Thứ Bảy, 2 tháng 7, 2011

Phân quyền và tam quyền phân lập trong tổ chức Nhà nước

Từ cổ đại, nhà triết học Hy Lạp Aristote là người đưa ra thuyết nhà nước quản lý xã hội bằng 3 phương pháp: luật pháp, hành pháp và phân xử. Nhà triết học người Anh John Lock (1632-1704) đã tách bạch các thể chế chính đáng (quân chủ, quý tộc, cộng hoà) và biến chất (độc tài, quá đầu, dân trị). Ông cho rằng quyền lực của nhà nước là quyền lực của nhân dân và để chống biến chất chính phủ phải thực hiện phân quyền theo 3 lĩnh vực: lập pháp, hành pháp và liên hợp. Và nhà tư tưởng Pháp Montesquieu (1689-1755) đã phát triển toàn diện học thuyết phân quyền. Theo Montesquieu, một khi quyền lực tập trung vào một mối, kể cả một người hay một tổ chức, thì nguy cơ chuyên chế vẫn còn…


Tiếp thu và phát triển tư tưởng về thể chế chính trị tự do, chống chuyên chế, Mongtesquieu xây dựng học thuyết phân quyền với mục đích tạo dựng những thể chế chính trị đảm bảo tự do cho các công dân.
Theo ông, tự do chính trị của công dân là quyền mà người ta có thể làm mọi cái mà pháp luật cho phép. Pháp luật là thước đo của tự do. Cũng như Aristote và J. Locke, Mongtesquieu cho rằng, thể chế chính trị tự do là thể chế mà trong đó, quyền lực tối cao được phân thành 3 quyền : lập pháp, hành pháp và tư pháp.
  • Lập pháp: biểu hiện ý chí chung của quốc gia . Nó thuộc về toàn thể nhân dân, được trao cho hội nghị đại biểu nhân dân – Quốc hội.
  • Hành pháp: Là việc thực hiện luật pháp đã được thiết lập.
  • Tư pháp: là để trừng trị tội phạm và giải quyết sự xung đột giữa các cá nhân. Các thẩm phán được lựa chọn từ dân và xử án chỉ tuân theo pháp luật.
Tư tưởng phân quyền của Mongtesquieu là đối thủ đáng sợ của chủ nghĩa chuyên chế phong kiến và có thể khẳng định ông là người đã phát triển và hoàn thiện thuyết: ”tam quyền phân lập”. Học thuyết về sự phân chia quyền lực gắn liền với lí luận về pháp luật tự nhiên đã đóng vai trò quyết định trong lịch sử đấu tranh của giai cấp tư sản chống lại sự độc đoán, chuyên quyền của nhà vua
Cùng với sự hình thành chế độ tư bản, nguyên tắc “phân chia quyền lực” đã trở thành một trong những nguyên tắc chính của chủ nghĩa lập hiến tư sản, lần đầu tiên được thể hiện trong các đạo luật mang tính hiến định của cuộc Cách mạng Pháp và sau đó thể hiện đầy đủ trong Hiến pháp Hoa Kỳ 1787. Học thuyết pháp luật – chính trị (thuyết “phân quyền”) với quyền lực nhà nước được hiểu không phải là một thể thống nhất, mà là sự phân chia thành 3 quyền: quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, các quyền này được thực hiện độc lập với nhau, kiểm soát lẫn nhau, kiềm chế lẫn nhau. Trên thực tế, việc phân chia quyền lực trong bộ máy nhà nước được áp dụng khác nhau trong hệ thống các nước cộng hoà tổng thống, theo nguyên tắc “kiềm chế và đối trọng”, tức là các quyền kiểm tra và giám sát lẫn nhau, tạo ra sự cân bằng giữa các quyền.
Thực tiễn phân quyền
Lord Acton, một sử gia người Anh sống vào cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20 đã từng nói: “Quyền lực có xu hướng tha hóa; quyền lực tuyệt đối dẫn đến tha hóa tuyệt đối”. Qua toàn bộ lịch sử của loài người, quyền lực đã từng bị lạm dụng không chỉ bởi những nhà độc tài, mà ngay cả những quan chức chính phủ hoặc thành viên quốc hội, những người được bầu lên một cách tự do. Sẽ còn nguy hiểm hơn cho xã hội nếu phần lớn hoặc tất cả quyền lực tập trung trong tay của một người hay một nhóm người. Câu hỏi không phải là tại sao – mà như thế nào.
Ở Mỹ, sự phân chia quyền lực bảo vệ lợi ích của thiểu số và tránh cho quốc gia không chuyển từ “tả” sang “hữu” một cách đột ngột.
Ở bất kỳ xã hội dân chủ thực sự nào, luôn có một mức độ nhất định về phân chia quyền lực. Khi nói tới phân chia quyền lực, người ta thường nghĩ tới học thuyết phân quyền làm ba nhánh độc lập và bình đẳng: Lập pháp, hành pháp và tư pháp. Tuy nhiên, nhìn rộng hơn, chúng ta còn thấy những dạng phân chia quyền lực khác.
Quyền bỏ phiếu của người dân là ví dụ thứ nhất. Được trang bị quyền bỏ phiếu, người dân có thể lựa chọn người đại diện của mình vào các vị trí chính quyền, cũng như loại bỏ họ. Đó là phương pháp cơ bản phân chia quyền lực giữa người được bầu và người bỏ phiếu.
Quyền lực của báo chí là một ví dụ khác. Báo chí có thể nói nắm quyền lực vô hạn. Các quốc gia độc tài, bạo chúa, mất dân chủ luôn muốn kiểm soát báo chí để phục vụ chương trình tuyên truyền riêng cho họ. Trong một xã hội dân chủ, giữ cho báo chí độc lập với nhà nước là một phương pháp thiết yếu đảm bảo sự phân chia quyền lực. Ở Mỹ, chính phủ Mỹ bị cấm không được nắm giữ bất kỳ tờ báo, đài phát thanh hay truyền hình nào.
Việc lựa chọn các ứng cử viên từ các đảng phái chính trị, nền tảng tri thức, chủng tộc v.v… khác nhau vào Quốc hội là một biện pháp khác để phân chia quyền lực. Và còn có nhiều cách phân chia quyền lực khác giữa chính phủ trung ương và địa phương, giữa các bộ ngành bên trong chính phủ v.v….
Quyền lực thực sự nằm trong tay của các thành viên thuộc ba nhánh kia. Trong một quốc gia nơi có một nhánh nắm quyền lực tối thượng, sẽ xảy ra hai vấn đề. Thứ nhất, đó là không có sự kiểm tra và cân bằng quyền lực. Quốc gia như thế có thể nghiêng quá nhiều về phía tả hoặc hữu và thậm chí có thể trở nên cấp tiến hoặc cực đoan. Thứ hai, đa số có thể đè bẹp thiểu số dưới nắm đấm thép của mình.
Hãy thử nhìn vào một quốc gia mà Quốc hội nắm quyền tối thượng. Sau khi bầu cử, một đảng chính trị thắng cử và nắm đa số ghế trong Quốc hội. Thành viên của Quốc hội từ đảng này sẽ bổ nhiệm hoặc chỉ định nội các và các quan tòa. Nhánh hành pháp và tư pháp được coi là công cụ của Quốc hội và bắt buộc phải thực thi “ý chí của dân” – những luật do nhánh lập pháp thông qua. Khi có các nhánh khác như liên minh của mình, đa số trong Quốc hội kia bắt đầu “ép” và thúc đẩy chương trình chính trị của đảng mình. Cả nước sẽ nhanh chóng đi theo một hướng. Thật không may, đây là hướng sai lầm. Ai đó có thể lý luận rằng, trong một xã hội dân chủ, người dân chỉ phải đợi đến lần bầu cử kế tiếp để bỏ phiếu loại đảng đó ra khỏi Quốc hội. Nhưng chỉ sợ lúc đó thì đã quá muộn. Tới lúc mọi người đi đến điểm bỏ phiếu, báo chí đã bị kiểm soát và “định hướng” bởi đảng đó. Quân đội bị buộc phải trung thành với đảng đó. Quyền bỏ phiếu bị hạn chế, thậm chí xóa bỏ – và thậm chí hiến pháp có để bị sửa đổi để cho đảng có quyền thống trị đất nước vĩnh viễn.
Để bổ sung cho hệ thống chính trị này, “bầu cử giữa kỳ” hoặc ”trưng cầu dân ý” được đưa ra nhằm cho phép giao trả quyền lực một cách nhanh chóng về tay người dân. Tuy nhiên, trưng cầu dân ý mang tính ngoặt khó lường và chỉ nên dùng như biện pháp cuối cùng. “Bầu cử giữa kỳ” có thể đưa một đảng khác lên nắm quyền. Tuy nhiên, ở bất kỳ thời điểm nào, loại Quốc hội này là Quốc hội của đa số. Nó luôn thể hiện lợi ích của đa số. Vậy làm thế nào để bảo vệ lợi ích của thiểu số? Vấn đề này trở nên rõ nét ở quốc gia nơi có một đảng rất mạnh, hoặc chỉ có hai đảng. Ví dụ như ở Mỹ, khi đảng Cộng hòa nắm Quốc hội, đảng Dân chỉ sẽ “lĩnh đủ” và ngược lại.
Học thuyết phân chia quyền lực là nền tảng của hiến pháp Hợp chủng quốc Hoa Kỳ. Ba nhánh lập pháp, hành pháp và tư pháp ở Mỹ độc lập và bình đẳng về quyền lực với nhau. Tổng thống có quyền phủ quyết luật đã được Quốc hội thông qua. Cần phải có 2/3 số phiếu ở Quốc hội để bác bỏ sự phủ quyết của Tổng thống. Tòa án Tối cao có thể phán quyết một bộ luật nào đó vi hiến. Tất cả các bộ luật đều được tranh cãi gay gắt và thử thách trước khi nó có thể được thông qua. Đây chính là điều bắt buộc phải có: “kiểm tra và cân bằng”. Nó giữ cho quốc gia không chuyển hướng quá nhiều, quá nhanh sang “tả” hoặc sang “hữu”.
Khi một đảng nắm đa số trong Quốc hội, hai năm sau trong kỳ bầu cử giữa kỳ, người Mỹ thường bỏ phiếu cho đảng kia. Lịch sử cho thấy, không có đảng nào nắm giữ cả Quốc hội và Nhà trắng trong thời gian quá một nhiệm kỳ. Một tổng thống Cộng hòa với quyền phủ quyết sẽ đảm bảo lợi ích của thiểu số (những người cộng hòa) khỏi bị chi phối bởi đa số Dân chủ trong Quốc hội.

(Theo nguồn Wikipedia)
Nguồn: Chungta.com

Tổng số lượt xem trang