Thứ Hai, 25 tháng 5, 2009

Chưa nhằm trúng mục tiêu "kích cầu"?

Chưa nhằm trúng mục tiêu "kích cầu"?

Hiệu quả của kích cầu kinh tế:

(Toquoc)- Nhằm ngăn chặn đà suy thoái kinh tế, Chính phủ đã áp dụng nhiều giải pháp với tên gọi "Kích cầu". Cho đến nay, đã và đang có rất nhiều ý kiến khác nhau về tác động của những giải pháp đó. Nhiều câu hỏi chưa được trả lời: đó là những giải pháp "kích cầu" hay "kích cung"? Tác động của những giải pháp đó đối với việc phục hồi nền kinh tế như thế nào? Sẽ có những hệ lụy gì nếu kích sai đối tượng? Giải pháp nào cho nền kinh tế Việt Nam hậu khủng hoảng?

Loạt bài viết xung quanh chủ đề “hiệu quả của kích cầu kinh tế” dưới đây sẽ giải đáp được phần nào những băn khoăn đó cùng bạn đọc.

Kích cầu hay kích cung?

Như mọi người đã biết, "cầu" khi được sử dụng trong cụm từ "kích cầu", là chỉ yêu cầu (hay nhu cầu) về hàng hóa trong quan hệ với khả năng cung cấp trên thị trường. Từ đó, khoa học kinh tế có khái niệm về quan hệ cung - cầu, quy luật cung - cầu… Nhu cầu về hàng hóa trên thị trường phụ thuộc vào rất nhiều nhân tố, trong đó, quan trọng nhất là khả năng thanh toán của người mua. Khả năng thanh toán lại bị phụ thuộc vào lượng tiền làm phương tiện lưu thông được sử dụng để thỏa mãn nhu cầu đó. Vì vậy, khoa học kinh tế lại chia ra: nhu cầu tiềm tàng và nhu cầu có khả năng thanh toán. Có liên quan chặt chẽ đến khả năng cung ứng hàng hóa trên thị trường không phải là nhu cầu tiềm tàng, mà là nhu cầu có khả năng thanh toán.

Từ vài dòng tóm lược về cung - cầu nêu trên, ta thấy, kích cầu tức là kích thích nhu cầu tiêu thụ hàng hóa (Từ điển Tiếng Việt phổ thông, Viện Ngôn ngữ học, năm 2002, trang 463). Tương tự, kích cung tức là làm tăng khả năng cung ứng hàng hóa trên thị trường. Các giải pháp để kích cung và các giải pháp kích cầu hoàn toàn khác nhau. Kích cung được sử dụng khi cung nhỏ hơn cầu và bao gồm những giải pháp hỗ trợ các doanh nghiệp mở rộng quy mô sản xuất, kinh doanh nhằm cung cấp nhiều hàng hóa hơn nữa cho thị trường. Kích cầu được sử dụng khi nhu cầu có khả năng thanh toán nhỏ hơn cung và bao gồm những giải pháp làm tăng nhu cầu có khả năng thanh toán để các doanh nghiệp, cơ sở kinh doanh tiêu thụ được hàng hóa đang dư thừa. Đối tượng cần tác động của kích cung là các doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh. Ngược lại, đối tượng của kích cầu lại phải là những người mua hàng, trong đó, đặc biệt quan trọng là cộng đồng dân cư, những người làm công ăn lương và một số dự án đầu tư từ nguồn vốn của Nhà nước hoặc các dự án đang tạm dừng do thiếu vốn.

Các giải pháp của Chính phủ được áp dụng trong thời gian vừa qua được gọi với tên là "Kích cầu" bao gồm:

- Thông tư số 03/2009/TT-BTC ngày 13/01/2009 của Bộ Tài chính về giảm, gia hạn nộp thuế thu nhập doanh nghiệp theo Nghị quyết số 30/2008/NQ-CP ngày 11/12/2008 của Chính phủ;

- Thông tư số 13/2009/TT-BTC ngày 22/01/2009 của Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện giảm thuế GTGT đối với một số hàng hóa, dịch vụ doanh nghiệp kinh doanh gặp khó khăn theo Quyết định số 16/2009/QĐ-TTg ngày 21/01/2009 của Thủ tướng Chính phủ;

- Quyết định số 131/2009/QĐ- TTg ngày 23/1/2009 của Thủ tướng Chính phủ về việc hỗ trợ lãi suất cho các tổ chức, cá nhân vay vốn ngân hàng để sản xuất, kinh doanh;

- Quyết định số 443/2009/QĐ - TTg ngày 04/04/2009 của Thủ tướng Chính phủ về việc hỗ trợ lãi suất đối với các tổ chức, cá nhân vay vốn trung, dài hạn ngân hàng thực hiện đầu tư mới để phát triển sản xuất, kinh doanh.

Những giải pháp nêu trên là kích cầu hay kích cung?

Trước hết, việc giảm, gia hạn nộp thuế thu nhập doanh nghiệp và hỗ trợ lãi suất cho các tổ chức, cá nhân vay vốn ngân hàng để sản xuất, kinh doanh có đối tượng hỗ trợ trực tiếp là các doanh nghiệp, cơ sở kinh doanh. Những biện pháp này khuyến khích các doanh nghiệp tiến hành sản xuất, kinh doanh nhằm cung ứng hàng hóa ra thị trường. Vì vậy, đó là những giải pháp kích cung.

Thứ hai, việc giảm thuế giá trị gia tăng đối với một số hàng hóa, dịch vụ doanh nghiệp kinh doanh gặp khó khăn thực chất cũng không thể được gọi là kích cầu. Bởi lẽ, đối tượng được hưởng là các doanh nghiệp, cơ sở kinh doanh khi bán hàng.

Thứ ba, hỗ trợ lãi suất đối với các tổ chức, cá nhân vay vốn trung dài hạn ngân hàng để phát triển sản xuất, kinh doanh cũng không thể gọi là kích cầu vì đối tượng được hưởng vẫn là các doanh nghiệp, cơ sở kinh doanh và, quan trọng hơn là, hiện nay rất ít dự án mới được triển khai.

Trong các giải pháp về thuế đã được thực hiện, việc giãn thời hạn nộp thuế thu nhập cá nhân theo Thông tư số 27/2009/TT-BTC ngày 6/2/2009 của Bộ Tài chính, tuy không thuộc nội dung phục vụ kích cầu song lại được coi là có tác dụng đối với kích cầu. Tuy nhiên, số thuế thu nhập cá nhân được giãn nộp không tác động nhiều đến khả năng thanh toán vì số người có thu nhập dưới mức phải nộp thuế thu nhập cá nhân chiếm tỷ trọng khá lớn.

Cũng có ý kiến cho rằng, áp dụng các giải pháp kích cung tức là kích cầu một cách gián tiếp. Điều đó có thể đúng trong điều kiện một nền kinh tế phát triển bình thường, nhưng không đúng trong điều kiện đang cần cứu vãn sự suy thoái của nền kinh tế, khi cung đang lớn hơn cầu.

Tổng hợp và phân tích các biện pháp kích thích nền kinh tế ở các nước phát triển, loại trừ những biện pháp cấp cứu cho thị trường tài chính như hàng nghìn tỷ đôla mà Mỹ đã rót vào các Ngân hàng, những biện pháp được gọi là "kích cầu" bao gồm:

- Tập trung kích thích nhu cầu tiêu thụ hàng hóa thông qua việc tăng khả năng thanh toán trong toàn xã hội. Chẳng hạn, ở Đài Loan, Chính phủ cấp phiếu mua hàng không phải trả tiền cho nhân dân với mức bình quân mỗi người 3.600 Đài tệ (bằng khoảng 2 triệu VND); Chính phủ Mỹ hoàn lại tiền thuế cho nhân dân với mức bình quân mỗi người 600 USD; Pháp chi bằng tiền cho nhân dân mỗi người 500 Euro; Cộng hòa Liên bang Đức thưởng cho người thay xe ô tô cũ đã sử dụng đến 9 năm mỗi người 2.500 Euro, v.v… Biện pháp đó giúp cho hàng hóa đang tồn kho của các doanh nghiệp tiêu thụ được và các doanh nghiệp sẽ tiếp tục sản xuất, tạo việc làm và thu nhập cho người lao động. Trong kinh tế thị trường, khi có cầu ắt có cung. Do đó, nếu đã kích cầu đạt kết quả, không nhất thiết phải kích cung.

- Kích cầu kết hợp với kích cung, tức là kích thích tiêu thụ và kích thích cả sản xuất để tăng khả năng cung ứng hàng hóa ra thị trường. Song, với giải pháp này, việc kích cầu phải đi trước một bước, sau đó mới thực hiện các giải pháp kích thích sản xuất.

Không một quốc gia nào chỉ áp dụng giải pháp kích cung thuần túy. Bởi lẽ, khi hàng hóa đang dư thừa, chỉ kích cung thuần túy là "kích ngược". Về cơ bản, các quyết sách của ta vừa qua phần lớn chỉ kích cung mà rất ít kích cầu. Thậm chí, đang trong thời kỳ phải kích cầu, Nhà nước, với những lý do vô cùng thuyết phục, lại tăng giá điện, giá một số dịch vụ… làm cho khả năng thanh toán đã yếu lại càng yếu hơn.

Vì lẽ đó, những giải pháp kích cầu dường như chỉ riêng có ở Việt Nam, nên chăng có thể và cần đóng mác "Kích cầu…made in Việt Nam"!

N.Q.L

...Bài 2: Tác động và những hệ luỵ của kích cầu
-----------

Nhng hin tượng “l” trên th trường tín dng 25/05/2009

NGUYỄN ĐẠI LAI

Trong bi cnh kinh tế suy thoái, ngành ngân hàng được giao nhim v t chc thc hin chính sách h tr lãi sut nhm giúp doanh nghip, người dân cơ cu li sn xut và gim giá bán cho sc cu đang gim sút ca xã hi thông qua gii ngân tín dng có h tr lãi sut (giá vn).

Tuy nhiên, t
chính sách này đang ny sinh hin tượng “l” đu tiên, đó là liu có s nhm ln gia la chn gii pháp cơ cu li th trường và sc mua thay vì cơ cu giá vn?

Nh
m ln gii pháp?


Tổng số lượt xem trang