Thân tặng anh Lâm
Hoàng Mạnh
Rồi ngày California ngắn lại. Nắng
dịu vàng và sáng hẳn ra. Vào lúc ngày đi dần vào tối, gió chiều đã bắt đầu có
pha lẫn một chút hơi lạnh làm se se da thịt. Sáng có hôm dậy muộn vẫn chưa thấy
nắng, bầu trời thoáng vẻ âm u, và thành phố lãng đãng sương mù.
Thế là mùa Thu đến.
Mùa Hè bỏ đi bất chợt, vội vã như một người tình hối hả vượt biên. Mùa Thu xuất
hiện bất ngờ như một mối tình muộn màng, vào lúc mà người ta đã tưởng chuyện
tình là chuyện không còn… cách nào xảy ra được nữa.
Từ đó mặt trời bắt
đầu dậy muộn. Chiều mỗi lúc một ngắn thêm. Lá phong vàng – vàng nhạt, vàng thẫm,
rồi hóa đỏ au – rơi lao xao trên những thảm cỏ xanh, chưa kịp đổi màu. Cảnh vật
hóa hơi buồn nhưng đẹp.
Sáng trời mưa. Mưa
mà loay hoay với món điểm tâm quen thuộc như mì gói hay bánh mì với trứng thì
cuộc đời quả là không đáng sống. Sao bỗng dưng mà thấy nhớ một tô mì quảng đến
muốn đến muốn rơi nước mắt. Mì quảng, Trời ơi, biết tìm nó ở đâu bây giờ?
Trưa, trời vẫn cứ
mưa, vội vã, co ro chạy từ lớp học đến phòng ăn đứng xếp hàng để chờ mua một
cái… “cheese sandwich”! Bất chợt bắt gặp một khuôn mặt quen quen, một “gã” đồng
hương. Bèn gật đầu chào thật nhẹ với một nụ cười mím chi dè dặt.
- Chào cô.
- Dạ, chào anh.
- Năm nay mưa sớm.
- Dạ, hơi quá sớm.
- Trời như thế này được nằm nhà thì thích hơn.
- Dạ.
- Dạ, chào anh.
- Năm nay mưa sớm.
- Dạ, hơi quá sớm.
- Trời như thế này được nằm nhà thì thích hơn.
- Dạ.
Cũng “dạ” (đại)
cho nó xong chuyện, chớ trời nào mà nằm nhà không thích hơn – cha nội!
- Cô thích mưa?
- Cũng không thích lắm.
- Tôi cũng vậy. Đúng ra thì có thích nhưng hơi sợ. Mưa dịu dàng hơn là nắng nhưng sao thấy nhớ nhà…
- Cũng không thích lắm.
- Tôi cũng vậy. Đúng ra thì có thích nhưng hơi sợ. Mưa dịu dàng hơn là nắng nhưng sao thấy nhớ nhà…
“Ý trời, có nhớ
nhà nữa sao. Tình cảm dữ há”? Sau một giây im lặng ngắn ngủi bỗng người ta cảm
thấy bị thôi thúc bởi nhu cầu tâm sự. Cái tâm sự mãi từ sáng tới giờ chưa trút
được cho ai vì chưa gặp ai cùng là người Việt.
- Vâng, vừa nhớ
nhà vừa thèm ăn mì quảng.
- Cô nói sao?
- Tôi nói mì quảng.
- Xin lỗi cô, tôi nghe chưa rõ.
- Mì quảng, loại mì sợi vàng…
- Cô nói sao?
- Tôi nói mì quảng.
- Xin lỗi cô, tôi nghe chưa rõ.
- Mì quảng, loại mì sợi vàng…
Người đối thoại bỗng
im lặng, đăm chiêu như thể vừa nghe đề cập đến một món ăn lạ lùng và đặc biệt của…
thổ dân Samoa ! Còn mình thì nín thở hồi hộp chờ
đợi tha nhân lục lọi trí nhớ.
Ô, cô thích ăn mì
hả? Mì thì người Tàu ở San Francisco
nấu ăn cũng được. Cô có bao giờ thử mì ở tiệm Golden Restaurant chưa?
Cố lắm mới nén được
một tiếng thở dài, với cái tâm cảm chua xót đắng cay của một thiếu nữ chợt biết
mình đã… trao duyên lầm tướng cướp! Câu chuyện chấm dứt vĩnh viễn ở đó nhưng sự
tấm tức, ấm ức thì kéo dài suốt cả ngày.
Chèng ơi, sao lại
có một người đàn ông Việt Nam
không biết đến mì quảng? Đã vậy, thằng chả còn lầm lẫn giữa mì quảng và mì
hoành thánh nữa chớ? Điều bất công khó chịu là từ lâu rồi mì quảng vẫn bị chịu
thiệt thòi. Nó chưa bao giờ được chào đón nhìn nhận cho đúng với giá trị của
mình.
Tệ hơn nữa là nơi
nó xuất xứ – Quảng Nam, Việt Nam – người dân địa phương vốn được coi là thích
chuyện tranh luận và họ có thể tranh cãi về hàng trăm thứ chuyện bà rằn (không
cần thiết) nhưng riêng với sự bất công mà mì quảng phải chịu đựng thì dường như
chưa thấy ai lên tiếng?
Phở, chẳng hạn, có
gì là xuất sắc đâu mà luôn luôn được đề cập đến một cách ồn ào quá đáng. Sợi phở
trắng nhách trông thấy ghê. Nước phở trong veo coi thấy chán. Thịt để ăn với phở
thì đòi hỏi điệu hạnh đủ thứ như nạm, gân, sách… mà chỉ cần vụng tay một chút
là cả tô phở coi như là bỏ!
Bún bò Huế thì (Trời
ơi) cay muốn khóc luôn. Nó cay như thể là trên đời này không còn có một thức ăn
nào cay hơn được nữa. Mà đã là bún bò sao còn có giò heo. Bò và heo không mấy
khi đi chung với nhau một cách ổn thỏa. Đã thế, miếng giò heo vẫn thường làm
cho tô bún bò bớt phần thanh nhã và khiến cho người đang nhai (nhồm nhoàm) mất
đi rất nhiều cái “phong thái tỵ nạn chính trị” của mình.
Tô bún riêu thì
coi đỡ thấy ghét hơn một chút. Điều phiền là nó giản dị quá, giản dị tới mức… gần
như là đạm bạc. Một chút cà chua và riêu cua thôi thì làm sao tô bún trông
không lõng bõng cho được? Hơn nữa, ăn bún riêu vào một buổi sáng trời mưa thì đến
trưa chắc chết (chết chắc) vì đói.
Hủ tíu, mì sợi
hoành thánh, sủi cảo… thì kể như là hết thuốc! Vậy chứ những thứ thức ăn “ngoại
nhập” và vô duyên đến như thế vẫn được chấp nhận dễ dàng và phổ biến ở khắp
nơi. Chỉ có mì quảng là mãi mãi bị bỏ quên hoặc chưa bao giờ được đón chào đúng
mức.
Mà mì quảng ngon
tuyệt vời nha. Sợi mì làm bằng bột gạo rồi đem nhuộm vàng. Không phải cái màu
vàng “đồng bóng” của nghệ, hay màu vàng thổ nhà quê đâu. Sợi mì quảng thường
vàng tươi và chỉ đủ vàng để dung hợp với màu xanh của rau đi kèm với nó.
Rau sống ăn với mì
quảng không bị đặt nằm một cách chơ vơ như một dĩa giá hay xa lách để chung với
phở. Nó cũng không bị thu vén một cách bần tiện trong những cái đĩa con con như
rau để ăn chung với bún riêu hoặc bún bò. Tất cả những loại rau thơm để ăn
chung với mì quảng, kể cả rau xà lách, đều được thái nhỏ mịn màng và bỏ chung gọn
gàng trong tô mì.
Nước mì quảng
không lênh láng như nước phở, không thừa thãi như nước bún bò, không nhạt nhẽo
như nước mì hay hủ tíu. Nó hơi sền sệt với thịt heo sắt vụn, với tôm khô giã
nhuyễn nấu nhừ, và luôn luôn chỉ được chan vào tô ở mức hơi săm sắp.
Mà đừng tưởng như
vậy sẽ khiến cho tô mì không đủ nóng nha. Nghĩ như vậy là lầm à. Độ nóng của tô
mì quảng không hoàn toàn do nước mà còn tùy thuộc phần nào vào số lượng ớt bằm
mà thực khách múc bỏ vào tô. Nhiều ớt quá tô mì hóa cay chát. Hỏng. Mà ít ớt
thì nó sẽ thiếu cái độ nóng và độ cay cần thiết. Hư.
Mà nhớ là phải ớt
bằm à nha. Mì quảng dứt khoát và quyết liệt không dung thứ những loại ớt khác
như ớt xanh, ớt sắt, ớt khô, ớt ngâm dấm… hay bất cứ một loại ớt nào khác trên
cuộc đời này.
Mô tả như vậy ngộ
nhận rằng mì quảng là một món ăn cầu kỳ, trưởng giả. Nghĩ như vậy là kể như trật
thêm một lần nữa. Ráng chịu. Mì quảng không kiểu cách, lộn xộn rườm rà như bún
mọc. Mì quảng giản dị mà đậm đà và vô cùng đằm thắm.
Và mì quảng cứ ở
miệt Quảng Nam .
Nó không di cư ồ ạt rộn ràng như phở, không chen chân nơi những đô thị xa lạ
như bún bò, không bạ góc chợ nào cũng hạ mình xuống (đại) như bún riêu, không tỏ
thái độ vô tình bạc bẽo theo kiểu “một đi không trở lại” như mì sợi hay hủ tíu.
Thản hoặc, người
ta mới bắt gặp một tô mì quảng mon men đến một vài thành phố phụ cận như Đà Nẵng,
Quảng Nam ,
Quảng Tín, Quảng Bình… Nơi xa xôi nhất mà mì quảng trôi dạt đến những vẫn còn
nguyên được bản sắc của mình có lẽ là Đà Lạt.
Nơi đây mì quảng vẫn
còn nguyên cái dáng vẻ trầm lặng và khép kín của mình. Mì quảng không trưng bảng
hiệu, không ưa phố xá ồn ào. Nó thích hợp với không khí gia đình hơn bất cứ một
thức ăn nào khác. Có quá lắm thì mì quảng cũng chỉ hiện diện (với đôi chút ngỡ
ngàng tội nghiệp) nơi một quán ăn nhỏ hẹp, nghèo nàn.
Nơi bán mì quảng ở
Đà Lạt không nhiều và thường nằm ẩn trong một con hẻm nhỏ. Thực khách, nếu
không phải là khách quen, còn lâu mới tìm ra nhà. Cái nhà không phải là cái
quán. Chủ nhà không phải là chủ quán. Đó thường là một bà mẹ Quảng Nam hay Đà Nẵng.
Chủ khách chào hỏi tương kính trang trọng.
Không ai đề giá
hay hỏi một tô mì quảng. Nó vô giá mà. Cũng không ai phân chia mì quảng thành
tô lớn, tô nhỏ, tô đặc biệt… Mọi tô mì quảng đều đặc biệt. Cũng rất ít người chỉ
ăn một tô mì quảng. Thường người ta gọi một “tô ăn thêm”. Phải ăn thêm, dù no,
cho khỏi phụ lòng người nấu và cho đáng công mình lặn lội đi ăn vào một buổi
chiều mưa.
Nhân loại có thể đổ
đi ba tỉ tô phở, hai tỉ tô bún, và một trăm tỉ tô mì hay hủ tíu nhưng không ai
có thể bỏ dở một “tô mì quảng ăn thêm.” Mì quảng không làm ai ngán. Ăn nhiều
thì nó bớt ngon một chút (xíu) thôi hà.
Ăn xong người ta
tráng miệng bằng nước trà. Trong lúc khách nhỏ nhẹ kín đáo xỉa răng thì chủ thế
nào cũng tìm dịp thỏ thẻ:
- Mì bữa nay nấu
được không cô?
- Dạ… ngon.
- Dạ… ngon.
Trả lời như vậy là
không được. “Ngon” là một hình dung từ mơ hồ, nếu không muốn nói là hàm hồ,
không thể nào diễn tả được cái đặc sắc tuyệt vời của một tô mì quảng. Có vụng về
lắm thì người ta cũng phải đưa ra được vài ba nhận xét (buâng quơ) như sau:
- Dạ thưa bác mì
ngon lắm. Tôm giã vừa nhỏ và nấu vừa nhừ. Rau chuối tươi mà không chát. Nước đậm
đà vừa miệng.
Sau đó mới đến màn cảm ơn và từ tạ…
Sau đó mới đến màn cảm ơn và từ tạ…
Coi, một thứ thức
ăn nặng tình gia đình và văn hóa dân tộc như mì quảng mà bị bỏ vô “cửa hàng ăn
uống quốc doanh” thì chịu đời sao thấu. Cỡ khoai mì, khoai lang mà đụng chuyện
với người Cộng Sản còn te tua và bầm dập thấy mẹ luôn mà.
Càng khó chịu hơn
nữa khi người ta gặp lại mì quảng trên bước đường lưu lạc. “Tha hương ngộ cố
tri” không thiếu cảnh bẽ bàng. Nhưng đụng đầu mì quảng trong tiệm ăn ở thành phố
San Francisco, Hoa Kỳ thì quả là một chuyện bẽ bàng chết được.
Dù biết rằng tô mì
quảng không thể nào được đặt trên bàn ăn trải khăn trắng, dưới ánh đèn màu, và
bên cạnh một bình hoa daisy; mì quảng lại càng trông khổ sở ngượng nghịu trên
tay người bồi bàn mặc áo “chemise” trắng, cổ thắt nơ đen… nhưng vẫn náo nức
trông đợi, vẫn muốn thử coi sao chứ?
Đến khi nhìn thấy
mì quảng được đặt trong tô sứ, đĩa hoa, và đi chung với đũa nhựa thì người ta lại
bắt gặp nơi mình một cảm giác đau đớn và chua xót khác – cái tâm cảm của một
người bất chợt nhìn thấy “cố nhân” lái Mercsdes với một vợ và tám đứa con.
Người ta xêu nhẹ
vài sợi mì, gắp thêm một chút rau, ấn nhẹ muỗng xuống tô để lấy thêm chút nước…
rồi e ngại, rụt rè đưa vào mồm. Và rồi sẽ hiểu (ngay) thế nào là nỗi thất vọng
đắng cay của kẻ “yêu lại một người yêu thất tiết!”
Mì quảng ơi, thôi
vĩnh biệt!
Tưởng Năng Tiến