HỘI ĐIỆN TỬ & CNTT TPHCM
(AEIT)
123 Trương Định, Q.3, TP. HCM
Website: http://www.aeit.com.vn
E-mail:aeit@ssp.com.vn
*********
|
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
*********
|
TP. Hồ Chí Minh, ngày 23 tháng 04 năm 2009
Thông cáo báo chí của Hội Điện tử và CNTT TP. HCM
Về vấn đề tranh chấp pháp lý giữa OCI và Sở TTTT TP. HCM
(Lần 2)
Tiếp nối Thông cáo báo chí ngày 14/4/2009 về vụ tranh chấp pháp lý giữa công ty cổ phần Internet Một kết nối (OCI) và Sở Thông tin và Truyền thông TpHCM (Sở TTTT) Hội điện tử và Công nghệ Thông tin Tp HCM (AEIT) xin cung cấp thêm một số phân tích và thông tin cập nhật.
Các văn bản pháp quy về dịch vụ điện thoại Internet (Thông tư 05/2008/TT-BTTTT ngày 12/11/2008 và Nghị định 160/NĐ-CP ngày 03/09/2004) quy định ở Việt Nam các doanh nghiệp cung ứng dịch vụ giá trị gia tăng (OSP) chỉ được phép kinh doanh dịch vụ điện thoại Internet loại hình PC-to-PC trong nước và quốc tế và PC-to-Phone chiều đi quốc tế. Vì công nghệ viễn thông vốn dĩ phức tạp, việc đơn giản hóa tiêu chí phân loại dịch vụ về 2 danh từ đơn giản “PC” và “phone” không phải là không có vấn đề. Ví dụ đơn giản nhất là một số loại điện thoại di động thông minh (smart phone, ví dụ như các máy pocket PC hay iphone) ngày nay cùng một lúc đóng hai chức năng là một PC bỏ túi và một máy điện thoại. Một số loại điện thoại thông minh này cho phép thực hiện cuộc gọi quốc tế bằng cả hai phương thức qua kết nối điện thoại thông thường (GSM) và qua điện thoại Internet (VoIP). Một người ở Việt Nam dùng Skype hay Yahoo messenger trên máy điện thoại di động thông minh với kết nối internet có thể thực hiện cuộc gọi điện thoại đi khắp nơi trên thế giới, kể cả gọi về Việt Nam. Cuộc gọi đó nếu theo cái giải thích hợp lý thì sẽ là cuộc gọi PC-to-Phone vì khi gọi qua Skype hay Yahoo máy điện thoại thông minh thực hiện chức năng như một máy tính cá nhân kết nối cuộc gọi qua Internet thay vì qua kết nối trực tiếp vào mạng PSTN thông thường. Tuy nhiên, nếu gượng ép áp dụng pháp luật theo lối cứng nhắc, hình thức mà không xét đến bản chất thì sẽ có ý kiến coi cuộc gọi đó là cuộc gọi Phone-to-Phone vì người dùng đang dùng một máy điện thoại để thực hiện cuộc gọi đến một máy điện thoại khác.
Ví dụ đơn giản này cho thấy việc giải thích pháp luật ở đây cần phải thực hiện trong sự tham chiếu đến các yếu tố kỹ thuật, chứ không đơn thuần là áp dụng ý nghĩa đơn thuần của từ ngữ. Tiêu chí “PC” và “Phone” chỉ phản ánh được một phần của vấn đề lớn hơn là bài toán quản lý nhà nước đối với hoạt động cung ứng dịch vụ viễn thông làm sao để bảo đảm huy động được nguồn vốn xây dựng cơ sở hạ tầng tạo điều kiện cho sự phát triển lâu dài của tổ quốc.
Nếu nhìn sâu hơn bề mặt của từ ngữ có thể dễ dàng nhìn thấy có 3 tiêu chí mà Bộ Thông tin và Truyền thông đã sử dụng để quản lý hoạt động điện thoại Internet.
Thứ nhất, là tiêu chí khởi đầu cuộc gọi phản ánh bằng từ ngữ “PC to….”. Ý nghĩa của quy định này đơn giản là người sử dụng ở Việt Nam không được phép truy cập dịch vụ VoIP bằng cách quay số điện thoại của nhà cung cấp dịch vụ từ một máy cố định hay di động . Nói cách khác luật cấm các nhà cung cấp dịch vụ tạo lập số điện thoại truy cập (access number) là số điện thoại nội hạt ở Việt Nam cho các khách hàng của mình sử dụng để truy cập dịch vụ. Từ ngữ “PC” ở đây không cần phải hạn chế ở một máy tính cá nhân có cấu hình cố định, mà có thể chỉ là máy tính bỏ túi, miễn sao có thể khởi tạo được cuộc gọi qua Internet thay vì qua kết nối trực tiếp vào mạng PSTN.
Về vấn đề này Công văn 1091/BBCVT-VT ngày 27/6/2003 của Bộ Bưu chính Viễn thông (nay là Bộ Thông tin và Truyền thông) đã giải thích chặt chẽ và cụ thể như sau: “PC” được hiểu là 01 máy tính cá nhân có bao gồm thiết bị modem, loa và microphone hoặc các thiết bị tương đương cho phép người sử dụng truy nhập vào Internet thông qua hệ thống thiết bị của một doanh nghiệp cung cấp dịch vụ truy nhập Internet (ISP), trước khi tiến hành cuộc điện thoại Internet.”
Thứ hai, là tiêu chí kết cuối cuộc gọi phản ánh qua từ ngữ “… to PC” hoặc “… to Phone”, bổ túc bằng các chữ “trong nước và quốc tế”, hay “chiều đi quốc tế”. Ý nghĩa của tiêu chí này thực chất là cấm các nhà cung cấp dịch vụ không được kết cuối cuộc gọi qua các cổng kết nối trực tiếp từ Internet vào mạng PSTN của Việt Nam. Tiêu chí quan trọng ở đây không nằm ở hướng gọi mà ở việc kết cuối cuộc gọi có được thực hiện qua kết nối hợp pháp hay không. Vấn đề này cũng đã được giải thích cụ thể trong Công văn 1091/BBCVT-VT qua định nghĩa: “phone” được hiểu là một máy điện thoại thông thường trao đổi tín hiệu tương tự với mạng điện thoại chuyển mạch công cộng (PSTN)” và hướng dẫn “Doanh nghiệp OSP không được thiết lập cổng (gateway) kết nối mạng lưới thiết bị Internet của mình với mạng điện thoại chuyển mạch công cộng (PSTN) nhằm mục đích chuyển tiếp các cuộc điện thoại Internet đến các máy điện thoại thông thường”. Vấn đề cốt lõi là ở chỗ cuộc gọi được kết cuối như thế nào? Nếu nhà cung cấp dịch vụ không có giấy phép FBO tạo cổng kết nối cuộc gọi từ Internet vào mạng PSTN thì việc đó gọi là trộm cước viễn thông. Còn nếu cuộc gọi được kết cuối qua các FBO được phép của Việt Nam thì cuộc gọi đó dù có reo chuông ở Việt Nam vẫn là hoàn toàn hợp pháp.
Thứ ba, là tiêu chí địa điểm đặt máy chủ cung cấp dịch vụ của nhà cung cấp dịch vụ điện thoại Internet phải ở Việt Nam. Thực chất tiêu chí này được đưa ra nhằm phân biệt giữa việc doanh nghiệp Việt Nam làm đại lý bán lẻ dịch vụ viễn thông cho các công ty nước ngoài (bán thẻ điện thoại Internet lậu) và việc doanh nghiệp Việt Nam đầu tư phát triển công nghệ để tự mình thực hiện được dịch vụ điện thoại Internet. Công văn 1091/BBCVT-VT hướng dẫn “Doanh nghiệp OSP cần trang bị hệ thống máy chủ điện thoại Internet đặt tại Việt Nam, trực tiếp cung cấp dịch vụ điện thoại Internet công cộng thông qua hệ thống máy chủ do Doanh nghiệp OSP vận hành và khai thác”. Tiêu chí này thể hiện tinh thần yêu nước sâu sắc với mong muốn khuyến khích doanh nghiệp Việt Nam ngày càng phát triển để dần dần tích lũy năng lực cạnh tranh với các doanh nghiệp ở nước ngoài.
Rõ ràng các chuyên gia của Bộ Thông tin và Truyền thông đã tiên liệu được vấn đề sẽ phát sinh nếu từ ngữ quan trọng trong văn bản pháp quy bị giải thích một cách máy móc, và đã giải thích cụ thể trong văn bản hướng dẫn vận dụng pháp luật. Điều đáng tiếc là Sở Thông tin và Truyền thông Tp HCM đã hoàn toàn bỏ qua Công văn 1091/BBCVT-VT khi đưa ra kết luận về vấn đề của OCI.
Nếu áp dụng hai tiêu chí số 1 và 2 nêu trên một cách cứng nhắc và bỏ qua bức tranh toàn cảnh thì sẽ dẫn đến kết quả trái logic. Cuộc gọi khởi phát từ máy điện thoại ở nước ngoài tuy vẫn gọi là “Phone to …” nhưng không vi phạm luật Việt Nam. Cuộc gọi tuy có hướng gọi về Việt Nam không vi phạm pháp luật Việt Nam nếu được kết cuối qua một FBO có giấy phép hợp pháp.
Đối với tiêu chí số 3, thực chất trong vụ tranh chấp này OCI hoàn toàn có thể đặt máy chủ quản lý khách hàng và tính cước ở nước ngoài. Việc đặt máy chủ ở Singapore có thể còn thuận tiện hơn do cuộc gọi của OCI từ nước ngoài phải kết cuối qua các nhà cung cấp dịch vụ viễn thông quốc tế trên thị trường Singapore. Hưởng ứng chỉ đạo của Bộ Bưu chính Viễn thông, OCI đã đặt máy chủ tính cước ở Việt Nam. Việc này được Sở TTTT xem như một bằng chứng phạm tội và kết quả là Sở TTTT tịch thu tài sản và niêm phong máy chủ của OCI.
Qua đã quá nhiều lần giải trình và cung cấp thông tin, tới giờ phút này có thể nói là Sở TTTT đã hiểu quá rõ việc vận dụng pháp luật trong vụ việc này là quá cứng nhắc về một vấn đề đã được cơ quan cấp trên tiên liệu và hướng dẫn cụ thể từ 6 năm trước. Theo thông tin của Hội điện tử và Công nghệ Thông tin Tp HCM, Bộ Thông tin và Truyền thông đã chính thức có ý kiến chỉ đạo Sở TTTT Tp HCM đối với trường hợp cụ thể của OCI. Theo chỉ đạo này của Bộ Thông tin và Truyền thông, Sở TTTT chỉ có thể kết luận OCI vi phạm pháp luật khi và chỉ khi Sở có đầy đủ bằng chứng về việc lưu lượng thoại kết cuối về Việt Nam thông qua trang thiết bị của OCI thông qua kết nối trực tiếp vào mạng PSTN của Việt Nam.
Việc bị xử phạt hành chính oan sai của OCI đã quá rõ ràng. Trên tinh thần bảo vệ quyền lợi hợp pháp của Hội viên, Hội điện tử và Công nghệ Thông tin Tp HCM đã báo cáo trực tiếp về vụ việc này lên tới các cấp lãnh đạo cao nhất của Đảng và Nhà nước, gồm có Chủ tịch nước và Thường trực Ban Bí thư Trung Ương Đảng. Dù bận nhiều việc nhưng các Đồng chí lãnh đạo vẫn lắng nghe chăm chú vấn đề rồi yêu cầu nhanh chóng tập hợp hồ sơ vụ việc gửi gấp cho các Đồng chí. Đồng thời, các Đồng chí lãnh đạo còn động viên Hội điện tử và Công nghệ Thông tin Tp HCM tiếp tục phát huy vai trò của một hiệp hội ngành nghề trong việc góp phần tạo ra môi trường kinh doanh lành mạnh để thu hút đầu tư phát triển đất nước. Hội điện tử và Công nghệ Thông tin Tp HCM tin tưởng dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng và Nhà nước vụ việc này sẽ được xử lý nhanh chóng và công bằng.
Nơi nhận:
- Các cơ quan truyền thông đại chúng
- Văn phòng Chủ tịch nước
- Văn phòng TƯ Đảng
- Bộ Trưởng Bộ TTTT
- Thứ Trưởng Bộ TTTT Lê Nam Thắng
- Thanh tra Bộ Thông tin & Truyền Thông
- Ủy ban Nhân dân Tp HCM
- Vụ Viễn thông Bộ Thông tin & Truyền Thông
- Cục bảo vệ An ninh kinh tế A17, Bộ CA
- Sở Thông tin & Truyền Thông Tp. HCM
- Thanh tra Tp HCM
- Ban pháp chế Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam
- Phòng pháp chế Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, Chi nhánh Tp HCM
- Phòng An ninh Kinh tế CATPHCM
- Công ty OCI
- Công bố website Hội: www.aeit.com.vn