải yêu nước như thế nào. Gandhi đã thực hiện được chính sách tẩy chay, liệu chúng ta có làm được như vậy không? Các đảng của chúng ta đâu? Chúng ta chưa có đảng, không có tuyên truyền, không có tổ chức và anh vẫn muốn chúng ta sẽ tẩy chay người Pháp”.
Nguyễn Ái Quốc kết luận bằng một chuyện ngụ ngôn của La Fontaine về những con chuột không dám gắn chuông vào con mèo để được báo động trước khi bị tấn công. Còn những Con Rồng Cháu Tiên (tức là người Việt Nam) thì sao, ông nêu câu hỏi: “Chúng ta mà lại như chuột à? Thật là nhục nhã”.[158]
Tại Hàng Châu, Phan Bội Châu đã quan tâm đôi chút đến sự xuất hiện của tổ chức Hội Việt Nam Thanh niên Cách mạng. Nguyễn Ái Quốc hứa sẽ giúp nhà yêu nước cao tuổi theo kịp các nhà hoạt động của mình, nhất trí Phan Bội Châu sẽ dàn xếp một chuyến đi đến Quảng Châu trong mùa hè năm 1925. Trong bức thư gửi Nguyễn Ái Quốc đầu năm đó, Phan Bội Châu đã ca ngợi sự sáng suốt và bề dày kinh nghiệm của người thanh niên này và tuyên bố, ông vui mừng khi biết có ai đó sẽ làm tiếp công việc khi ông đã cao tuổi và trở nên lỗi thời. Tuy nhiên, Phan Bội Châu cũng nói rõ, ông muốn tham gia phong trào. Trong một lá thư gửi Hồ Tùng Mậu, đồng sự của Nguyễn Ái Quốc, Phan Bội Châu đã ngầm chỉ trích Quốc bằng việc cảnh cáo người yêu nước trẻ tuổi này không nên hấp tấp.
Trước khi Phan Bội Châu có thể thực hiện các kế hoạch đi Quảng Châu, ông đã phàn nàn Nguyễn Ái Quốc đang phớt lờ mình. Vào giữa tháng 5-1925, Phan Bội Châu rời Hàng Châu đi Thượng Hải bằng tàu hoả, nhưng giới chức Pháp ở Trung Hoa đã được mật thám - chính là người tháp tùng của ông, thông báo về kế hoạch này. Khi tới nhà ga Thượng Hải, tô giới quốc tế của thành phố, Phan Bội Châu đã bị mật thám Pháp cải trang thành tài xế taxi bắt và đưa về Hà Nội xét xử với tội danh phản quốc.[159]
Câu chuyện này gây tranh cãi kéo dài nhất trong lịch sử rối rắm của phong trào dân tộc chủ nghĩa Việt Nam. Ngay từ đầu, nhiều đảng viên của Hội Việt Nam Thanh niên Cách mạng đã nghi ngờ người phản bội Phan Bội Châu thông báo cho người Pháp chính là Nguyễn Thượng Huyền, thư ký riêng của ông. Bản thân Phan Bội Châu cũng viết trong hồi ký của mình như vậy. Tuy nhiên, một số nguồn tin dân tộc chủ nghĩa phi cộng sản lại cho rằng thủ phạm chính là người cộng sự gần gũi của Nguyễn Ái Quốc, Lâm Đức Thụ, hoặc chính Nguyễn Ái Quốc đồng loã với Thụ cố tình phản bội Phan Bội Châu lấy tiền thưởng và tạo ra một vật tế thần cho sự nghiệp dân tộc chủ nghĩa. Lời cáo buộc này cũng được một số cây viết phương Tây nhắc lại, dù không có bằng chứng cụ thể để khẳng định. Các nguồn tin cộng sản luôn luôn phủ nhận lời cáo buộc, cho rằng âm mưu phản bội Phan Bội Châu chính là Nguyễn Thượng Huyền, người sau này rời bỏ phong trào cách mạng làm việc cho Pháp.[160]
Cuộc tranh luận nổ ra gay gắt chủ yếu theo hướng ý thức hệ. Bằng chứng từ kho lưu trữ của Pháp đưa ra không có kết luận dứt khoát, nhưng dường như Nguyễn Ái Quốc không chịu trách nhiệm về vụ này. Có nhiều khả năng để buộc tội Lâm Đức Thụ là chỉ điểm, vì khi là thành viên của Hội, ông đã là chỉ điểm. Có thông tin, những năm sau này ông đã nhận trách nhiệm về hành động đó. Nhưng giả thuyết đó có thể không có cơ sở. Theo một báo cáo của mật vụ viết tại thời điểm đó, khẳng định chỉ điểm là người Pháp - có thể, nhưng không chắc chắn là Nguyễn Thượng Huyền - sống với gia đình Hồ Học Lãm ở Hàng Châu. Ông ta có các thông tin chính xác hơn về phong trào của Phan Bội Châu, có thể cung cấp các thông tin đó cho người Pháp. Ông Thụ được nhiều người biết chỉ là kẻ khoác lác vì vậy có thể đã nhận có dính líu đến vụ bắt giữ này để khuếch trương tầm quan trọng cá nhân. Rất có khả năng ông Huyền chính là người đã phản bội Phan Bội Châu.[161]
Dù thế nào đi nữa, Nguyễn Ái Quốc không kiếm được lợi lộc gì khi Phan Bội Châu bị Pháp bắt. Điều này không có nghĩa loại bỏ Quốc cũng có thể phản bội nhà yêu nước cao tuổi nếu ông tin điều đó có lợi cho cách mạng. Giá trị của Phan Bội Châu rõ ràng đã bị hạn chế bởi tuổi tác, thiếu tinh tế trong chính trị và thái độ miễn cưỡng tán thành bạo lực. Năm 1925, ông là một biểu tượng của chủ nghĩa dân tộc hơn là một người thực sự tham gia phong trào kháng chiến. Việc ông bị bắt và kết án dấy lên sự căm thù ở Việt Nam có thể là hành động tuyên truyền nào đó cho sự nghiệp cách mạng. Mặt khác, Hội cũng không chú trọng tuyên truyền việc Phan Bội Châu bị bắt mà tiếp tục tập trung sự chú ý vào sự hy sinh anh dũng của Phạm Hồng Thái. Sự hy sinh của Thái là phương tiện thúc đẩy chính trong việc giáo dục người mới tuyển mộ ở Quảng Châu.
Liệu nhu cầu tài chính có thể là động cơ để Nguyễn Ái Quốc trao Phan Bội Châu cho Pháp như một số người nghi ngờ? Khó có thể phủ nhận hoàn toàn lời cáo buộc, bởi vì Nguyễn Ái Quốc chỉ có được nguồn tài trợ eo hẹp của Đảng cộng sản Trung Quốc, đôi khi buộc phải dùng quỹ riêng để tiến hành các hoạt động. Nhưng mặt khác, Nguyễn Ái Quốc chưa chắc đã dám mạo hiểm làm việc đó vì có thể chính người Pháp lại công khai tiết lộ âm mưu này, làm mất uy tín của Hội và ngưòi lãnh đạo bí mật của Hội. Xét cho cùng, ông chắc phải nhận thấy việc Phan Bội Châu tự do có lợi hơn là bị ngồi tù ở Việt Nam, vì ông Châu tuy đóng vai trò người đứng đầu nhưng không có thực quyền kiểm soát mặt trận thống nhất do người cộng sản chiếm đa số. Điều đáng lưu ý, tất cả các phát biểu đưa ra trong thời gian sống lưu vong cho đến cuối đời, Phan Bội Châu vẫn đánh giá cao Nguyễn Ái Quốc, chưa bao giờ công khai buộc trách nhiệm về việc mình bị bắt giữ ở Thượng Hải cho người đồng sự trẻ tuổi này.[162]
Phiên toà xử Phan Bội Châu mở ở Toà Hình sự Hà Nội ngày 23-11-1925. Bị cáo có hai luật sư bào chữa, mặc dù có sự có mặt của một đám đông lớn biểu tình ủng hộ Phan Bội Châu (khi công tố viên yêu cầu tử hình, có một cụ già đã yêu cầu nhận án chết thay cho ông). Phan Bội Châu bị kết án chung thân khổ sai, năm đó ông năm mươi tám tuổi. Ngay hôm sau, các cuộc biểu tình diễn ra trên toàn quốc, học sinh sinh viên Hà Nội in truyền đơn rải trên các đường phố. Vài ngày sau, viên toàn quyền mới đến Hà Nội, Alexandre Varenne, một đảng viên Đảng Xã hội và là người chỉ trích chính sách thuộc địa của Pháp, không hề mong muốn bắt đầu nhiệm kỳ của mình với một vụ tai tiếng như thế. Sau khi gửi bức điện về Pháp xin phép, tháng 12 -1925, ông giảm án cho Phan Bội Châu thành quản thúc tại gia ở Huế.
Trước khi giảm án, Varenne tìm cách dụ dỗ kẻ nổi loạn cao tuổi nên hợp tác với chế độ thuộc địa. Ban đầu, Phan Bội Châu từ chối, nhưng sau này, ông dịu dần và mặc dù vẫn có quan hệ thường xuyên với các thành viên của phong trào dân tộc chủ nghĩa, thỉnh thoảng ông lại đưa ra các bài phát biểu trước học sinh trường Quốc Học Huế, Phan Bội Châu ca ngợi chất lượng giáo dục cao của Pháp tại Đông Dương. Những bài phát biểu như vậy làm dấy lên sự giận dữ trong phong trào dân tộc chủ nghĩa, khiến Nguyễn Ái Quốc ở Quảng Châu bình luận, đó là những”lời hoàn toàn vô nghĩa”. Theo thông tin của một chỉ điểm của Pháp, một số người dân tộc chủ nghĩa còn có cuộc tranh luận xem liệu có nên có hành động bạo lực chống lại Phan không. Phan Bội Châu tạ thế năm 1940.
Trong khi việc xét xử Phan Bội Châu đang được tiến hành, nhà cải cách cao tuổi Phan Chu Trinh trở về Đông Dương sau hơn một thập niên ở nước ngoài. Việc ông về đến Sài Gòn khiến cho dân chúng phấn khởi và các bài phát biểu của ông trong vài tháng sau đó với nội dung ủng hộ một chính sách cải cách phi bạo lực đã thu hút được nhiều sự quan tâm. Ông qua đời đầu năm 1926 vì bệnh ung thư, ở tuổi năm mươi ba. Đám tang của ông biến thành cuộc tuần hành toàn quốc biểu lộ sự thương tiếc. Hàng ngàn người xếp hàng trên các đường phố để nhìn quan tài của ông đưa từ Sài Gòn tới khu nghĩa trang ở gần sân bay Tân Sơn Nhất. Nguyễn Ái Quốc không tán thành tuần hành đông đảo như vậy, với lý do, nó làm phân tán sự chú ý của công chúng tới những vấn đề quan trọng hơn. Theo một báo cáo của sở mật thám, khi nghe báo cáo về biểu tình xung quanh đám tang của Phan Chu Trinh, Nguyễn Ái Quốc đã nhận xét, có thể chúng đã được báo chí Pháp thổi phồng lên để làm bẽ mặt Toàn quyền Varenne, người tìm cách làm cho chính sách thuộc địa của Pháp ở Đông Dương trở nên nhân đạo hơn.[163]
Qua các nỗ lực của Nguyễn Ái Quốc, các cộng sự gần gũi ở trong Cộng sản Đông Dương Đoàn đã dần dần được tiếp thụ các ý tưởng của chủ nghĩa Marx - Lenin. Đồng thời, dòng người Việt Nam yêu nước liên tục được tuyển mộ và đưa sang Quảng Châu, nơi họ được đào tạo và giáo dục tại trường đào tạo có cái tên rất ấn tượng là Viện Chính trị Đặc biệt Cách mạng Việt Nam. Viện này lúc đầu đặt ở phố Dân Sinh. Khi trở nên quá chật chội, trường được chuyển sang một toà nhà ba tầng lớn hơn của những chủ nhân có thiện cảm với cộng sản ở phố Văn Minh, qua trường Đại học Quảng Châu, (bây giờ là bảo tàng Lỗ Tấn), gần với đại bản doanh của Đảng cộng sản Trung Quốc. Trường xây theo kiểu Trung Hoa, tầng trệt làm cửa hàng. Các lớp học được tổ chức ở tầng hai trong một phòng học lớn có số ghế, một chiếc bàn và có ảnh của các bậc tiền bối cộng sản treo trên tường. Sau lớp học là một văn phòng nhỏ, có chiếc giường dành cho Nguyễn Ái Quốc. Tầng ba là chỗ ngủ cho học viên. Có một cửa ẩn dẫn ra lối đi bí mật trong trường hợp bị cảnh sát tấn công. Bếp nằm ở mảnh vườn phía sau khu nhà.[164]
Tang lễ cụ Phan Chu Trinh tại Sài Gòn 1926
Hầu hết các giáo viên Việt Nam ở trường như Hồ Tùng Mậu hay bản thân Nguyễn Ái Quốc đều là thành viên của Hội Việt Nam Thanh niên Cách mạng, nhưng đôi khi còn có những giảng viên được mời từ Đảng cộng sản Liên Xô như Vasily Bliicher (Galen), P. A. Pavlov, M. V. Kuibyshev và V. M. Primakov, hoặc từ phía Đảng cộng sản Trung Quốc, các nhà lãnh đạo tương lai như Lưu Thiếu Kỳ, Chu Ân Lai và Lý Phú Xuân cũng như nhà tổ chức nông thôn Bành Bái. Một phần ba chi phí của lớp học do Đảng cộng sản Trung Quốc cung cấp, phần còn lại được tài trợ từ các tổ chức địa phương hoặc từ nguồn quyên góp của học viên Việt Nam của Học viện Quân sự Hoàng Phố từ học bổng hằng tháng của họ. Chương trình của học viện được mô phỏng khá giống với các viện đào tạo ở Liên Xô, với các lớp học có các môn như Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản, Tư tưởng Marx - Lenin, tổ chức của Hội Việt Nam Thanh niên Cách mạng và tình hình thế giới hiện tại. Để giúp làm quen với các điều kiện địa phương, cũng có các khoá học về tư tưởng của Tôn Dật Tiên, (Nguyễn Ái Quốc cho là một dạng chủ nghĩa xã hội sơ khai) và tiếng Trung. Một trong những khoá học do Nguyễn Ái Quốc giảng dạy là khái niệm của Lenin về mặt trận thống nhất.
Theo trí nhớ của nhiều học viên, Nguyễn Ái Quốc, dưới biệt danh thày Vương, là giáo viên được ưa chuộng nhất ở trường. Thân mình ông mảnh dẻ, mắt sáng, giọng ấm áp, thánh thiện và hài hước mặc dù ít khi cười. Ông Vương rất dễ gần và kiên nhẫn với học viên. Ông giải nghĩa các từ và khái niệm khó bằng cách đưa ra những chi tiết rất cụ thể. Ông đọc nhiều, là cuốn từ điển sống về các con số thống kê. Một học viên nhớ lại “Với việc thuộc làu làu ngày tháng và các con số, ông có thể nói cho chúng tôi về số tấn gạo mà thực dân Pháp đã cướp đoạt để gửi về mẫu quốc, về lãi ròng lớn của Ngân hàng Đông Dương, về các thùng đồ cổ quý từ các cuộc khai quật khảo cổ mà Toàn quyền Varenne đã chất lên tàu đưa về Pháp”.[165]
Như ở Paris, Nguyễn Ái Quốc không những chỉ là giảng viên mà còn là cố vấn tinh thần, người phụ huynh và là cổ động viên. Ông dạy cách ăn nói, hành xử sao cho chính trực để phục vụ sự nghiệp cách mạng, cách nói trước công chúng, cách phát biểu trước đám đông công nhân, nông dân, trẻ em và phụ nữ, cách nhấn mạnh về sự nghiệp dân tộc và nhu cầu thực hiện cách mạng xã hội, cách đối xử bình đẳng với người nghèo và ít học. Ông rất chăm lo xem xét các điều kiện sống, ăn ở để bảo đảm họ khoẻ mạnh, được chăm sóc tốt. Mỗi khi họ buồn nản, ông động viên. Một cựu học viên nhớ lại về tinh thần lạc quan của ông. Khi các sinh viên tỏ ra thất vọng vì sự tham nhũng thối nát của các quan chức Việt Nam và sự thiếu quan tâm về đời sống người dân trong các làng bản, ông đáp: “Họ chính những vật cản trở và là sự suy đồi của xã hội khiến cho việc làm cách mạng trở nên cần thiết. Người cách mạng trước hết phải lạc quan và tin tưởng vào thắng lợi cuối cùng”.[166]
Sau khi kết thúc chương trình đào tạo từ ba đến bốn tháng, các học viên thường đi cùng Nguyễn Ái Quốc trong một chuyến thăm có tính nghi thức tới mộ của bảy mươi hai liệt sĩ cách mạng Trung Hoa ở gò Hoàng Hoa, ngoại ô Quảng Châu và mộ liệt sĩ yêu nước Phạm Hồng Thái, họ đọc lại những lời thề có tính nghi lễ là phụng sự cho sự nghiệp cách mạng. Sau đó, hầu hết trong số họ trở về Việt Nam. Một số học viên tài năng hơn như Lê Hồng Phong, hội viên Tâm Tâm Xã được gửi đi Moscow để đào tạo thêm. Một số khác làm việc cho cảnh sát Trung Hoa hoặc các lực lượng vũ trang hoặc được đưa vào làm cho Học viện Quân sự Hoàng Phố nổi tiếng do Quốc Dân Đảng điều hành với sự giúp đỡ của Quốc tế Cộng sản. Nguyễn Lương Bằng, một thành viên xuất thân từ gia đình tá điền, được chỉ thị tìm việc làm tại một hãng tàu biển chạy hơi nước để thiết lập mạng lưới liên lạc giữa Hong Kong và cảng Hải Phòng. Đến mùa xuân năm 1927, hơn bảy mươi học viên đã theo học tại trường.[167]
Khi trở về Việt Nam, học viên tốt nghiệp từ học viện tìm cách quảng bá học thuyết cách mạng cho bạn bè, người quen và tuyển những người mới gửi đi Quảng Châu. Hầu hết các học viên tốt nghiệp đều xuất thân từ tầng lớp gia đình trí thức, cũng như những người đầu tiên mà họ tuyển thuộc thành phần tương tự. Các nguồn tin tình báo Pháp ước tính khoảng 90 phần trăm số học viên thuộc tầng lớp trí thức tiểu tư sản, số còn lại là công nhân hoặc nông dân. Họ từ khắp mọi miền của đất nước, nhưng đa số cùng quê Nghệ An của Nguyễn Ái Quốc và các nơi khác thuộc miền Trung. Đến năm 1928, Hội Việt Nam Thanh niên Cách mạng có khoảng 300 hội viên ở Đông Dương, 150 người từ Nam Bộ, (chủ yếu là Sài Gòn và các thị xã của các tỉnh Mỹ Tho, Cần Thơ), 80 người ở Trung Kỳ, (đặc biệt là Nghệ An, Hà Tĩnh và Quảng Ngãi) và 70 ở Bắc Kỳ, (Bắc Ninh, Nam Định, Thái Bình, Hà Nội, Hải Phòng). Một năm sau, số đảng viên đã tăng lên hơn 1.700 người.[168]
Việc thành lập Hội, Nguyễn Ái Quốc đã có bước đi đầu tiên hướng tới cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Đó là một bước đi nhỏ và thận trọng, nhưng là một sự khởi đầu cần thiết. Như ông đã viết vài năm trước đó: “Ta nói, ở khu vực nào đó, (thí dụ Đông Dương), với hơn hai mươi triệu dân bị bóc lột đã sẵn sàng cho một cuộc cách mạng như thế là sai. Nhưng nếu nói khu vực đó không muốn có một cuộc cách mạng và bằng lòng với chế độ lại càng sai hơn”.[169]
Nguyễn Ái Quốc đã có đủ kinh nghiệm nhận ra việc tuyên truyền đóng một vai trò quan trọng trong việc xây dựng một phong trào thời kỳ phôi thai. Tạp chí Thanh Niên đã quảng bá thông điệp của ông. Được in tại Quảng Châu, tuần báo này gửi bằng đường biển về Việt Nam. Tổng số 208 số báo đã được phát hành trong thời gian từ 21-6-1925 đến tháng 5-1930. Tạp chí viết với văn phong giản dị quen thuộc của ông và được minh hoạ thêm bằng các khẩu hiệu, tranh biếm hoạ chế nhạo chế độ thuộc địa Pháp và triều đình Huế yếu hèn. Cũng như tờ Người Cùng Khổ, Nguyễn Ái Quốc viết rất nhiều các bài xã luận dù không ký tên thật. Hội cũng xuất bản hai tạp chí khác, tờ bán nguyệt san Lính Kách Mệnh và tờ nguyệt san Việt Nam Tiền Phong.[170]
Phù hợp với các mục tiêu đã tuyên bố của Hội Việt Nam Thanh niên Cách mạng, tờ Thanh Niên chủ yếu nhấn mạnh vấn đề độc lập dân tộc. Nhưng một số bài cũng đề cập chung chung đến vấn đề toàn cầu do chủ nghĩa đế quốc và chủ nghĩa tư bản gây ra. Nói một cách gián tiếp, chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới đem lại sự giải phóng và hạnh phúc. Trong một số báo, Nguyễn Ái Quốc chỉ ra, cách mạng là phương thuốc duy nhất điều trị cho căn bệnh của nước ông: “Cách mạng là sự thay đổi từ xấu sang tốt; Nó là tổng thể của mọi hành động và qua đó một dân tộc bị áp bức trở nên mạnh mẽ. Lịch sử của mọi xã hội đã dạy chúng ta, chỉ có cách mạng mới có thể đem lại một hình thức chính phủ, giáo dục, công nghiệp và tổ chức xã hội tốt hơn, v.v”. Số phát hành đầu mùa hè năm 1926 nói một cách công khai về chủ nghĩa cộng sản, một giải pháp cho các vấn đề đang gây đau khổ cho các dân tộc Đông Dương.[171]
Đối với các học viên dự khoá đào tạo, ông làm việc một cách nghiêm túc hơn. Hồi đó, không có bất kỳ tài liệu nào về chủ nghĩa Marx - Lenin bằng chữ Việt. Mặc dù Nguyễn Ái Quốc thường xuyên kêu gọi giúp đỡ, nhưng ông nhận được rất ít tài liệu tuyên truyền từ Moscow. Để lấp vào chỗ trống, ông viết những tài liệu cơ bản sử dụng cho khoá học tại học viện, đề cập các vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam. Quyển sách mỏng nhan đề “Đường Kách Mệnh” giới thiệu khái quát chủ nghĩa Marx - Lenin, giải thích tính phù hợp của nó với Việt Nam. Hầu hết các bản sao phát cho các học viên trong lớp sử dụng, một số ít đưa về Việt Nam cùng với tờ Thanh Niên.[172]
Trong cuốn sách, thông điệp của Nguyễn Ái Quốc rất đơn giản. Vì các học viên thiếu sự tinh nhanh và không quen với các thuật ngữ phương Tây - từ Kách Mệnh tiếng Việt chỉ xuất hiện vào đầu thế kỷ XX - ông mở đầu cuốn sách bằng một định nghĩa ngắn gọn về cách mạng. Ông nói, cách mạng là xoá bỏ cái cũ, xây dựng cái mới, hoặc xoá bỏ cái xấu để xây dựng cái tốt.
Sau đó, tác giả giải thích một cách ngắn gọn về các hình thức cách mạng. Theo ông, có ba loại hình cách mạng trên thế giới:
1. Cách mạng tư bản chủ nghĩa, như trường hợp nổi dậy ở Pháp, Nhật Bản và Mỹ.
2. Cách mạng dân tộc chủ nghĩa, như cuộc cách mạng hồi thế kỷ XIX ở Italy và cuộc cách mạng năm 1911 (Tân Hợi) ở Trung Hoa.
3. Cách mạng giai cấp, như cuộc cách mạng Bolsevich ở Nga.
Tất cả các cuộc cách mạng đó, ông giải thích, cuối cùng sẽ xảy ra theo hai giai đoạn riêng biệt, giai đoạn đầu tiên là “cách mạng dân tộc chủ nghĩa”, giai đoạn thứ hai là “cách mạng thế giới”, khi công nhân và nông dân trên toàn thế giới đoàn kết để lật đổ trật tự của chủ nghĩa tư bản, đem lại hạnh phúc và sự đoàn kết cho nhân dân của mọi dân tộc.[173]
Ý tưởng về một cuộc cách mạng có hai giai đoạn, đương nhiên là hoàn toàn theo chủ thuyết của Lenin, nhưng Nguyễn Ái Quốc đã tự thêm vào một số sắc thái mới. Thứ nhất, mặc dù ông đã thận trọng khi viết, giai đoạn dân tộc chủ nghĩa của cách mạng thế giới sẽ được tiếp nối bởi một giai đoạn chủ nghĩa xã hội để đem lại hạnh phúc toàn xã hội và đoàn kết toàn cầu. Nguyễn Ái Quốc không nói cụ thể khi nào giai đoạn thứ hai sẽ xảy ra và nói gián tiếp rằng ở Việt Nam, điều đó sẽ không xảy ra cho đến khi toàn bộ thế giới đã sẵn sàng chuyển từ dân tộc chủ nghĩa sang giai đoạn cuối cùng chủ nghĩa quốc tế. Điều này có thể phản ánh niềm tin của ông lúc đó, giai đoạn thứ hai sẽ không xảy ra ở Việt Nam cho đến khi đa số các nước trên thế giới đã trải qua các cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa của chính họ. Khi đưa ra khái niệm hai giai đoạn, Lenin đã cho rằng giai đoạn đầu tiên sẽ nhanh chóng chuyển sang giai đoạn hai, như đã xảy ra ở nước Nga Xô viết.[174]
Vấn đề thứ hai, Nguyễn Ái Quốc đề cao giá trị độc lập dân tộc trong tiến trình cách mạng hơn Lenin, giải thích điều đó như là một kết quả đáng mong muốn của sự liên kết giữa các giai cấp trong xã hội Việt Nam. Ông dự đoán, các cuộc đấu tranh tương tự nhằm giải phóng dân tộc cuối cùng sẽ nổ ra ở các nơi khác ở châu Á. Những giai cấp nào sẽ lãnh đạo cách mạng ở Việt Nam? Tất nhiên, đó là một trong các vấn đề mấu chốt trong cuộc tranh luận về chiến lược của Quốc tế Cộng sản. Lenin đưa ra chiến lược dựa trên khái niệm liên minh bốn giai cấp, với nòng cốt liên minh công nông. Trong cuốn Đường Kách Mệnh, Nguyễn Ái Quốc đã chỉ ra liên minh công - nông, (người làm việc nặng nhọc nhưng không được hưởng thành quả lao động), là kẻ thù chính của những người tư bản, (kẻ không làm việc nhưng lại hưởng tất cả lợi nhuận). Nhưng ông cũng lấy ý tưởng của Lenin về một mặt trận thống nhất đa giai cấp của các giai cấp tiến bộ để đi đến giai đoạn hai của cách mạng. Liên minh này có thể bao gồm học sinh sinh viên, tiểu thương, ngay cả tiểu địa chủ. Tuy nhiên, các nhóm như vậy sẽ không thể là đồng minh tin cậy của công nhân và nông dân khi tiến hành giai đoạn hai của cách mạng, bởi vì họ có thể chống lại giai đoạn xã hội chủ nghĩa. Như ông đã viết trong cuốn “Đường Kách Mệnh”, công nhân và nông dân là lực lượng lãnh đạo chủ chốt của cách mạng:
“Bởi vì thứ nhất, công nhân và nông dân bị đàn áp nặng nề nhất;
Thứ hai, công nhân và nông dân nếu đoàn kết sẽ có được sức mạnh lớn nhất; Và thứ ba họ đã nghèo, nếu bị thất bại, họ chả có gì để mất ngoài sự khốn khổ, còn thắng lợi họ sẽ có cả thế giới. Đó là lý do tại sao công nhân và nông dân là gốc của cách mạng, trong khi sinh viên, tiểu thương và địa chủ, dù có bị đàn áp, nhưng không bị đau khổ như công nhân và nông dân, vì thế ba tầng lớp kia chỉ có thể là những người bạn cách mạng của công nhân và nông dân”.[175]
Cuối cùng, mặc dù Nguyễn Ái Quốc theo Lenin nhấn mạnh tới sự cần thiết phải có sự lãnh đạo của giai cấp vô sản, đặc biệt là trong giai đoạn hai của cuộc cách mạng giai cấp. Nhấn mạnh trong toàn bộ cuốn sách một thông điệp ngầm, nông dân là nhân tố tối quan trọng của liên minh cách mạng. Đây là một lập trường ông đã nêu lên nhưng không thành công ở Moscow. Ông lý giải, vì thiếu liên minh chặt chẽ giữa nông thôn và thành thị là nguyên nhân sự thất bại của cuộc cách mạng Công xã Paris năm 1870-1871 và cuộc cách mạng Nga năm 1905. Chỉ khi hai giai cấp này liên minh lại, như đã xảy ra trong cuộc cách mạng Bolsevich năm 1917, cách mạng mới thành công. Ông cho rằng, điều này đặc biệt đúng với một nước như Việt Nam, nơi 90 phần trăm dân số sống dựa vào nông nghiệp và rất nghèo. Giống như giai cấp vô sản trong Tuyên Ngôn Cộng sản của Karl Marx, nông dân của Nguyễn Ái Quốc không có gì để mất ngoài xiềng xích. Tất cả những gì họ cần, như ông từng chỉ ra trong các bài báo viết ở Pháp, là sự lãnh đạo và tổ chức.[176]
Nguyễn Ái Quốc thừa nhận thắng lợi không phải dễ dàng, bởi vì khó có thể thay đổi một xã hội hàng nghìn năm thành một xã hội mới trong thời gian ngắn. Điều quan trọng nhất phải có một đảng cách mạng có khả năng huy động được quần chúng bị áp bức trong nước và liên lạc được với các đảng khác trên toàn thế giới. Ông viết, giống như một con tàu không thể tiến lên nếu không có người chèo lái tốt, cuộc cách mạng không thể thành công nếu không có một đảng vững mạnh. Ông tiếp, một nhóm người nổi loạn có thể có đôi chút thành công bằng cách ám sát vài quan chức chính phủ. Những hành động như vậy chỉ có thể dẫn đến bị đàn áp chứ không dẫn đến giải phóng. Chìa khoá để có được một đảng vững mạnh là học thuyết của nó. Một đảng cần có một ý thức hệ mà các đảng viên có thể hiểu và theo đuổi. Một đảng không có ý thức hệ cũng giống như một người đàn ông không có trí khôn hoặc một con tàu không có la bàn.
Trong phần mở đầu “Đường Kách Mệnh”, tác giả đã liệt kê một danh sách các đặc điểm có thể xác định “hành vi của nhà cách mạng”. Thật thú vị nếu đem so sánh danh sách này với cuốn “Hỏi đáp của một nhà cách mạng” nổi tiếng của tên khủng bố người Nga thế kỷ thứ XIX, Sergey Nechayev. Nechayev nhấn mạnh vai trò của nhà cách mạng cũng giống như một công cụ mù quáng của sự nghiệp cách mạng. Anh ta phải biết tàn nhẫn, thậm chí xảo quyệt để xúc tiến mục đích của mình. Anh ta phải tuân thủ tuyệt đối đối với đảng của mình, sẵn sàng từ bỏ mọi mối quan hệ với bạn bè và gia đình. Anh ta cũng phải sẵn sàng hy sinh những chuẩn mực đạo đức thông thường để nói dối và lừa bịp vì lợi ích của cách mạng. Trong khi sự thái quá của Nechayev bị chỉ trích nhiều bởi các thành viên khác trong phong trào cấp tiến Nga, bản thân tất cả nguyên tắc này lại được Lenin khá ngưỡng mộ và trở thành kinh thánh cho những người Bolsevich của ông.
Có một số điểm giống nhau giữa các nguyên tắc ứng xử của Nguyễn Ái Quốc và Lenin đều bị ảnh hưởng bởi Nechayev. Cả hai đều nhấn mạnh nghĩa vụ của các đòi hỏi của sự nghiệp cách mạng. Sự khác biệt chính nằm ở tinh thần phía sau hai loại chuẩn mực cách mạng này. Trong khi Lenin cho các chuẩn mực đạo đức đương thời ít thích ứng với quy tắc ứng xử cách mạng, với thực tế và có những mâu thuẫn không thể điều chỉnh giữa hai mặt trên. Chuẩn mực đạo đức cơ bản trong danh mục nguyên tắc ứng xử của Nguyễn Ái Quốc làm người ta nhớ lại truyền thống của đạo Khổng: cần kiệm, liêm chính, chí công, vô tư, cầu thị, cẩn trọng, hiếu học, biết quan sát và phân tích, tránh tự cao tự đại và phải có lòng vị tha. Thực tế, trừ những phần đề cập đến đảng, những điều răn dạy cách mạng của Nguyễn Ái Quốc có thể dễ dàng được chấp nhận như là các chuẩn mực hành vi cho bất kỳ gia đình Nho giáo nào.[177]
Cũng có thể nói, nguyên tắc đạo đức cách mạng của Nguyễn Ái Quốc chỉ là việc khoác một khái niệm mới lên một chiếc áo quen thuộc, chứ không phải ý nghĩ đó thoảng qua trong đầu. Rốt cuộc, nhóm người được tuyển mộ ban đầu cho sự nghiệp của ông đều xuất thân từ những gia đình có học. Mặc dù hầu hết từ chối ý thức hệ Nho giáo truyền thống, họ vẫn bị ảnh hưởng một cách vô ý thức bởi nhiều giá trị của nó và Nguyễn Ái Quốc luôn tìm cách làm cho thông điệp của mình phù hợp với thiên hướng của người nghe. Dù vậy, các chuẩn mực đạo đức cá nhân ông dạy ở viện đã trở thành một trong những khía cạnh quan trọng trong di sản của ông cho phong trào cộng sản Việt Nam và không nên xem chúng như một thứ hình thức giả tạo. Đối với nhiều đồng sự của Nguyễn Ái Quốc, chính cách cư xử của ông, hình ảnh về lòng tốt và sự giản dị, sự lạc quan vô tận, sự nghiêm túc và tận tuỵ với sự nghiệp của ông là những gì được người ta ghi nhớ nhất sau khi ông qua đời. Đạo đức cách mạng của Nguyễn Ái Quốc đã trở thành dấu son trong ảnh hưởng của ông đối với đảng và đối với nhiều người, đó là đặc điểm riêng biệt của chủ nghĩa cộng sản Việt Nam.
Thông điệp của Nguyễn Ái Quốc chứa đựng một logic sâu xa cho Việt Nam. Tự bản thân mình, đất nước này dường như không có sức mạnh để tự giải phóng. Kể cả nhà dân tộc chủ nghĩa gan dạ Phan Bội Châu cũng đã đi ra nước ngoài, đầu tiên là Nhật Bản, sau đó là Trung Hoa để tìm sự giúp đỡ. Điều đó được khẳng định trong cuốn “Đường Kách Mệnh”, dân tộc Việt Nam sẽ phải tìm kiếm sự giúp đỡ của quần chúng cách mạng trên toàn thế giới để đấu tranh tự giải phóng. Điều cũng rất thuyết phục khi được biết, chính phương Tây cũng phải trải qua những giai đoạn biến động xã hội.
Những chỉ trích trong cuốn sách đối với các phong trào dân tộc chủ nghĩa trước đó đặc biệt có ý nghĩa đối với những người yêu nước Việt Nam trẻ tuổi. Điểm yếu của các tổ chức dân tộc chủ nghĩa rất rõ ràng, tất cả các tổ chức này đều thiếu ý thức hệ. Họ đơn giản chỉ ra sự nghiệp chung, hiện đại hoá và độc lập dân tộc. Không có tổ chức nào vạch ra một cách chi tiết cụ thể những đặc điểm của một Việt Nam độc lập trong tương lai. Khác với các tổ chức trong khu vực, các phong trào dân tộc chủ nghĩa Việt Nam không có khả năng tập hợp xung quanh những biểu tượng của một tín ngưỡng tôn giáo chung. Đạo Phật không chấp nhận sự tồn tại thế giới vật chất và thuyết giáo một triết lý khổ hạnh, không thể là một tác nhân thay đổi thích hợp nữa. Nho giáo, mặc dù ăn sâu như một tập hợp các phương châm chính trị và xã hội vào giới quý tộc Việt Nam đã bị mất tín nhiệm vì sự đầu hàng hèn hạ của triều đình phong kiến trước sự xâm lược của người Pháp. Kết quả, hầu hết các phong trào dân tộc chủ nghĩa phi cộng sản đều có xu hướng thiên về khu vực địa lý, bởi các chiến thuật hoặc bởi cá nhân. Hành động của các thành viên, dù dũng cảm, nhưng lại thường là những hành động căm thù vô nghĩa chống lại một kẻ thù hùng mạnh, kẻ có thể làm các lực lượng nổi loạn chạy tán loạn chỉ cần một cái vỗ tay.
“Đường Kách Mệnh” là nỗ lực đầu tiên của Nguyễn Ái Quốc nhằm truyền bá học thuyết Marx - Lenin với đồng bào mình. Là một tuyên bố về ý thức hệ, nó không mang lại được nhiều cho các nhà nghiên cứu nghiêm túc Việt Nam hiện đại hoặc sử học của phong trào cộng sản thế giới. Nguyễn Ái Quốc từng thừa nhận với các đồng sự, việc miêu tả học thuyết Marx - Lenin và thực tiễn của nó vào trong cuốn sách chỉ có tính chất sơ đẳng, một số phần rất khó hiểu. Phần trình bầy thiếu tinh tế, sự mập mờ về ý thức hệ trong cách xử lý của Nguyễn Ái Quốc về khái niệm hai giai đoạn và liên minh bốn giai cấp đã khiến một số người nghi ngờ liệu ông có thấu hiểu học thuyết Marx - Lenin hay không. Nếu không hiểu, vậy sự cam kết của ông đối với học thuyết này như thế nào. Bởi vì ông không miêu tả một cách cụ thể “vai trò lãnh đạo” của giai cấp công nhân, (nguyên lý then chốt của chủ nghĩa Lenin), trong cuộc cách mạng Việt Nam, một số quan sát viên đã cho rằng cuốn sách là một thí dụ về “chủ nghĩa cộng sản nông dân”, một cách tiếp cận không chính thống đối với chiến lược cách mạng Marxist - Lenin mà sau này người ta gán cho Mao Trạch Đông.
Sẽ sai lầm nếu như cố gắng suy luận quá nhiều về quan điểm của Nguyễn Ái Quốc được thể hiện trong cuốn sách ấy. Khi đó, ông đang cố quảng bá các ý tưởng Marxist trong một xã hội chủ yếu là nông thôn và thiếu sự tinh tế chính trị. Có thể Nguyễn Ái Quốc - theo niềm tin của mình về tuyên truyền - càng đơn giản càng tốt, đã cố tình tạo ra một thứ chủ nghĩa Marx phổ thông hay “bình dân” mà người dân Việt Nam có thể hiểu được trong bối cảnh riêng. Mặc dù chưa thể hiện rõ sự am hiểu của ông đối với học thuyết Marxist, nhưng cuốn sách là một công cụ hữu hiệu để giới thiệu chủ nghĩa Marx - Lenin cho những người mới học.[178]
Trong những năm sống ở Moscow, Nguyễn Ái Quốc bầy tỏ niềm tin, nông dân Việt Nam cũng như ở châu Phi và châu Á, nạn nhân chính của chủ nghĩa thuộc địa phương Tây. Như vậy, đương nhiên sẽ liên minh chặt chẽ với giai cấp công nhân. Trong cuốn sách, ông đã nêu lên sự ủng hộ của nông dân sẽ là điều kiện tiên quyết cho thắng lợi. Ông giải thích quan điểm của mình theo cách hiểu chính thống của chủ nghĩa Lenin, ngay cả dù đường lối chính thức của Moscow từ lâu đã không phải như vậy. Dù sao chăng nữa, Nguyễn Ái Quốc chẳng quan tâm đến vấn đề lý thuyết. Nhận xét của ông trong cuốn “Đường Kách Mệnh” có thể đơn giản là nhằm mục đích làm rõ hơn các lời bình luận ông đã đưa ra ở Moscow vài năm trước đây.
Tuy vậy, nhấn mạnh vai trò của nông dân, Nguyễn Ái Quốc đã có một bước tiến dài trong phát triển phong trào cách mạng Việt Nam. Các nhà lãnh đạo và các nhóm dân tộc chủ nghĩa khác chỉ nói đãi bôi về vai trò của quần chúng nông dân trong cuộc đấu tranh giải phóng của nhân dân Việt Nam. Phan Bội Châu đã nêu lên mong muốn có được sự ủng hộ của nông dân, nhưng lời kêu gọi của Phan Bội Châu lại chung chung và không có bước đi cụ thể nào để biến nó thành hiện thực. Bằng việc nói lên quyết tâm của mình tập trung chú ý vào quần chúng ở nông thôn, Nguyễn Ái Quốc đã cố gắng cảnh tỉnh đồng bào cũng như các nhà cách mạng trên toàn thế giới thuộc địa về tầm quan trọng của nông thôn trong cuộc cách mạng sắp tới ở châu Á.
Trong vòng một vài tháng sau khi đến Quảng Châu, Nguyễn Ái Quốc tuyển được một nhóm những người cấp tiến trẻ tuổi có thể lãnh đạo phong trào kháng chiến dân tộc mới, mạnh mẽ trong tương lai. Từ vị trí thuận lợi ở nam Trung Hoa nhìn vào Việt Nam, tình hình có vẻ như khả quan. Bước vào năm 1925, sự bất bình âm ỉ lâu ngày của nhân dân Việt Nam đối với những kẻ cai trị thuộc địa bùng phát thành cuộc phản đối công khai. Được châm ngòi do vụ bắt giữ và xét xử Phan Bội Châu và đám tang của Phan Chu Trinh - xảy ra vài tháng sau đó - thái độ chống Pháp đã dâng cao nhanh chóng đến mức chưa từng thấy kể từ trước khi bùng nổ Thế chiến I.
Trong hoàn cảnh đó, vài đảng chính trị phôi thai như đảng Thanh Niên ở Nam Kỳ đã bắt đầu xuất hiện. Ở Trung Kỳ và Bắc Kỳ, Tân Việt Cách mạng Đảng được các đảng viên cũ của tổ chức của Phan Bội Châu cùng cộng tác với một số các sinh viên trẻ yêu nước ở Hà Nội thành lập. Đảng Tân Việt có trong hàng ngũ các đảng viên có nhiều xu hướng chiến thuật khác nhau và niềm tin về ý thức hệ khác nhau - từ những người theo trường phái cải cách cho đến những người ủng hộ bạo lực cách mạng, từ những người ủng hộ mô hình phương Tây cho đến những nhà cách mạng Marxist và những người đi theo con đường Lenin. Mẫu số chung của họ là chống lại sự cai trị của người Pháp và sự cống hiến đối với sự nghiệp độc lập dân tộc.
Trong khi đó Nguyễn An Ninh, nhà báo trẻ, người đã chọc giận Thống sứ Lâm thời Maurice Cognacq bằng thái độ khiêu khích, tiếp tục khuấy động công chúng với những bài phát biểu và các bài báo nảy lửa. Một lần, ông diễn thuyết trước mọi người, cho họ là người phải chịu trách nhiệm cho chính những đau khổ của mình, bởi vì “các bạn không có khả năng áp đặt ý tưởng của mình, các bạn không buộc chính phủ chấp nhận điều mình muốn”. Miêu tả sự cộng tác mà Albert Sarraut trao cho người Việt Nam cũng giống như mối quan hệ giữa con trâu và chủ, ông cảnh cáo:
“Đừng hy vọng quá nhiều vào những điều mà viên Toàn quyền xã hội chủ nghĩa, (chỉ Alexandre Varenne), đã chuyển đến các bạn. Ông ta đến đây để lừa dối các bạn, ông ta nói rất nhiều, nhưng sẽ chẳng làm gì cả. Không thể có sự cộng tác giữa người Pháp và người An Nam. Người Pháp không còn có gì hơn để làm ở đây cả. Hãy buộc họ trả lại chúng ta đất đai của tổ tiên, buộc họ trao cho chúng ta quyền tự do ngôn luận và để chúng ta tự làm chủ mình. Đất nước chúng ta đã sản sinh ra vô số anh hùng, những con người biết hy sinh cho tổ quốc mình! Nòi giống của chúng ta chưa bị tuyệt diệt!”[179]
Bài phát biểu của ông Ninh đã gợi lại những kỷ niệm về Phan Bội Châu, người đã chống Pháp từ khi sống lưu vong ở Nhật Bản. Người Pháp cho rằng cần phản ứng. Vào ngày 24-3-1926, khi đội tang lễ chuẩn bị đưa thi hài Phan Chu Trinh đến nơi an nghỉ cuối cùng, Nguyễn An Ninh đã bị bắt.
Buổi chiều cùng ngày, tàu biển Pháp Amboise cập bến Sài Gòn. Trong số hành khách có Bùi Quang Chiêu, người lãnh đạo Đảng Lập Hiến mà Nguyễn Ái Quốc đã gặp trên con tàu Admiral Latouche Tréville gần 15 năm trước đây. Cũng giống như Nguyễn An Ninh, ông Chiêu rất thất vọng trước việc Toàn quyền Alexandre Varenne không giữ lời hứa hào phóng của mình. Đầu năm 1926, ông đã đến Paris để kêu gọi cải cách chính trị và kinh tế. Trong các cuộc đàm thoại với các quan chức ở đó, ông đã cảnh cáo, nếu tình hình ở Đông Dương không được cải thiện, người Pháp sẽ bị đuổi khỏi đó sau 15 năm nữa. Ông Chiêu cũng gặp gỡ những người dân tộc chủ nghĩa trong cộng đồng người Việt lưu vong tập trung quanh Nguyễn Thế Truyền, người kế nhiệm Nguyễn Ái Quốc ở Liên hiệp Thuộc địa Quốc tế, nhưng cuối cùng, ông cũng từ chối hợp tác với ông Truyền. Việc này làm cho ông lo lắng. Khi trở về Sài Gòn, ông buộc phải chú ý đến các yêu sách của đám đông trên đường phố nhằm tăng áp lực lên chính phủ thuộc địa. Bài phát biểu của ông khi đến Sài Gòn chứa đựng lời kêu gọi ủng hộ hoà hợp Pháp - Việt. Với việc Nguyễn An Ninh bị bỏ tù và Bùi Quang Chiêu không sẵn sàng nắm ngọn đuốc dẫn đường, các cuộc bạo động ở thành thị tại Nam Bộ nhanh chóng xẹp xuống, dẫn đến việc một nhà yêu nước trẻ kêu lên một cách tuyệt vọng: “Tất cả chúng ta đã quên mất Phan Chu Trinh rồi sao?”
Nguyễn Ái Quốc, đang ở Quảng Châu chăm chú theo dõi lòng căm thù chống thực dân đang tăng lên trong nhân dân, tình hình này đưa đến cả những cơ hội lẫn nhiều thách thức. Tổ chức cách mạng của ông đang trưởng thành, nên cộng tác với các thành phần dân tộc của chủ nghĩa ở Đông Dương và hải ngoại đến mức độ nào? Mặc dù M.N. Roy và một số người khác ở Moscow, những người cho rằng cộng tác với các nhóm tư sản dân tộc chủ nghĩa là nguy hiểm và bảy tỏ không tán thành. Ban đầu, Nguyễn Ái Quốc quyết tâm tạo ra một mạng lưới rộng lớn huy động sự ủng hộ nhằm chống lại chế độ thực dân. Trong báo cáo viết ở Moscow năm 1924, ông đã nhận xét, chính tinh thần dân tộc chủ nghĩa đã gây ra cuộc nổi dậy ở miền Trung Việt Nam, dạy cho những người cu-li biết phản đối các điều kiện làm việc của mình, khêu gợi quyết tâm của các thương gia Việt Nam cạnh tranh với người châu Âu, Hoa kiều, khuyến khích học sinh sinh viên biểu tình và gia nhập tổ chức của Phan Bội Châu. Ông viết, ngọn đuốc giờ đây đang được chuyển từ thế hệ này sang thế hệ khác. Ông tin, khi những người Việt Nam trẻ tuổi bắt đầu sử dụng các chiến thuật của phương Tây, các hoạt động của họ có thể được sử dụng cho mục đích của ông.[180]
Nguyễn Ái Quốc chuyển sang chú ý đến việc mở rộng nền tảng của phong trào bằng việc liên minh với các tổ chức chống thực dân khác ngay sau khi ông đến Quảng Châu, cố gắng thiết lập quan hệ với các thành phần tập hợp xung quanh Nguyễn Hải Thần - học trò của Phan Bội Châu, đã giúp Phan Bội Châu chuyển Quang Phục Hội thành Việt Nam Quốc Dân Đảng theo mô hình tổ chức của Tôn Dật Tiên ở Trung Hoa. Nguyễn Ái Quốc cũng đã thảo luận với Lâm Đức Thụ khả năng liên hệ với những thành phần dân tộc chủ nghĩa trong nước. Ở miền Trung Việt Nam, ông tìm cách liên lạc với cái mà ông gọi là “Tầng lớp thanh niên tân tiến”, (như Tân Việt Đảng), nhưng ông cũng muốn tiếp cận với các thành phần dung hoà ở Nam Kỳ như Bùi Quang Chiêu và Khánh Kỳ, (người quen cũ ở Paris), xem họ có chịu hợp tác không. Các đồng nghiệp cũng cảnh báo ông cần phải thận trọng trong việc thiết lập quan hệ với ông Chiêu trừ khi biết chắc Phan Bội Châu nhất trí. Nguyễn Ái Quốc phản biện, nếu như ông Chiêu nhất trí cộng tác, ông ta sẽ sẵn sàng cung cấp tài chính.[181]
Tuy nhiên, đối với Nguyễn Ái Quốc, các đảng dân tộc chủ nghĩa cũng đặt ra một vấn đề tế nhị. Hội Việt Nam Thanh niên Cách mạng nên hợp tác với họ đến mức nào? Đại hội lần thứ Hai của Quốc tế Cộng sản năm 1920 đã kết luận, các phong trào giải phóng tư sản như vậy nên ủng hộ “Chỉ khi nào các phong trào này thực sự cách mạng và khi những nhân vật tiêu biểu của họ không cản trở công việc của chúng ta là giáo dục và tổ chức nông dân và quần chúng rộng rãi thuộc tầng lớp bị bóc lột theo tình thần cách mạng”. Nhưng một số lãnh đạo của tổ chức này như nhà cộng sản Pháp Jacque Doriot lại có lời khuyên khác. Trong một bức thư gửi một trong các đại hội của các tổ chức mặt trận đề ngày 4 tháng 3 năm 1927, Doriot đề xuất một cách tiếp cận rộng hơn. Ông nói “Đảng của các bạn cần nhớ, các lực lượng cơ bản của cuộc đấu tranh ở Đông Dương là giai cấp công nhân, nông dân và tiểu thương thành thị”, nhưng:
“Không được quên, dưới ách thống trị của chủ nghĩa đế quốc, toàn thể nhân dân (công nhân, nông dân, tiểu chủ, trí thức) - trừ một phần rất nhỏ những kẻ trục lợi, đều có lợi trong việc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc. Không được xem nhẹ bất kỳ nỗ lực nào lôi cuốn họ và tổ chức họ hằng ngày trong cuộc đấu tranh. Không được từ chối bất kỳ sự hợp tác nào. Ngược lại, phải làm tất cả để khuyến khích điều đó.[182]
Nguyễn Ái Quốc thận trọng nghe theo lời khuyên của Doriot. Phù hợp với đường lối của Cộng sản Quốc tế chỉ hợp tác với các nhóm dân tộc chủ nghĩa ”thiết thực cách mạng”. Theo chỉ thị của ông, Hội rất thận trọng trong việc thiết lập các liên minh. Sau việc bày tỏ sự quan tâm đến Bùi Quang Chiêu, Nguyễn Ái Quốc tỏ ra coi thường các nhóm của “những kẻ theo đường lối cải lương quốc gia” như Đảng Lập Hiến của ông Chiêu. Trong một báo cáo của ông gửi cho Moscow, ông mô tả nhóm này chống lại chủ nghĩa cộng sản và ủng hộ hợp tác với Pháp. Hướng tới các đảng có tính cấp tiến hơn như đảng Thanh Niên ở Nam Kỳ và Tân Việt ở miền Trung Việt Nam. Hội dung hoà hơn, gửi các đại diện đàm phán với họ để thiết lập một liên minh nếu có thể được.
Nhưng lập trường đàm phán của Hội lại luôn cứng rắn. Hội bác bỏ ý tưởng về việc sáp nhập một cách bình đẳng và chỉ trao cho các nhà lãnh đạo đối địch vai trò thứ yếu trong Hội. Trong khi các cuộc đàm phán đang tiếp diễn, các thành viên của Hội tích cực lôi kéo các đại biểu của đảng đối địch vào tổ chức của mình. Khi các đảng viên của các nhóm đối địch đến Quảng Châu để học tập tại viện đào tạo, họ được chỉ thị không nối lại liên lạc với các đồng chí cũ khi quay về Việt Nam. Không có gì đáng ngạc nhiên, các lãnh đạo các đảng dân tộc chủ nghĩa bất bình trước những cách làm như vậy và bác bỏ liên minh với Hội Việt Nam Thanh niên Cách mạng theo các điều kiện của Hội.[183]
Do Nguyễn Ái Quốc buộc phải ở lại Trung Hoa để tránh mật thám bắt, sự tham gia đàm phán trực tiếp của ông với các lãnh đạo của các nhóm ở Việt Nam rất ít. Nhưng rất có thể các quyết định cuối cùng là của ông. Các nhận xét ông đưa ra đối với đồng sự và học viên tại trường ở Quảng Châu cho thấy thái độ đối với các đảng đối địch là sự kết hợp giữa sự sẵn sàng một cách thận trọng hợp tác vì sự nghiệp đấu tranh với sự hoài nghi cơ bản về những động cơ cuối cùng của họ. Ông thường xuyên nhận xét, liên minh với các đảng có thể hữu ích, nhưng chỉ nhằm các mục đích chiến thuật mà thôi.[184]
Trong khi đẩy mạnh nỗ lực xây dựng phong trào cách mạng Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc cũng tìm cách hoàn thành nghĩa vụ vô sản của mình bằng cách cộng tác với các thành phần tiến bộ ở nam Trung Hoa và các phong trào cách mạng Trung Hoa. Trước khi Nguyễn Ái Quốc rời Moscow, Thomas Dombal đề nghị ông làm việc với tư cách là đại diện của Nông dân Quốc tế tại Quảng Châu và giúp huy động lực lượng nông dân Trung Quốc. Trong khoảng thời gian ngắn, việc này dường như thành công với sự hợp tác của Quốc Dân Đảng, đại diện của họ ở Moscow đã tìm kiếm sự giúp đỡ của Nông Dân Quốc tế soạn ra một cương lĩnh nông dân. Dombal gợi ý Nguyễn Ái Quốc lập ra các hội nông dân ở toàn bộ các vùng thuộc tỉnh Quảng Đông, đang dưới sự kiểm soát của nhà đương cục Quảng Châu.
Để thực hiện nhiệm vụ này, sau khi đến Quảng Châu, Nguyễn Ái Quốc thăm Học viện Phong trào Nông dân, cơ sở đào tạo do chính phủ Quốc Dân Đảng lập ra năm 1924, để thúc đẩy cách mạng nông thôn chống lại các chế độ lãnh chúa cát cứ ở phương Bắc. Viện được đặt ở một ngôi chùa cổ không xa đại bản doanh của Hội Việt Nam Thanh niên Cách mạng ở Quảng Châu và Nguyễn Ái Quốc đã báo cáo các hoạt động của mình bằng một bài viết gửi về Moscow. Trong quá trình nghiên cứu các điều kiện của nông dân Trung Hoa, ông đã quen với Bành Bái, một nhà hoạt động xuất sắc của Đảng cộng sản Trung Quốc và là một trong các cán bộ lãnh đạo của viện. Ông Bành Bái, người thúc đẩy chính việc thiết lập Xô viết Hải Lục Phong, những hội nông dân được thành lập năm 1923 dưới sự thúc ép của ông ở hai huyện miền đông của Quảng Châu. Nguyễn Ái Quốc rất thích những thí nghiệm đó, một lần ông đã đến thăm khu vực này, viết một bài báo về chủ đề đó. Đáp lại, Bành Bái đôi khi tham gia dạy tại học viện của Nguyễn Ái Quốc.[185]
Nguyễn Ái Quốc đến Trung Hoa vào thời điểm khi phong trào cách mạng đang trong giai đoạn biến chuyển nhanh chóng. Mùa hè năm 1925, các cuộc biểu tình lớn của người lao động diễn ra tại Quảng Châu để phản ứng lại cái gọi là “Sự kiện 30-5” tại Thượng Hải khi cảnh sát Anh đã bắn vào những người biểu tình, làm chết vài người. Nguyễn Ái Quốc tham gia các cuộc biểu tình, đọc các bài diễn văn khuyến khích những người biểu tình và tuyên bố bằng giọng đặc sệt Quảng Châu - rằng nhân dân Quảng Châu ủng hộ họ. Ông cũng tham gia các hoạt động chính thức hơn như Đại hội lần thứ II của Quốc Dân Đảng tổ chức vào tháng 1-1926 theo yêu cầu các thành phần cánh tả chống lại ảnh hưởng của các lực lượng chống cộng ngày càng tăng trong đảng. Nguyễn Ái Quốc đã phát biểu trước đại hội, miêu tả tình hình ở Đông Dương. Ông tuyên bố, người Pháp đang cố gắng một cách tuyệt vọng để ngăn chặn các tin tức về tình hình bất an ở Trung Hoa đến với nhân dân Việt Nam. Ông hứa, đồng bào ông và tất cả các dân tộc thuộc địa ở châu Á sẵn sàng đoàn kết với nhân dân Trung Hoa chống lại những kẻ thù xâm lược chung. Tuy nhiên, tuyên bố có tính chất phóng đại hơn là thực tế. Lúc đó, Hiệp hội các dân tộc bị áp bức ở châu Á mà ông đã giúp thành lập năm trước đang phải chịu những tranh cãi giữa các nhóm dân tộc, (Quốc nhớ lại vấn đề gặp phải với Liên hiệp Thuộc địa ở Paris), và tan rã.[186]
Mùa xuân năm 1927, Nguyễn Ái Quốc đã có mặt ở Quảng Châu hơn hai năm. Ông đã trở thành nhân vật nổi bật, một thành viên được tôn trọng của cộng đồng cách mạng, đã có các mối quan hệ gần gũi với các đảng viên Đảng cộng sản Trung Quốc như Chu Ân Lai, nhà tổ chức thanh niên Trương Đại Lợi và nhà lãnh đạo tả khuynh Quốc Dân Đảng Liêu Trọng Khải. Cuộc sống của ông ở nam Trung Hoa, ít nhất cho đến lúc đó, có vẻ ổn định, (có lẽ vì lý do đó) ông đã nghĩ đến việc có một người vợ Trung Hoa để giúp ông học tiếng Trung và chăm lo các nhu cầu cá nhân. Để có được người phù hợp, ông đã thảo luận vấn đề với người đồng sự gần gũi, Lâm Đức Thụ, đã sống ở Trung Hoa nhiều năm và có rất nhiều người quen trong dân chúng địa phương. Tuy nhiên, Nguyễn Ái Quốc khăng khăng không tuân theo phong tục cưới truyền thống của Trung Hoa, ông từ chối nộp khoản tiền thách cưới.
Ít lâu sau, Lâm Đức Thụ giới thiệu cho Nguyễn Ái Quốc một thiếu nữ Trung Hoa - Tăng Tuyết Minh, con gái vợ lẽ thứ ba của một thương gia Quảng Châu giàu có. Bị đuổi khỏi nhà sau khi bố chết, Tuyết Minh sống trong hoàn cảnh khó khăn cho đến khi cô làm bạn với vợ của Lâm Đức Thụ, người đã giới thiệu cô với Nguyễn Ái Quốc. Người phụ nữ trẻ này ít được học hành, do vậy một số cộng sự phản đối cuộc hôn nhân, nhưng Nguyễn Ái Quốc phớt lờ những lời khuyên của họ và cầu hôn. Sau đám cưới, đôi uyên ương chung sống ở căn phòng của Nguyễn Ái Quốc ở biệt thự Borodin. Mặc dù Tuyết Minh hấp dẫn về mặt hình thức, (một người quen mô tả: thân hình mảnh dẻ, da trắng, tóc đen ngang vai, mặt tròn, miệng nhỏ), nhưng lại ít quan tâm đến chính trị. Sau vài nỗ lực bất thành, chồng cô nhanh chóng từ bỏ việc cải hoá cô theo những tư tưởng chính trị của mình. Có những nguồn tin cho rằng, cuộc hôn nhân giữa hai người có một cô con gái.[187]
Dù sao chăng nữa, những ngày Nguyễn Ái Quốc ở Quảng Châu sắp kết thúc. Trong khi ông đang vật lộn để thổi bùng ngọn lửa bất bình ở Việt Nam, tình hình ở Trung Hoa cũng chuyển biến nhanh chóng. Trong vài năm, Đảng cộng sản Trung Quốc đã hợp tác một cách không thoải mái với Quốc Dân Đảng của Tôn Dật Tiên ở các tỉnh phía nam Trung Hoa. Liên minh này được duy trì chủ yếu do sức ép cá nhân của ông Tôn và mối quan hệ công việc của ông với cố vấn của Cộng sản Quốc tế Mikhail Borodin. Nhưng ông Tôn chết vì ung thư gan tháng 2-1925, trong khi ở Bắc Kinh cuộc đàm phán với viên tư lệnh cát cứ Phùng Ngọc Tường, sau một hồi đấu tranh quyền lực, Tưởng Giới Thạch, cố vấn quân sự của Tôn Dật Tiên và là tư lệnh của Học viện Quân sự Hoàng Phố, đã kế nghiệp ông. Vì các lý do chiến thuật, Tưởng tạm thời vẫn duy trì liên minh với Đảng cộng sản Trung Quốc, bất chấp thái độ chống cộng đang gia tăng trong phái bảo thủ. Tuy nhiên, bản thân Tưởng cũng nghi ngờ những người cộng sản. Có thể do chuyến thăm của ông ta tới Liên Xô năm 1923 đã ý thức được các mục tiêu lâu dài của Moscow sử dụng liên minh với đảng rồi sau đó vứt bỏ. Ngày 12-4-1927, giữa cuộc Bắc Phạt chống lại chính phủ của các tư lệnh lãnh chúa ở miền Trung và miền Bắc Trung Hoa do cả hai bên tiến hành, liên minh này tan vỡ. Khi phái tả của Quốc Dân Đảng kêu gọi loại bỏ Tưởng Giới Thạch, ông đã ra lệnh thảm sát hàng ngàn người cộng sản và những người ủng hộ ở Thượng Hải, thành phố lớn nhất của Trung Hoa, khi quân đội của ông được phái tới đó.
Hành động của Tưởng lập tức được tái diễn ở Quảng Châu. Ngày hôm sau, các đơn vị quân đội do tư lệnh dân tộc chủ nghĩa Lý Tế Thâm vây ráp hai nghìn người tình nghi cộng sản trên toàn bộ tỉnh Quảng Đông. Học Viện Quân sự Hoàng Phố bị chiếm, hàng trăm người bị tình nghi là phái tả, trong đó có các học viên Việt Nam thuộc Hội Việt Nam Thanh niên Cách mạng đã bị bao vây và bị bắn. Trương Đại Lợi, bạn của Nguyễn Ái Quốc, là một trong số các nạn nhân. Khi quân đội của Lý Tế Thâm bao vây các ngôi nhà của các quan chức làm việc tại Toà lãnh sự Xô viết, Mikhail Borodin và một vài cố vấn của ông đã chuyển đến Vũ Hán, nơi chính phủ Quảng Châu đã chuyển đại bản doanh vào mùa đông trước.
Thoạt đầu, giới chức Pháp tưởng Nguyễn Ái Quốc theo Borodin và tuỳ tùng của ông ta đã đến miền trung Trung Hoa. Nhưng thực ra Nguyễn Ái Quốc vẫn ở lại Quảng Châu vì tin rằng mình là người Việt Nam có quan hệ tốt với nhiều quan chức Quốc Dân Đảng sẽ không bị bắt. Để bảo đảm an toàn, ông đã ẩn náu tại một địa điểm bí mật, kiếm sống bằng cách bán báo. Nhưng vào khoảng cuối tháng 4 hoặc đầu tháng 5-1927, ông được Trương Văn Lệnh, một trong các đồng sự gần gũi của Tâm Tâm Xã, làm việc cho lực lượng bảo vệ thành phố địa phương, cho biết ông có thể bị bắt. Ông Lệnh đã khuyên Quốc trốn khỏi Quảng Châu càng sớm càng tốt.[188]
Mỉa mai thay, chính một người mà Nguyễn Ái Quốc cho là đồng minh trong cộng đồng Việt Nam lưu vong đã báo cho cảnh sát Lý Tế Thâm biết ông là cộng sản. Kể từ khi đến Quảng Châu, Nguyễn Ái Quốc đã tìm cách thiết lập mối quan hệ hợp tác với Nguyễn Hải Thần và các cựu binh khác thuộc Việt Nam Quốc Dân Đảng của Phan Bội Châu. Ông Nguyễn Hải Thần, bạn thân của Lâm Đức Thụ và đã từng sống tại nhà ông ta. Vào mùa thu năm 1926, quan hệ của Nguyễn Ái Quốc với ông Thần đã trở nên căng thẳng bởi ông này ngày càng chỉ trích xu hướng cộng sản của Hội Việt Nam Thanh niên Cách mạng. Nguyễn Ái Quốc cũng giận dữ trước các nỗ lực của ông Thần làm suy yếu hoặc thu hút tổ chức của mình. Cuối năm 1926, Trương Bội Công, một trong các thành viên lãnh đạo của Quốc Dân Đảng từ Bắc Kinh đến Quảng Châu thúc đẩy Nguyễn Hải Thần thành lập một đảng chính trị mới tập trung vào độc lập dân tộc và chống lại ảnh hưởng của Hội. Hố ngăn cách giữa hai nhóm Việt Nam trở nên rộng thêm, người ta cho rằng chính Nguyễn Hải Thần đã báo cho chính quyền Trung Hoa về sự có mặt của Nguyễn Ái Quốc vào đầu tháng 5-1927.
Điều kỳ lạ, chính Lâm Đức Thụ, dù là người thông báo thường xuyên về các hoạt động của Hội cho mật thám, nhưng chưa bao giờ phản bội Nguyễn Ái Quốc cho người Pháp, có lẽ vì sợ vai trò làm nhân viên mật thám bị tiết lộ. Tuy nhiên, ông ta đã dàn xếp để chụp ảnh các thành viên của Hội. Một lần, ông ta đã trao những bức ảnh này cho lãnh sự Pháp. Những bức ảnh này, (hiện đang nằm trong hồ sơ lưu trữ của Pháp), rõ ràng đã giúp chính quyền thuộc địa nhận diện các cộng sự của Nguyễn Ái Quốc. Sự bất cẩn của Nguyễn Ái Quốc trong việc để cho những bức ảnh như thế được chụp và sự tin cẩn vào Lâm Đức Thụ sau này đã bị một số cộng sự phê phán mạnh mẽ.[189]
Ngày 5-5-1927, Nguyễn Ái Quốc rời nơi cư trú bí mật của mình lên tàu hỏa đi Hong Kong, bỏ lại người vợ ở Quảng Châu. Cùng ngày, nơi cư trú của ông bị quan chức Trung Hoa khám xét. Một lần nữa, ông lại lên đường.[190]
Ngày 5-5-1927, Nguyễn Ái Quốc rời nơi cư trú bí mật của mình lên tàu hỏa đi Hong Kong, bỏ lại người vợ ở Quảng Châu. Cùng ngày, nơi cư trú của ông bị quan chức Trung Hoa khám xét. Một lần nữa, ông lại lên đường.[190]
---------------------------------
[133] Một số thành viên Đảng cộng sản Trung Quốc cho rằng Quốc Dân Đảng đại diện giai cấp tư sản ở Trung Hoa cuối cùng sẽ phản bội cuộc cách mạng. Maring, người gần đây đã thành lập “khối trong” tương tự giữa các nhóm chống thực dân Hà Lan trong khu Đông Ấn, phản đối rằng đảng của Tôn Dật Tiên bao gồm “liên minh bốn giai cấp” giữa giai cấp tư sản dân tộc (thuật ngữ chủ nghĩa Mác chỉ tầng lớp trung lưu thành thị), các tiểu tư sản, giai cấp vô sản và nông dân. Định nghĩa như vậy đã mở đường cho mọi nỗ lực của Đảng cộng sản Trung Quốc nhằm lôi kéo các yếu nhân trong Quốc Dân Đảng, đưa họ ngả theo phái tả. XemJames Pinckney Harrison, Từ Vạn Lý Trường Chinh đến quyền lực; Lịch sử của Đảng Cộng sản Trung Quốc, 1921-1912 (NXB Praeger, New York, 1972), trang 49-51
[134] Thông tin về hoạt động của Phan Bội Châu xem “Việt Nam chống chủ nghĩa thực dân, 1885-1925” của David G. Marr (Berkeley, Calif., Nhà in Đại học California, 1971) và William Duiker, “Sự trỗi dậy chủ nghĩa dân tộc ở Việt Nam, 1900-1941” (NXB Đại học Cornell, Ithaca, New York, 1976). Việc Tôn Dật Tiên hứa giúp đỡ, xem trong “Tôn Dật Tiên: Chính sách đối ngoại viễn cảnh và thực tế” của S.L. Tikhvinsky, (Moscow: Quan hệ quốc tế, 1964), trang 101
[135] Xem “Pháp và người An Nam: Giữa hai làn đạn” của Paul Monet (Paris: Rieder, 1928), trang 40
[136] Chừng 40.000 người Âu sinh sống ở Đông Dương trong thập niên 1920, khoảng một nửa sống tự do, một phần tư làm trong lực lượng vũ trang, phần còn lại là các quan chức chính phủ, những người có nghề nghiệp, hoặc nhân viên các nhà buôn. Xem “Truyền thống Việt Nam trong thử thách” của David G. Marr, (Berkeley, Calif., Nhàin Đại học California, 1981), trang 24. Bình luận của Poincare xem trong “Việt Nam” của Roubaud, trang 268
[137] Về đảng của Chiêu những năm trước đây, xem “Đảng Lập Hiến ở Nam Kỳ: Những năm thoái trào, 1930-1942” của Megan Cook (Clayton, Australia: Nhà in Đại học Monash, Đông Nam Á, 1977), chương 1
[138] “Nam Kỳ” của Léon Werth (Paris: Rieder, 1926), trang 160-61
[139] Hồng Hà, “Hồ Chí Minh trên đất nước Xô viết” (Moscow: n.p., 1986), trang 89; Hoàng Tranh, “Hồ Chí Minh và Trung Quốc”, trang 18. Khi tới Quảng Châu, Nguyễn Ái Quốc lập tức viết ba lá thư gửi Moscow thông báo ông đã đến nơi. Trong một thư gửi một quen biết, ông nói mình đang sống trong căn hộ với Borodin và hai hoặc ba các đồng chí Trung Quốc. Trong một bức thư gửi Dombal, bấy giờ là Tổng Thư ký Hội Nông dân Quốc tế, ông yêu cầu đừng cho các đồng chí của ông biết tin ông đến, vì ông ở Trung Quốc bất hợp pháp. Ông cho biết thêm một số nhận xét tình trạng hoạt động cách mạng trong khu vực nông dân ở Nam Trung Hoa. Ông nói nhiều người trong số họ đã được những người cộng sản đưa vào tổ chức. Ông yêu cầu gửi cho ông sách báo tuyên truyền tới Quảng Châu để giúp ông đẩy mạnh nỗ lực huy động họ đóng góp cho sự nghiệp cách mạng. Trong thư thứ ba, gửi tới biên tập viên tạp chí Rabotnitsa (Nữ công nhân), ông tình nguyện tiếp tục viết bài, nhưng yêu cầu họ xuất bản ở mục “Những lá thư từ Trung Quốc” dưới tên một phụ nữ. Ông nói, điều đó giúp ông giữ bí mật được nhân thân và nơi ở. Bản sao ba lá thư trên mới được phát hiện trong Kho lưu trữ Quốc tế Cộng sản, xem “Hồ Chí Minh biên niên tiểu sử”, Tập I, trang 237-39, và Toàn Tập II, Tập II, trang 2-7. Kobelev, “Hồ Chí Minh”, trang 86, nói rằng Nguyễn Ái Quốc nhận công việc với Quốc tế Cộng sản ở một tờ báo địa phương. Với người quen của họ ở Moscow, những phát biểu của ông được trích dẫn các lá thư trên cho thấy ông đã chuyển đến sống cùng với Borodin. Xem ra Quốc tự tìm đến Trụ sở Quốc tế Cộng sản khi tới Quảng Châu thì đúng hơn
[140] Đảng viên cộng sản Ấn Độ M.N. Roy đã đưa ra luận điểm chống lại đường lối của Lenin về sự hợp tác có giới hạn với tầng lớp tư sản dân tộc trong các nước thuộc địa và bán thuộc địa, cuộc tranh luận còn cho rằng các bên liên quan cuối cùng sẽ phản bội lại cách mạng. Nhưng Manuilsky đứng ra bảo vệ về đường lối chiến thuật, cho rằng vì hiện tại nhiều nước không có những người làm cách mạng, nên không có sự lựa chọn. Cuối cùng một thoả hiệp đã đạt được, các nhà nước cộng sản sẽ hỗ trợ và hợp tác với các yếu nhân “cách mạng dân tộc”. Trong thực tế, thuật ngữ “tư sản dân tộc chủ nghĩa” và “cách mạng dân tộc” thường được sử dụng thay thế cho nhau trong nhiều năm qua. Xem “Chiến lược của Liên Xô ở Đông Nam Á” của Charles B. McLane (NXB Đại học Princeton, N.J., 1966), trang 36-40. Manuilsky nhận xét về Nguyễn Ái Quốc trong báo cáo “Nước Nga Xô viết và Phương Đông, 1920-1921” của Xenia J. Eudin và Robert C. North, (NXB Đại học Stanford, California, 1957), trang 326-28. Việc Nguyễn Ái Quốc tìm cách thiết lập quan hệ hợp tác với các nhóm chống thực dân, xem Toàn Tập II, Tập I, trang 203-204, 251-252
[141] Cả hai được trích từ Trần Văn Giàu, “Những ảnh hưởng đầu tiên của Cách mạng Tháng Mười Nga đến đời sống chính trị Việt Nam”, Tạp chí Học Tập (tháng 8-1957), trang 51, 64. Trong một báo cáo gửi Moscow ngày 5-3-1930, Nguyễn Ái Quốc cũng ghi như thế - xem “Báo cáo gửi Quốc tế Cộng sản về phong trào cách mạng ở An Nam”, trong Văn kiện Đảng toàn tập, tập 2 (NXB Chính trị Quốc gia, 1997), trang 32
[142] Hồ Chí Minh, “Mấy ý nghĩ về vấn đề thuộc địa” trong L’Humanité, 25-5-1922. Bài báo này in lại trong Bernard Fall, ed., “Hồ Chí Minh trong Cách mạng: Tuyển tập 1920-1966”, trang 8-10
[143] Thông tin về chuyến đi của họ tới Trung Hoa và lý do vì sao phải làm như vậy của họ, xem ở biên bản thẩm vấn của cảnh sát nằm ở Kho lưu trữ Pháp. Thí dụ, bản thẩm vấn Lê Hồng Sơn, ngày 24-10-1932, SPCE, hộp 367, CAOM. Nghe đồn, năm 1922, Lê Hồng Sơn đã ám sát Phan Bá Ngọc, con trai của Phan Đình Phùng (thủ lĩnh phong trào Cần Vương) nhằm ép Phan Bội Châu hoà giải với Pháp - xem “Cải cách thuộc địa và hợp tác Pháp-An Nam (1917-1928)” của Agathe Larcher, trong Tạp chí “Lịch sử Xã hội Pháp” tập 82, 309 (tháng 12-1995) (Paris: Societe Française d'Histoire d'Outre-Mer, 1995), trang 411. Về Trương Văn Lệnh và Lê Quang Đạt, xem những bản thẩm vấn ngày 3-2-1932, và 6-11-1931, SPCE, hộp 367, CAOM
[144] Đặng Hoà, “Bác Hồ: Những năm tháng ở nước ngoài”, trang 64; Hoàng Tranh, “Hồ Chí Minh và Trung Quốc”, trang 23. Tên của tổ chức này nghe đồn phỏng theo câu “tâm tưởng nhớ ai” - xem Trần Văn Giàu, “Giai cấp công nhân Việt Nam”, tập 2, trang 367-368, (NXB Sự thật, 1961). Theo nhà sử học Pháp Georges Boudarel, những thành viên hàng đầu của Tâm Tâm Xã bị ảnh hưởng tư tưởng Lưu Sĩ Phú (Liu Shifu) một trí thức vô chính phủ của Trung Hoa sau khi đến nam Trung Hoa - xem Boudarel, “Phái cực tả Á châu và phong trào dân tộc của người Việt nam 1905-1925)” trong Pierre Brocheux, “Lịch sử Đông Nam Á, thu hồi, cải cách và cách mạng” (NXB Đại học Lille, 1981), trang 190
[145] Các nguồn tin lấy từ “Bưu điện Buổi sáng Hoa Nam”, trích Boudarel “Phái cực tả Á châu và phong trào dân tộc của người Việt nam 1905-1925”, trang 185. Về tiểu sử Phạm Hồng Thái, xem Tô Nguyệt Định, “Phạm Hồng Thái” (NXB Song Mai, Sài gòn, 1957), và Trần Huy Liệu, “Tài liệu tham khảo lịch sử cách mạng cận đại Việt Nam”, tập 4 (Hà Nội, 1958). Về sự lựa chọn Lê Hồng Sơn làm sát thủ, xem Tô Nguyệt Định “Phạm Hồng Thái”, trang 64-65, và cuộc thẩm vấn Lê Hồng Sơn, ngày 24-10-1932, SPCE, hộp 367, CAOM
[146] Những hoài nghi về Lê Quang Đạt, xem cuộc hỏi cung ông ngày 6-11-1935, trong SPCE, hộp 367, CAOM. Tô Nguyệt Định ý tưởng cuốn “Phạm Hồng Thái” cho rằng chính Thụ là người thông báo cho Pháp về âm mưu, cũng như nơi ở của các thành viên trong tổ chức mà đáng lẽ ra họ có thể không bị Pháp bắt. Định cũng cho rằng Lê Hồng Sơn đã nghi ngờ Thụ và mưu sát Thụ, nhưng thất bại - tuy nhiên, điều này có vẻ như không chính xác vì Thụ vẫn là cộng sự của ông trong nhiều năm sau (xem trang 118-119). Về sự ngờ vực, xem “Nguyễn Ái Quốc ở Quảng Châu, 1924-1927”, trang 53
[147] Trong các nỗ lực tăng uy tín, dù sao Phan Bội Châu có một số điểm đúng, Tâm Tâm Xã vẫn duy trì mối quan hệ tuy lỏng lẻo với tổ chức của ông và dường như ông không trực tiếp dính líu. Về phần này, một bình luận về Phan Bội Châu trong “Truyện Phạm Hồng Thái” xem William Duiker, “Sự trỗi dậy chủ nghĩa dân tộc ở Việt Nam, 1900-1941”, trang 83-84. Phan Bội Châu nói Phạm Hồng Thái đã thực hiện vụ mưu sát sau khi trao đổi với Nguyễn Ái Quốc, nhưng rõ ràng là bịa đặt, vì thực tế Quốc đến Quảng Châu sau khi Thái chết được vài tháng
[148] Bản báo cáo bằng tiếng Pháp ngày 19-2 tại Bảo tàng Cách mạng Hà Nội. Lá thư đề ngày 18-12-1924 tại Bảo tàng Hồ Chí Minh. Bản dịch tiếng Việt trong Toàn Tập II, tập 2, trang 7-9 và Toàn Tập I, tập 1, trang 314-316. Tài liệu tham khảo về Đảng dân tộc Đông Dương có trong “Gửi đoàn chủ tịch Quốc tế Cộng sản”, ngày 1-11-1925, trong Toàn Tập II, tập 2, trang 5-6, “Vấn đề Đông Dương” trong Toàn Tập II, tập 2, trang 16-17. Nguyễn Ái Quốc đã tạm thời sử dụng tên trong sự tôn kính Phan Bội Châu đã tổ chức Đảng Dân tộc chủ nghĩa Việt Nam trong thời gian gần đây. Việc Quốc liên hệ với các thành viên của Tâm Tâm Xã không rõ ràng. Thời gian ông đến, hai trong số họ đang theo học tại Trường quân sự Hoàng Phố, có thể ông biết tên của họ qua các cộng sự của Quốc tế cộng sản. Sau này Lê Hồng Sơn khai với người thẩm vấn Pháp, ông là người được Lâm Đức Thụ giới thiêu với Nguyễn Ái Quốc. Xem thẩm vấn ông trong SPCE, hộp 365, CAOM. Sự xác nhận của Thụ là giả. Xem thư Pinot gửi Noel, ngày 23-1-1925, tài liệu đã dẫn
[149] Phan Bội Châu niên biểu, trang 189; Hương Phố, “Góp phần đánh giá tư tưởng của Phan Bội Châu” trong Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 94 (tháng 9-1967), trang 24. Xem thêm Anatoly Sokolov, “Quốc tế Cộng sản và Việt Nam” (Moscow: Iv Ran, 1998), trang 22-26. Có lần tâm sự với một người bạn, Phan Bội Châu nói rằng ông “quá già” để hiểu thêm những học thuyết mới
[150] Thư Phan Bội Châu gửi Nguyễn Ái Quốc có trong Phụ lục 6, Ghi chú của Noel, số 144, trong SPCE, hộp 365, CAOM. Vào ngày 3-2-1925, Quốc báo cáo cho Quốc tế Cộng sản trong cuộc họp với một người bạn cũ yêu nước, nhưng không đề cập đến tên và ngày buổi họp. Xem “Phan Bội Châu niên biểu”, trang 201-202. Vấn đề trở nên phức tạp vì nhiều người Việt Nam ngày ấy sử dụng âm lịch. Xem chú giải của Noel, số 158, 24-5-1925, trong SPCE, hộp 365, CAOM, thư Pinot gửi Noel, 23-1-1925, trong SPCE, hộp 364, CAOM
[151] Báo cáo của Nguyễn Ái Quốc với Quốc tế Cộng sản theo kế hoạch, xem thư ngày 19-2-1925, tại Bảo tàng Cách mạng Việt Nam
[152] Từ lâu đã nghi ngờ Lâm Đức Thụ là đặc vụ của Pháp, nhưng cho đến nay vẫn không đủ chứng cớ. Bấy giờ danh tính của Thu là “Pinot” trong các tài liệu của sở cảnh sát trong kho lưu trữ của Pháp tại CAOM. Nỗ lực của sĩ quan Pháp tìm hiểu về lý lịch Lý Thụy được ghi trong một loạt điện tín giữa Quảng Châu, Hà Nội, và Paris trong sáu tháng đầu năm 1925 có trong SPCE, hộp 364, CAOM. Mật vụ dường như có thể ngăn chặn Nguyễn Ái Quốc khi phát hiện ra ông. Bức ảnh vẫn còn trong kho lưu trữ của Pháp
[153] Bản tuyên ngôn này có trong “Tuyên ngôn của Liên đoàn các dân tộc bị áp bức nhân dịp thành lập”, Envoi số 190, ngày 18-7-1925, trong hồ sơ có nhãn “1950”, SPCE, hộp 366, sách đã dẫn. Về phân tích chi tiết trong những tên khác nhau trong Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội, xem “Cộng sản Việt Nam 1925-1945” của Huỳnh Kim Khánh (Ithaca, NY: NXB Đại học Cornell, 1982), trang 63-64. Như Khách vạch ra, một số tên của tổ chức thay đổi thường xuyên, ngay cả tên trong phong trào. Để thuận tiện tôi đã dùng những tên một cách nhất quán
[154] Báo “Sự thật Thanh niên Cộng sản” (Liên Xô) ngày 1-5-1969. Một bản sao trong kho lưu trữ Đông Dương, Đại học Bách khoa Texas, Lubbock, Texas
[155] Bức thư này gửi Petrov và đề ngày 21-5-1924, tại Bảo tàng Hồ Chí Minh Hà Nội và trong kho lưu trữ Quốc tế cộng sản ở Moscow. Xem thêm Kobelev, trang 70
[156]Qua báo cáo, tác giả sử dụng thuật ngữ “An Nam” để đối lập với Việt Nam hay Đông Dương. Một bản sao có trong Alain Ruscio, ed., “Những bài viết của Hồ Chí Minh, 1914-1969”, trang 76-78. Tôi đồng ý với Ruscio rằng trong hoàn cảnh ấy, Nguyễn Ái Quốc là tác giả của bản báo cáo này. Không những ông là thành viên duy nhất của Quốc tế Cộng sản ở Moscow mà còn hiểu rõ tình hình Đông Dương, nhưng nhận xét trong báo cáo liên quan đến sự cần thiết chấm dứt thái độ chỉ tập trung trong các nước Ấu châu của Đảng Cộng sản Pháp coi Quốc tế Cộng sản là của riêng mình, đồng thời đề xuất hành động trong tương lai, phù hợp với ý tưởng của ông về chủ đề này. Các nhà nghiên cứu tại Hà Nội tán thành ý kiến này - báo cáo có trong Toàn Tập, II, tập 2, trang 464-69
[157] Alain Ruscio, ed., “Những bài viết của Hồ Chí Minh, 1914-1969”, trang 76
[158] Thư Nguyễn Ái Quốc viết vào đầu tháng tư, có trong SPCE, hộp 364, CAOM. Về các cuộc thảo luận, xem Hồ Tài Huệ Tâm, “Chủ nghĩa cực đoan và nguồn gốc của cách mạng Việt Nam” (Cambridge, Mass: Nhà in Đại học Harvard, 1992), trang 172-175. Người Pháp dường như khá khó khăn để có được một bản sao mà họ cho rằng Huyền có thể đã cộng tác với Phan Bội Châu để viết. Đặc vụ Pinot (Lâm Đức Thụ) giải thích, ông đã không đủ thời gian để theo dõi hành vi của Quốc, hơn nữa máy ảnh của ông bị hỏng. Xem chú giải của Noel, số 153, ngày 22-5-1925, trong SPCE, hộp 365, CAOM
[159] Phan Bội Châu phàn nàn Nguyễn Ái Quốc đã phớt lờ ông, xem Phụ lục 196, ngày 24-7-1925, trong SPCE, hộp 365, CAOM. Một số nguồn tin, Thanh niên Cách mạng đồng chí Hội tài trợ chuyến đi của Phan Bội Châu. Thư của Phan Bội Châu gửi Quốc và Hồ Tùng Mậu trong các Phụ lục 6 và 7 trong chú giải củaNoel, số 144, tài liệu đã dẫn. Trong bức thư gửi Quốc, Phan Bội Châu hồi tưởng lại câu thơ đọc trong lúc say rượu với chàng thanh niên 20 năm trước đó và nói rằng thậm chí ông đoán biết Quốc sẽ là nhà uyên bác. Những bức thư trao đổi giữa Phan Bội Châu và Nguyễn Ái Quốc, có trong Hoàng Tranh, “Hồ Chí Minh và Trung Quốc”, trang 24
[160] Các hội viên nghi ngờ người phản bội tổ chức là Nguyễn Thượng Huyền, xem Envoi, số 210, ngày 6-9-1925, trong SPCE, hộp 365, CAOM. Kết luận của Phan Bội Châu về vấn đề này, xem “Phan Bội Châu niên biểu”, trang 202-203. Lâm Đức Thụ được giao nhiệm vụ chịu trách nhiệm về nội dung bài viết của Đào Trinh Nhất, 30-10-1948, tạp chí tiếng Việt “Cải Tạo”. Tác giả trích dẫn nhận xét mối quan hệ cũ giữa Phan Bội Châu với Kỳ ngoại hầu Cường Để, trong hồi ký của mình ghi nhiều năm sau Lâm Đức Thụ đã thường khoe khoang, ông âm mưu bắt giữ Phan Bội Châu làm cho công tác tuyên truyền cho cuộc cách mạng tốt hơn. Đây là nguồn tin quan trọng cho sự nghi ngờ ông là ngưòi chịu trách nhiệm. Xem “Cuộc đời cách mạng” của Kỳ ngoại hầu Cường Để (Sài Gòn: Nam Việt, 1957), trang 120-121. Ít nhất một thành viên hội đã tán thành, xem “Tuyên ngôn của Lê Quang Đạt và Lý Phương Đức”, trong bản báo cáo Sài Gòn, ngày 28-7-1931, trong SPCE, hộp 367, CAOM. Xem thêm “Việt Nam: Con rổng nghênh chiến” của Joseph Buttinger, tập I, trang 80. Về khẳng định quyết định đó là của Nguyễn Ái Quốc, xem “Nhận diện Hồ Chí Minh” của Huy Phong và Yến Anh (San Jose, California: NXB Văn Nghệ, 1988), trang 32-37. Về phủ nhận của Hà Nội, xem “Phan Bội Châu qua một số sách báo miền Nam hiện nay” của Chương Thâu trong Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 67 (tháng 10-1964)
[161] Một thông điệp từ Sở Mật thám Hà Nội gửi Tô giới Pháp tại Thượng Hải ngày 26-9-1931, đề cập sự thật gần đây có người đã thông tin về gia đình Hồ Học Lãm ở Hàng Châu trước khi bắt Phan Bội Châu - xem SPCE, hộp 369, CAOM
[162] Trong báo cáo gửi Quốc tế cộng sản vào 3-1930 (trích trong ghi chú 11, ở trên), Quốc thừa nhận việc Pháp bắt giữ Phan Bội Châu đã thúc đẩy sự phát triển của phong trào dân tộc Đông Dương - xem Văn kiện Đảng toàn tập, tâp 2, trang 33. Xem “Nguyễn Ái Quốc ở Quảng Châu, 1924-1927”, trang 66-67
[163] Nguyễn Ái Quốc lo ngại hành động như vậy chỉ làm chính quyền Pháp tăng cưòng bảo vệ và chống lại các hoạt động của hội đoàn tại Quảng Châu. Xem chú thích 273, “Tình hình các thông tin bình thường ở Quảng Châu” ngày 22-4-1926, trong hồ sơ có nhãn “Nguyễn Ái Quốc 1926-1927”, SPCE, hộp 368, CAOM
[164] Hoàng Tranh, “Hồ Chí Minh và Trung Quốc”, trang 24-27. Cuộc phỏng vấn với Lý Tiến Hưng, Giám đốc Bảo tàng Cách mạng Quảng Châu. Xem thêm Thép Mới, “Bác Hồ tại Quảng Châu”, Tin tức Việt Nam, số 48 (tháng 5-1976), trang 29. Đôi khi những tòa nhà lân cận cũng được sử dụng. Có một số nhầm lẫn bằng chứng về ngày học viện chuyển đến phố Văn Minh, hồi ức hoặc những cuộc trao đổi của cựu học sinh xem ra không phù hợp. Về tài liệu nguồn, xem cuộc thẩm vấn Lê Hồng Sơn, ngày 24-10-1932, trong SPCE, hộp 367, CAOM; Lê Mạnh Trinh, “Từ Quảng Đông đến Xiêm La” trong “Những kỷ niệm về Bác Hồ”, trang 99. Khi học viên quá đông, họ chuyển sang khu nhà kế bên của Đảng Cộng sản Trung quốc, xem Guo Ming, “Bốn lăm năm quan hệ Trung-Việt”, trang 11
[165] Thép Mới, “Bác Hồ tại Quảng Châu”, trang 26
[166] Thép Mới, “Bác Hồ tại Quảng Châu”, trang 28
[167] Trong Hoàng Tranh, “Hồ Chí Minh và Trung Quốc”, trang 25, lớp học của viện có ba học kỳ, mỗi học kỳ 3 đến 4 tháng. Lớp học đầu tiên có mười học sinh vào đầu năm 1926, học cho đến mùa xuân năm 1927. Đến học kỳ thứ ba, đã có hơn năm mươi sinh viên ghi danh. Số liệu thống kê về tuyển sinh, xem “Nguyễn Ái Quốc ở Quảng Châu, 1924-1927”, trang 56-59. Nguyễn Ái Quốc đã viết thư gửi Quốc tế Cộng sản hỏi ý kiến về việc gửi sinh viên đến Moscow (đề ngày 5-1-1925); xem “Hồ Chí Minh biên niên tiểu sử”, Tập I, trang 250
[168] “Nguyễn Ái Quốc ở Quảng Châu, 1924-1927”, trang 86; Vũ Thọ, “Quá trình thành lập đảng vô sản ở Việt Nam đã được diễn ra như thế nào?” trong Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 71 (tháng 2-1965), trang 18, xem thêm “Điều tra phong trào cộng sản ở Đông Dương” của Hồng Thế Công. Xem Trần Huy Liệu, “Tài liệu tham khảo lịch sử cách mạng cận đại Việt Nam”, tập 4, trang 132-33 (Hà Nội, 1958). Mỗi chi bộ muốn thành lập ít nhất phải có 5 đảng viên
[169] Nguyễn Ái Quốc, “Hồ Chí Minh ở Đông Dương: các bài viết: (Hà Nội, NXB Ngoại văn, 1977), trang 14. Bài báo xuất hiện đầu tiên trong Tập san Chủ nghĩa Cộng sản, số 15, (tháng 5-1921)
[170] Huỳnh Kim Khánh sửa chữa những nhận thức sai lầm về tạp chí Thanh Niên. Xem cuốn “Cộng sản Việt Nam” của ông, trang 67
[171] “Nguyễn Ái Quốc ở Quảng Châu, 1924-1927”, trang 102. Gần như tất cả các bản sao của tạp chí Thanh Niên có trong SLOTFOM, tập V, hộp 16, CAOM
[172] Các cuốn sổ tay này do Văn phòng Tuyên truyền Hội Các dân tộc châu Á bị áp bức in bằng thạch bản. Theo hồi ký của một số cựu đảng viên từng tham gia học, cuốn sổ tay đó là giáo án mà Nguyễn Ái Quốc soạn để dạy cho học sinh trong chương trình đào tạo. Rất nhiều ý tưởng được lặp đi lặp lại trong tạp chí Thanh Niên nhưng mạch lạc rõ ràng. Toàn bộ cuốn sổ tay có trong Toàn Tập, tập 2, trang 177 đến 254. Việc dùng tiêu đề “kách mệnh” là thổ ngữ của Quốc ở Nghệ An
[173] Toàn Tập, tập 2, trang 186. Thật thú vị khi ghi chú thuật ngữ Quốc sử dụng “thiên hạ đại đồng” - được lấy từ chữ Trung Quốc “tian xia da tong”, thuật ngữ Nho giáo truyền cho một kỷ nguyên cuối cùng “đời đời hòa bình và thống nhất”. Tác giả rõ ràng là giả định rằng độc giả sẽ làm quen với các khái niệm mới
[174] Ví dụ, trong báo cáo năm 1924 của ông về điều kiện Đông Dương viết tại Moscow, Nguyễn Ái Quốc đã giả định, khi Việt Nam phát động cuộc nổi dậy vũ trang chống Pháp, cuộc nổi dậy đó sẽ diễn ra đồng thời với một cuộc cách mạng vô sản ở Pháp và sẽ được hỗ trợ bởi viện trợ quân sự và kinh tế của Liên Xô, trong khi một đội tàu của Liên Xô sẽ đậu ngoài khơi để ngăn chặn sự trợ giúp của các thế lực nước ngoài cho Pháp. Xem Alain Ruscio, ed., “Những bài viết của Hồ Chí Minh, 1914-1969”, trang 73-74. Trong khi mô tả quá trình trong Con đường cách mạng, Quốc có thể đã hy vọng một cuộc nổi dậy ở Đông Dương sẽ được quân đội Quốc Dân Đảng Trung Quốc hỗ trợ qua biên giới từ phía nam Trung Quốc - xem hồ sơ có nhãn “Nguyễn Ái Quốc 1926-1927”, trong SPCE, hộp 368, CAOM. Điều đáng chú ý là ông luôn luôn xem giải phóng đất nước kết hợp với các sự kiện ở nước ngoài
[175] Toàn Tập II, Tập II, trang 187
[176] Toàn Tập II, Tập II, trang 197, 203
[177] Toàn Tập II, Tập II, trang 178-179
[178] Đây có lẽ là một trong những lý do mà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đã không xuất bản cuốn sách nhỏ trong cả cuộc đời của ông mà chỉ xuất hiện trong các tác phẩm riêng biệt do các sử gia Hà Nội viết. Phiên bản đầy đủ không được xuất bản cho mãi đến năm 1981 mới có Toàn Tập I; ngày 3-10-1990, phỏng vấn trưởng ban biên tập của bộ sưu tập, Nguyễn Thanh nói với tôi, một số sai sót đã được sửa chữa. Thanh nhận xét, ban đầu Hồ Chí Minh không muốn cuốn sổ tay xuất bản ở VNDCCH. Xem Vũ Thọ, “Từ đường lối kách mệnh đến chương trình chính trị của Đảng Cộng sản Đông Dương” của trong Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 72 (tháng 3-1965)
[179] Trích “Forceries humaines” của Georges Garros (Paris: Andre Delpeuch, 1926), trang 241
[180] Alain Ruscio, ed., “Những bài viết của Hồ Chí Minh, 1914-1969”, trang 71
[181] Xem Báo cáo của Noel, Phụ lục số 228, 28-11-1925, trong SPCE, hộp 365, CAOM. Trong một báo cáo gửi Quốc tế cộng sản ngày 19-12-1924, Nguyễn Ái Quốc đã nhận xét rằng cho dù Đảng Lập Hiến có thể được “sử dụng” phụ thuộc vào “thái độ của chính phủ Pháp và sự khép léo của chúng tôi” - xem Toàn Tập II, tập 2, trang 14
[182] Lưu trữ Quốc tế cộng sản ở Moscow, hộp 495, series 154, hồ sơ 555, trích trong “Hồ Chí Minh: Triển vọng mới từ các hồ sơ của Quốc tế cộng sản” của Sophie Quinn-Judge, Diễn đàn Việt Nam, số 14 (1994), trang 65. Trích dẫn từ Đại hội lần thứ hai “Báo cáo của Ủy ban về các câu hỏi quốc gia và Thuộc địa”, trong V.I. Lenin, Tuyển tập, tập 31 (Nhà xuất bản Quốc gia, Moscow, 1950)
[183] Một ví dụ rõ nét của chiến thuật này trong “Tuyên bố cuối cùng của Nguyễn Đình Tú – nói qua về Phan Văn Cẩm và Văn Cẩm nói về Nguyễn Văn Cẩm - những ngày sống chui lủi từ tháng 6-1925 đến ngày 5-8-1929 bị bắt tại Hà Tĩnh”. Theo báo cáo tình báo trong hồ sơ 2690, hộp 335, CAOM, tuy nhiên khôngrõ ràng, nhưng thủ đoạn như vậy đã thu hút các thành viên mới tham gia Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội trong khi Nguyễn Ái Quốc ở Quảng Châu, 1924-1927, hoặc sau khi đã ra đi. Về bản báo cáo Đảng Hợp Hiến, xem “Hồ Chí Minh biên niên tiểu sử”, Tập I, trang 242; Bản sao đầy đủ có trong Bảo tàng Cách mạngViệt Nam
[184] Trong khóa học tại Học Viện, Quốc thường xuyên chỉ trích Việt Nam Quốc Dân Đảng của Nguyễn Hải Thần, so sánh nó với Đệ Nhị Quốc tế ở châu Âu. Xem Trần Văn Giàu, “Giai cấp công nhân Việt Nam”, tập 1, trang 392
[185] “Hồ Chí Minh biên niên tiểu sử”, Tập I, trang 260, 265; King Chen, “Việt Nam và Trung Quốc, 1938-1934” (NXB Đại học Princeton, N.J., 1969), trang 22; Hồng Hà, “Hồ Chí Minh trên đất nước Xô viết”, trang 109; “Nguyễn Ái Quốc ở Quảng Châu, 1924-1927”, trang 127-129, 155. Bành Bái hy sinh trong khi làm nhiệm vụ cho cách mạng năm 1929
[186] Xem Hoàng Tranh, “Hồ Chí Minh và Trung Quốc”, trang 33, và “Nguyễn Ái Quốc ở Quảng Châu, 1924-1927”, trang 145. Quốc nói bằng tiếng Pháp dưới tên Vương Hải Yến. Một bản dịch tiếng Việt có trong Toàn Tập II, Tập II, trang 213-217
[187] Về Lâm Đức Thụ (đặc vụ Pháp) có rất nhiều nguồn tin. Xem báo cáo Hà Nội, 28-10-1931, trong SPCE, hộp 367, CAOM, “Cuộc hội đàm giữa Pinot và Noel” ngày 4-7-1926, hồ sơ có nhãn “Nguyễn Ái Quốc 1926-1927”, SPCE, hộp 368, CAOM. Xem thêm “Lâm Đức (Thụ) một M.D” ngày 29-1-1927, trong hồ sơ có nhãn “Nguyễn Ái Quốc 1926-1927”, tài liệu đã dẫn. Về tính cách con người Tuyết Minh, xem cuộc hỏi cung của Lê Quang Đạt ngày 28-10-1931, trong SPCE,hộp 367, CAOM. Đối với tin đồn Quốc có một con gái từ cuộc hôn nhân này, xem, Nguyễn Khắc Huyền,”Mộng ước đã thành”, (NXB Collier, New York, 1971), trang8
[188] Guo Ming, “Bốn lăm năm quan hệ Trung-Việt”, trang 11; “Bác Hồ” của Đặng Hoà, trang 75; T. Lan,“Vừa đi đường, vừa kể chuyện” trang 32; cuộc thẩm vấn của Trương Văn Lệnh, ngày 7-2-1932, trong SPCE, hộp 367, CAOM
[189] Xem Envoi 354, ngày 1-1-1927, và báo cáo của Noel ngày 10-4-1926; 27-12-1926, và ngày 1-6-1927 trong SPCE, hộp 368, CAOM. Pháp đã nhận diện được kẻ thù thông qua Lâm Đức Thụ. Về sau thậm chí cả Nguyễn Hải Thần cũng bị phát hiện. Xem “Những lá thư Pinot” ngày 8-4 và 14-4-1927, trong hồ sơ có nhãn “Nguyễn Ái Quốc, 1926-1927”, tài liệu đã dẫn
[190] Xem báo cáo đặc vụ Pinot ngày 7 và 9-5-1928, trong SPCE, hộp 365, CAOM