Cuộc truy tìm nhôm kim loại
Vai trò của Trung Quốc tại khu vực sông Mekong
Bauxite Việt Nam dịch.Từ Kate M. Lazarus, In Search of Aluminum: China’s Role in the Mekong Region. Heinrich Böll Stiftung, WWF, IISD, 2009.
1. Giới thiệu
Tại Campuchia, Lào và Việt Nam, khai thác bauxite được xem là lĩnh vực mới nổi và chính phủ đang được xúc tiến đầu tư vào lĩnh vực này. Vùng tam giác gồm Đông Bắc Campuchia, Nam Lào và Tây Nguyên Việt Nam đã nổi lên thành vùng quan trọng chiến lược về khai thác bauxite liên quốc gia. Đây còn là vùng đang trải qua giai đoạn phát triển quan trọng, bao gồm xây dựng đường xá để tạo thuận lợi cho thông thương, phát triển thủy điện trong lưu vực của ba sông Sekong – Sesan – Srepok và nhiều dự án sản xuất lúa gạo qui mô lớn.
Khai thác bauxite có tiềm năng trở thành một hoạt động khai khoáng qui mô lớn ở cả ba nước, cung cấp nguồn thu vô cùng cần thiết cho nước sở tại, đồng thời cung cấp khoáng sản cho thị trường, chủ yếu là Trung Quốc. Tại Việt Nam, khai thác bauxite là một chủ trương lớn của Chính phủ và hợp tác với Trung Quốc được xem là đường lối quan trọng để có thể thành công trong lĩnh vực này. Tại Lào, cao nguyên Bolaven có tiềm năng trở thành một trong những mỏ bauxite lớn nhất thế giới, và dự kiến Trung Quốc sẽ dùng bí quyết và tài nguyên công nghệ để hỗ trợ chủ trương lớn của chính phủ Lào trong việc mở rộng và cải thiện lĩnh vực khai khoáng. Bên cạnh đó, vùng Đông Bắc Campuchia cũng là nơi cung cấp nguồn tài nguyên bauxite quan trọng. Các nhà đầu tư Úc đang có ảnh hưởng lớn đối với vùng này. Thêm vào đó, Trung Quốc đang đóng vai trò quan trọng trong việc cải thiện hạ tầng đường xá, tạo thuận lợi cho việc vận chuyển tài nguyên ra thị trường.
Trong khi khai thác bauxite có thể đem lại các lợi ích kinh tế đáng kể cho doanh nghiệp và nhà nước, chẳng hạn xây dựng hạ tầng nông thôn, hình thành ngành công nghiệp mới cho địa phương và tạo ra việc làm, thì các tác động tiêu cực đến môi trường và xã hội có thể làm xói mòn các tiềm năng kinh tế này. Chẳng hạn, tại Campuchia, Lào và Việt Nam, vị trí mỏ bauxite nằm ngay trên những vùng đất nông nghiệp và rừng quan trọng. Trong tương lai, rất có thể sẽ xảy ra các xung đột giữa các cộng đồng địa phương đang sử dụng đất cho nhu cầu sinh kế của họ và các nhà khai thác qui mô lớn, được chính quyền địa phương cũng như nhà nước ủng hộ. Khai thác bauxite sẽ đi kèm với phát triển thủy điện, xây hồ chứa nước, ô nhiễm, dòng xả và các nhà máy nhiệt điện dùng than, tất cả đều đem lại nhiều thay đổi quan trọng đến đất đai, nguồn nước và sinh kế. Tình trạng mất mát thảm thực vật sẽ khiến diện tích rừng bị giảm, từ đó tác động đến đa dạng sinh học (một số vùng có động thực vật quí hiếm) và giảm nguồn cung cấp nước. Tìm cho được một công nghệ thân thiện môi trường là nhiệm vụ then chốt khi cho tiến hành khai thác bauxite cùng với việc xử lý alumina và nhôm.
Công trình này nhằm cung cấp một tổng quan tóm lược về khai thác bauxite tại ba địa điểm chính ở Campuchia, Lào và Việt Nam. Tài liệu này sẽ nghiên cứu sâu vai trò của Trung Quốc trong đầu tư khai thác bauxite và hạ tầng cơ sở trong khu vực, đặt Trung Quốc vào vị trí chiến lược của một thị trường tiêu thụ bauxite, alumina và nhôm chủ yếu từ ba quốc gia này. Việc hiểu rõ các liên kết toàn khu vực đằng sau quyết sách khai thác bauxite tại Campuchia, Lào và Việt Nam là chìa khóa để nhận diện được qui mô của các tác động tích cực cũng như tiêu cực. Công trình này còn làm sáng tỏ mức độ quan tâm đến các tác động môi trường và xã hội trong quá trình quyết định xoay quanh các dự án khai thác bauxite.
Các nghiên cứu tại ba quốc gia, gồm báo cáo thực địa từ tỉnh Mondulkiri tại Campuchia, hai tỉnh Champassak và Attapeu tại Lào, và tỉnh Đắk Nông tại Việt Nam, đã được phân tích và tích hợp vào công trình này. Chủ đề chính của công trình bị xem là nhạy cảm từ phía các quan chức chính phủ, nhà nghiên cứu và nhà hoạt động xã hội dân sự trong vùng, thêm vào đó rất nhiều thông tin cung cấp cho công trình này xuất phát từ những cuộc phỏng vấn với các nguồn tin có yêu cầu không nêu danh tính, và do vậy đã không được trích dẫn. Hơn nữa, mặc dù đã có nhiều cải thiện, hệ thống doanh nghiệp và quản lý ở cả ba quốc gia vẫn còn chưa minh bạch. Việc hiểu biết về các nhà đầu tư và các qui trình đầu tư còn mơ hồ, và việc không thể tham khảo các tài liệu liên quan, chẳng hạn các đánh giá tác động môi trường (EIA), cũng đã khiến việc thực hiện công trình này hết sức khó khăn.
2. Đầu tư khai thác bauxite tại Campuchia, Lào và Việt Nam
Trong khu vực sông Mekong, Việt Nam có tiềm năng bauxite lớn nhất, ước tính khoảng 5,4 tỉ tấn, chủ yếu được phát hiện tại Tây Nguyên. Trên cao nguyên Bolaven – Nam Lào, theo giá nhôm vào thời điểm năm 2007 thì giá trị tài nguyên bauxite ở đó ước tính vào khoảng 3.200 triệu đô-la Mỹ. Tại Campuchia, giá trị trữ lượng bauxite chưa được công bố chính thức.
Phần sau sẽ trình bày chi tiết vị trí khai thác bauxite, các nhà đầu tư chính và qui mô đầu tư của từng nước.
2.1. Campuchia
Campuchia kỳ vọng rất nhiều vào tiềm năng khai thác các mỏ bauxite lớn để đem lại doanh thu khổng lồ. Tuy nhiên, bản chất của tiềm năng này chưa được hiểu đúng, bởi vì các công ty đang tìm kiếm cơ hội đầu tư vào bauxite đều ở giai đoạn thăm dò. Công ty Úc BHP Billiton, hợp tác cùng công ty Mitsubishi của Nhật, đang thăm dò trên một vùng rộng lớn để khai thác bauxite tại tỉnh Mondulkiri (Chú thích: Vào giữa năm 2009, nhiều lời đồn rằng BHP Billiton đã ngưng thăm dò bauxite tại Campuchia. Nhưng tin đồn đó chưa kiểm chứng được vào thời điểm kết thúc công trình này). Tuy nhiên, hiện nay chưa có đầu tư nào từ Trung Quốc vào khai thác bauxite tại quốc gia này.
2.1.1. Tỉnh Mondulkiri
Tỉnh Mondulkiri nằm ở phía Đông Bắc Campuchia là một trong những tỉnh nghèo nhất nước. Nó cách Phnom Penh, thủ đô Campuchia, 521 cây số về hướng Đông Bắc. Tổng dân số năm 2005 vào khoảng 50 ngàn người, bao gồm nhiều dân tộc thiểu số. Tỉnh Mondulkiri có bốn khu bảo tồn đời sống hoang dã: Phnom Prich (222.500 hec-ta), Phnom Namlear (47.500 hec-ta), Lumphat (250.000 hec-ta) và Snuol (75.000 hec-ta). Bộ Môi trường (MOE) đang quản lý bốn khu bảo tồn này. Ngoài ra còn có hai rừng bảo tồn do Bộ Nông Lâm Ngư quản lý, đó là Rừng bảo tồn Mondulkiri và Khu bảo tồn đa dạng sinh học Keo Seima.
Các hoạt động sinh kế chủ yếu trong tỉnh là trồng trọt, bắt cá và các sản phẩm phi gỗ từ rừng. Tuy nhiên, kể từ năm 2004, sinh kế ở đây thường xuyên bị đe dọa nghiêm trọng do sự ra đời của tối thiểu chín dự án chuyển nhượng đất để sản xuất nông nghiệp qui mô lớn (50 ngàn hec-ta) và 15 công ty thăm dò khoáng sản.
Hình 1: Campuchia và tỉnh Mondulkiri
Chú thích: Tỉnh Mondulkiri được khoanh vùng bằng màu xanh lá cây
2.1.2 Các nhà đầu tư chính
Giữa những năm 1994 và 2006, Bộ Công nghiệp, Khoáng sản và Năng lượng (MIME) đã cấp tổng cộng 19 giấy phép thăm dò khoáng sản cho nhiều công ty địa phương và nước ngoài, trong đó có hai giấy phép thăm dò bauxite. Chưa có giấy phép khai thác bauxite nào được cấp.
Năm công ty, bốn trong nước và một quốc tế, đã được cấp phép thăm dò bauxite tại tỉnh Mondulkiri (Bảng 1). Tất cả các công ty địa phương đều là công ty con, do liên minh Úc hoặc liên minh Úc – Nhật làm chủ sở hữu toàn bộ. Các liên minh đó là Tập đoàn trách nhiệm hữu hạn Transol (Úc) và Tập đoàn BHP Billiton và Mitsubishi (Úc – Nhật) (Chú thích: BHP Billiton và Mitsubishi đã liên doanh để khai thác bauxite nhưng đến nay, chỉ có BHP tham gia các hoạt động thăm dò và gửi nhân viên sang).
Hiện nay chưa có công ty Trung Quốc nào tham gia khai thác bauxite tại Campuchia; tuy nhiên, tại tỉnh Mondulkiri, một số công ty nhỏ của Trung Quốc đã được cấp phép thăm dò các khoáng sản khác như vàng, đồng và quặng sắt.
2.1.3. BHP Billiton và Mitsubishi
Liên doanh BHP Billiton và Mitsubishi đã ký thỏa thuận với Chính phủ Campuchia vào tháng 10/2006 để thăm dò bauxite tại tỉnh Mondulkiri. Diện tích thăm dò vào khoảng 1.000 cây số vuông (hay 100.000 hec-ta). Thỏa thuận giao đất trị giá 2 tỉ đô-la Mỹ, cho phép liên doanh nghiên cứu tiềm năng xây dựng một nhà máy tinh chế nhôm oxit một khi việc khai thác bauxite được cho là khả thi. Kế hoạch ban đầu là xây dựng một đường ống có khả năng vận chuyển sản phẩm dạng vữa từ tỉnh Mondulkiri đến Thành phố cảng Xi-ha-núc ven miền duyên hải Campuchia. Theo thỏa thuận, hai công ty sẽ được đặc quyền đàm phán với Chính phủ để đi đến một thỏa thuận khai khoáng sau khi hoàn thành các điều nghiên thăm dò trong năm 2009.
Hình 2: Khu vực BHP Billiton xin cấp phép tại tỉnh Mondulkiri, Campuchia
Nguồn: BHP Billiton, Administrative Division.
Qua các điều nghiên, hai công ty đã xác định được 500 vị trí khoan để xác định trữ lượng bauxite. Tuy nhiên, kết quả chưa được công bố rộng rãi.
Trước khi BHP Billiton thực hiện các hoạt động thăm dò, nghiên cứu đánh giá các tác động môi trường và xã hội đã được tiến hành để tư vấn cho cộng đồng địa phương, quan chức chính phủ và các tổ chức phi chính phủ (NGO). Nghiên cứu này tập trung vào những vấn đề về sức khỏe, an toàn, và môi trường đang thách thức các cộng đồng tại Mondulkiri, và làm thế nào để các hoạt động của BHP có thể cải thiện tình hình cộng đồng, đi đôi với việc hạn chế các tác động xấu. Sau đây là các thách thức đã được đề ra và cam kết của công ty sau khi hoàn tất nghiên cứu đánh giá:
Bảng 1: Các công ty tư nhân tham gia hoạt động khai thác bauxite tại tỉnh Mondulkiri, Campuchia
Chú thích: (1) Hiện nay hai công ty này là một công ty con do Transol làm chủ 100%, (2) Hai công ty này đã chuyển nhượng giấy phép cho BHP Billiton và Mitsubishi năm 2006. Giấy phép có thời hạn hai năm. Theo Sở Công nghiệp, Khoáng sản và Năng lượng của tỉnh thì hầu như mọi giấy phép quá hạn đều được cấp phép tiếp.
Hình 3: Các khu thăm dò khoáng sản tại tỉnh Mondulkiri, Campuchia
Nguồn: WWF (2008)
2.2. Lào
Thăm dò ban đầu ở Lào cho thấy trữ lượng bauxite của nước này có tiềm năng là một trong những trữ lượng lớn nhất Châu Á, có giá trị 4 tỉ đô-la Mỹ, ngang bằng với trữ lượng tại Darling Range – Tây Úc, nơi sản xuất ra 14 phần trăm lượng nhôm oxit toàn cầu. Ngoài nguồn bauxite phong phú, Lào còn có tiềm năng to lớn về thủy điện, lại nằm ngay cạnh thị trường Trung Quốc đang phát triển nhanh. Hầu hết các đầu tư khai thác bauxite tại Lào đều có đối tác Trung Quốc tham gia.
2.2.1. Cao nguyên Bolaven
Cao nguyên Bolaven – Nam Lào nằm ở Tây Bắc tỉnh Champassak, trải dài từ quận Paksong tỉnh Champassak qua các quận Lao Ngam tỉnh Salavan, quận Thateng tỉnh Sekong và quận Sanamxay tỉnh Attapeu. Cao nguyên có nguồn gốc từ núi lửa, độ cao trung bình 1.100 mét, là miền đất đỏ bazan màu mỡ. Lượng mưa hàng năm vào khoảng 350 xen-ti-met.
Hiện nay, hơn 99 phần trăm cà phê của Lào được sản xuất trên cao nguyên Bolaven. Cà phê là cây trồng chủ yếu của các hộ dân trong vùng, và diện tích đất trồng cà phê là 45.000 hec-ta, chiếm 30-40% tổng diện tích đất.
Về đa dạng sinh học, Bolaven có hai khu bảo tồn quốc gia. Khu thứ nhất là Duong Hua Sau, diện tích 910 cây số vuông, cách 35 cây số về hướng Bắc của vùng qui hoạch khai thác mỏ thuộc công ty Slaco. Khu thứ hai là Xe Pian, diện tích 2.665 cây số vuông, cách 3 cây số về hướng Tây của vùng qui hoạch làm nơi xử lý quặng và cách 15 cây số về hướng Tây Nam vùng qui hoạch khai thác mỏ thuộc Slaco. Cao nguyên Bolaven còn có hai khu bảo tồn cấp tỉnh, Khu Houay Souy tỉnh Sanamxay và Sông Kông. Còn một khu bảo tồn cấp quận là Dong Bak, diện tích 1.240 hec-ta, 63% vùng này nằm trong miền tiếp giáp với nơi xử lý quặng của Slaco. Ngoài ra, vùng dự án Slaco cách biên giới Lào – Campuchia 6 cây số, ngay cạnh Vườn Quốc gia Virachay.
Hình 4: Lào và cao nguyên Bolaven
2.2.2. Các nhà đầu tư chính
Theo số liệu bản đồ tháng 02/2008 của Sở Năng lượng và Khoáng sản (DEM), đã có bốn lần giao đất trên cao nguyên Bolaven, đó là khu 28 cho công ty Sarco (Hình 5), khu 42 cho Yishida, ba khu 100 cho SAETC, và khu 50 cho LSI.
Hình 5: Vị trí địa lý các khu đất có triển vọng bauxite
Nguồn: AltMapCambodia, Southern Laos proposed and existing mineral concessions (February 2007)
Báo cáo năm 2006 của Ngân hàng Thế giới cho biết, trước đây phần lớn hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước (SOE) Lào đều do Bộ Quốc phòng (MOD) quản lý với sự giúp đỡ và hướng dẫn của Sở Địa chất và Khoáng sản (DGM). Tuy nhiên, một nghị định gần đây đã ngăn MOD không được quản lý các hoạt động khai khoáng của SOE. Nghị định này qui định rõ là các hoạt động khai khoáng trước đây chịu sự quản lý của MOD thì bây giờ phải nằm dưới sự quản lý của các công ty tư nhân, và khuyến khích phát triển các liên doanh, có lẽ nhằm tăng ngân quĩ cho các hoạt động khai khoáng tư nhân, đồng thời nhằm tăng năng lực kỹ thuật cho phía đối tác Lào. Kế hoạch phát triển lĩnh vực khoáng sản của Ngân hàng Thế giới bao gồm tái cấu trúc, cải tổ và phát triển các SOE. Ngân hàng Thế giới còn đề cập rằng sau này các SOE sẽ được tư nhân hóa, và nhân sự từ các hoạt động khai khoáng hiện tồn sẽ được thuyên chuyển (tạm thời hoặc vĩnh viễn) về chính quyền trung ương hay địa phương.
Theo giá nhôm vào thời điểm năm 2007, giá trị tài nguyên bauxite tại cao nguyên Bolaven ước tính vào khoảng 3.200 triệu đô-la Mỹ. Trong danh mục các dự án chính thức do Bộ Kế hoạch và Đầu tư (MPI) cung cấp, có năm công ty chính tham gia khai thác bauxite tại cao nguyên Bolaven, gồm bốn công ty Trung Quốc và một công ty Lào (Chú thích: Slaco đăng ký là một công ty Lào, mặc dù có sự tham gia hoặc đầu tư của người Trung Quốc và Thái). Tuy nhiên, người ta cho rằng nhiều công ty khác cũng đang hoạt động tích cực tại đây. Theo EIA của Slaco, bảy khu khai thác bauxite khác dọc theo cao nguyên Bolaven cũng đã được giao cho các công ty Lào hoặc nước ngoài.
Bảng 2: Các công ty trong và ngoài Lào tham gia khai thác bauxite tại quận Paksong tỉnh Champassak
1 Vào tháng 05/2009 một số báo cáo chưa được kiểm chứng cho rằng dự án Slaco đã bị ngưng lại.
2 Chỉ có Slaco đăng ký là công ty Lào, trong khi các công ty khác đăng ký là công ty nước ngoài.
3 Khai thác chỉ có thể bắt đầu sau khi nhận được chứng chỉ tuân thủ môi trường do Cục Quản lý Tài nguyên Nước và Môi trường (WREA) cấp.
4 Có nghĩa là LSI có triển vọng được cấp hai khu khai thác tổng cộng 9.600 hec-ta. Còn khu 15.000 hec-ta thì đang chờ chính phủ cho phép bắt đầu khai thác.
Tập đoàn trách nhiệm hữu hạn Nhôm Trung-Lào (Slaco)
Liên doanh Slaco (Chú thích: Công ty này do Saysana Samingvongsa làm Chủ tịch và tham gia vào nhiều lĩnh vực, kể cả xuất nhập khẩu) được hình thành vào năm 2007 trong đó LSI nắm 34%, ITD nắm 33% (Chú thích: ITD là công ty hợp đồng xây dựng dân dụng và hạ tầng lớn nhất Thái Lan và đã đăng ký vốn điều lệ 122 triệu đô-la Mỹ với 22.000 nhân viên, trong đó có 1.102 kỹ sư), và RCI 33% (Chú thích: RCI là một công ty ngoại thương của Trung Quốc với tổng đầu tư lên đến 6 tỉ nhân dân tệ, tương đương 0,82 tỉ đô-la Mỹ). Sau khi hoàn tất nghiên cứu khả thi và được chấp thuận vào tháng 12/2007 (Chú thích: Slaco đã lôi kéo Chalieco thực hiện nghiên cứu khả thi), Chalco đã gia nhập Slaco và trở thành đối tác quan trọng (Chú thích: Chalco là nhà sản xuất nhôm đứng hàng thứ hai trên thế giới và là nhà sản xuất nhôm oxit và nhôm nguyên liệu hàng đầu Trung Quốc, với vốn điều lệ hơn 11 tỉ nhân dân tệ, tương đương 1,5 tỉ đô-la Mỹ). Slaco đăng ký là một công ty Lào tư nhân và hiện nay Chalco nắm 51%, RCI-ITD nắm 39% và LSI 10%.
Dự án Slaco chiếm một diện tích rộng 246 cây số vuông, gồm khu xây dựng và khu khai thác. Quyền sử dụng đất của dự án là 50 năm và có thể được kéo dài thêm. Trong số 246 cây số vuông, 99 cây số vuông vẫn còn trong giai đoạn thăm dò, còn lại 147 cây số vuông có thể bắt đầu khai thác. Slaco có kế hoạch khai thác 3 triệu tấn bauxite đỏ mỗi năm, từ đó chuyển thành 1 triệu tấn nhôm oxit rồi được xử lý thành 500.000 tấn nhôm. Hiện nay, khối lượng bauxite ước tính có 316.173.327 tấn và vòng đời khai thác vào khoảng 30 năm. Ngoài nhà máy chế biến nhôm oxit và nhà máy luyện nhôm, công ty sẽ xây dựng một tuyến đường dài 116 cây số từ quận Pathoumphone tỉnh Champassak đến quận Samakhixay tỉnh Attapeu với chi phí vào khoảng 100 triệu đô-la Mỹ.
Năm 2008, công ty tiến hành đánh giá tác động môi trường và xã hội, và đang đợi Cục Quản lý Tài nguyên Nước và Môi trường (WREA) chuẩn thuận. Tháng 09/2008, Slaco ký thỏa thuận xây dựng các nhà máy khai thác và chế biến bauxite với MPI. Các nhà máy này có giá trị đầu tư 4 tỉ đô-la Mỹ, kể cả hệ thống điện cao thế và nhà máy điện với năng suất 1.320 mega-oat để cung cấp điện cho các nhà máy khai thác và chế biến. Dự kiến sẽ hoàn thành vào năm 2011. Sản phẩm dự kiến sẽ xuất sang Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) và Trung Quốc. Các nhà máy này cũng sẽ cung cấp cho thị trường Lào nếu có nhu cầu.
Sinoma
Sinoma đặt trụ sở tại Bắc Kinh – Trung Quốc, được thành lập vào tháng 12/2001. Đây là một công ty nhà nước có mặt trên Thị trường Chứng khoán Thượng Hải, tập trung chủ yếu vào sản xuất xi măng. Sinoma tham gia nhiều dự án lớn cả trong lẫn ngoài Trung Quốc, từ tư vấn cho đến thiết kế kỹ thuật, xây dựng, lắp ghép, sản xuất, cung ứng, đặt hàng, vận hành và bảo trì thiết bị. Tại Lào, Sinoma hoạt động dưới danh nghĩa của Viện Hàn lâm Thăm dò Kỹ thuật Địa chất Zhonfei (ZGEEA) và đã ký hợp đồng ngày 12/05/2006 để thăm dò một vùng rộng 146,25 cây số vuông. Hợp đồng này bao gồm 12 tháng thăm dò, 24 tháng phân tích và 12 tháng đề xuất phương án tài chính (botviphaksetakit). Công ty đã báo cáo phương pháp và các kết quả kỹ thuật về thăm dò cho Chính phủ Lào vào ngày 05/08/2007. Tổng chi phí thăm dò là 1.803.820 đô-la Mỹ. Hiện nay công ty đang thăm dò một vùng khác rộng 77,66 cây số vuông.
Yishida Edseperu Group Ltd
Công ty Trung Quốc Yishida đã được giao 588,09 cây số vuông gần làng Itu. Hợp đồng thăm dò và phân tích được ký ngày 08/06/2006, và công ty cũng đã ký thỏa thuận với DEM ngày 07/09/2006. Công ty đã xác định được một vùng rộng 43,58 cây số vuông, rải rác trong đó là 15 địa điểm có tổng trữ lượng tiềm tàng là 549 triệu tấn. Tổng cộng 229 người (trong đó có 223 người Lào) tham gia giai đoạn thăm dò, với chi phí 2.864.865 đô-la Mỹ. Công ty đã chọn ra 421 cây số vuông và trả lại cho chính phủ 167 cây số vuông. Hiện nay công ty đang chuẩn bị lập bản đồ. Theo tin từ DEM, Yishida đã ký hợp đồng phụ với Sarco về thăm dò bauxite dọc theo cao nguyên Bolaven. (Chú thích: Trong danh mục đầu tư của DEM, Yishida là tên công ty đăng ký, nhưng trong tài liệu năm 2008 của Sarco, Yishida lại là một công ty bất động sản. Chi tiết này cho thấy Sarco hoạt động trong hậu trường, thâu tóm bauxite bằng thủ đoạn dùng danh nghĩa của các công ty nhỏ hơn.)
Bản đồ ở Hình 6 cho thấy vị trí thuê đất của Sarco nằm trên cao nguyên Bolaven (những vùng có đường viền cam). Ngoài Sarco, còn có hai công ty khác là SAETC thuê ba vùng và Thonglahasin một vùng. (Chú thích: Chưa có thông tin chính thức về việc thuê đất của công ty Thonglahasin. Chúng ta cũng có thể thấy ở Hình 6 sự chồng lấn giữa Thonglahasin và LSI ở phần Đông Nam của cao nguyên.)
Hình 6: Các vùng đất thuộc Sarco trên cao nguyên Bolaven
Nguồn: ORD (2007)
Sarco
Sarco là liên doanh giữa ORD của Úc (nắm 49%) và NFC của Trung Quốc (nắm 51%). Liên doanh này thành lập vào năm 2007 và đăng ký là một công ty tư nhân nước ngoài tại Lào. Sarco (70%) đã ký một thỏa thuận với LSI (30%) để phát triển một khu đất rộng 138 cây số vuông trên cao nguyên Bolaven. Tiềm năng bauxite tại đây và vùng lân cận ước tính vào khoảng 2-2,5 tỉ tấn. ORD dự kiến sản lượng hàng năm có thể lên đến 20 triệu tấn bauxite, từ đó có thể tinh chế ra 5-8 triệu tấn nhôm oxit mỗi năm.
Chương trình ngắn hạn của ORD là khảo sát khả thi việc khai thác các mỏ bauxite lộ thiên và tinh chế nhôm oxit tại chỗ. Dự án có thể có một lò luyện nhôm. Dự kiến nhôm sẽ được xuất khẩu phục vụ công nghiệp tại Trung Quốc. Công ty đang đàm phán để nhận thêm 84 cây số vuông bên cạnh đó. Mục tiêu chiến lược của ORD là nắm giữ tất cả các vùng có thể có bauxite, đồng thời nắm quyền sử dụng những nơi có tiềm năng thủy điện. Nhưng theo ORD (tháng 07/2008), hiện nay Sarco đang ở giai đoạn cuối để tiếp nhận một vùng có diện tích lên đến 867 cây số vuông.
China International Alumina Development Co. Ltd
Công ty này đã ký hợp đồng vào ngày 26/01/2007 để nhận một vùng rộng 34,75 cây số vuông. Công ty đã cung cấp tài liệu đánh giá tác động lũ từ đập thủy điện Xenamnoy. Vai trò khai khoáng của công ty này chưa rõ ràng vì họ chưa báo cáo cho DEM về các hoạt động đã làm. Hiện nay rất khó xác định là công ty có đang tích cực hoạt động trong lĩnh vực khai khoáng hay không (Chú thích của người dịch: Alumina trong tên của công ty có thể cung cấp thông tin quan trọng nhằm giải mã nghi vấn này).
Asia Industrial Aluminum (Lao) Ltd (SAETC)
Theo tài liệu của DEM, hợp đồng được ký vào ngày 20/12/2006 để giao 55.500 hec-ta đất cho công ty sử dụng trong vòng 30 năm. Dự án đang trong giai đoạn có triển vọng. 12 tháng đầu là thăm dò và 24 tháng tiếp theo là phân tích; chi phí cho hai giai đoạn này là 4 triệu đô-la Mỹ.
2.2.3. Lượng đầu tư
Slaco là công ty duy nhất đã trình EIA lên Chính phủ Lào để được chuẩn thuận và sẵn sàng bắt tay khai thác ngay sau khi được cấp phép. Theo Chính phủ và theo EIA của Slaco, đây là dự án tham vọng nhất từ trước đến nay do dự án bao gồm sáu bộ phận chính: (1) khai thác bauxite; (2) chế biến nhôm oxit; (3) luyện nhôm dùng qui trình Bayer (Chú thích của người dịch: Ở đây tác giả có thể đã nhầm lẫn Bayer với Hall-Héroult. Bayer là qui trình tinh chế quặng bauxite thành nhôm oxit); (4) xây dựng và hoàn thiện 116 cây số đường bộ từ tỉnh Attapeu đến tỉnh Champassak; (5) xây dựng ba nhà máy nhiệt điện đốt than (1.100 mega-oat); và (6) xây dựng hồ chứa bùn đỏ. (Chú thích: Quá trình chế biến nhôm cần năng lượng khủng khiếp và khu vực này không thể đáp ứng. Riêng dự án Slaco đã cần đến 840 mega-oat nhưng lưới điện địa phương chỉ có thể cung cấp 115 kilo-oat. Theo WREA, kế hoạch ban đầu là chỉ khai thác bauxite, chuyển bauxite thành nhôm oxit rồi chở sang Trung Quốc.)
2.3. Việt Nam
Việt Nam ước tính có đến 8 tỉ tấn quặng bauxite và chính phủ có kế hoạch khai thác 5,4 tỉ tấn qua sáu dự án cho đến năm 2015. Năm 2007, trong số bảy ngành công nghiệp, chính phủ ưu tiên khai thác bauxite giai đoạn 2007-20 (Quyết định số 55/2007/QĐ-TTg ngày 23/04/2007). Thủ tướng đã ra quyết định phê duyệt Qui hoạch phân vùng, thăm dò, khai thác, chế biến, sử dụng bauxite giai đoạn 2007-15 (Quyết định số 167/2007/QĐ-TTg ngày 01/11/2007). Hiện nay, hai dự án khai thác bauxite lớn đã được khởi công tại hai tỉnh Lâm Đồng và Đăk Nông trong khu vực Tây Nguyên. Việt Nam dự kiến sẽ cần đầu tư 20 tỉ đô-la Mỹ để có thể tận dụng được nguồn tài nguyên này. Tháng 04/2009, nhiều nhà khoa học xã hội và môi trường đã bày tỏ quan ngại về các tác động môi trường, xã hội, kinh tế và quân sự vì chính phủ đã cho phép các công ty Trung Quốc thực hiện các đại dự án khai thác bauxite tại Tây Nguyên. Ngoài ra, còn có nhiều quan ngại về trường hợp các công ty Trung Quốc đã thắng cả hai cuộc đấu thầu xây dựng hai nhà máy nhôm oxit lớn (chi phí gần 500 triệu đô-la Mỹ cho mỗi nhà máy). Nhiều người khác còn rất lo lắng về sự có mặt của các công nhân bauxite Trung Quốc tại khu vực quân sự chiến lược này. Kết quả là Thủ tướng đã phải chỉ thị rà soát lại toàn diện qui hoạch khai thác bauxite. Nhiều Bộ, ngành, địa phương đã được yêu cầu tham gia. Chính phủ giao Bộ Công Thương rà soát lại quy hoạch bauxite trên cơ sở cập nhật tình hình và dự báo mới nhất về tác động của cuộc khủng hoảng tài chính – kinh tế toàn cầu, đánh giá tác động môi trường và đề xuất điều chỉnh quy hoạch; giao Bộ Tài nguyên và Môi trường chỉ đạo công tác điều tra cơ bản, thăm dò, xác định trữ lượng tài nguyên bauxite của cả nước, đồng thời đề xuất việc tăng cường công tác quản lý nhà nước về môi trường đối với các dự án bauxite; yêu cầu Tập đoàn nhà nước Than – Khoáng sản Việt Nam (TKV) thực hiện nghiêm túc các quy định về bảo vệ môi trường, xây dựng kế hoạch chi tiết thực hiện kế hoạch sử dụng đất, kế hoạch khai thác mỏ, hoàn thổ, khôi phục môi trường theo trình tự cuốn chiếu, bảo đảm tác động tối thiểu đến hoạt động sản xuất nông, lâm nghiệp của địa phương, trình Bộ Tài nguyên và Môi trường thẩm định trước khi triển khai thực hiện.
2.3.1. Khai thác bauxite tại Tây Nguyên
Nguồn tài nguyên bauxite Việt Nam tập trung chủ yếu (khoảng 93%) tại các tỉnh thuộc khu vực Tây Nguyên (Hình 7), trong đó riêng tỉnh Đăk Nông đã chiếm đến 60%. Tây Nguyên là một miền đất màu mỡ và đẹp rực rỡ của Việt Nam. Miền đất này đặc trưng bởi núi rừng trùng điệp, bởi canh tác cà phê và tiềm năng du lịch sinh thái to lớn. Đây còn là nơi cư trú của rất nhiều cộng đồng dân tộc thiểu số, thường sinh sống thành những buôn làng nhỏ. Phía Nam Tây Nguyên, Rừng Quốc gia Nam Cát Tiên là một trong những khu đa dạng sinh học vào bậc nhất Đông Dương.
Hình 7: Phân bố trữ lượng bauxite tại Việt Nam
Nguồn: Vinacomin website, accessed on 20 June 2009, www.vinacomin.vn
2.3.2. Các nhà đầu tư chính
Khác với Campuchia và Lào, Chính phủ Việt Nam đã chỉ định TKV giám sát đầu tư và tiến hành khai thác bauxite tại Tây Nguyên. TKV còn được phép tham gia liên doanh với các nhà đầu tư nước ngoài, nhưng chỉ với điều kiện là TKV phải duy trì ưu thế của mình về tỉ lệ sở hữu.
Nhiều nhà đầu tư quốc tế bày tỏ quan tâm đến khai thác bauxite tại Việt Nam. Bao gồm Daewo (Hàn Quốc); Alcoa (Hoa Kỳ); Pechinery (Pháp); BHP Billiton (Úc); Rusal (Nga); NFC, Chalco và Yunnan Metallurgy Co. (Trung Quốc); và nhiều công ty đến từ Thái Lan, Hungari và Nhật Bản.
Trong số các công ty này, hiện nay có bốn tập đoàn công nghiệp nhôm đã được Thủ tướng Việt Nam chấp thuận tham gia liên doanh với TKV, bao gồm Chalco, Alcoa, BHP Billiton và Rusal.
Bảng 3: Kế hoạch khai thác và chế biến bauxite tại Tây Nguyên, Việt Nam
1 Đây chỉ là tên mô tả; rất khó nhận được nguồn tin chính thức về các nhà máy này.
2 Chưa thể biết được tên công ty.
Hộp tin 1: Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam (TKV)
Chalco (Trung Quốc)
Năm 2006 Chalco đã ký một thỏa thuận hợp tác trên nguyên tắc với TKV trị giá 1,3 tỉ đô-la Mỹ để khai thác quặng bauxite và xây dựng một nhà máy chế biến nhôm oxit công suất 1,9 triệu tấn nhôm oxit mỗi năm. Ban đầu tỉ lệ đầu tư được thỏa thuận là 40% Việt Nam và 60% Trung Quốc; tuy nhiên, sau đó Thủ tướng Việt Nam quyết định rằng nếu Chalco liên doanh với TKV thì Chalco chỉ có thể giữ tối đa 40%.
Alcoa (Hoa Kỳ)
Giữa năm 2008, TKV và Alcoa ký thỏa thuận hợp tác phát triển ngành công nghiệp nhôm tại Việt Nam. Theo thỏa thuận, Alcoa sẽ thực hiện việc đánh giá dự án và có thể góp 40% vốn vào Công ty cổ phần Nhân Cơ với công suất 600.000 tấn mỗi năm. TKV đã đồng ý để Alcoa tham gia thực hiện nghiên cứu khả thi dự án khai thác bauxite- nhôm oxit Nhân Nghĩa tại tỉnh Đăk Nông, giai đoạn đầu dự kiến có công suất 1-1,5 triệu tấn mỗi năm. Kèm theo thỏa thuận này, nếu Alcoa đầu tư vào các dự án xây dựng nhà máy Nhân Cơ và Gia Nghĩa, Alcoa cũng sẽ tham gia đầu tư vào hạ tầng và cảng biển, phục vụ các nhà máy sản xuất alumina.
BHP Billiton (Úc-Anh)
Giữa năm 2008, TKV và BHP Billiton ký thỏa thuận trị giá 1 tỉ đô-la Mỹ để khai thác và chế biến bauxite tại Việt Nam. Hai bên đồng ý thành lập công ty liên doanh để thăm dò khai thác bauxite và sản xuất alumina tại ba mỏ ở Đăk Song, Tuy Đức và Bắc Gia Nghĩa, tỉnh Đăk Nông, với tỉ lệ vốn là TKV 51% và BHP Billiton 49%. Công ty liên doanh này còn liên kết với các đối tác khác để xây dựng một hệ thống đường sẳt từ Đăk Nông ra cảng biển. Thêm vào đó, TKV còn có thể tham gia vào liên doanh giữa BHP Billiton (70%) và Mitsubishi (30%) để đầu tư thăm dò khai thác bauxite và sản xuất nhôm oxit tại Campuchia.
Hình 8: Các tổ hợp bauxite-nhôm tại Tây Nguyên, Việt Nam
Rusal (Liên Bang Nga)
Rusal đã được phép thăm dò, điều tra và tìm kiếm cơ hội đầu tư tại Tây Nguyên và Bình Phước. Rusal đã ký thỏa thuận ghi nhớ (MOU) với Công ty cổ phần An Viên, đầu tư 1 tỉ đô-la Mỹ vào các dự án khai thác bauxite ở Tây Nguyên, quan tâm đến dự án xây dựng nhà máy điện cũng như hệ thống vận chuyển phục vụ khai thác và sản xuất nhôm.
Sau đây là hai dự án bauxite-nhôm tại Tây Nguyên mà Thủ tướng đã phê duyệt.
Dự án Tổ hợp bauxite-nhôm Tân Rai (Lâm Đồng): Tổ hợp này đặt tại thị trấn Lộc Thắng, huyện Bảo Lâm, tỉnh Lâm Đồng. Tổ hợp gồm ba hạng mục chính: (1) một nhà máy nhôm oxit với công suất 600.000 tấn mỗi năm; (2) một nhà máy tuyển quặng tinh; và (3) một dự án khai thác. Tổng đầu tư vào dự án tổ hợp dự kiến khoảng 687 triệu đô-la Mỹ, trong đó công ty Trung Quốc là Chalieco đã thắng gói thầu xây dựng mua sắm kỹ thuật (EPC) lớn nhất, đó chính là nhà máy nhôm oxit trị giá 466 triệu đô-la Mỹ. Nhà máy đã khởi công xây dựng vào tháng 07/2008. Theo quyết định của Thủ tướng, TKV sẽ đầu tư tài chính hoàn toàn vào các giai đoạn đầu của nhà máy. Tuy nhiên, sau khi hoàn thành xây dựng, nhà máy sẽ được định vào vốn của liên doanh. Công ty Trung Quốc là Tập đoàn Luyện Kim Yunnan, với phần hùn 20%, đã được phép tham gia kế hoạch này, trong đó TKV giữ phần hùn 80%.
Dự án Tổ hợp bauxite-nhôm Nhân Cơ: Tổ hợp này đặt tại làng Nhân Cơ, huyện Đắk R’lấp, tỉnh Đăk Nông. Năng suất dự kiến ban đầu của nhà máy là 100.000 tấn nhôm oxit mỗi năm, sau đó tăng lên thành 300.000 tấn mỗi năm và đầu tư được phê duyệt vào khoảng 250 triệu đô-la Mỹ. Tuy nhiên đến năm 2008, TKV đã xin Thủ tướng điều chỉnh năng suất lên thành 600.000 tấn mỗi năm với đầu tư ước tính vào khoảng 700 triệu đô-la Mỹ. TKV sẽ đầu tư 100 phần trăm vào nhà máy bauxite, trong khi đó Chalieco đã được chỉ định là nhà thầu EPC xây dựng nhà máy nhôm oxit. Toàn bộ nhôm oxit sản xuất ra từ hai nhà máy này đều nhằm xuất sang Trung Quốc để tinh chế nhôm.
3. Khảo sát các liên kết trong khu vực
Như đã được minh họa ở trên, Đông Bắc Campuchia, Nam Lào và Tây Nguyên Việt Nam đã hình thành nên một khu vực có tầm quan trọng chiến lược cho việc khai thác bauxite. Phần này sẽ khảo sát các liên kết khu vực tại ba quốc gia đó, dựa trên sự gần gũi và quan hệ kinh tế với Trung Quốc, các tác động xuyên biên giới, nhu cầu năng lượng, phát triển hạ tầng và liên doanh. Tại cả ba quốc gia, có những vấn đề chồng lấn và liên kết khu vực cần phải được tháo gỡ và cần được khảo sát hơn nữa để có thể hiểu rõ mặt tích cực cũng như tiêu cực của việc phát triển ngành công nghiệp bauxite.
Vai trò khởi đầu và kết thúc của Trung Quốc là rất quan trọng khi chúng ta xét đến hiện trạng gần gũi về mặt địa lý cũng như tầm quan trọng về mặt kinh tế của Campuchia, Lào và Việt Nam so với Trung Quốc, cùng với các tác động tiềm ẩn có đặc trưng xuyên biên giới về môi trường và xã hội. Hình thức liên kết giữa nhà nước và các công ty quốc gia tại từng nước sẽ hình thành lực đẩy thôi thúc hành động bảo vệ tài nguyên bauxite và thu về lợi ích kinh tế, chi phối tiến trình ra quyết định.
3.1. Chiến lược của Trung Quốc tại khu vực sông Mekong
Quan hệ của Trung Quốc với ba nước khu vực sông Mekong, Campuchia – Lào – Việt Nam, có ý nghĩa chiến lược và quan trọng về nhiều phương diện. Thứ nhất, Trung Quốc tận hưởng được lợi thế có biên giới chung với Lào và Việt Nam, thuận lợi về thương mại và tận dụng các nguồn tài nguyên thiên nhiên vô cùng cần thiết, có thể vận chuyển đường bộ dễ dàng và nhanh chóng (so với việc nhập khẩu từ các quốc gia khác trên thế giới). Hơn nữa, Trung Quốc đang nổi lên như một nhà đầu tư và đối tác thương mại song phương. Trung Quốc đã trở thành đối tác thương mại hàng đầu của Việt Nam, và cũng là nhà tài trợ và đầu tư nước ngoài quan trọng tại Lào và Campuchia.
Nhiều nhà tài phiệt Trung Quốc đã đổ về khu vực này nhằm lợi dụng môi trường đầu tư thuận lợi và nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú ở ngay bên cạnh mình. Trung Quốc xây dựng quan hệ hữu nghị bằng cách đặt lên bàn đàm phán một gói đầu tư dị biệt. Trung Quốc còn được xem là một ‘quyền lực mềm’ về văn hóa và tư tưởng, muốn làm bạn với tất cả các nước trong khu vực, sử dụng tình hữu nghị làm kim chỉ nam cho mọi hoạt động kinh doanh. Chẳng hạn, Chính phủ Trung Quốc đã hỗ trợ xây dựng nhiều nhà văn hóa và văn phòng Chính phủ, như Cung Văn Hóa Quốc gia Lào và Văn phòng Hội đồng Bộ trưởng Campuchia.
Lào và Campuchia đều đang tiếp nhận hỗ trợ đáng kể từ Trung Quốc dưới dạng các dự án hạ tầng giao thông và thủy điện trị giá 178 triệu đô-la Mỹ (cho Lào), hợp tác kinh tế trị giá 45 triệu đô-la Mỹ (tại Lào) năm 2006, gói tài trợ 600 triệu đô-la Mỹ để xây dựng đường sá, thủy điện và hợp tác kinh tế kỹ thuật (cho Campuchia) cũng trong năm 2006. Năm 2007, có 236 dự án đầu tư từ Trung Quốc vào Lào với tổng giá trị là 877 triệu đô-la Mỹ, trong khi đó đầu tư Trung Quốc vào Lào năm 2008 khoảng 3.5 tỉ đô-la Mỹ, và dự kiến còn tiếp tục tăng. Năm 2008, Campuchia được trợ cấp một gói hỗ trợ bổ sung trị giá 250 triệu đô-la Mỹ để phục hồi hệ thống đường sá trên cả nước. Tại Việt Nam, thương mại giữa hai nước đã tăng hơn ba lần trong vài năm qua, từ 3 tỉ đô-la Mỹ trong năm 2000 đến 10.4 tỉ đô-la Mỹ trong năm 2006.
Trung Quốc hỗ trợ Lào nhiều chương trình học bổng cho giới trẻ để sang Bắc Kinh học tập và hiện đại hóa quân đội Lào. Trung Quốc còn đơn phương mời chào thuế xuất nhập khẩu bằng không cho Lào và Campuchia trên khoảng 600 mặt hàng nông nghiệp xuất sang thị trường Trung Quốc qua Chương trình Thu hoạch sớm, đây là một chương trình cấp tiến của Khu vực Mậu dịch Tự do ASEAN – Trung Quốc, được Thỏa thuận Mậu dịch Tự do ASEAN – Trung Quốc tạo ra. Nhờ Ủy ban Hợp tác Trung – Lào (Chú thích: Ủy ban này được thành lập năm 1997, do Phó Thủ tướng Lengsavath Sisavath làm Chủ tịch. Chưa thể có thông tin chi tiết hơn về ủy ban này), quan hệ Trung – Lào liên tục được tăng cường thông qua nhiều thỏa thuận song phương (Chú thích: Tài liệu phê chuẩn hợp tác song phương bao gồm hợp tác kinh tế kỹ thuật, y tế, năng lượng, chính phủ điện tử và một đài FM thuộc Đài Phát thanh Quốc tế Trung Quốc đặt tại thủ đô Vientiane). Đầu năm 2009, Quốc Hội Campuchia đã thông qua luật đảm bảo ngân sách để tiếp nhận 1 tỉ đô-la Mỹ tiền đầu tư từ Trung Quốc cho hai đập thủy điện trong vùng Cardamom (Tây Nam thủ đô Phnom Penh). Ba dự án thủy điện Trung Quốc nữa, cũng trong vùng Cardamom, đang ở giai đoạn nghiên cứu khả thi.
3.2. Gần gũi địa lý với thị trường Trung Quốc
Sự gần gũi của các nước khu vực sông Mekong so với Trung Quốc đã tạo điều kiện thông thương dễ dàng, đặc biệt nhờ các cải tạo hạ tầng nối liền các thành phố lớn trong khu vực và việc mở cửa thông thương qua các cửa khẩu quốc tế. Hầu hết hoạt động khai thác bauxite trong khu vực đều dự kiến nhằm phục vụ thị trường Trung Quốc đang lớn mạnh. Thị trường này có thể được tạo điều kiện thuận lợi nhờ Hành lang Kinh tế Bắc-Nam, chạy từ Côn Minh đến Bangkok, Phnom Penh và Thành phố Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, vẫn còn khó đánh giá đúng tiềm năng xuất khẩu cũng như nhu cầu từ phía Trung Quốc. Campuchia, Lào và Việt Nam đều được cho là những quốc gia chiến lược trong việc thỏa mãn nhu cầu tăng đột biến của Trung Quốc. Đối với ngành công nghiệp nhôm của khu vực sông Mekong, biên giới chung của Lào và Việt Nam với Trung Quốc là cửa ngõ quan trọng để đi vào Trung Quốc.
3.3. Các tác động xuyên biên giới
Khai thác bauxite chắc chắn sẽ tạo ra nhiều hiệu ứng lề. Dự kiến sẽ có nhiều tác động quan trọng xuyên biên giới, bao gồm thiệt hại nguồn lợi thủy sản, thay đổi thủy văn dòng sông và chất lượng nguồn nước, từ đó ảnh hưởng đến sinh kế của nhiều dân tộc bản địa đang sinh sống trong khu vực khai thác. Khai thác bauxite sẽ thải ra nhiều độc chất vốn phải được lưu giữ ở nơi an toàn và vĩnh viễn. Các tác động tiềm ẩn quan trọng còn vượt ra khỏi khu vực khai thác, gây ô nhiễm cho những vùng lân cận và hạ lưu. Đối với các hoạt động khai thác bauxite tại Lào, nhiều quan ngại đã được nêu ra tại vùng tiếp giáp với Campuchia, chất thải công nghiệp và sự gia tăng sử dụng nguồn nước xuyên biên giới trên sông Sekong (một phần lưu vực của ba sông Sekong – Sesan – Srepok) có thể tác động nghiêm trọng đến miền hạ lưu. Chẳng hạn, việc thải ra những lượng lớn bùn đỏ có tính kiềm (kèm theo nhiều chất gây ô nhiễm) sẽ đe dọa vô cùng nghiêm trọng đến chất lượng nước bề mặt cũng như nước ngầm ở miền hạ lưu. Thêm vào đó, một trong những dự án đã được lên kế hoạch (Chú thích: Như đã đề cập trước đây, có nhiều nhà đầu tư vào cao nguyên Bolaven; tuy nhiên, EIA của Slaco có thể cung cấp nhiều thông tin quan trọng) dọc theo cao nguyên Bolaven dự kiến sẽ cần tiêu thụ 108.749 mét khối nước mỗi ngày, với 1,3 mét khối mỗi giây từ sông Xe Namnoy, một nhánh sông Sekong, chiếm đến một nửa lưu lượng đỉnh của dòng sông này. Hàng ngàn người đang sinh sống dựa vào sông Sekong sẽ bị ảnh hưởng do các dòng chảy bị ô nhiễm và có thể thiếu hụt.
3.4. Khát năng lượng
Tìm được những nguồn năng lượng thích hợp để hỗ trợ các hoạt động khai thác bauxite sẽ cung cấp cho các công ty nhiều cơ hội bóc lột tài nguyên tại những nước lân cận. Thật ra thì quá trình khai thác bauxite và tinh chế nhôm oxit không cần nhiều năng lượng (khoảng 250 megawatts để sản xuất 1 tấn nhôm oxit). Qui trình này cần hơi nóng để sấy khô nhôm oxit, vì vậy sẽ cần một nhà máy năng lượng đốt than. Để sấy khô 1 tấn nhôm oxit sẽ cần 1 tấn than. Nhà máy năng lượng đốt than có thể thỏa mãn đồng thời cả hai yêu cầu: năng lượng và hơi nóng.
Nhưng lò luyện nhôm thì lại cần nguồn năng lượng khổng lồ và phải rẻ tiền, nên hầu như sẽ phải nhờ đến thủy điện. Nếu sử dụng công nghệ hiện đại nhất hiện nay thì cũng phải cần 14.000 megawatt để có thể luyện ra được một tấn nhôm. Trước mắt, năng lượng của Trung Quốc chủ yếu dựa vào than. Do Lào và Campuchia đang có kế hoạch khai thác tiềm năng sông ngòi phong phú của họ để phát triển thủy điện xuất khẩu sang các nước lân cận (Chú thích: Trung Quốc là nhà đầu tư chính vào các dự án thủy điện tại Lào và Campuchia) và xây dựng nhiều nhà máy đốt than dọc theo Việt Nam, Trung Quốc có thể tiết kiệm chi phí rất nhiều nếu xây dựng lò tinh chế nhôm oxit và luyện nhôm tại một hay tại cả ba nước này.
Do yêu cầu to lớn về năng lượng, hiện nay Việt Nam chỉ có thể sản xuất nhôm oxit rồi xuất khẩu sang Trung Quốc. Lào và Campuchia sẽ có cơ hội luyện nhôm nhờ họ có tiềm năng thủy điện, mặc dù vấn đề hiện nay là phải tìm cho được nguồn năng lượng rẻ tiền. Để có thể sản xuất nhôm hiệu quả, thủy điện phải được bán với giá 2,5-3,5 xu Mỹ một kilowatt. Hiện nay Lào đang bán điện với giá 5-6 xu Mỹ một kilowatt, nên công nghiệp luyện nhôm không thể sống được (ít ra là vào thời điểm hiện tại). Một phương án khác mà các công ty có thể chọn là ngưng ở công đoạn nhôm oxit rồi bán ngay cho người mua; tuy nhiên, vận chuyển nhôm oxit sẽ gặp khó khăn.
Tại Lào, một số nhà đầu tư đang có kế hoạch thâu tóm nguồn năng lượng cho chính họ. Chẳng hạn, Sarco dường như đã mua được quyền xây dựng nhà máy thủy điện Xepian-Xenamnoi ở tỉnh Champassak để cung cấp năng lượng cho hoạt động khai thác của công ty. Ngoài ra, Slaco, nhà đầu tư tham vọng nhất tại Lào, cuối cùng đã có kế hoạch đem than của chính công ty từ Campuchia, nơi công ty đang làm chủ một số mỏ than, đến nhà máy tinh chế ở Lào, trong trường hợp công ty không thể tìm đủ nguồn năng lượng nào khác. (Chú thích: Dự án thủy điện Namphak – Nhật Bản ở quận Paksong hiện nay đang trong giai đoạn phát triển dự án MOU. Thỏa thuận phát triển dự án dự kiến sắp được Chính phủ Lào phê duyệt. Slaco dường như đã đề nghị mua toàn bộ sản lượng điện nếu xây xong đập, nhưng chưa có thoả thuận cung cấp điện chính thức cho Slaco. Tuy nhiên, năm ngoái công ty thực hiện dự án đã gặp Slaco và biết rằng nếu Slaco xây dựng nhà máy chế biến nhôm thì Slaco sẽ cần rất nhiều năng lượng.) Dự án thủy điện Xekatam cũng đang được lập kế hoạch trên cao nguyên Bolaven. Các đập thủy điện có thể cung cấp năng lượng đáng kể cho hoạt động xử lý bauxite. Tại Campuchia, một đập thủy điện qui mô nhỏ đã được xây dựng với sự hỗ trợ tài chính từ Nhật Bản. Đập này cách Sen Monorum, thủ phủ tỉnh Mondulkiri, 10 cây số. Đập đã phát điện từ tháng 11/2008. Nguồn cung cấp điện bổ sung có thể nhập khẩu từ Sông Srepok tại các tỉnh gần biên giới Việt Nam. Thêm vào đó, một đập thủy điện lớn do Công ty Điện lực Việt Nam xây dựng với công suất ước tính 450 megawatt. Đập thủy điện này nằm tại vùng hợp lưu của hai sông Sesan và Srepok tỉnh Strung Treng thuộc Campuchia (cách Sen Monorum 200 cây số). Một hệ thống truyền tải đang được lên kế hoạch để đáp ứng nhu cầu của Campuchia.
3.5. Liên kết khu vực nhờ đường sắt và cảng biển
Tất cả các công ty đầu tư đều sẽ tìm kiếm những cơ hội rẻ nhất để vận chuyển nhôm oxit và nhôm ra thị trường. Phần lớn sẽ sang Trung Quốc, nhưng cũng có thể sang các thị trường quốc tế khác. Chẳng hạn, công ty Úc là ORD River Resources đã nhấn mạnh đến lợi thế gần gũi của mỏ bauxite tại cao nguyên Bolaven – Nam Lào với nhà ga xe lửa tại Ubon Ratchani – Thái Lan (cách 50 cây số) và với cảng biển Đà Nẵng tại miền Trung Việt Nam, cảng này có thể tiếp cập thông qua đường 18B Lào và cách đó 200 cây số. Đây là những đường liên lạc giao thông khả dĩ. Bauxite, nhôm oxit, hoặc nhôm được sản xuất tại Lào có thể được gửi sang Trung Quốc hay ra thị trường thế giới bằng hai trục giao thông này.
Tại Campuchia, BHP Billiton đã nhận diện một vài phương án để vận chuyển bauxite về một nhà máy tinh chế nhôm oxit tại miền duyên hải. Bauxite có thể được vận chuyển qua đường ống, trong đó bauxite sẽ được pha với nước để tạo thành vữa chảy trong ống. Trong trường hợp này, việc xây dựng một đường ống dài tối thiểu 650 cây số từ Mondulkiri đến thành phố duyên hải gần nhất thuộc tỉnh Kampot hay Sihanoukville sẽ là một đầu tư tốn kém về thời gian lẫn tiền bạc. Bauxite cũng có thể được vận chuyển bằng đường sắt. Tuy nhiên, việc xây dựng mới một tuyến đường sắt dài khoảng 520 cây số từ Mondulkiri đến Phnom Penh cũng sẽ tốn kém và mất thời gian. Hạ tầng đường xá thì vẫn còn trong tình trạng hết sức tồi tệ trên toàn Campuchia, dịch vụ đường sắt đi từ Phnom Penh đến thành phố duyên hải thuộc tỉnh Kampot hay Sihanoukville thì lại kém cỏi. Tuy nhiên, khoảng cách từ Mondulkiri đến biên giới Việt Nam không quá 100 cây số. Tại Việt Nam, BHP Billiton đang có một dự án liên doanh với TKV để phát triển hạ tầng đường sắt đi từ Tây Nguyên đến tỉnh Bình Thuận thuộc Nam Trung Bộ.
Một cảng chuyên dụng ở tỉnh Bình Thuận với khả năng tiếp nhận các tàu 50.000 tấn cũng sẽ được xây dựng để phát triển công nghiệp bauxite tại Tây Nguyên và Nam Trung Bộ.
Ở Campuchia, nghị định bổ sung năm 2005 về hướng dẫn đầu tư khoáng sản đã ngăn cấm mọi hình thức xuất khẩu bauxite thô sang các quốc gia khác. (Chú thích: Điều 1 Nghị định bổ sung Số 008 ngày 31/01/2005 qui định: ‘Mọi dạng tài nguyên khoáng sản thiên nhiên đều không được phép xuất khẩu. Chúng phải được giữ lại để cung ứng cho các nhà máy trong nước nhằm chế biến những sản phẩm hoàn chỉnh. Chỉ có các sản phẩm hoàn chỉnh mới được phép xuất khẩu.’ Sau này ngày 29/09/2005 Điều 1 của Nghị định bổ sung đó đã sửa đổi thủ tục nhận giấy phép khai khoáng. Sửa đổi đột ngột này đã chứng tỏ rằng Chính phủ Campuchia sẵn sàng sửa Nghị định bổ sung số 008 khi năng lực chế biến khoáng sản không phù hợp với việc kinh doanh khoáng sản.) Tuy nhiên, Chính phủ Campuchia có thể sửa nghị định bổ sung này nhằm thỏa mãn các yêu cầu của BHP Billiton hoặc các công ty khai khoáng khác để xuất khẩu bauxite sang một nhà máy tinh chế nhôm oxit tại Việt Nam trong trường hợp các đường vận chuyển bauxite khác đều không khả thi về mặt kinh tế.
3.6. Liên doanh giữa các đối tác trong khu vực
Các công ty khai thác bauxite chính đang hoạt động trong khu vực đã nhận ra rằng nhiều cơ hội có thể được tạo ra bằng cách hợp tác và câu kết với nhau. Chẳng hạn, Chalco, nhà đầu tư chính trong tập đoàn Slaco, đã thỏa thuận với TKV về khai thác bauxite và chế biến nhôm oxit tại Việt Nam. LSI, một công ty Lào, đã tham gia liên doanh với cả Chalco và CNMIM/NFC để khai thác bauxite trên cao nguyên Bolaven. Cả TKV và Chalco còn có thể tham gia vào dự án Sarco. Sự kiện TKV mở văn phòng ở thủ đô Vientiane – Lào tháng 11/2007 đã đánh dấu một bước quan trọng trong chiến lược của TKV để mở rộng sang Lào. TKV còn thảo luận khả năng tham gia vào liên doanh giữa BHP Billiton và Mitsubishi tại Campuchia để thăm dò, khai thác và sản xuất nhôm oxit. Hơn nữa, tại Việt Nam, BHP Billiton đã liên doanh với TKV để phát triển hạ tầng đường sắt đi từ Tây Nguyên đến tỉnh Bình Thuận thuộc Nam Trung Bộ.
4. Các tác động môi trường, xã hội và kinh tế trong quyết sách khai thác bauxite
4.1. Khung pháp lý về môi trường và xã hội đã có, nhưng không được thực thi tốt
Quá trình để được phê duyệt tại một trong ba quốc gia thuộc khu vực Mekong thường liên quan đến một số bộ ngành chính, gồm Bộ Kế hoạch (chẳng hạn Hội đồng Phát triển Campuchia CDC, MPI Lào); Bộ Khoáng sản (chẳng hạn MIME Campuchia, Bộ Năng lượng và Khoáng sản MEM Lào); Bộ Nước và Môi trường (WREA Lào, Bộ Tài nguyên – Môi trường MONRE Việt Nam); Bộ Công thương và Bộ Tài chính Việt Nam; và nhiều cơ quan ra quyết định cấp cao, trực tiếp báo cáo Thủ tướng (chẳng hạn Hội đồng Bộ trưởng Campuchia). Tại cả ba nước, Thủ tướng sẽ ra quyết định cuối cùng và thường ký vào các thỏa thuận thăm dò hoặc khai thác khoáng sản.
Hiện đã có nhiều luật và chính sách liên quan đến những tác động môi trường, xã hội và kinh tế trong các hoạt động khai khoáng. Trong một số trường hợp, chẳng hạn tại Campuchia, nhiều điều luật hoặc nghị định bổ sung liên quan vẫn còn ở dạng dự thảo. Tuy nhiên, cơ may để các tác động môi trường hoặc xã hội có thể cản trở được một đầu tư tương lai là rất nhỏ ở cả ba nước. Nguyên nhân chủ yếu là do thiếu khả năng thực thi các qui định về môi trường, các qui trình không rõ ràng từ cả phía chính phủ lẫn công ty đang đầu tư, và thiếu quyết tâm chính trị để ép buộc phải tuân thủ các qui định. Hơn nữa, việc không công khai các tài liệu dự án đã ngăn trở việc phân tích đầy đủ về cách thức mà các công ty đã lên kế hoạch để giảm nhẹ những tác động môi trường và xã hội. Trong trường hợp của Lào, có thể thấy rằng Chính phủ Lào đã cung cấp cho Slaco những khuyến cáo về EIA của họ, nhưng vẫn còn chưa rõ là các khuyến cáo này có thể làm thay đổi các kế hoạch thực thi của công ty hoặc thay đổi tiến trình phê duyệt dự án hay không. Hơn nữa, thật khó xác định được liệu một đánh giá đầy đủ về các vấn đề môi trường và xã hội có được sát nhập vào quá trình ra quyết định hay không, bởi vì các EIA và những tài liệu liên quan ở cả ba nước đều không công khai cho công chúng, mặc dù các qui định đã qui định điều ngược lại. Tại Việt Nam, kinh nghiệm cho thấy việc chuẩn bị các EIA chỉ nhằm đáp ứng những yêu cầu tối thiểu của Chính phủ, các vấn đề môi trường chỉ được đề cập qua loa, giai đoạn thực thi không được kiểm soát gắt gao, các kế hoạch hoàn nguyên và dự án cải thiện không phải lúc nào cũng tuân theo EIA. Trong một số tình huống, chẳng hạn tại Việt Nam, một ví dụ điển hình về xung đột lợi ích (vừa đá bóng vừa thổi còi) là trường hợp của dự án nhôm oxit đầu tiên ở tỉnh Lâm Đồng: một công ty do chính chủ đầu tư TKV kiểm soát, lại đi thực hiện EIA.
4.1.1. Campuchia
Campuchia có hai luật chính đề cập đến việc quản lý và khai thác khoáng sản, đó là Luật Quản lý và Khai thác Tài nguyên Khoáng sản (2001) và Luật Bảo vệ Môi trường và Quản lý Tài nguyên Thiên nhiên (1996). Một số nghị định liên quan vẫn còn ở dạng dự thảo, gồm Nghị định bổ sung về Quyền và Trách nhiệm của nhân viên chuyên trách về việc Yêu cầu Tuân thủ Luật pháp, dự thảo Thông tư về Cho thuê mặt bằng khai khoáng và dự thảo Thông tư về phí đánh trên sản phẩm khai khoáng. Luật dành cho các Khu Bảo tồn cũng được ban hành vào đầu năm 2008; tuy nhiên, công tác khoanh vùng chưa được khởi động nhằm phân định khu vực hạn chế (khu lõi và khu bảo tồn), từ đó có thể gây khó khăn cho các hoạt động khai khoáng. Hiện nay một số hoạt động khai thác đã được cấp phép bên trong các khu bảo tồn.
Để được cấp phép thăm dò khoáng sản, công ty phải đăng ký với Bộ Thương mại để hoạt động như một công ty tư nhân, đồng thời phải đăng ký với Hội đồng Đầu tư Campuchia (CIB) trực thuộc CDC để hoạt động như một công ty đầu tư. MIME là cơ quan điều hành mọi hoạt động liên quan đến tài nguyên khoáng sản tại Campuchia, có chức năng cấp phép và ký thỏa thuận thăm dò khai thác. Người quyết định cao nhất trong việc cấp phép thăm dò và khai thác tài nguyên khoáng sản là Thủ tướng. Thông tư 001 về Đình chỉ và Thu hồi giấy phép khai thác tài nguyên khoáng sản (ngày 25/05/2004) đã liệt kê những vi phạm hợp đồng có thể khiến cho giấy phép phải bị đình hoãn, và nếu người được cấp phép không khắc phục được thì giấy phép sẽ bị thu hồi. CDC là tổ chức một-cửa chịu trách nhiệm phát triển và giám sát các hoạt động đầu tư. CDC gồm hai hội đồng: Hội đồng Phục hồi và Phát triển Campuchia, chịu trách nhiệm điều phối và quản lý các hoạt động hỗ trợ, và CIB, chịu trách nhiệm về xúc tiến, đánh giá, khuyến khích và lập kế hoạch chiến lược trong lĩnh vực đầu tư tư nhân.
Trong một số trường hợp, các cộng đồng địa phương tại Campuchia đã tố cáo rằng các công ty đã cho tiến hành khai thác mặc dù họ chỉ có giấy phép thăm dò, đây là hành động cần phải đình chỉ giấy phép để điều tra. Tuy nhiên, các quan chức chính phủ Campuchia lại khăng khăng cho rằng chẳng có hoạt động khai thác nào đang diễn ra. Năm 2007, để dự phòng cho bất kỳ dự án đặc biệt hoặc cấp bách nào mà Thủ tướng Campuchia đã phê duyệt, MOE đã thông báo rằng các công ty khai khoáng không còn phải thực hiện EIA như một điều kiện tiên quyết để có thể nhận được giấy phép thăm dò, và từ nay về sau, công tác khoanh vùng cho các khu bảo tồn chỉ được thực hiện một khi ‘các qui hoạch tổng thể’ nguồn khoáng sản đã được lập, thông qua sự hợp tác giữa MOE, MIME và các công ty khai khoáng tương lai. Tuy nhiên đối với các dự án công, các công ty bắt buộc phải tuân thủ các qui định EIA.
4.1.2. Lào
Tại Lào, khung pháp lý đã có và đang trong quá trình hoàn thiện. DGM trực thuộc MEM (vừa được thành lập) là cơ quan chịu trách nhiệm giám sát các chức năng khai khoáng, địa chất và kỹ thuật. Trực thuộc DGM, Phòng Quản lý Nhượng Quyền Khai khoáng chịu trách nhiệm soạn thảo các qui chế chính sách về điều tra, thăm dò, khai thác, môi trường và bảo vệ môi trường trong khai khoáng. Ngoài ra Phòng này còn chịu trách nhiệm chính trong việc giám sát, thẩm định và khuyến khích các hoạt động đầu tư khai khoáng.
MPI chịu trách nhiệm ký mọi thỏa thuận với các nhà đầu tư nước ngoài. Luật Xúc tiến Đầu tư nước ngoài (2004) hướng dẫn qui trình xin phép đầu tư nước ngoài.
Được thành lập vào năm 2007 và trực thuộc Văn phòng Thủ tướng (PMO), WREA là cơ quan chính điều phối việc quản lý và lập kế hoạch môi trường trong mọi lĩnh vực. Theo Luật Bảo vệ Môi trường, trách nhiệm của WREA bao gồm việc xây dựng các chiến lược thực thi chính sách môi trường, tiếp nhận đánh giá các EIA và những tài liệu thuyết minh khác, chấn chỉnh các cơ quan chủ quản để cắt giảm hoặc điều chỉnh các hoạt động gây hại môi trường. WREA đã lập ra nhiều qui định môi trường liên quan đến các EIA để từ đó các cơ quan chủ quản phải chịu trách nhiệm xây dựng và thực thi những hướng dẫn EIA trong lĩnh vực mà mình quản lý. Đối với lĩnh vực khai khoáng, DEM chịu trách nhiệm đảm bảo rằng mọi dự án khai khoáng đều được phê duyệt thông qua qui trình EIA mà WREA đã đề ra và tuân thủ các tiêu chuẩn đó. Sở Đánh giá Tác động Môi trường và Xã hội được thành lập vào tháng 10/2008, chịu trách nhiệm xét duyệt các tài liệu EIA do các công ty khai khoáng đệ trình, đồng thời chịu trách nhiệm thẩm định địa điểm. Các đề đạt cuối cùng sẽ được trình lên Bộ trưởng WREA để được cấp Chứng chỉ Tuân thủ Môi trường (ECC). Để nhận được ECC đòi hỏi phải trải qua một qui trình khá phức tạp và cơ quan thi hành sẽ thực hiện nhiệm vụ này. (Chú thích: Ba cơ quan tham gia vào việc cấp ECC: (1) Đối với những dự án có các tác động nhỏ, các Bộ chủ quản có Phòng Quản lý Môi trường, chẳng hạn MEM, sẽ chịu trách nhiệm xét duyệt các dự án đó. Về lý thuyết, MEM sẽ gửi công văn đề nghị WREA cấp ECC – nhưng trên thực tế, đôi khi WREA không biết đến các dự án này. (2) Trong trường hợp Bộ chủ quản không có Phòng Quản lý Môi trường, WREA chịu trách nhiệm thực hiện qui trình xét duyệt để thẩm định môi trường sơ bộ – IEE. (3) Trong trường hợp đặc biệt, Bộ Công Thương sẽ chịu trách nhiệm xét duyệt và cấp ECC cho những đầu tư ở mức IEE đối với các dự án được xem là nhỏ về độ phức tạp cũng như về phạm vi ảnh hưởng. Khúc mắc chính nằm ở cơ quan thi hành là MEM, vì MEM là đơn vị duy nhất chịu trách nhiệm quyết định qui mô mỏ nào sẽ cần IEE, EIA hoặc không cần đánh giá.) Một qui định mới do WREA dự thảo đã đệ trình để Quốc Hội Lào thông qua vào tháng 12/2008. Qui định mới này sẽ có một qui trình sàng lọc mới, dựa trên một số chỉ tiêu nhằm xác định xem cần phải thực hiện loại đánh giá nào, đặt cơ sở trên qui mô của dự án. Thay vì một EIA chính thức, một thẩm định môi trường sơ bộ (IEE) (Chú thích: Tại Lào cũng như tại hầu hết các quốc gia, việc xác định xem một dự án có cần EIA hay không, nếu có thì qui mô của EIA ra sao, đều dựa vào qui trình sàng lọc môi trường và IEE.) sẽ được yêu cầu đối với các dự án gây tác động nhỏ, còn những dự án gây nhiều tác động đáng kể thì sẽ phải cần EIA. Bảng 4 cho biết những chỉ tiêu dùng để xác định các yêu cầu đánh giá. Ngoài ra, còn có Hội đồng Môi trường Quốc gia trực thuộc PMO là cơ quan tư vấn cho WREA trong việc phê duyệt các dự án khai khoáng đã đệ trình.
Bảng 4: Các chỉ tiêu xác định loại đánh giá môi trường tại Lào
Phần lớn vấn đề với khung pháp lý của Lào đều liên quan đến việc yêu cầu công ty phải tuân thủ các qui định. Nhiều cơ quan chính phủ kém khả năng chấn chỉnh và kiểm soát các hoạt động khai khoáng, đồng thời còn thiếu tư vấn cộng đồng. Vấn đề lớn là hầu như mọi thông tin về các dự án khai khoáng đều do chính công ty cung cấp hoặc thi thoảng từ chính phủ (mặc dù thông tin này cũng thường phát xuất từ công ty). Chính phủ vẫn phải hoàn toàn dựa vào các báo cáo giám sát môi trường do công ty cung cấp để theo dõi các tác động môi trường. Do không có bất kỳ giám sát hay đánh giá từ bên ngoài/độc lập, sẽ rất khó nhận ra được các tác động tiêu cực cụ thể.
Trước đây, một số dự án chỉ ký thỏa thuận với lãnh đạo địa phương theo Luật Đầu tư Nước ngoài. Điều này là được phép nếu đầu tư dưới một mức nhất định. Nhưng trong thực tế, các công ty có thể thi hành chiến lược đầu tư ít ở giai đoạn thăm dò để lách nhiều qui định và qui trình của chính phủ trung ương. Các quan chức chính phủ trung ương cũng đã phát hiện và nêu ra nhiều quan ngại về vấn đề này, do vậy mà hiện nay Lào đang phải rà soát lại qui trình, đầu tư và luật khai khoáng.
Thông qua DGM, nhà đầu tư tương lai sẽ chọn địa điểm rồi trình lên MPI dưới dạng một đơn xin cấp phép đầu tư nước ngoài. Bên trong MPI của Lào có một Văn phòng Trung Quốc riêng biệt chuyên hỗ trợ đầu tư từ các công ty Trung Quốc (Chú thích: Không thể có được thông tin về văn phòng này), điều này chứng tỏ tầm quan trọng của Trung Quốc đối với Lào. Năm 2006 công ty ORD của Úc đã báo cáo rằng các nhượng quyền sẽ rất khó đạt được nếu không có một đối tác Trung Quốc. Vì thế ORD đã phải liên doanh với NFC, bằng không thì ORD không thể hoàn tất quá trình đàm phán. Vinay Inthavong, một doanh nhân Lào đồng thời là chủ tịch Tập đoàn Vico cho rằng, lãnh đạo cấp cao của Lào phải tuân thủ các yêu cầu của hai nhà hàng xóm quan trọng: ‘Nếu muốn duy trì quyền lực, các nhà lãnh đạo Lào phải ủng hộ Trung Quốc và Việt Nam.’
4.1.3. Việt Nam
Tại Việt Nam, Ủy ban Nhân dân tỉnh sẽ cấp giấy phép đầu tư và yêu cầu các bộ, ngành cho ý kiến về các hồ sơ liên quan cũng như thông tin về nhà đầu tư. Cơ quan Cấp Giấy phép Đầu tư sẽ thực hiện việc đánh giá rồi trình Thủ tướng phê duyệt. MONRE chịu trách nhiệm quản lý các nguồn tài nguyên khoáng sản trong phạm vi cả nước (Chú thích: Điều 55 Luật Khoáng sản). Bộ Công thương thực hiện quản lý nhà nước về khai thác, chế biến và kinh doanh khoáng sản. Uỷ ban nhân dân các cấp thực hiện quản lý nhà nước về khoáng sản tại địa phương theo thẩm quyền.
Luật Khoáng sản Việt Nam yêu cầu các nhà đầu tư phải lập báo cáo EIA (Chú thích: Nghị định 80/2006/NĐ-CP của Chính phủ ngày 09/08/2006 đã đưa ra một danh mục gồm 102 dự án phải lập báo cáo EIA, trong đó có các dự án khai thác và chế biến khoáng sản) song song với việc lập báo cáo đầu tư. Những dự án đầu tư trong các hoạt động khai khoáng chỉ được phê duyệt và cấp giấy phép sau khi EIA đã được đánh giá. Cùng với báo cáo EIA, dự án phải lập kế hoạch cải tạo phục hồi môi trường, ký quỹ và tiếp tục đảm bảo hoàn nguyên môi trường năm năm sau khi dự án kết thúc. (Chú thích: Quyết định 71/2008/QĐ-TTg của Thủ tướng về việc ký quỹ cải tạo, phục hồi môi trường đối với hoạt động khai thác khoáng sản)
Các kế hoạch đầy tham vọng của Việt Nam về khai thác bauxite tại Tây Nguyên đã lờ đi những yêu cầu của Luật Bảo vệ Môi trường là phải thực hiện Báo cáo Đánh giá Môi trường Chiến lược (SEA) (Chú thích: SEA thường được thực hiện ở các cấp cao để ra quyết định. Đây là quá trình nhằm tiên liệu và thảo luận về các hậu quả môi trường tiềm ẩn ngay tại giai đoạn đầu của một chính sách, kế hoạch hoặc chương trình. Còn EIA lại tập trung nhiều hơn vào một đề xuất phát triển cụ thể trước khi ra các quyết định quan trọng và trước khi thực hiện các cam kết) trước khi lập các kế hoạch. Tương tự với cao nguyên Bolaven tại Lào, Tây Nguyên là một khu vực nhạy cảm về môi trường và xã hội. Nếu không có SEA, như nhiều chuyên gia và nhà khoa học đã phát biểu trong hội thảo tháng 12/2007 tại thị xã Gia Nghĩa tỉnh Đăk Nông (Chú thích của người dịch: tác giả đã ghi sai thời điểm, đúng ra là tháng 10/2008), các tác động có tính lũy tích và liên khu vực lên môi trường, kinh tế và xã hội sẽ rất đáng kể. Thậm chí một số quan chức tại Bộ Công thương và Uỷ ban Nhân dân tỉnh Đăk Nông cũng lo lắng về vấn đề quản lý môi trường của các dự án này trong tương lai nếu không có SEA cho việc lập kế hoạch khai thác bauxite.
Tình trạng không có SEA là do Việt Nam thiếu kinh nghiệm thực hiện SEA, do hạn chế về ngân sách của Chính phủ trong việc thực thi các qui định và do nhu cầu khai thác bauxite cấp bách để đáp ứng nhu cầu trên thị trường. (Chú thích: Trong lúc Việt Nam còn thiếu năng lực thực hiện SEA thì một SEA trong lĩnh vực thủy điện hiện nay đang được tiến hành, từ đó SEA có thể được tái lập cho lĩnh vực khai khoáng bauxite).
Đến cuối năm 2008, có duy nhất một dự án tổ hợp bauxite-nhôm đã được đánh giá (duy nhất hạng mục sản xuất alumina của dự án) – đó là dự án Lâm Đồng. Dự án bauxite-alumina Nhân Cơ tại Đăk Nông đang được điều chỉnh lên đến 600.000 tấn mỗi năm và đang đợi để được đánh giá lại. Những báo cáo EIA cho các dự án tuyển và khai thác quặng vẫn còn trong quá trình chuẩn bị. Về đầu tư và các báo cáo EIA cho những dự án này, nhiều công ty tư vấn khác nhau đã tham gia hỗ trợ chủ đầu tư (TKV), nhưng thực chất thì các đơn vị tư vấn này hoặc trực thuộc TKV, Bộ Công thương hoặc những viện nghiên cứu nước ngoài do các đối tác nước ngoài mời tham gia. Quá trình này chưa lôi kéo những tổ chức xã hội chẳng hạn các tổ chức khoa học công nghệ và đơn vị tư vấn độc lập nhập cuộc. Các báo cáo EIA cho Lâm Đồng và Nhân Cơ đã được lập bởi Công ty cổ phần Tin học, Công nghệ và Môi trường Than – Khoáng sản Việt Nam, đây lại là một công ty do TKV kiểm soát.
Theo các nghiên cứu thực địa tại các tỉnh Lâm Đồng và Đăk Nông, thực tế thì quá trình phê duyệt dự án tổ hợp bauxite-nhôm Lâm Đồng và dự án nhôm oxit Nhân Cơ đã không được thực thi như đã qui định. Các dự án này đã được thực hiện trong lúc quá trình khai thác còn chưa được tiến hành và kết thúc (quyết định về quy hoạch phân vùng khai thác đã được công bố vào tháng 05/2007 trong Quyết định 167/2007/QĐ-TTg của Thủ tướng chính phủ). (Chú thích của người dịch: tác giả đã ghi sai thời điểm, đúng ra phải là tháng 11/2007). Kết quả là báo cáo đầu tư và kế hoạch thực thi đã phải được thực hiện song song. Tại nhà máy nhôm oxit Nhân Cơ, đất đai đã được giải tỏa từ tháng 12/2005 để xây dựng một phân xưởng sản xuất nhôm oxit với công suất dự kiến 100.000 tấn nhôm oxit mỗi năm. Tuy nhiên trong quá trình thực hiện, công suất đã được điều chỉnh thành 300.000 tấn mỗi năm vào năm 2006, rồi lại lên 600.000 tấn mỗi năm vào năm 2008. Người ta suy đoán rằng đây có thể là chiến lược của công ty để lách nhiều ràng buộc đối với những dự án lớn bằng cách khởi đầu với qui mô nhỏ rồi sau đó mở rộng thêm. Cho đến nay, mặc dù Uỷ ban Nhân dân tỉnh Lâm Đồng đã cấp giấy phép cho tổ hợp bauxite-nhôm và Uỷ ban Nhân dân tỉnh tỉnh Đăk Nông đã cấp giấy phép cho dự án bauxite-nhôm oxit, thật ra thì chỉ có hạng mục nhà máy nhôm oxit của các dự án đã được tiến hành. Còn nhà máy tuyển và khai thác quặng thì vẫn trong quá trình hình thành.
Hộp tin 2: Các đơn vị tham gia lập các báo cáo đánh giá cho dự án tổ hợp bauxite-nhôm Lâm Đồng
Bảng 5: Quá trình thành lập và phê duyệt dự án tổ hợp bauxite-nhôm Lâm Đồng
4.2. Thiếu minh bạch và khả năng tiếp cận thông tin
Ở cả ba nước, những EIA được lập cho các dự án khai thác bauxite đều không được công khai, mặc dù các qui định đã chỉ rõ rằng chúng phải ở trạng thái sẵn sàng cung cấp hoặc được đặt tại nơi công cộng. Ở Việt Nam, các EIA thường bị cho là quá chung chung, còn những SEA thì chưa làm, mặc dù các qui định có yêu cầu. Tại Lào, Chính phủ vẫn chưa hiểu rõ các EIA, mặc dù tiền mới tài trợ đang dùng để xây dựng năng lực tối cần cho WREA. Ở Campuchia, MIME giữ bí mật hoạt động khai thác bauxite và tất cả các hoạt động tài nguyên khoáng sản khác trên toàn Campuchia, do Luật Khoáng sản qui định cụ thể rằng mọi đơn từ, báo cáo, kế hoạch và thông cáo liên quan đến thăm dò và khai thác đều phải được bảo mật. Tất nhiên những tổ chức công cũng như tư và các tổ chức phi chính phủ đều không thể tiếp cận thông tin về những giấy phép cũng như thỏa thuận về thăm dò khoáng sản. Báo cáo thường niên của Tổng Cục Tài nguyên Khoáng sản Campchia được xem là tài liệu mật, còn việc đi thăm địa điểm có hoạt động khai khoáng thì bị cấm đoán triệt để. Có rất ít liên hệ giữa MIME và các văn phòng chính phủ khác: MOE không được tư vấn trong việc chuẩn bị điều khoản bảo vệ môi trường trong Thỏa thuận Khai thác Khoáng sản. Tuy nhiên, Luật Bảo vệ Môi trường và Tài nguyên Thiên nhiên thì lại cho phép người dân có quyền yêu cầu MOE cung cấp thông tin về các hoạt động của mình, đồng thời khuyến khích người dân tham gia bảo vệ môi trường và quản lý tài nguyên thiên nhiên. Đây là một minh họa về tình trạng chồng chéo trong thực thi pháp lý và xung đột trong luật pháp về vấn đề công khai thông tin.
4.3. Các giấy phép thường được cấp bất chấp các quan ngại về môi trường và xã hội
Trong khi tại Campuchia, nhiều quan ngại về môi trường và xã hội chỉ đóng vai trò thứ yếu trong quá trình ra quyết định từng bước về thăm dò khai thác bauxite, mặc dù có sự tham gia của MOE, một quá trình như thế dường như đang được triển khai tại Lào đối với dự án Slaco. Ở đó, WREA đã đi thị sát địa điểm dự án rồi sau đó gửi lại cho công ty nhiều bình luận về EIA mà công ty đã lập, nêu ra hơn 50 vấn đề. Hoạt động này bao gồm nhiều quan ngại cho rằng báo cáo EIA liên quan cần phải bổ sung kế hoạch phát triển các dân tộc thiểu số và/hoặc báo cáo tìm đất kèm theo đền bù hoặc kế hoạch tái định cư theo Nghị định 192 về Đền bù và Tái Định cư cho người dân chịu ảnh hưởng bởi các dự án triển khai và các Qui định hướng dẫn thi hành số 2432. Hiện nay Slaco đang trong quá trình cung cấp cho Chính phủ Lào nhiều chi tiết hơn theo các yêu cầu của chính phủ. Tuy nhiên, cần để ý thêm rằng việc xây dựng đã được tiến hành tại địa điểm dự án, bất chấp nhiều quan ngại đã được nêu ra xung quanh các vấn đề môi trường và xã hội cộng với tình trạng thiếu chứng chỉ ECC.
4.4. Lợi ích không chắc chắn cho các cộng đồng địa phương
Nhiều cơ hội có thể đến với các cộng đồng địa phương qua việc tiếp nhận những tài trợ nhằm phát triển hạ tầng nông thôn, công nghiệp nhỏ, chế biến nông lâm sản, và tạo ra việc làm cho lao động địa phương, từ đó có thể đem lại các thay đổi tích cực trong cộng đồng. Nhưng lĩnh vực khai khoáng nói chung đòi hỏi những kỹ năng kỹ thuật cao. Có rất ít cơ hội để các cộng đồng địa phương có thể tham gia vào những hoạt động khai khoáng, cũng chẳng mấy chắc chắn về cơ may các lợi ích đó đang trở nên hiện thực. (Ghi chú: Cần để ý rằng một số dự án do Úc thực hiện đã triển khai nhiều dự án phát triển cộng đồng) Cả ba quốc gia đều không có kinh nghiệm khai thác và chế biến bauxite, vì vậy việc nhập khẩu công nghệ, trang thiết bị và nhân lực phù hợp là rất cần thiết. Hơn nữa, kinh nghiệm từ nhiều kiểu đầu tư khác của Trung Quốc đã minh chứng rằng Trung Quốc thường đưa nhân công của họ vào để thực hiện dự án. Thêm vào đó, tại khu vực khai thác bauxite ở cả ba nước đều có nhiều dân tộc thiểu số sinh sống, núi rừng mà tổ tiên của họ đã truyền lại có thể bị xâm phạm, đồng thời có rất ít cơ hội tạo ra việc làm và thu nhập cho họ. Chẳng hạn tại Campchia, các cộng đồng và chính quyền địa phương hiếm khi thấy được bất kỳ thu nhập trực tiếp nào đem lại từ các hoạt động khai khoáng, bởi vì họ chẳng nhận được bất kỳ khoản thu nhập thuế hoặc trợ cấp hoàn nguyên để phục hồi địa điểm khai khoáng nào từ công ty khai thác.
4.5. Thiếu tư vấn cộng đồng
Ở cả ba nước, thông tin bị hạn chế hoặc hoàn toàn không có thông tin đề cập đến phương cách và thời điểm các cộng đồng chịu ảnh hưởng sẽ được tư vấn về các hoạt động đầu tư khai khoáng. Vì vậy rất khó xác định được vai trò hoặc đóng góp của các cộng đồng vào việc triển khai các dự án khai thác bauxite. Tuy nhiên, các bằng chứng trong quá khứ, chẳng hạn trong lĩnh vực thủy điện, đã minh chứng rằng ở cả ba nước, nếu có các tư vấn thì chúng thường được tổ chức cho các trưởng làng, mà những người này thì không đại diện cho các quan ngại của cộng đồng được. Một số cộng đồng đã than phiền rằng họ ít được cung cấp thông tin, được thông báo hoặc chẳng được tư vấn gì cả.
5. Kết luận
Campuchia, Lào và Việt Nam có thể thu lợi rất nhiều từ khai thác bauxite qua doanh thu và việc làm. Tuy là nguyên liệu đầu của mọi sản phẩm nhôm, nguồn khoáng sản quan trọng này lại nằm ở một vùng nhạy cảm về môi trường thuộc khu vực sông Mekong. Tỉnh Mondulkiri Campuchia tự hào với bốn khu bảo tồn đời sống hoang dã và hai rừng bảo tồn cấp quốc gia. Cao nguyên Bolaven Lào có rừng bạt ngàn, nhiều vùng đất nông nghiệp quan trọng, cũng như nhiều động thực vật quý hiếm. Cao nguyên Việt Nam là một vùng đất vô cùng màu mỡ với những vườn cà phê rộng lớn và tiềm năng du lịch sinh thái khổng lồ. Cả ba vùng này đều là nơi cư trú của nhiều cộng đồng dân tộc thiểu số, họ đã bám trụ vào các vùng đất này qua bao đời nay.
Nhiều quan ngại về khai thác bauxite phát sinh từ những hậu quả khôn lường về môi trường và xã hội của các dự án khai khoáng kể trên. Như hầu hết các dự án phát triển khác, người dân sẽ phải gánh chịu hậu quả, họ thường phải từ biệt đất đai của mình để tái định cư nơi khác hoặc phải khổ sở chịu đựng những ô nhiễm môi trường cùng với điều kiện sống tệ hại hơn trước. Môi trường cũng phải gánh chịu hậu quả vì hoạt động khai thác bauxite sẽ thải ra nhiều độc chất vốn phải được lưu giữ ở nơi an toàn và vĩnh viễn. Với đặc trưng hệ thống sông ngòi chằng chịt ở cả ba quốc gia, nguồn nước sẽ bị ảnh hưởng cả về chất lẫn về lượng; thêm vào đó, quá trình luyện nhôm cần nguồn cung khủng khiếp về điện và lại phải rẻ tiền.
Một số tử huyệt luôn song hành với việc khai thác trong khu vực này. Thứ nhất, cho đến nay khu vực này chưa thể tiếp cận được nguồn năng lượng rẻ tiền. Phát triển thủy điện thì lại không đồng bộ với các dự án bauxite đã được đề xuất, mà thủy điện thì chưa thể được bán với giá đủ rẻ để giúp hoạt động luyện nhôm trở nên hiệu quả, cho dù đang có nhiều dự án được lập để khai thác các nguồn thủy điện. Các nhà máy điện đốt than đang được sử dụng làm nguồn năng lượng và hơi nóng cho các công đoạn khai thác và tinh chế nhôm oxit, nhưng bị cho rằng không phải là nguồn năng lượng khả thi để luyện nhôm. Thứ hai, trên thế giới chỉ có vài nước xuất khẩu bauxite thô, nếu xuất khẩu nhôm oxit thì vận chuyển sẽ hết sức khó khăn. Vì thế, cách tốt nhất là ba nước cố gắng thực hiện toàn bộ dây chuyền, từ khai thác bauxite, tinh chế nhôm oxit cho đến luyện nhôm.
Hãy bàn về Trung Quốc. Mặc dù không phải là nhà đầu tư duy nhất trong khu vực, Trung Quốc đóng vai trò mạnh mẽ ở cả Lào lẫn Việt Nam. Tại Việt Nam, các công ty Trung Quốc đang tham gia xây dựng các nhà máy nhôm oxit, trong khi đó tại Lào, các công ty Trung Quốc lớn đã dự phần vào việc hình thành hai liên minh của các nhà đầu tư, một số công ty nhỏ thì đang hoạt động độc lập. Trung Quốc đang cần nhôm để nuôi các ngành công nghiệp ô tô và đóng gói đang trên đà tăng trưởng của mình trong khi tài nguyên trong nước thì không đủ cung. Trung Quốc còn là kẻ liều lĩnh, hay nhảy vào những đàm phán đầu tư hết sức phức tạp mà có thể chẳng thấy được thành quả.
Câu chuyện bauxite tại khu vực này sẽ còn tiếp tục có nhiều mắc mứu, như những gì đã diễn ra từ trước đến nay. Một số dự án đã phải đình hoãn do bị công chúng phản đối kịch liệt, như trường hợp tại Việt Nam. Người dân có nhiều quan ngại sâu sắc về tính đúng đắn của các dự án này. Trường hợp của Lào thì tình hình có vẻ yên ắng, nhưng ngày càng có nhiều người trong chính phủ quan tâm nhiều hơn đến các vấn đề tiềm ẩn của bauxite, cả tích cực lẫn tiêu cực, và họ đang mong được hỗ trợ để hiểu biết nhiều hơn về nó. Tại Campuchia, nhiều lời đồn cho hay, nhà đầu tư chính tại tỉnh Mondulkiri là BHP Billiton đã rút lui; tuy nhiên, chưa có xác nhận chính thức nào về tin đồn này. Trong khi đó, những công ty như Rio Tinto đang lên kế hoạch đầu tư tại Lào, còn những công ty khác sẽ đến rồi đi. Xa hơn nữa, bằng cách nào mà Trung Quốc giải tỏa được cơn đói về nguyên liệu nhôm, đặc biệt là khi cơn đói này tác động đến các quốc gia và người dân trong khu vực sông Mekong, thì vẫn còn phải chờ xem.
Việc sản xuất nhôm từ bauxite bao gồm một số qui trình (Hình 9):
Khai thác bauxite: Nhiều hoạt động cần được thực hiện tại công đoạn này, bao gồm việc tái định cư người dân, phát quang, xúc bỏ lớp đất trên bề mặt rồi thu hoạch bauxite thô. Sau công đoạn này, bauxite thô sẽ được xe tải chở đến nhà máy tuyển quặng tinh.
Tuyển quặng tinh: Trong nhà máy, nước với áp lực mạnh được dùng để rửa bauxite thô. Công đoạn này cần nước khủng khiếp và sẽ thải ra nước kèm theo bùn (không có hóa chất độc hại) ra môi trường. Sau đó quặng bauxite tinh được tải trên băng chuyền đưa vào nhà máy chế biến nhôm oxit.
Chế biến nhôm oxit: Qui trình này bao gồm các bộ phận sau: (1) nhà máy nhôm oxit; (2) nhà máy nhiệt năng đốt than; và (3) những hồ chứa bùn đỏ và bùn oxalate. Người ta thực hiện các bước sau:
Tinh chế nhôm: Điện phân nhôm oxit nóng chảy trong cryolite để thu được nhôm kim loại. Qui trình này cần điện khủng khiếp và lại phải rẻ. Công nghệ hiện đại sẽ cần khoảng 14.500 kilo-oat mỗi giờ để tinh chế một tấn nhôm. Trong cả ba nước khu vực sông Mekong, với tình trạng thiếu điện hiện nay, trong nước không thể tinh chế nhôm, mà chỉ có thể sản xuất nhôm oxit rồi xuất khẩu sang nước khác. Trung Quốc rất có thể là nước sẽ mua nhôm oxit.
Để sản xuất 1 tấn nhôm sẽ cần tinh chế 2-2,5 tấn nhôm oxit (tương đương với 5 tấn quặng tinh bauxite, hay 10 tấn bauxite thô đã qua xử lý), và thải ra 3 tấn bùn đỏ. Một tấn than được dùng để sấy khô 1 tấn nhôm oxit.
Hình 9: Các qui trình sản xuất nhôm từ bauxite
Phụ lục 2: Quyết định 167/2007/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ Việt Nam
Đây là văn bản quan trọng nhất của Chính phủ Việt Nam liên quan đến khai thác bauxite. Có thể tham khảo văn bản này trên nhiều trang web tại Việt Nam, chẳng hạn
http://www.ciren.gov.vn/uploads/1201676594_167-2007-QD-TTg.pdf
HO Mạng Bauxite Việt Nam biên tập
Vai trò của Trung Quốc tại khu vực sông Mekong
Bauxite Việt Nam dịch.Từ Kate M. Lazarus, In Search of Aluminum: China’s Role in the Mekong Region. Heinrich Böll Stiftung, WWF, IISD, 2009.
Bảng chú giải thuật ngữ
1. Giới thiệu
Tại Campuchia, Lào và Việt Nam, khai thác bauxite được xem là lĩnh vực mới nổi và chính phủ đang được xúc tiến đầu tư vào lĩnh vực này. Vùng tam giác gồm Đông Bắc Campuchia, Nam Lào và Tây Nguyên Việt Nam đã nổi lên thành vùng quan trọng chiến lược về khai thác bauxite liên quốc gia. Đây còn là vùng đang trải qua giai đoạn phát triển quan trọng, bao gồm xây dựng đường xá để tạo thuận lợi cho thông thương, phát triển thủy điện trong lưu vực của ba sông Sekong – Sesan – Srepok và nhiều dự án sản xuất lúa gạo qui mô lớn.
Khai thác bauxite có tiềm năng trở thành một hoạt động khai khoáng qui mô lớn ở cả ba nước, cung cấp nguồn thu vô cùng cần thiết cho nước sở tại, đồng thời cung cấp khoáng sản cho thị trường, chủ yếu là Trung Quốc. Tại Việt Nam, khai thác bauxite là một chủ trương lớn của Chính phủ và hợp tác với Trung Quốc được xem là đường lối quan trọng để có thể thành công trong lĩnh vực này. Tại Lào, cao nguyên Bolaven có tiềm năng trở thành một trong những mỏ bauxite lớn nhất thế giới, và dự kiến Trung Quốc sẽ dùng bí quyết và tài nguyên công nghệ để hỗ trợ chủ trương lớn của chính phủ Lào trong việc mở rộng và cải thiện lĩnh vực khai khoáng. Bên cạnh đó, vùng Đông Bắc Campuchia cũng là nơi cung cấp nguồn tài nguyên bauxite quan trọng. Các nhà đầu tư Úc đang có ảnh hưởng lớn đối với vùng này. Thêm vào đó, Trung Quốc đang đóng vai trò quan trọng trong việc cải thiện hạ tầng đường xá, tạo thuận lợi cho việc vận chuyển tài nguyên ra thị trường.
Trong khi khai thác bauxite có thể đem lại các lợi ích kinh tế đáng kể cho doanh nghiệp và nhà nước, chẳng hạn xây dựng hạ tầng nông thôn, hình thành ngành công nghiệp mới cho địa phương và tạo ra việc làm, thì các tác động tiêu cực đến môi trường và xã hội có thể làm xói mòn các tiềm năng kinh tế này. Chẳng hạn, tại Campuchia, Lào và Việt Nam, vị trí mỏ bauxite nằm ngay trên những vùng đất nông nghiệp và rừng quan trọng. Trong tương lai, rất có thể sẽ xảy ra các xung đột giữa các cộng đồng địa phương đang sử dụng đất cho nhu cầu sinh kế của họ và các nhà khai thác qui mô lớn, được chính quyền địa phương cũng như nhà nước ủng hộ. Khai thác bauxite sẽ đi kèm với phát triển thủy điện, xây hồ chứa nước, ô nhiễm, dòng xả và các nhà máy nhiệt điện dùng than, tất cả đều đem lại nhiều thay đổi quan trọng đến đất đai, nguồn nước và sinh kế. Tình trạng mất mát thảm thực vật sẽ khiến diện tích rừng bị giảm, từ đó tác động đến đa dạng sinh học (một số vùng có động thực vật quí hiếm) và giảm nguồn cung cấp nước. Tìm cho được một công nghệ thân thiện môi trường là nhiệm vụ then chốt khi cho tiến hành khai thác bauxite cùng với việc xử lý alumina và nhôm.
Công trình này nhằm cung cấp một tổng quan tóm lược về khai thác bauxite tại ba địa điểm chính ở Campuchia, Lào và Việt Nam. Tài liệu này sẽ nghiên cứu sâu vai trò của Trung Quốc trong đầu tư khai thác bauxite và hạ tầng cơ sở trong khu vực, đặt Trung Quốc vào vị trí chiến lược của một thị trường tiêu thụ bauxite, alumina và nhôm chủ yếu từ ba quốc gia này. Việc hiểu rõ các liên kết toàn khu vực đằng sau quyết sách khai thác bauxite tại Campuchia, Lào và Việt Nam là chìa khóa để nhận diện được qui mô của các tác động tích cực cũng như tiêu cực. Công trình này còn làm sáng tỏ mức độ quan tâm đến các tác động môi trường và xã hội trong quá trình quyết định xoay quanh các dự án khai thác bauxite.
Các nghiên cứu tại ba quốc gia, gồm báo cáo thực địa từ tỉnh Mondulkiri tại Campuchia, hai tỉnh Champassak và Attapeu tại Lào, và tỉnh Đắk Nông tại Việt Nam, đã được phân tích và tích hợp vào công trình này. Chủ đề chính của công trình bị xem là nhạy cảm từ phía các quan chức chính phủ, nhà nghiên cứu và nhà hoạt động xã hội dân sự trong vùng, thêm vào đó rất nhiều thông tin cung cấp cho công trình này xuất phát từ những cuộc phỏng vấn với các nguồn tin có yêu cầu không nêu danh tính, và do vậy đã không được trích dẫn. Hơn nữa, mặc dù đã có nhiều cải thiện, hệ thống doanh nghiệp và quản lý ở cả ba quốc gia vẫn còn chưa minh bạch. Việc hiểu biết về các nhà đầu tư và các qui trình đầu tư còn mơ hồ, và việc không thể tham khảo các tài liệu liên quan, chẳng hạn các đánh giá tác động môi trường (EIA), cũng đã khiến việc thực hiện công trình này hết sức khó khăn.
2. Đầu tư khai thác bauxite tại Campuchia, Lào và Việt Nam
Trong khu vực sông Mekong, Việt Nam có tiềm năng bauxite lớn nhất, ước tính khoảng 5,4 tỉ tấn, chủ yếu được phát hiện tại Tây Nguyên. Trên cao nguyên Bolaven – Nam Lào, theo giá nhôm vào thời điểm năm 2007 thì giá trị tài nguyên bauxite ở đó ước tính vào khoảng 3.200 triệu đô-la Mỹ. Tại Campuchia, giá trị trữ lượng bauxite chưa được công bố chính thức.
Phần sau sẽ trình bày chi tiết vị trí khai thác bauxite, các nhà đầu tư chính và qui mô đầu tư của từng nước.
2.1. Campuchia
Campuchia kỳ vọng rất nhiều vào tiềm năng khai thác các mỏ bauxite lớn để đem lại doanh thu khổng lồ. Tuy nhiên, bản chất của tiềm năng này chưa được hiểu đúng, bởi vì các công ty đang tìm kiếm cơ hội đầu tư vào bauxite đều ở giai đoạn thăm dò. Công ty Úc BHP Billiton, hợp tác cùng công ty Mitsubishi của Nhật, đang thăm dò trên một vùng rộng lớn để khai thác bauxite tại tỉnh Mondulkiri (Chú thích: Vào giữa năm 2009, nhiều lời đồn rằng BHP Billiton đã ngưng thăm dò bauxite tại Campuchia. Nhưng tin đồn đó chưa kiểm chứng được vào thời điểm kết thúc công trình này). Tuy nhiên, hiện nay chưa có đầu tư nào từ Trung Quốc vào khai thác bauxite tại quốc gia này.
2.1.1. Tỉnh Mondulkiri
Tỉnh Mondulkiri nằm ở phía Đông Bắc Campuchia là một trong những tỉnh nghèo nhất nước. Nó cách Phnom Penh, thủ đô Campuchia, 521 cây số về hướng Đông Bắc. Tổng dân số năm 2005 vào khoảng 50 ngàn người, bao gồm nhiều dân tộc thiểu số. Tỉnh Mondulkiri có bốn khu bảo tồn đời sống hoang dã: Phnom Prich (222.500 hec-ta), Phnom Namlear (47.500 hec-ta), Lumphat (250.000 hec-ta) và Snuol (75.000 hec-ta). Bộ Môi trường (MOE) đang quản lý bốn khu bảo tồn này. Ngoài ra còn có hai rừng bảo tồn do Bộ Nông Lâm Ngư quản lý, đó là Rừng bảo tồn Mondulkiri và Khu bảo tồn đa dạng sinh học Keo Seima.
Các hoạt động sinh kế chủ yếu trong tỉnh là trồng trọt, bắt cá và các sản phẩm phi gỗ từ rừng. Tuy nhiên, kể từ năm 2004, sinh kế ở đây thường xuyên bị đe dọa nghiêm trọng do sự ra đời của tối thiểu chín dự án chuyển nhượng đất để sản xuất nông nghiệp qui mô lớn (50 ngàn hec-ta) và 15 công ty thăm dò khoáng sản.
Hình 1: Campuchia và tỉnh Mondulkiri

2.1.2 Các nhà đầu tư chính
Giữa những năm 1994 và 2006, Bộ Công nghiệp, Khoáng sản và Năng lượng (MIME) đã cấp tổng cộng 19 giấy phép thăm dò khoáng sản cho nhiều công ty địa phương và nước ngoài, trong đó có hai giấy phép thăm dò bauxite. Chưa có giấy phép khai thác bauxite nào được cấp.
Năm công ty, bốn trong nước và một quốc tế, đã được cấp phép thăm dò bauxite tại tỉnh Mondulkiri (Bảng 1). Tất cả các công ty địa phương đều là công ty con, do liên minh Úc hoặc liên minh Úc – Nhật làm chủ sở hữu toàn bộ. Các liên minh đó là Tập đoàn trách nhiệm hữu hạn Transol (Úc) và Tập đoàn BHP Billiton và Mitsubishi (Úc – Nhật) (Chú thích: BHP Billiton và Mitsubishi đã liên doanh để khai thác bauxite nhưng đến nay, chỉ có BHP tham gia các hoạt động thăm dò và gửi nhân viên sang).
Hiện nay chưa có công ty Trung Quốc nào tham gia khai thác bauxite tại Campuchia; tuy nhiên, tại tỉnh Mondulkiri, một số công ty nhỏ của Trung Quốc đã được cấp phép thăm dò các khoáng sản khác như vàng, đồng và quặng sắt.
2.1.3. BHP Billiton và Mitsubishi
Liên doanh BHP Billiton và Mitsubishi đã ký thỏa thuận với Chính phủ Campuchia vào tháng 10/2006 để thăm dò bauxite tại tỉnh Mondulkiri. Diện tích thăm dò vào khoảng 1.000 cây số vuông (hay 100.000 hec-ta). Thỏa thuận giao đất trị giá 2 tỉ đô-la Mỹ, cho phép liên doanh nghiên cứu tiềm năng xây dựng một nhà máy tinh chế nhôm oxit một khi việc khai thác bauxite được cho là khả thi. Kế hoạch ban đầu là xây dựng một đường ống có khả năng vận chuyển sản phẩm dạng vữa từ tỉnh Mondulkiri đến Thành phố cảng Xi-ha-núc ven miền duyên hải Campuchia. Theo thỏa thuận, hai công ty sẽ được đặc quyền đàm phán với Chính phủ để đi đến một thỏa thuận khai khoáng sau khi hoàn thành các điều nghiên thăm dò trong năm 2009.
Hình 2: Khu vực BHP Billiton xin cấp phép tại tỉnh Mondulkiri, Campuchia
Nguồn: BHP Billiton, Administrative Division.

Trước khi BHP Billiton thực hiện các hoạt động thăm dò, nghiên cứu đánh giá các tác động môi trường và xã hội đã được tiến hành để tư vấn cho cộng đồng địa phương, quan chức chính phủ và các tổ chức phi chính phủ (NGO). Nghiên cứu này tập trung vào những vấn đề về sức khỏe, an toàn, và môi trường đang thách thức các cộng đồng tại Mondulkiri, và làm thế nào để các hoạt động của BHP có thể cải thiện tình hình cộng đồng, đi đôi với việc hạn chế các tác động xấu. Sau đây là các thách thức đã được đề ra và cam kết của công ty sau khi hoàn tất nghiên cứu đánh giá:
- Giảm rủi ro từ bom mìn còn sót lại trong chiến tranh (ERW) bằng cách hỗ trợ nhiều nhóm chuyên gia đến giúp giải quyết các đe dọa ERW cho cộng đồng, đồng thời tăng cường ý thức và giáo dục cộng đồng (cam kết tài trợ 160.000 đô-la Mỹ cho hoạt động của Trung tâm Hành động Khoáng sản Quốc gia từ tháng 01/2007 đến tháng 07/2008);
- Tăng cường các dịch vụ y tế địa phương để hỗ trợ các cộng đồng nghèo, xem đó là một phần trong các chương trình phát triển bền vững nhằm giải quyết các nhu cầu về y tế (tài trợ 80.000 đô-la Mỹ cho Tổ chức Quốc tế HealthNet);
- Hỗ trợ các tổ chức phi chính phủ để có thể cung cấp dịch vụ giáo dục đào tạo về y tế, nông nghiệp và quản lý tài nguyên thiên nhiên bền vững (Tổ chức Quốc tế Tập trung vào các Làng mạc đã tài trợ 80.000 đô-la Mỹ); và
- Tuyển dụng và huấn luyện kỹ năng cho dân địa phương.
Bảng 1: Các công ty tư nhân tham gia hoạt động khai thác bauxite tại tỉnh Mondulkiri, Campuchia
Công ty
|
Tập đoàn
|
Số giấy phép và ngày cấp
|
Diện tích (km2)
|
Địa điểm
|
Tình hình hoạt động
|
| Liberty Mining International Pty Ltd(1) |
Transol Corp.
(Úc)
|
Số 530
20/06/2008
|
62
| Prek Te, Keo Seima | Tích cực |
| Maxum Metal Pty Ltd(1) |
Số 484
12/06/2008
|
295,35
| O Ry, Pichrea Da, Keo Seima Sen Monorom | ||
Số 485
12/06/2008
|
253
| Bou Sra Pichrea Da, Orieng | |||
Số 486
12/06/2008
|
276,6
| Bou Sra Pichrea Da, Orieng | |||
| Sonuba Paul Cham Co. Ltd(2) |
BHP Billiton
& Mitsubishi
Corp.
(Úc – Nhật)
|
20/12/2004
|
-
| Orieng | Tích cực |
| AZ Distribution Co. Ltd(2) |
2005
|
-
| Tou Poy, Orieng | ||
| BHP Billiton World Exploration Inc. & Mitsubishi Corp. |
Số 1283
14/12/2006
|
996
| Keo Seima, Orieng, Pichrea Da, Sen Monorom |
Hình 3: Các khu thăm dò khoáng sản tại tỉnh Mondulkiri, Campuchia
Nguồn: WWF (2008)

Thăm dò ban đầu ở Lào cho thấy trữ lượng bauxite của nước này có tiềm năng là một trong những trữ lượng lớn nhất Châu Á, có giá trị 4 tỉ đô-la Mỹ, ngang bằng với trữ lượng tại Darling Range – Tây Úc, nơi sản xuất ra 14 phần trăm lượng nhôm oxit toàn cầu. Ngoài nguồn bauxite phong phú, Lào còn có tiềm năng to lớn về thủy điện, lại nằm ngay cạnh thị trường Trung Quốc đang phát triển nhanh. Hầu hết các đầu tư khai thác bauxite tại Lào đều có đối tác Trung Quốc tham gia.
2.2.1. Cao nguyên Bolaven
Cao nguyên Bolaven – Nam Lào nằm ở Tây Bắc tỉnh Champassak, trải dài từ quận Paksong tỉnh Champassak qua các quận Lao Ngam tỉnh Salavan, quận Thateng tỉnh Sekong và quận Sanamxay tỉnh Attapeu. Cao nguyên có nguồn gốc từ núi lửa, độ cao trung bình 1.100 mét, là miền đất đỏ bazan màu mỡ. Lượng mưa hàng năm vào khoảng 350 xen-ti-met.
Hiện nay, hơn 99 phần trăm cà phê của Lào được sản xuất trên cao nguyên Bolaven. Cà phê là cây trồng chủ yếu của các hộ dân trong vùng, và diện tích đất trồng cà phê là 45.000 hec-ta, chiếm 30-40% tổng diện tích đất.
Về đa dạng sinh học, Bolaven có hai khu bảo tồn quốc gia. Khu thứ nhất là Duong Hua Sau, diện tích 910 cây số vuông, cách 35 cây số về hướng Bắc của vùng qui hoạch khai thác mỏ thuộc công ty Slaco. Khu thứ hai là Xe Pian, diện tích 2.665 cây số vuông, cách 3 cây số về hướng Tây của vùng qui hoạch làm nơi xử lý quặng và cách 15 cây số về hướng Tây Nam vùng qui hoạch khai thác mỏ thuộc Slaco. Cao nguyên Bolaven còn có hai khu bảo tồn cấp tỉnh, Khu Houay Souy tỉnh Sanamxay và Sông Kông. Còn một khu bảo tồn cấp quận là Dong Bak, diện tích 1.240 hec-ta, 63% vùng này nằm trong miền tiếp giáp với nơi xử lý quặng của Slaco. Ngoài ra, vùng dự án Slaco cách biên giới Lào – Campuchia 6 cây số, ngay cạnh Vườn Quốc gia Virachay.
Hình 4: Lào và cao nguyên Bolaven

Theo số liệu bản đồ tháng 02/2008 của Sở Năng lượng và Khoáng sản (DEM), đã có bốn lần giao đất trên cao nguyên Bolaven, đó là khu 28 cho công ty Sarco (Hình 5), khu 42 cho Yishida, ba khu 100 cho SAETC, và khu 50 cho LSI.
Hình 5: Vị trí địa lý các khu đất có triển vọng bauxite
Nguồn: AltMapCambodia, Southern Laos proposed and existing mineral concessions (February 2007)

Theo giá nhôm vào thời điểm năm 2007, giá trị tài nguyên bauxite tại cao nguyên Bolaven ước tính vào khoảng 3.200 triệu đô-la Mỹ. Trong danh mục các dự án chính thức do Bộ Kế hoạch và Đầu tư (MPI) cung cấp, có năm công ty chính tham gia khai thác bauxite tại cao nguyên Bolaven, gồm bốn công ty Trung Quốc và một công ty Lào (Chú thích: Slaco đăng ký là một công ty Lào, mặc dù có sự tham gia hoặc đầu tư của người Trung Quốc và Thái). Tuy nhiên, người ta cho rằng nhiều công ty khác cũng đang hoạt động tích cực tại đây. Theo EIA của Slaco, bảy khu khai thác bauxite khác dọc theo cao nguyên Bolaven cũng đã được giao cho các công ty Lào hoặc nước ngoài.
Bảng 2: Các công ty trong và ngoài Lào tham gia khai thác bauxite tại quận Paksong tỉnh Champassak
Tên
|
Loại hình
|
Các bên tham gia
|
Nước
|
Tình hình hoạt động
|
Diện tích (ha)
|
Ngày hợp đồng
|
Thỏa thuận số
|
| LSI (Slaco)1 | Liên doanh, nhưng đăng ký là công ty tư nhân Lào | LSI Chalco ITD RCI | Lào Trung Quốc Thái Lan | Có triển vọng; sắp sửa tiến hành khai thác3 | 6.600 3.000 15.0004 | 25/02/2005 25/10/2006 |
708
708
|
| Sinoma International Engineering Co. Ltd (Sinoma) | - | Zhongfei Geological Engineering Exploration Academy (ZGEEA) | Trung Quốc | Có triển vọng | 7.768 | 12/05/2006 |
908
|
| Yishida | Liên doanh | Sarco (gồm ORD & China Non- ferrous Metals Industry’s For- eign Engineer- ing and Con- struction Co. Ltd (NFC) | Trung Quốc | Thăm dò | 58.500 | 08/06/2006 |
352
|
| China Internationa Alumina Co. |
-
|
-
| Trung Quốc |
-
| 3.475 | 26/01/2007 |
379
|
| Asia Industrial Aluminum (Lao) Ltd |
-
| SAETC | Tư nhân Lào & Trung Quốc | Có triển vọng | 3.475 | 26/01/2007 |
401
|
2 Chỉ có Slaco đăng ký là công ty Lào, trong khi các công ty khác đăng ký là công ty nước ngoài.
3 Khai thác chỉ có thể bắt đầu sau khi nhận được chứng chỉ tuân thủ môi trường do Cục Quản lý Tài nguyên Nước và Môi trường (WREA) cấp.
4 Có nghĩa là LSI có triển vọng được cấp hai khu khai thác tổng cộng 9.600 hec-ta. Còn khu 15.000 hec-ta thì đang chờ chính phủ cho phép bắt đầu khai thác.
Tập đoàn trách nhiệm hữu hạn Nhôm Trung-Lào (Slaco)
Liên doanh Slaco (Chú thích: Công ty này do Saysana Samingvongsa làm Chủ tịch và tham gia vào nhiều lĩnh vực, kể cả xuất nhập khẩu) được hình thành vào năm 2007 trong đó LSI nắm 34%, ITD nắm 33% (Chú thích: ITD là công ty hợp đồng xây dựng dân dụng và hạ tầng lớn nhất Thái Lan và đã đăng ký vốn điều lệ 122 triệu đô-la Mỹ với 22.000 nhân viên, trong đó có 1.102 kỹ sư), và RCI 33% (Chú thích: RCI là một công ty ngoại thương của Trung Quốc với tổng đầu tư lên đến 6 tỉ nhân dân tệ, tương đương 0,82 tỉ đô-la Mỹ). Sau khi hoàn tất nghiên cứu khả thi và được chấp thuận vào tháng 12/2007 (Chú thích: Slaco đã lôi kéo Chalieco thực hiện nghiên cứu khả thi), Chalco đã gia nhập Slaco và trở thành đối tác quan trọng (Chú thích: Chalco là nhà sản xuất nhôm đứng hàng thứ hai trên thế giới và là nhà sản xuất nhôm oxit và nhôm nguyên liệu hàng đầu Trung Quốc, với vốn điều lệ hơn 11 tỉ nhân dân tệ, tương đương 1,5 tỉ đô-la Mỹ). Slaco đăng ký là một công ty Lào tư nhân và hiện nay Chalco nắm 51%, RCI-ITD nắm 39% và LSI 10%.
Dự án Slaco chiếm một diện tích rộng 246 cây số vuông, gồm khu xây dựng và khu khai thác. Quyền sử dụng đất của dự án là 50 năm và có thể được kéo dài thêm. Trong số 246 cây số vuông, 99 cây số vuông vẫn còn trong giai đoạn thăm dò, còn lại 147 cây số vuông có thể bắt đầu khai thác. Slaco có kế hoạch khai thác 3 triệu tấn bauxite đỏ mỗi năm, từ đó chuyển thành 1 triệu tấn nhôm oxit rồi được xử lý thành 500.000 tấn nhôm. Hiện nay, khối lượng bauxite ước tính có 316.173.327 tấn và vòng đời khai thác vào khoảng 30 năm. Ngoài nhà máy chế biến nhôm oxit và nhà máy luyện nhôm, công ty sẽ xây dựng một tuyến đường dài 116 cây số từ quận Pathoumphone tỉnh Champassak đến quận Samakhixay tỉnh Attapeu với chi phí vào khoảng 100 triệu đô-la Mỹ.
Năm 2008, công ty tiến hành đánh giá tác động môi trường và xã hội, và đang đợi Cục Quản lý Tài nguyên Nước và Môi trường (WREA) chuẩn thuận. Tháng 09/2008, Slaco ký thỏa thuận xây dựng các nhà máy khai thác và chế biến bauxite với MPI. Các nhà máy này có giá trị đầu tư 4 tỉ đô-la Mỹ, kể cả hệ thống điện cao thế và nhà máy điện với năng suất 1.320 mega-oat để cung cấp điện cho các nhà máy khai thác và chế biến. Dự kiến sẽ hoàn thành vào năm 2011. Sản phẩm dự kiến sẽ xuất sang Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) và Trung Quốc. Các nhà máy này cũng sẽ cung cấp cho thị trường Lào nếu có nhu cầu.
Sinoma
Sinoma đặt trụ sở tại Bắc Kinh – Trung Quốc, được thành lập vào tháng 12/2001. Đây là một công ty nhà nước có mặt trên Thị trường Chứng khoán Thượng Hải, tập trung chủ yếu vào sản xuất xi măng. Sinoma tham gia nhiều dự án lớn cả trong lẫn ngoài Trung Quốc, từ tư vấn cho đến thiết kế kỹ thuật, xây dựng, lắp ghép, sản xuất, cung ứng, đặt hàng, vận hành và bảo trì thiết bị. Tại Lào, Sinoma hoạt động dưới danh nghĩa của Viện Hàn lâm Thăm dò Kỹ thuật Địa chất Zhonfei (ZGEEA) và đã ký hợp đồng ngày 12/05/2006 để thăm dò một vùng rộng 146,25 cây số vuông. Hợp đồng này bao gồm 12 tháng thăm dò, 24 tháng phân tích và 12 tháng đề xuất phương án tài chính (botviphaksetakit). Công ty đã báo cáo phương pháp và các kết quả kỹ thuật về thăm dò cho Chính phủ Lào vào ngày 05/08/2007. Tổng chi phí thăm dò là 1.803.820 đô-la Mỹ. Hiện nay công ty đang thăm dò một vùng khác rộng 77,66 cây số vuông.
Yishida Edseperu Group Ltd
Công ty Trung Quốc Yishida đã được giao 588,09 cây số vuông gần làng Itu. Hợp đồng thăm dò và phân tích được ký ngày 08/06/2006, và công ty cũng đã ký thỏa thuận với DEM ngày 07/09/2006. Công ty đã xác định được một vùng rộng 43,58 cây số vuông, rải rác trong đó là 15 địa điểm có tổng trữ lượng tiềm tàng là 549 triệu tấn. Tổng cộng 229 người (trong đó có 223 người Lào) tham gia giai đoạn thăm dò, với chi phí 2.864.865 đô-la Mỹ. Công ty đã chọn ra 421 cây số vuông và trả lại cho chính phủ 167 cây số vuông. Hiện nay công ty đang chuẩn bị lập bản đồ. Theo tin từ DEM, Yishida đã ký hợp đồng phụ với Sarco về thăm dò bauxite dọc theo cao nguyên Bolaven. (Chú thích: Trong danh mục đầu tư của DEM, Yishida là tên công ty đăng ký, nhưng trong tài liệu năm 2008 của Sarco, Yishida lại là một công ty bất động sản. Chi tiết này cho thấy Sarco hoạt động trong hậu trường, thâu tóm bauxite bằng thủ đoạn dùng danh nghĩa của các công ty nhỏ hơn.)
Bản đồ ở Hình 6 cho thấy vị trí thuê đất của Sarco nằm trên cao nguyên Bolaven (những vùng có đường viền cam). Ngoài Sarco, còn có hai công ty khác là SAETC thuê ba vùng và Thonglahasin một vùng. (Chú thích: Chưa có thông tin chính thức về việc thuê đất của công ty Thonglahasin. Chúng ta cũng có thể thấy ở Hình 6 sự chồng lấn giữa Thonglahasin và LSI ở phần Đông Nam của cao nguyên.)
Hình 6: Các vùng đất thuộc Sarco trên cao nguyên Bolaven
Nguồn: ORD (2007)

Sarco là liên doanh giữa ORD của Úc (nắm 49%) và NFC của Trung Quốc (nắm 51%). Liên doanh này thành lập vào năm 2007 và đăng ký là một công ty tư nhân nước ngoài tại Lào. Sarco (70%) đã ký một thỏa thuận với LSI (30%) để phát triển một khu đất rộng 138 cây số vuông trên cao nguyên Bolaven. Tiềm năng bauxite tại đây và vùng lân cận ước tính vào khoảng 2-2,5 tỉ tấn. ORD dự kiến sản lượng hàng năm có thể lên đến 20 triệu tấn bauxite, từ đó có thể tinh chế ra 5-8 triệu tấn nhôm oxit mỗi năm.
Chương trình ngắn hạn của ORD là khảo sát khả thi việc khai thác các mỏ bauxite lộ thiên và tinh chế nhôm oxit tại chỗ. Dự án có thể có một lò luyện nhôm. Dự kiến nhôm sẽ được xuất khẩu phục vụ công nghiệp tại Trung Quốc. Công ty đang đàm phán để nhận thêm 84 cây số vuông bên cạnh đó. Mục tiêu chiến lược của ORD là nắm giữ tất cả các vùng có thể có bauxite, đồng thời nắm quyền sử dụng những nơi có tiềm năng thủy điện. Nhưng theo ORD (tháng 07/2008), hiện nay Sarco đang ở giai đoạn cuối để tiếp nhận một vùng có diện tích lên đến 867 cây số vuông.
China International Alumina Development Co. Ltd
Công ty này đã ký hợp đồng vào ngày 26/01/2007 để nhận một vùng rộng 34,75 cây số vuông. Công ty đã cung cấp tài liệu đánh giá tác động lũ từ đập thủy điện Xenamnoy. Vai trò khai khoáng của công ty này chưa rõ ràng vì họ chưa báo cáo cho DEM về các hoạt động đã làm. Hiện nay rất khó xác định là công ty có đang tích cực hoạt động trong lĩnh vực khai khoáng hay không (Chú thích của người dịch: Alumina trong tên của công ty có thể cung cấp thông tin quan trọng nhằm giải mã nghi vấn này).
Asia Industrial Aluminum (Lao) Ltd (SAETC)
Theo tài liệu của DEM, hợp đồng được ký vào ngày 20/12/2006 để giao 55.500 hec-ta đất cho công ty sử dụng trong vòng 30 năm. Dự án đang trong giai đoạn có triển vọng. 12 tháng đầu là thăm dò và 24 tháng tiếp theo là phân tích; chi phí cho hai giai đoạn này là 4 triệu đô-la Mỹ.
2.2.3. Lượng đầu tư
Slaco là công ty duy nhất đã trình EIA lên Chính phủ Lào để được chuẩn thuận và sẵn sàng bắt tay khai thác ngay sau khi được cấp phép. Theo Chính phủ và theo EIA của Slaco, đây là dự án tham vọng nhất từ trước đến nay do dự án bao gồm sáu bộ phận chính: (1) khai thác bauxite; (2) chế biến nhôm oxit; (3) luyện nhôm dùng qui trình Bayer (Chú thích của người dịch: Ở đây tác giả có thể đã nhầm lẫn Bayer với Hall-Héroult. Bayer là qui trình tinh chế quặng bauxite thành nhôm oxit); (4) xây dựng và hoàn thiện 116 cây số đường bộ từ tỉnh Attapeu đến tỉnh Champassak; (5) xây dựng ba nhà máy nhiệt điện đốt than (1.100 mega-oat); và (6) xây dựng hồ chứa bùn đỏ. (Chú thích: Quá trình chế biến nhôm cần năng lượng khủng khiếp và khu vực này không thể đáp ứng. Riêng dự án Slaco đã cần đến 840 mega-oat nhưng lưới điện địa phương chỉ có thể cung cấp 115 kilo-oat. Theo WREA, kế hoạch ban đầu là chỉ khai thác bauxite, chuyển bauxite thành nhôm oxit rồi chở sang Trung Quốc.)
2.3. Việt Nam
Việt Nam ước tính có đến 8 tỉ tấn quặng bauxite và chính phủ có kế hoạch khai thác 5,4 tỉ tấn qua sáu dự án cho đến năm 2015. Năm 2007, trong số bảy ngành công nghiệp, chính phủ ưu tiên khai thác bauxite giai đoạn 2007-20 (Quyết định số 55/2007/QĐ-TTg ngày 23/04/2007). Thủ tướng đã ra quyết định phê duyệt Qui hoạch phân vùng, thăm dò, khai thác, chế biến, sử dụng bauxite giai đoạn 2007-15 (Quyết định số 167/2007/QĐ-TTg ngày 01/11/2007). Hiện nay, hai dự án khai thác bauxite lớn đã được khởi công tại hai tỉnh Lâm Đồng và Đăk Nông trong khu vực Tây Nguyên. Việt Nam dự kiến sẽ cần đầu tư 20 tỉ đô-la Mỹ để có thể tận dụng được nguồn tài nguyên này. Tháng 04/2009, nhiều nhà khoa học xã hội và môi trường đã bày tỏ quan ngại về các tác động môi trường, xã hội, kinh tế và quân sự vì chính phủ đã cho phép các công ty Trung Quốc thực hiện các đại dự án khai thác bauxite tại Tây Nguyên. Ngoài ra, còn có nhiều quan ngại về trường hợp các công ty Trung Quốc đã thắng cả hai cuộc đấu thầu xây dựng hai nhà máy nhôm oxit lớn (chi phí gần 500 triệu đô-la Mỹ cho mỗi nhà máy). Nhiều người khác còn rất lo lắng về sự có mặt của các công nhân bauxite Trung Quốc tại khu vực quân sự chiến lược này. Kết quả là Thủ tướng đã phải chỉ thị rà soát lại toàn diện qui hoạch khai thác bauxite. Nhiều Bộ, ngành, địa phương đã được yêu cầu tham gia. Chính phủ giao Bộ Công Thương rà soát lại quy hoạch bauxite trên cơ sở cập nhật tình hình và dự báo mới nhất về tác động của cuộc khủng hoảng tài chính – kinh tế toàn cầu, đánh giá tác động môi trường và đề xuất điều chỉnh quy hoạch; giao Bộ Tài nguyên và Môi trường chỉ đạo công tác điều tra cơ bản, thăm dò, xác định trữ lượng tài nguyên bauxite của cả nước, đồng thời đề xuất việc tăng cường công tác quản lý nhà nước về môi trường đối với các dự án bauxite; yêu cầu Tập đoàn nhà nước Than – Khoáng sản Việt Nam (TKV) thực hiện nghiêm túc các quy định về bảo vệ môi trường, xây dựng kế hoạch chi tiết thực hiện kế hoạch sử dụng đất, kế hoạch khai thác mỏ, hoàn thổ, khôi phục môi trường theo trình tự cuốn chiếu, bảo đảm tác động tối thiểu đến hoạt động sản xuất nông, lâm nghiệp của địa phương, trình Bộ Tài nguyên và Môi trường thẩm định trước khi triển khai thực hiện.
2.3.1. Khai thác bauxite tại Tây Nguyên
Nguồn tài nguyên bauxite Việt Nam tập trung chủ yếu (khoảng 93%) tại các tỉnh thuộc khu vực Tây Nguyên (Hình 7), trong đó riêng tỉnh Đăk Nông đã chiếm đến 60%. Tây Nguyên là một miền đất màu mỡ và đẹp rực rỡ của Việt Nam. Miền đất này đặc trưng bởi núi rừng trùng điệp, bởi canh tác cà phê và tiềm năng du lịch sinh thái to lớn. Đây còn là nơi cư trú của rất nhiều cộng đồng dân tộc thiểu số, thường sinh sống thành những buôn làng nhỏ. Phía Nam Tây Nguyên, Rừng Quốc gia Nam Cát Tiên là một trong những khu đa dạng sinh học vào bậc nhất Đông Dương.
Hình 7: Phân bố trữ lượng bauxite tại Việt Nam
Nguồn: Vinacomin website, accessed on 20 June 2009, www.vinacomin.vn

Khác với Campuchia và Lào, Chính phủ Việt Nam đã chỉ định TKV giám sát đầu tư và tiến hành khai thác bauxite tại Tây Nguyên. TKV còn được phép tham gia liên doanh với các nhà đầu tư nước ngoài, nhưng chỉ với điều kiện là TKV phải duy trì ưu thế của mình về tỉ lệ sở hữu.
Nhiều nhà đầu tư quốc tế bày tỏ quan tâm đến khai thác bauxite tại Việt Nam. Bao gồm Daewo (Hàn Quốc); Alcoa (Hoa Kỳ); Pechinery (Pháp); BHP Billiton (Úc); Rusal (Nga); NFC, Chalco và Yunnan Metallurgy Co. (Trung Quốc); và nhiều công ty đến từ Thái Lan, Hungari và Nhật Bản.
Trong số các công ty này, hiện nay có bốn tập đoàn công nghiệp nhôm đã được Thủ tướng Việt Nam chấp thuận tham gia liên doanh với TKV, bao gồm Chalco, Alcoa, BHP Billiton và Rusal.
Bảng 3: Kế hoạch khai thác và chế biến bauxite tại Tây Nguyên, Việt Nam
| Nhà máy1 | Mỏ | Năng suất (triệu tấn/năm); thời gian | Nhà đầu tư | Tình hình hoạt động |
| Tỉnh Lâm Đồng | ||||
| Nhà máy sản xuất nhôm hydroxit số 1 | Nam Phương, Đồi Thắng Lợi |
0.1; 2007–10
| - | Nghiên cứu khả thi |
| Nhà máy sản xuất nhôm hydroxit số 2 |
-
|
0.55; 2007–10
| Công ty Hóa chất Cơ bản Miền Nam (VN) | Đã có kế hoạch |
| Nhà máy Alumina Tân Rai, Bảo Lộc | Tân Rai |
0.6; 2008–10
| TKV | Đang xây dựng |
| Tỉnh Gia Lai | ||||
| Nhà máy nhôm oxit | Măng Đen, Kon Hà Nừng |
1.5; 2009–11
| Công ty Thương mại Hà Nội | Đã có kế hoạch |
| Tỉnh Đăk Nông | ||||
| Nhà máy nhôm oxit Đăk Nông số 1 | Nhân Cơ và các mỏ lân cận |
0.3–0.6; 2007–15
0.6–1.2; 2016–25
| TKV liên doanh với một công ty quân đội2 | Đang xây dựng |
| Nhà máy nhôm oxit Đăk Nông số 2 | Mỏ “1-5” |
1.5–2.0; 2007–15
3.0–4.0; 2016–25
| TKV liên doanh với Chalco | Đã có kế hoạch |
| Nhà máy nhôm oxit Đăk Nông số 3 | Gia Nghĩa |
1.5–2.0; 2007–15
3.0–4.0; 2016–25
| TKV liên doanh với Alcoa | Đã có kế hoạch |
| Nhà máy nhôm oxit Đăk Nông số 4 | Tuy Đức, Đăk Song |
1.5–2.0; 2007–15
3.0–4.0; 2016–25
| TKV | Đã có kế hoạch |
| Tỉnh Bình Phước | ||||
| Nhà máy nhôm oxit Bình Phước | Các mỏ ở tỉnh Bình Phước |
1.5–2.0; 2016–25
| Công ty cổ phần An Viên với Rusal | Đã có kế hoạch |
2 Chưa thể biết được tên công ty.
Hộp tin 1: Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam (TKV)
| TKV là một tập đoàn nhà nước. TKV được thành lập trên cơ sở sáp nhập Tập đoàn Than và Tổng Công ty Khoáng sản theo Quyết định của Thủ tướng 345/2005/QĐ-TTg ký ngày 26/12/2005. Chức năng chính của TKV là thay mặt Chính phủ Việt Nam quản lý tài nguyên và khai thác than, bauxite và các khoáng sản khác. Là một tập đoàn kinh tế, TKV được phép đầu tư vào các hoạt động khác như xây dựng nhà máy điện (cả nhiệt điện lẫn thủy điện) và tài chính (ngân hàng và thị trường chứng khoán). TKV có hơn 100 công ty, trường cao đẳng, viện nghiên cứu và trung tâm dạy nghề. Theo một điều tra năm 2008, TKV xếp thứ tư (đứng sau ba tập đoàn nhà nước khác) trong danh sách 500 công ty trong nước lớn nhất Việt Nam. TKV đang đầu tư vào Lào và Campuchia. Tại Lào, TKV có một số dự án khai thác và chế biến than, bauxite, đồng, và đặc biệt là quặng sắt ở Phunhuon, Xiengkhuang. Tại Campuchia, TKV đang thằm dò mỏ antimoan, crôm, titan, sắt, … TKV có kế hoạch trở thành tập đoàn hàng đầu Việt Nam đến năm 2010, khoảng 2015-20 sẽ trở thành tập đoàn kinh tế quan trọng trong khu vực, và khoảng 2025-30 sẽ trở thành tập đoàn xuyên quốc gia tầm cỡ thế giới. |
Năm 2006 Chalco đã ký một thỏa thuận hợp tác trên nguyên tắc với TKV trị giá 1,3 tỉ đô-la Mỹ để khai thác quặng bauxite và xây dựng một nhà máy chế biến nhôm oxit công suất 1,9 triệu tấn nhôm oxit mỗi năm. Ban đầu tỉ lệ đầu tư được thỏa thuận là 40% Việt Nam và 60% Trung Quốc; tuy nhiên, sau đó Thủ tướng Việt Nam quyết định rằng nếu Chalco liên doanh với TKV thì Chalco chỉ có thể giữ tối đa 40%.
Alcoa (Hoa Kỳ)
Giữa năm 2008, TKV và Alcoa ký thỏa thuận hợp tác phát triển ngành công nghiệp nhôm tại Việt Nam. Theo thỏa thuận, Alcoa sẽ thực hiện việc đánh giá dự án và có thể góp 40% vốn vào Công ty cổ phần Nhân Cơ với công suất 600.000 tấn mỗi năm. TKV đã đồng ý để Alcoa tham gia thực hiện nghiên cứu khả thi dự án khai thác bauxite- nhôm oxit Nhân Nghĩa tại tỉnh Đăk Nông, giai đoạn đầu dự kiến có công suất 1-1,5 triệu tấn mỗi năm. Kèm theo thỏa thuận này, nếu Alcoa đầu tư vào các dự án xây dựng nhà máy Nhân Cơ và Gia Nghĩa, Alcoa cũng sẽ tham gia đầu tư vào hạ tầng và cảng biển, phục vụ các nhà máy sản xuất alumina.
BHP Billiton (Úc-Anh)
Giữa năm 2008, TKV và BHP Billiton ký thỏa thuận trị giá 1 tỉ đô-la Mỹ để khai thác và chế biến bauxite tại Việt Nam. Hai bên đồng ý thành lập công ty liên doanh để thăm dò khai thác bauxite và sản xuất alumina tại ba mỏ ở Đăk Song, Tuy Đức và Bắc Gia Nghĩa, tỉnh Đăk Nông, với tỉ lệ vốn là TKV 51% và BHP Billiton 49%. Công ty liên doanh này còn liên kết với các đối tác khác để xây dựng một hệ thống đường sẳt từ Đăk Nông ra cảng biển. Thêm vào đó, TKV còn có thể tham gia vào liên doanh giữa BHP Billiton (70%) và Mitsubishi (30%) để đầu tư thăm dò khai thác bauxite và sản xuất nhôm oxit tại Campuchia.
Hình 8: Các tổ hợp bauxite-nhôm tại Tây Nguyên, Việt Nam

Rusal đã được phép thăm dò, điều tra và tìm kiếm cơ hội đầu tư tại Tây Nguyên và Bình Phước. Rusal đã ký thỏa thuận ghi nhớ (MOU) với Công ty cổ phần An Viên, đầu tư 1 tỉ đô-la Mỹ vào các dự án khai thác bauxite ở Tây Nguyên, quan tâm đến dự án xây dựng nhà máy điện cũng như hệ thống vận chuyển phục vụ khai thác và sản xuất nhôm.
Sau đây là hai dự án bauxite-nhôm tại Tây Nguyên mà Thủ tướng đã phê duyệt.
Dự án Tổ hợp bauxite-nhôm Tân Rai (Lâm Đồng): Tổ hợp này đặt tại thị trấn Lộc Thắng, huyện Bảo Lâm, tỉnh Lâm Đồng. Tổ hợp gồm ba hạng mục chính: (1) một nhà máy nhôm oxit với công suất 600.000 tấn mỗi năm; (2) một nhà máy tuyển quặng tinh; và (3) một dự án khai thác. Tổng đầu tư vào dự án tổ hợp dự kiến khoảng 687 triệu đô-la Mỹ, trong đó công ty Trung Quốc là Chalieco đã thắng gói thầu xây dựng mua sắm kỹ thuật (EPC) lớn nhất, đó chính là nhà máy nhôm oxit trị giá 466 triệu đô-la Mỹ. Nhà máy đã khởi công xây dựng vào tháng 07/2008. Theo quyết định của Thủ tướng, TKV sẽ đầu tư tài chính hoàn toàn vào các giai đoạn đầu của nhà máy. Tuy nhiên, sau khi hoàn thành xây dựng, nhà máy sẽ được định vào vốn của liên doanh. Công ty Trung Quốc là Tập đoàn Luyện Kim Yunnan, với phần hùn 20%, đã được phép tham gia kế hoạch này, trong đó TKV giữ phần hùn 80%.
Dự án Tổ hợp bauxite-nhôm Nhân Cơ: Tổ hợp này đặt tại làng Nhân Cơ, huyện Đắk R’lấp, tỉnh Đăk Nông. Năng suất dự kiến ban đầu của nhà máy là 100.000 tấn nhôm oxit mỗi năm, sau đó tăng lên thành 300.000 tấn mỗi năm và đầu tư được phê duyệt vào khoảng 250 triệu đô-la Mỹ. Tuy nhiên đến năm 2008, TKV đã xin Thủ tướng điều chỉnh năng suất lên thành 600.000 tấn mỗi năm với đầu tư ước tính vào khoảng 700 triệu đô-la Mỹ. TKV sẽ đầu tư 100 phần trăm vào nhà máy bauxite, trong khi đó Chalieco đã được chỉ định là nhà thầu EPC xây dựng nhà máy nhôm oxit. Toàn bộ nhôm oxit sản xuất ra từ hai nhà máy này đều nhằm xuất sang Trung Quốc để tinh chế nhôm.
3. Khảo sát các liên kết trong khu vực
Như đã được minh họa ở trên, Đông Bắc Campuchia, Nam Lào và Tây Nguyên Việt Nam đã hình thành nên một khu vực có tầm quan trọng chiến lược cho việc khai thác bauxite. Phần này sẽ khảo sát các liên kết khu vực tại ba quốc gia đó, dựa trên sự gần gũi và quan hệ kinh tế với Trung Quốc, các tác động xuyên biên giới, nhu cầu năng lượng, phát triển hạ tầng và liên doanh. Tại cả ba quốc gia, có những vấn đề chồng lấn và liên kết khu vực cần phải được tháo gỡ và cần được khảo sát hơn nữa để có thể hiểu rõ mặt tích cực cũng như tiêu cực của việc phát triển ngành công nghiệp bauxite.
Vai trò khởi đầu và kết thúc của Trung Quốc là rất quan trọng khi chúng ta xét đến hiện trạng gần gũi về mặt địa lý cũng như tầm quan trọng về mặt kinh tế của Campuchia, Lào và Việt Nam so với Trung Quốc, cùng với các tác động tiềm ẩn có đặc trưng xuyên biên giới về môi trường và xã hội. Hình thức liên kết giữa nhà nước và các công ty quốc gia tại từng nước sẽ hình thành lực đẩy thôi thúc hành động bảo vệ tài nguyên bauxite và thu về lợi ích kinh tế, chi phối tiến trình ra quyết định.
3.1. Chiến lược của Trung Quốc tại khu vực sông Mekong
Quan hệ của Trung Quốc với ba nước khu vực sông Mekong, Campuchia – Lào – Việt Nam, có ý nghĩa chiến lược và quan trọng về nhiều phương diện. Thứ nhất, Trung Quốc tận hưởng được lợi thế có biên giới chung với Lào và Việt Nam, thuận lợi về thương mại và tận dụng các nguồn tài nguyên thiên nhiên vô cùng cần thiết, có thể vận chuyển đường bộ dễ dàng và nhanh chóng (so với việc nhập khẩu từ các quốc gia khác trên thế giới). Hơn nữa, Trung Quốc đang nổi lên như một nhà đầu tư và đối tác thương mại song phương. Trung Quốc đã trở thành đối tác thương mại hàng đầu của Việt Nam, và cũng là nhà tài trợ và đầu tư nước ngoài quan trọng tại Lào và Campuchia.
Nhiều nhà tài phiệt Trung Quốc đã đổ về khu vực này nhằm lợi dụng môi trường đầu tư thuận lợi và nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú ở ngay bên cạnh mình. Trung Quốc xây dựng quan hệ hữu nghị bằng cách đặt lên bàn đàm phán một gói đầu tư dị biệt. Trung Quốc còn được xem là một ‘quyền lực mềm’ về văn hóa và tư tưởng, muốn làm bạn với tất cả các nước trong khu vực, sử dụng tình hữu nghị làm kim chỉ nam cho mọi hoạt động kinh doanh. Chẳng hạn, Chính phủ Trung Quốc đã hỗ trợ xây dựng nhiều nhà văn hóa và văn phòng Chính phủ, như Cung Văn Hóa Quốc gia Lào và Văn phòng Hội đồng Bộ trưởng Campuchia.
Lào và Campuchia đều đang tiếp nhận hỗ trợ đáng kể từ Trung Quốc dưới dạng các dự án hạ tầng giao thông và thủy điện trị giá 178 triệu đô-la Mỹ (cho Lào), hợp tác kinh tế trị giá 45 triệu đô-la Mỹ (tại Lào) năm 2006, gói tài trợ 600 triệu đô-la Mỹ để xây dựng đường sá, thủy điện và hợp tác kinh tế kỹ thuật (cho Campuchia) cũng trong năm 2006. Năm 2007, có 236 dự án đầu tư từ Trung Quốc vào Lào với tổng giá trị là 877 triệu đô-la Mỹ, trong khi đó đầu tư Trung Quốc vào Lào năm 2008 khoảng 3.5 tỉ đô-la Mỹ, và dự kiến còn tiếp tục tăng. Năm 2008, Campuchia được trợ cấp một gói hỗ trợ bổ sung trị giá 250 triệu đô-la Mỹ để phục hồi hệ thống đường sá trên cả nước. Tại Việt Nam, thương mại giữa hai nước đã tăng hơn ba lần trong vài năm qua, từ 3 tỉ đô-la Mỹ trong năm 2000 đến 10.4 tỉ đô-la Mỹ trong năm 2006.
Trung Quốc hỗ trợ Lào nhiều chương trình học bổng cho giới trẻ để sang Bắc Kinh học tập và hiện đại hóa quân đội Lào. Trung Quốc còn đơn phương mời chào thuế xuất nhập khẩu bằng không cho Lào và Campuchia trên khoảng 600 mặt hàng nông nghiệp xuất sang thị trường Trung Quốc qua Chương trình Thu hoạch sớm, đây là một chương trình cấp tiến của Khu vực Mậu dịch Tự do ASEAN – Trung Quốc, được Thỏa thuận Mậu dịch Tự do ASEAN – Trung Quốc tạo ra. Nhờ Ủy ban Hợp tác Trung – Lào (Chú thích: Ủy ban này được thành lập năm 1997, do Phó Thủ tướng Lengsavath Sisavath làm Chủ tịch. Chưa thể có thông tin chi tiết hơn về ủy ban này), quan hệ Trung – Lào liên tục được tăng cường thông qua nhiều thỏa thuận song phương (Chú thích: Tài liệu phê chuẩn hợp tác song phương bao gồm hợp tác kinh tế kỹ thuật, y tế, năng lượng, chính phủ điện tử và một đài FM thuộc Đài Phát thanh Quốc tế Trung Quốc đặt tại thủ đô Vientiane). Đầu năm 2009, Quốc Hội Campuchia đã thông qua luật đảm bảo ngân sách để tiếp nhận 1 tỉ đô-la Mỹ tiền đầu tư từ Trung Quốc cho hai đập thủy điện trong vùng Cardamom (Tây Nam thủ đô Phnom Penh). Ba dự án thủy điện Trung Quốc nữa, cũng trong vùng Cardamom, đang ở giai đoạn nghiên cứu khả thi.
3.2. Gần gũi địa lý với thị trường Trung Quốc
Sự gần gũi của các nước khu vực sông Mekong so với Trung Quốc đã tạo điều kiện thông thương dễ dàng, đặc biệt nhờ các cải tạo hạ tầng nối liền các thành phố lớn trong khu vực và việc mở cửa thông thương qua các cửa khẩu quốc tế. Hầu hết hoạt động khai thác bauxite trong khu vực đều dự kiến nhằm phục vụ thị trường Trung Quốc đang lớn mạnh. Thị trường này có thể được tạo điều kiện thuận lợi nhờ Hành lang Kinh tế Bắc-Nam, chạy từ Côn Minh đến Bangkok, Phnom Penh và Thành phố Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, vẫn còn khó đánh giá đúng tiềm năng xuất khẩu cũng như nhu cầu từ phía Trung Quốc. Campuchia, Lào và Việt Nam đều được cho là những quốc gia chiến lược trong việc thỏa mãn nhu cầu tăng đột biến của Trung Quốc. Đối với ngành công nghiệp nhôm của khu vực sông Mekong, biên giới chung của Lào và Việt Nam với Trung Quốc là cửa ngõ quan trọng để đi vào Trung Quốc.
3.3. Các tác động xuyên biên giới
Khai thác bauxite chắc chắn sẽ tạo ra nhiều hiệu ứng lề. Dự kiến sẽ có nhiều tác động quan trọng xuyên biên giới, bao gồm thiệt hại nguồn lợi thủy sản, thay đổi thủy văn dòng sông và chất lượng nguồn nước, từ đó ảnh hưởng đến sinh kế của nhiều dân tộc bản địa đang sinh sống trong khu vực khai thác. Khai thác bauxite sẽ thải ra nhiều độc chất vốn phải được lưu giữ ở nơi an toàn và vĩnh viễn. Các tác động tiềm ẩn quan trọng còn vượt ra khỏi khu vực khai thác, gây ô nhiễm cho những vùng lân cận và hạ lưu. Đối với các hoạt động khai thác bauxite tại Lào, nhiều quan ngại đã được nêu ra tại vùng tiếp giáp với Campuchia, chất thải công nghiệp và sự gia tăng sử dụng nguồn nước xuyên biên giới trên sông Sekong (một phần lưu vực của ba sông Sekong – Sesan – Srepok) có thể tác động nghiêm trọng đến miền hạ lưu. Chẳng hạn, việc thải ra những lượng lớn bùn đỏ có tính kiềm (kèm theo nhiều chất gây ô nhiễm) sẽ đe dọa vô cùng nghiêm trọng đến chất lượng nước bề mặt cũng như nước ngầm ở miền hạ lưu. Thêm vào đó, một trong những dự án đã được lên kế hoạch (Chú thích: Như đã đề cập trước đây, có nhiều nhà đầu tư vào cao nguyên Bolaven; tuy nhiên, EIA của Slaco có thể cung cấp nhiều thông tin quan trọng) dọc theo cao nguyên Bolaven dự kiến sẽ cần tiêu thụ 108.749 mét khối nước mỗi ngày, với 1,3 mét khối mỗi giây từ sông Xe Namnoy, một nhánh sông Sekong, chiếm đến một nửa lưu lượng đỉnh của dòng sông này. Hàng ngàn người đang sinh sống dựa vào sông Sekong sẽ bị ảnh hưởng do các dòng chảy bị ô nhiễm và có thể thiếu hụt.
3.4. Khát năng lượng
Tìm được những nguồn năng lượng thích hợp để hỗ trợ các hoạt động khai thác bauxite sẽ cung cấp cho các công ty nhiều cơ hội bóc lột tài nguyên tại những nước lân cận. Thật ra thì quá trình khai thác bauxite và tinh chế nhôm oxit không cần nhiều năng lượng (khoảng 250 megawatts để sản xuất 1 tấn nhôm oxit). Qui trình này cần hơi nóng để sấy khô nhôm oxit, vì vậy sẽ cần một nhà máy năng lượng đốt than. Để sấy khô 1 tấn nhôm oxit sẽ cần 1 tấn than. Nhà máy năng lượng đốt than có thể thỏa mãn đồng thời cả hai yêu cầu: năng lượng và hơi nóng.
Nhưng lò luyện nhôm thì lại cần nguồn năng lượng khổng lồ và phải rẻ tiền, nên hầu như sẽ phải nhờ đến thủy điện. Nếu sử dụng công nghệ hiện đại nhất hiện nay thì cũng phải cần 14.000 megawatt để có thể luyện ra được một tấn nhôm. Trước mắt, năng lượng của Trung Quốc chủ yếu dựa vào than. Do Lào và Campuchia đang có kế hoạch khai thác tiềm năng sông ngòi phong phú của họ để phát triển thủy điện xuất khẩu sang các nước lân cận (Chú thích: Trung Quốc là nhà đầu tư chính vào các dự án thủy điện tại Lào và Campuchia) và xây dựng nhiều nhà máy đốt than dọc theo Việt Nam, Trung Quốc có thể tiết kiệm chi phí rất nhiều nếu xây dựng lò tinh chế nhôm oxit và luyện nhôm tại một hay tại cả ba nước này.
Do yêu cầu to lớn về năng lượng, hiện nay Việt Nam chỉ có thể sản xuất nhôm oxit rồi xuất khẩu sang Trung Quốc. Lào và Campuchia sẽ có cơ hội luyện nhôm nhờ họ có tiềm năng thủy điện, mặc dù vấn đề hiện nay là phải tìm cho được nguồn năng lượng rẻ tiền. Để có thể sản xuất nhôm hiệu quả, thủy điện phải được bán với giá 2,5-3,5 xu Mỹ một kilowatt. Hiện nay Lào đang bán điện với giá 5-6 xu Mỹ một kilowatt, nên công nghiệp luyện nhôm không thể sống được (ít ra là vào thời điểm hiện tại). Một phương án khác mà các công ty có thể chọn là ngưng ở công đoạn nhôm oxit rồi bán ngay cho người mua; tuy nhiên, vận chuyển nhôm oxit sẽ gặp khó khăn.
Tại Lào, một số nhà đầu tư đang có kế hoạch thâu tóm nguồn năng lượng cho chính họ. Chẳng hạn, Sarco dường như đã mua được quyền xây dựng nhà máy thủy điện Xepian-Xenamnoi ở tỉnh Champassak để cung cấp năng lượng cho hoạt động khai thác của công ty. Ngoài ra, Slaco, nhà đầu tư tham vọng nhất tại Lào, cuối cùng đã có kế hoạch đem than của chính công ty từ Campuchia, nơi công ty đang làm chủ một số mỏ than, đến nhà máy tinh chế ở Lào, trong trường hợp công ty không thể tìm đủ nguồn năng lượng nào khác. (Chú thích: Dự án thủy điện Namphak – Nhật Bản ở quận Paksong hiện nay đang trong giai đoạn phát triển dự án MOU. Thỏa thuận phát triển dự án dự kiến sắp được Chính phủ Lào phê duyệt. Slaco dường như đã đề nghị mua toàn bộ sản lượng điện nếu xây xong đập, nhưng chưa có thoả thuận cung cấp điện chính thức cho Slaco. Tuy nhiên, năm ngoái công ty thực hiện dự án đã gặp Slaco và biết rằng nếu Slaco xây dựng nhà máy chế biến nhôm thì Slaco sẽ cần rất nhiều năng lượng.) Dự án thủy điện Xekatam cũng đang được lập kế hoạch trên cao nguyên Bolaven. Các đập thủy điện có thể cung cấp năng lượng đáng kể cho hoạt động xử lý bauxite. Tại Campuchia, một đập thủy điện qui mô nhỏ đã được xây dựng với sự hỗ trợ tài chính từ Nhật Bản. Đập này cách Sen Monorum, thủ phủ tỉnh Mondulkiri, 10 cây số. Đập đã phát điện từ tháng 11/2008. Nguồn cung cấp điện bổ sung có thể nhập khẩu từ Sông Srepok tại các tỉnh gần biên giới Việt Nam. Thêm vào đó, một đập thủy điện lớn do Công ty Điện lực Việt Nam xây dựng với công suất ước tính 450 megawatt. Đập thủy điện này nằm tại vùng hợp lưu của hai sông Sesan và Srepok tỉnh Strung Treng thuộc Campuchia (cách Sen Monorum 200 cây số). Một hệ thống truyền tải đang được lên kế hoạch để đáp ứng nhu cầu của Campuchia.
3.5. Liên kết khu vực nhờ đường sắt và cảng biển
Tất cả các công ty đầu tư đều sẽ tìm kiếm những cơ hội rẻ nhất để vận chuyển nhôm oxit và nhôm ra thị trường. Phần lớn sẽ sang Trung Quốc, nhưng cũng có thể sang các thị trường quốc tế khác. Chẳng hạn, công ty Úc là ORD River Resources đã nhấn mạnh đến lợi thế gần gũi của mỏ bauxite tại cao nguyên Bolaven – Nam Lào với nhà ga xe lửa tại Ubon Ratchani – Thái Lan (cách 50 cây số) và với cảng biển Đà Nẵng tại miền Trung Việt Nam, cảng này có thể tiếp cập thông qua đường 18B Lào và cách đó 200 cây số. Đây là những đường liên lạc giao thông khả dĩ. Bauxite, nhôm oxit, hoặc nhôm được sản xuất tại Lào có thể được gửi sang Trung Quốc hay ra thị trường thế giới bằng hai trục giao thông này.
Tại Campuchia, BHP Billiton đã nhận diện một vài phương án để vận chuyển bauxite về một nhà máy tinh chế nhôm oxit tại miền duyên hải. Bauxite có thể được vận chuyển qua đường ống, trong đó bauxite sẽ được pha với nước để tạo thành vữa chảy trong ống. Trong trường hợp này, việc xây dựng một đường ống dài tối thiểu 650 cây số từ Mondulkiri đến thành phố duyên hải gần nhất thuộc tỉnh Kampot hay Sihanoukville sẽ là một đầu tư tốn kém về thời gian lẫn tiền bạc. Bauxite cũng có thể được vận chuyển bằng đường sắt. Tuy nhiên, việc xây dựng mới một tuyến đường sắt dài khoảng 520 cây số từ Mondulkiri đến Phnom Penh cũng sẽ tốn kém và mất thời gian. Hạ tầng đường xá thì vẫn còn trong tình trạng hết sức tồi tệ trên toàn Campuchia, dịch vụ đường sắt đi từ Phnom Penh đến thành phố duyên hải thuộc tỉnh Kampot hay Sihanoukville thì lại kém cỏi. Tuy nhiên, khoảng cách từ Mondulkiri đến biên giới Việt Nam không quá 100 cây số. Tại Việt Nam, BHP Billiton đang có một dự án liên doanh với TKV để phát triển hạ tầng đường sắt đi từ Tây Nguyên đến tỉnh Bình Thuận thuộc Nam Trung Bộ.
Một cảng chuyên dụng ở tỉnh Bình Thuận với khả năng tiếp nhận các tàu 50.000 tấn cũng sẽ được xây dựng để phát triển công nghiệp bauxite tại Tây Nguyên và Nam Trung Bộ.
Ở Campuchia, nghị định bổ sung năm 2005 về hướng dẫn đầu tư khoáng sản đã ngăn cấm mọi hình thức xuất khẩu bauxite thô sang các quốc gia khác. (Chú thích: Điều 1 Nghị định bổ sung Số 008 ngày 31/01/2005 qui định: ‘Mọi dạng tài nguyên khoáng sản thiên nhiên đều không được phép xuất khẩu. Chúng phải được giữ lại để cung ứng cho các nhà máy trong nước nhằm chế biến những sản phẩm hoàn chỉnh. Chỉ có các sản phẩm hoàn chỉnh mới được phép xuất khẩu.’ Sau này ngày 29/09/2005 Điều 1 của Nghị định bổ sung đó đã sửa đổi thủ tục nhận giấy phép khai khoáng. Sửa đổi đột ngột này đã chứng tỏ rằng Chính phủ Campuchia sẵn sàng sửa Nghị định bổ sung số 008 khi năng lực chế biến khoáng sản không phù hợp với việc kinh doanh khoáng sản.) Tuy nhiên, Chính phủ Campuchia có thể sửa nghị định bổ sung này nhằm thỏa mãn các yêu cầu của BHP Billiton hoặc các công ty khai khoáng khác để xuất khẩu bauxite sang một nhà máy tinh chế nhôm oxit tại Việt Nam trong trường hợp các đường vận chuyển bauxite khác đều không khả thi về mặt kinh tế.
3.6. Liên doanh giữa các đối tác trong khu vực
Các công ty khai thác bauxite chính đang hoạt động trong khu vực đã nhận ra rằng nhiều cơ hội có thể được tạo ra bằng cách hợp tác và câu kết với nhau. Chẳng hạn, Chalco, nhà đầu tư chính trong tập đoàn Slaco, đã thỏa thuận với TKV về khai thác bauxite và chế biến nhôm oxit tại Việt Nam. LSI, một công ty Lào, đã tham gia liên doanh với cả Chalco và CNMIM/NFC để khai thác bauxite trên cao nguyên Bolaven. Cả TKV và Chalco còn có thể tham gia vào dự án Sarco. Sự kiện TKV mở văn phòng ở thủ đô Vientiane – Lào tháng 11/2007 đã đánh dấu một bước quan trọng trong chiến lược của TKV để mở rộng sang Lào. TKV còn thảo luận khả năng tham gia vào liên doanh giữa BHP Billiton và Mitsubishi tại Campuchia để thăm dò, khai thác và sản xuất nhôm oxit. Hơn nữa, tại Việt Nam, BHP Billiton đã liên doanh với TKV để phát triển hạ tầng đường sắt đi từ Tây Nguyên đến tỉnh Bình Thuận thuộc Nam Trung Bộ.
4. Các tác động môi trường, xã hội và kinh tế trong quyết sách khai thác bauxite
4.1. Khung pháp lý về môi trường và xã hội đã có, nhưng không được thực thi tốt
Quá trình để được phê duyệt tại một trong ba quốc gia thuộc khu vực Mekong thường liên quan đến một số bộ ngành chính, gồm Bộ Kế hoạch (chẳng hạn Hội đồng Phát triển Campuchia CDC, MPI Lào); Bộ Khoáng sản (chẳng hạn MIME Campuchia, Bộ Năng lượng và Khoáng sản MEM Lào); Bộ Nước và Môi trường (WREA Lào, Bộ Tài nguyên – Môi trường MONRE Việt Nam); Bộ Công thương và Bộ Tài chính Việt Nam; và nhiều cơ quan ra quyết định cấp cao, trực tiếp báo cáo Thủ tướng (chẳng hạn Hội đồng Bộ trưởng Campuchia). Tại cả ba nước, Thủ tướng sẽ ra quyết định cuối cùng và thường ký vào các thỏa thuận thăm dò hoặc khai thác khoáng sản.
Hiện đã có nhiều luật và chính sách liên quan đến những tác động môi trường, xã hội và kinh tế trong các hoạt động khai khoáng. Trong một số trường hợp, chẳng hạn tại Campuchia, nhiều điều luật hoặc nghị định bổ sung liên quan vẫn còn ở dạng dự thảo. Tuy nhiên, cơ may để các tác động môi trường hoặc xã hội có thể cản trở được một đầu tư tương lai là rất nhỏ ở cả ba nước. Nguyên nhân chủ yếu là do thiếu khả năng thực thi các qui định về môi trường, các qui trình không rõ ràng từ cả phía chính phủ lẫn công ty đang đầu tư, và thiếu quyết tâm chính trị để ép buộc phải tuân thủ các qui định. Hơn nữa, việc không công khai các tài liệu dự án đã ngăn trở việc phân tích đầy đủ về cách thức mà các công ty đã lên kế hoạch để giảm nhẹ những tác động môi trường và xã hội. Trong trường hợp của Lào, có thể thấy rằng Chính phủ Lào đã cung cấp cho Slaco những khuyến cáo về EIA của họ, nhưng vẫn còn chưa rõ là các khuyến cáo này có thể làm thay đổi các kế hoạch thực thi của công ty hoặc thay đổi tiến trình phê duyệt dự án hay không. Hơn nữa, thật khó xác định được liệu một đánh giá đầy đủ về các vấn đề môi trường và xã hội có được sát nhập vào quá trình ra quyết định hay không, bởi vì các EIA và những tài liệu liên quan ở cả ba nước đều không công khai cho công chúng, mặc dù các qui định đã qui định điều ngược lại. Tại Việt Nam, kinh nghiệm cho thấy việc chuẩn bị các EIA chỉ nhằm đáp ứng những yêu cầu tối thiểu của Chính phủ, các vấn đề môi trường chỉ được đề cập qua loa, giai đoạn thực thi không được kiểm soát gắt gao, các kế hoạch hoàn nguyên và dự án cải thiện không phải lúc nào cũng tuân theo EIA. Trong một số tình huống, chẳng hạn tại Việt Nam, một ví dụ điển hình về xung đột lợi ích (vừa đá bóng vừa thổi còi) là trường hợp của dự án nhôm oxit đầu tiên ở tỉnh Lâm Đồng: một công ty do chính chủ đầu tư TKV kiểm soát, lại đi thực hiện EIA.
4.1.1. Campuchia
Campuchia có hai luật chính đề cập đến việc quản lý và khai thác khoáng sản, đó là Luật Quản lý và Khai thác Tài nguyên Khoáng sản (2001) và Luật Bảo vệ Môi trường và Quản lý Tài nguyên Thiên nhiên (1996). Một số nghị định liên quan vẫn còn ở dạng dự thảo, gồm Nghị định bổ sung về Quyền và Trách nhiệm của nhân viên chuyên trách về việc Yêu cầu Tuân thủ Luật pháp, dự thảo Thông tư về Cho thuê mặt bằng khai khoáng và dự thảo Thông tư về phí đánh trên sản phẩm khai khoáng. Luật dành cho các Khu Bảo tồn cũng được ban hành vào đầu năm 2008; tuy nhiên, công tác khoanh vùng chưa được khởi động nhằm phân định khu vực hạn chế (khu lõi và khu bảo tồn), từ đó có thể gây khó khăn cho các hoạt động khai khoáng. Hiện nay một số hoạt động khai thác đã được cấp phép bên trong các khu bảo tồn.
Để được cấp phép thăm dò khoáng sản, công ty phải đăng ký với Bộ Thương mại để hoạt động như một công ty tư nhân, đồng thời phải đăng ký với Hội đồng Đầu tư Campuchia (CIB) trực thuộc CDC để hoạt động như một công ty đầu tư. MIME là cơ quan điều hành mọi hoạt động liên quan đến tài nguyên khoáng sản tại Campuchia, có chức năng cấp phép và ký thỏa thuận thăm dò khai thác. Người quyết định cao nhất trong việc cấp phép thăm dò và khai thác tài nguyên khoáng sản là Thủ tướng. Thông tư 001 về Đình chỉ và Thu hồi giấy phép khai thác tài nguyên khoáng sản (ngày 25/05/2004) đã liệt kê những vi phạm hợp đồng có thể khiến cho giấy phép phải bị đình hoãn, và nếu người được cấp phép không khắc phục được thì giấy phép sẽ bị thu hồi. CDC là tổ chức một-cửa chịu trách nhiệm phát triển và giám sát các hoạt động đầu tư. CDC gồm hai hội đồng: Hội đồng Phục hồi và Phát triển Campuchia, chịu trách nhiệm điều phối và quản lý các hoạt động hỗ trợ, và CIB, chịu trách nhiệm về xúc tiến, đánh giá, khuyến khích và lập kế hoạch chiến lược trong lĩnh vực đầu tư tư nhân.
Trong một số trường hợp, các cộng đồng địa phương tại Campuchia đã tố cáo rằng các công ty đã cho tiến hành khai thác mặc dù họ chỉ có giấy phép thăm dò, đây là hành động cần phải đình chỉ giấy phép để điều tra. Tuy nhiên, các quan chức chính phủ Campuchia lại khăng khăng cho rằng chẳng có hoạt động khai thác nào đang diễn ra. Năm 2007, để dự phòng cho bất kỳ dự án đặc biệt hoặc cấp bách nào mà Thủ tướng Campuchia đã phê duyệt, MOE đã thông báo rằng các công ty khai khoáng không còn phải thực hiện EIA như một điều kiện tiên quyết để có thể nhận được giấy phép thăm dò, và từ nay về sau, công tác khoanh vùng cho các khu bảo tồn chỉ được thực hiện một khi ‘các qui hoạch tổng thể’ nguồn khoáng sản đã được lập, thông qua sự hợp tác giữa MOE, MIME và các công ty khai khoáng tương lai. Tuy nhiên đối với các dự án công, các công ty bắt buộc phải tuân thủ các qui định EIA.
4.1.2. Lào
Tại Lào, khung pháp lý đã có và đang trong quá trình hoàn thiện. DGM trực thuộc MEM (vừa được thành lập) là cơ quan chịu trách nhiệm giám sát các chức năng khai khoáng, địa chất và kỹ thuật. Trực thuộc DGM, Phòng Quản lý Nhượng Quyền Khai khoáng chịu trách nhiệm soạn thảo các qui chế chính sách về điều tra, thăm dò, khai thác, môi trường và bảo vệ môi trường trong khai khoáng. Ngoài ra Phòng này còn chịu trách nhiệm chính trong việc giám sát, thẩm định và khuyến khích các hoạt động đầu tư khai khoáng.
MPI chịu trách nhiệm ký mọi thỏa thuận với các nhà đầu tư nước ngoài. Luật Xúc tiến Đầu tư nước ngoài (2004) hướng dẫn qui trình xin phép đầu tư nước ngoài.
Được thành lập vào năm 2007 và trực thuộc Văn phòng Thủ tướng (PMO), WREA là cơ quan chính điều phối việc quản lý và lập kế hoạch môi trường trong mọi lĩnh vực. Theo Luật Bảo vệ Môi trường, trách nhiệm của WREA bao gồm việc xây dựng các chiến lược thực thi chính sách môi trường, tiếp nhận đánh giá các EIA và những tài liệu thuyết minh khác, chấn chỉnh các cơ quan chủ quản để cắt giảm hoặc điều chỉnh các hoạt động gây hại môi trường. WREA đã lập ra nhiều qui định môi trường liên quan đến các EIA để từ đó các cơ quan chủ quản phải chịu trách nhiệm xây dựng và thực thi những hướng dẫn EIA trong lĩnh vực mà mình quản lý. Đối với lĩnh vực khai khoáng, DEM chịu trách nhiệm đảm bảo rằng mọi dự án khai khoáng đều được phê duyệt thông qua qui trình EIA mà WREA đã đề ra và tuân thủ các tiêu chuẩn đó. Sở Đánh giá Tác động Môi trường và Xã hội được thành lập vào tháng 10/2008, chịu trách nhiệm xét duyệt các tài liệu EIA do các công ty khai khoáng đệ trình, đồng thời chịu trách nhiệm thẩm định địa điểm. Các đề đạt cuối cùng sẽ được trình lên Bộ trưởng WREA để được cấp Chứng chỉ Tuân thủ Môi trường (ECC). Để nhận được ECC đòi hỏi phải trải qua một qui trình khá phức tạp và cơ quan thi hành sẽ thực hiện nhiệm vụ này. (Chú thích: Ba cơ quan tham gia vào việc cấp ECC: (1) Đối với những dự án có các tác động nhỏ, các Bộ chủ quản có Phòng Quản lý Môi trường, chẳng hạn MEM, sẽ chịu trách nhiệm xét duyệt các dự án đó. Về lý thuyết, MEM sẽ gửi công văn đề nghị WREA cấp ECC – nhưng trên thực tế, đôi khi WREA không biết đến các dự án này. (2) Trong trường hợp Bộ chủ quản không có Phòng Quản lý Môi trường, WREA chịu trách nhiệm thực hiện qui trình xét duyệt để thẩm định môi trường sơ bộ – IEE. (3) Trong trường hợp đặc biệt, Bộ Công Thương sẽ chịu trách nhiệm xét duyệt và cấp ECC cho những đầu tư ở mức IEE đối với các dự án được xem là nhỏ về độ phức tạp cũng như về phạm vi ảnh hưởng. Khúc mắc chính nằm ở cơ quan thi hành là MEM, vì MEM là đơn vị duy nhất chịu trách nhiệm quyết định qui mô mỏ nào sẽ cần IEE, EIA hoặc không cần đánh giá.) Một qui định mới do WREA dự thảo đã đệ trình để Quốc Hội Lào thông qua vào tháng 12/2008. Qui định mới này sẽ có một qui trình sàng lọc mới, dựa trên một số chỉ tiêu nhằm xác định xem cần phải thực hiện loại đánh giá nào, đặt cơ sở trên qui mô của dự án. Thay vì một EIA chính thức, một thẩm định môi trường sơ bộ (IEE) (Chú thích: Tại Lào cũng như tại hầu hết các quốc gia, việc xác định xem một dự án có cần EIA hay không, nếu có thì qui mô của EIA ra sao, đều dựa vào qui trình sàng lọc môi trường và IEE.) sẽ được yêu cầu đối với các dự án gây tác động nhỏ, còn những dự án gây nhiều tác động đáng kể thì sẽ phải cần EIA. Bảng 4 cho biết những chỉ tiêu dùng để xác định các yêu cầu đánh giá. Ngoài ra, còn có Hội đồng Môi trường Quốc gia trực thuộc PMO là cơ quan tư vấn cho WREA trong việc phê duyệt các dự án khai khoáng đã đệ trình.
Bảng 4: Các chỉ tiêu xác định loại đánh giá môi trường tại Lào
| Công nghiệp khai khoáng | Những dự án phải thực hiện IEE | Những dự án phải thực hiện EIA | Những dự án phải có ECC để được phép hoạt động |
| Khai thác đá, sỏi và cát với công suất | Không quá 50 tấn mỗi ngày | Hơn 50 tấn mỗi ngày | Phải có |
| Dự án khai khoáng (dùng hoặc không dùng hóa chất) | Không quá 100.000 mét khối mỗi ngày | Hơn 100.000 mét khối mỗi ngày | Phải có |
Trước đây, một số dự án chỉ ký thỏa thuận với lãnh đạo địa phương theo Luật Đầu tư Nước ngoài. Điều này là được phép nếu đầu tư dưới một mức nhất định. Nhưng trong thực tế, các công ty có thể thi hành chiến lược đầu tư ít ở giai đoạn thăm dò để lách nhiều qui định và qui trình của chính phủ trung ương. Các quan chức chính phủ trung ương cũng đã phát hiện và nêu ra nhiều quan ngại về vấn đề này, do vậy mà hiện nay Lào đang phải rà soát lại qui trình, đầu tư và luật khai khoáng.
Thông qua DGM, nhà đầu tư tương lai sẽ chọn địa điểm rồi trình lên MPI dưới dạng một đơn xin cấp phép đầu tư nước ngoài. Bên trong MPI của Lào có một Văn phòng Trung Quốc riêng biệt chuyên hỗ trợ đầu tư từ các công ty Trung Quốc (Chú thích: Không thể có được thông tin về văn phòng này), điều này chứng tỏ tầm quan trọng của Trung Quốc đối với Lào. Năm 2006 công ty ORD của Úc đã báo cáo rằng các nhượng quyền sẽ rất khó đạt được nếu không có một đối tác Trung Quốc. Vì thế ORD đã phải liên doanh với NFC, bằng không thì ORD không thể hoàn tất quá trình đàm phán. Vinay Inthavong, một doanh nhân Lào đồng thời là chủ tịch Tập đoàn Vico cho rằng, lãnh đạo cấp cao của Lào phải tuân thủ các yêu cầu của hai nhà hàng xóm quan trọng: ‘Nếu muốn duy trì quyền lực, các nhà lãnh đạo Lào phải ủng hộ Trung Quốc và Việt Nam.’
4.1.3. Việt Nam
Tại Việt Nam, Ủy ban Nhân dân tỉnh sẽ cấp giấy phép đầu tư và yêu cầu các bộ, ngành cho ý kiến về các hồ sơ liên quan cũng như thông tin về nhà đầu tư. Cơ quan Cấp Giấy phép Đầu tư sẽ thực hiện việc đánh giá rồi trình Thủ tướng phê duyệt. MONRE chịu trách nhiệm quản lý các nguồn tài nguyên khoáng sản trong phạm vi cả nước (Chú thích: Điều 55 Luật Khoáng sản). Bộ Công thương thực hiện quản lý nhà nước về khai thác, chế biến và kinh doanh khoáng sản. Uỷ ban nhân dân các cấp thực hiện quản lý nhà nước về khoáng sản tại địa phương theo thẩm quyền.
Luật Khoáng sản Việt Nam yêu cầu các nhà đầu tư phải lập báo cáo EIA (Chú thích: Nghị định 80/2006/NĐ-CP của Chính phủ ngày 09/08/2006 đã đưa ra một danh mục gồm 102 dự án phải lập báo cáo EIA, trong đó có các dự án khai thác và chế biến khoáng sản) song song với việc lập báo cáo đầu tư. Những dự án đầu tư trong các hoạt động khai khoáng chỉ được phê duyệt và cấp giấy phép sau khi EIA đã được đánh giá. Cùng với báo cáo EIA, dự án phải lập kế hoạch cải tạo phục hồi môi trường, ký quỹ và tiếp tục đảm bảo hoàn nguyên môi trường năm năm sau khi dự án kết thúc. (Chú thích: Quyết định 71/2008/QĐ-TTg của Thủ tướng về việc ký quỹ cải tạo, phục hồi môi trường đối với hoạt động khai thác khoáng sản)
Các kế hoạch đầy tham vọng của Việt Nam về khai thác bauxite tại Tây Nguyên đã lờ đi những yêu cầu của Luật Bảo vệ Môi trường là phải thực hiện Báo cáo Đánh giá Môi trường Chiến lược (SEA) (Chú thích: SEA thường được thực hiện ở các cấp cao để ra quyết định. Đây là quá trình nhằm tiên liệu và thảo luận về các hậu quả môi trường tiềm ẩn ngay tại giai đoạn đầu của một chính sách, kế hoạch hoặc chương trình. Còn EIA lại tập trung nhiều hơn vào một đề xuất phát triển cụ thể trước khi ra các quyết định quan trọng và trước khi thực hiện các cam kết) trước khi lập các kế hoạch. Tương tự với cao nguyên Bolaven tại Lào, Tây Nguyên là một khu vực nhạy cảm về môi trường và xã hội. Nếu không có SEA, như nhiều chuyên gia và nhà khoa học đã phát biểu trong hội thảo tháng 12/2007 tại thị xã Gia Nghĩa tỉnh Đăk Nông (Chú thích của người dịch: tác giả đã ghi sai thời điểm, đúng ra là tháng 10/2008), các tác động có tính lũy tích và liên khu vực lên môi trường, kinh tế và xã hội sẽ rất đáng kể. Thậm chí một số quan chức tại Bộ Công thương và Uỷ ban Nhân dân tỉnh Đăk Nông cũng lo lắng về vấn đề quản lý môi trường của các dự án này trong tương lai nếu không có SEA cho việc lập kế hoạch khai thác bauxite.
Tình trạng không có SEA là do Việt Nam thiếu kinh nghiệm thực hiện SEA, do hạn chế về ngân sách của Chính phủ trong việc thực thi các qui định và do nhu cầu khai thác bauxite cấp bách để đáp ứng nhu cầu trên thị trường. (Chú thích: Trong lúc Việt Nam còn thiếu năng lực thực hiện SEA thì một SEA trong lĩnh vực thủy điện hiện nay đang được tiến hành, từ đó SEA có thể được tái lập cho lĩnh vực khai khoáng bauxite).
Đến cuối năm 2008, có duy nhất một dự án tổ hợp bauxite-nhôm đã được đánh giá (duy nhất hạng mục sản xuất alumina của dự án) – đó là dự án Lâm Đồng. Dự án bauxite-alumina Nhân Cơ tại Đăk Nông đang được điều chỉnh lên đến 600.000 tấn mỗi năm và đang đợi để được đánh giá lại. Những báo cáo EIA cho các dự án tuyển và khai thác quặng vẫn còn trong quá trình chuẩn bị. Về đầu tư và các báo cáo EIA cho những dự án này, nhiều công ty tư vấn khác nhau đã tham gia hỗ trợ chủ đầu tư (TKV), nhưng thực chất thì các đơn vị tư vấn này hoặc trực thuộc TKV, Bộ Công thương hoặc những viện nghiên cứu nước ngoài do các đối tác nước ngoài mời tham gia. Quá trình này chưa lôi kéo những tổ chức xã hội chẳng hạn các tổ chức khoa học công nghệ và đơn vị tư vấn độc lập nhập cuộc. Các báo cáo EIA cho Lâm Đồng và Nhân Cơ đã được lập bởi Công ty cổ phần Tin học, Công nghệ và Môi trường Than – Khoáng sản Việt Nam, đây lại là một công ty do TKV kiểm soát.
Theo các nghiên cứu thực địa tại các tỉnh Lâm Đồng và Đăk Nông, thực tế thì quá trình phê duyệt dự án tổ hợp bauxite-nhôm Lâm Đồng và dự án nhôm oxit Nhân Cơ đã không được thực thi như đã qui định. Các dự án này đã được thực hiện trong lúc quá trình khai thác còn chưa được tiến hành và kết thúc (quyết định về quy hoạch phân vùng khai thác đã được công bố vào tháng 05/2007 trong Quyết định 167/2007/QĐ-TTg của Thủ tướng chính phủ). (Chú thích của người dịch: tác giả đã ghi sai thời điểm, đúng ra phải là tháng 11/2007). Kết quả là báo cáo đầu tư và kế hoạch thực thi đã phải được thực hiện song song. Tại nhà máy nhôm oxit Nhân Cơ, đất đai đã được giải tỏa từ tháng 12/2005 để xây dựng một phân xưởng sản xuất nhôm oxit với công suất dự kiến 100.000 tấn nhôm oxit mỗi năm. Tuy nhiên trong quá trình thực hiện, công suất đã được điều chỉnh thành 300.000 tấn mỗi năm vào năm 2006, rồi lại lên 600.000 tấn mỗi năm vào năm 2008. Người ta suy đoán rằng đây có thể là chiến lược của công ty để lách nhiều ràng buộc đối với những dự án lớn bằng cách khởi đầu với qui mô nhỏ rồi sau đó mở rộng thêm. Cho đến nay, mặc dù Uỷ ban Nhân dân tỉnh Lâm Đồng đã cấp giấy phép cho tổ hợp bauxite-nhôm và Uỷ ban Nhân dân tỉnh tỉnh Đăk Nông đã cấp giấy phép cho dự án bauxite-nhôm oxit, thật ra thì chỉ có hạng mục nhà máy nhôm oxit của các dự án đã được tiến hành. Còn nhà máy tuyển và khai thác quặng thì vẫn trong quá trình hình thành.
Hộp tin 2: Các đơn vị tham gia lập các báo cáo đánh giá cho dự án tổ hợp bauxite-nhôm Lâm Đồng
| Báo cáo đầu tư: Công ty Tư vấn Đầu tư Xây dựng và Phát triển; Bộ Công thương; Viện Nghiên cứu Cơ khí Quốc gia; Viện Khoa học và Công nghệ Mỏ – Luyện kim; và các chuyên gia thuộc công ty Pechiny (Pháp). Báo cáo EIA: (hạng mục dự án nhà máy nhôm oxit): Viện Khoa học và Công nghệ Mỏ – Luyện kim cùng các chuyên gia thuộc MONRE. |
| Lập cơ hội đầu tư | 1997 |
| Cấp giấy phép thăm dò | 1998 |
| Báo cáo nghiên cứu tiền khả thi và báo cáo EIA | 1998-99 |
| Báo cáo khả thi (năng suất 300.000 tấn nhôm oxit mỗi năm) | 2001 |
| Chính phủ ra văn bản hướng dẫn đầu tư 808/2005/VPCP | 2005 |
| Nộp báo cáo khả thi cho nhà máy nhôm oxit mới, trong đó đề nghị tăng công suất lên 600.000 tấn nhôm oxit mỗi năm | 2005 |
| Bắt đầu giải toả đất ngày 07/06/2006 | 2006 |
| Báo cáo đầu tư dự án tổ hợp bauxite-nhôm được TKV phê duyệt, Quyết định 1339/QĐ-VINACOMIN ngày 07/06/2007 | 2007 |
| Báo cáo EIA cho hạng mục chế biến, nộp năm 2006 và được đánh giá năm 2007 | 2007 |
| Quyết định về quy hoạch phân vùng khai thác của Thủ tướng Chính phủ 167/2007/QĐ-TTg | 2007 |
| Đầu tư được cấp giấy phép vào tháng 11/2008 | 2008 |
| Ngày 14/07/2008 Chalieco thắng gói thầu EPC cho nhà máy nhôm oxit | 2008 |
| Ngày 26/07/2008 tổ hợp bauxite-nhôm Lâm Đồng chính thức khởi công | 2008 |
Ở cả ba nước, những EIA được lập cho các dự án khai thác bauxite đều không được công khai, mặc dù các qui định đã chỉ rõ rằng chúng phải ở trạng thái sẵn sàng cung cấp hoặc được đặt tại nơi công cộng. Ở Việt Nam, các EIA thường bị cho là quá chung chung, còn những SEA thì chưa làm, mặc dù các qui định có yêu cầu. Tại Lào, Chính phủ vẫn chưa hiểu rõ các EIA, mặc dù tiền mới tài trợ đang dùng để xây dựng năng lực tối cần cho WREA. Ở Campuchia, MIME giữ bí mật hoạt động khai thác bauxite và tất cả các hoạt động tài nguyên khoáng sản khác trên toàn Campuchia, do Luật Khoáng sản qui định cụ thể rằng mọi đơn từ, báo cáo, kế hoạch và thông cáo liên quan đến thăm dò và khai thác đều phải được bảo mật. Tất nhiên những tổ chức công cũng như tư và các tổ chức phi chính phủ đều không thể tiếp cận thông tin về những giấy phép cũng như thỏa thuận về thăm dò khoáng sản. Báo cáo thường niên của Tổng Cục Tài nguyên Khoáng sản Campchia được xem là tài liệu mật, còn việc đi thăm địa điểm có hoạt động khai khoáng thì bị cấm đoán triệt để. Có rất ít liên hệ giữa MIME và các văn phòng chính phủ khác: MOE không được tư vấn trong việc chuẩn bị điều khoản bảo vệ môi trường trong Thỏa thuận Khai thác Khoáng sản. Tuy nhiên, Luật Bảo vệ Môi trường và Tài nguyên Thiên nhiên thì lại cho phép người dân có quyền yêu cầu MOE cung cấp thông tin về các hoạt động của mình, đồng thời khuyến khích người dân tham gia bảo vệ môi trường và quản lý tài nguyên thiên nhiên. Đây là một minh họa về tình trạng chồng chéo trong thực thi pháp lý và xung đột trong luật pháp về vấn đề công khai thông tin.
4.3. Các giấy phép thường được cấp bất chấp các quan ngại về môi trường và xã hội
Trong khi tại Campuchia, nhiều quan ngại về môi trường và xã hội chỉ đóng vai trò thứ yếu trong quá trình ra quyết định từng bước về thăm dò khai thác bauxite, mặc dù có sự tham gia của MOE, một quá trình như thế dường như đang được triển khai tại Lào đối với dự án Slaco. Ở đó, WREA đã đi thị sát địa điểm dự án rồi sau đó gửi lại cho công ty nhiều bình luận về EIA mà công ty đã lập, nêu ra hơn 50 vấn đề. Hoạt động này bao gồm nhiều quan ngại cho rằng báo cáo EIA liên quan cần phải bổ sung kế hoạch phát triển các dân tộc thiểu số và/hoặc báo cáo tìm đất kèm theo đền bù hoặc kế hoạch tái định cư theo Nghị định 192 về Đền bù và Tái Định cư cho người dân chịu ảnh hưởng bởi các dự án triển khai và các Qui định hướng dẫn thi hành số 2432. Hiện nay Slaco đang trong quá trình cung cấp cho Chính phủ Lào nhiều chi tiết hơn theo các yêu cầu của chính phủ. Tuy nhiên, cần để ý thêm rằng việc xây dựng đã được tiến hành tại địa điểm dự án, bất chấp nhiều quan ngại đã được nêu ra xung quanh các vấn đề môi trường và xã hội cộng với tình trạng thiếu chứng chỉ ECC.
4.4. Lợi ích không chắc chắn cho các cộng đồng địa phương
Nhiều cơ hội có thể đến với các cộng đồng địa phương qua việc tiếp nhận những tài trợ nhằm phát triển hạ tầng nông thôn, công nghiệp nhỏ, chế biến nông lâm sản, và tạo ra việc làm cho lao động địa phương, từ đó có thể đem lại các thay đổi tích cực trong cộng đồng. Nhưng lĩnh vực khai khoáng nói chung đòi hỏi những kỹ năng kỹ thuật cao. Có rất ít cơ hội để các cộng đồng địa phương có thể tham gia vào những hoạt động khai khoáng, cũng chẳng mấy chắc chắn về cơ may các lợi ích đó đang trở nên hiện thực. (Ghi chú: Cần để ý rằng một số dự án do Úc thực hiện đã triển khai nhiều dự án phát triển cộng đồng) Cả ba quốc gia đều không có kinh nghiệm khai thác và chế biến bauxite, vì vậy việc nhập khẩu công nghệ, trang thiết bị và nhân lực phù hợp là rất cần thiết. Hơn nữa, kinh nghiệm từ nhiều kiểu đầu tư khác của Trung Quốc đã minh chứng rằng Trung Quốc thường đưa nhân công của họ vào để thực hiện dự án. Thêm vào đó, tại khu vực khai thác bauxite ở cả ba nước đều có nhiều dân tộc thiểu số sinh sống, núi rừng mà tổ tiên của họ đã truyền lại có thể bị xâm phạm, đồng thời có rất ít cơ hội tạo ra việc làm và thu nhập cho họ. Chẳng hạn tại Campchia, các cộng đồng và chính quyền địa phương hiếm khi thấy được bất kỳ thu nhập trực tiếp nào đem lại từ các hoạt động khai khoáng, bởi vì họ chẳng nhận được bất kỳ khoản thu nhập thuế hoặc trợ cấp hoàn nguyên để phục hồi địa điểm khai khoáng nào từ công ty khai thác.
4.5. Thiếu tư vấn cộng đồng
Ở cả ba nước, thông tin bị hạn chế hoặc hoàn toàn không có thông tin đề cập đến phương cách và thời điểm các cộng đồng chịu ảnh hưởng sẽ được tư vấn về các hoạt động đầu tư khai khoáng. Vì vậy rất khó xác định được vai trò hoặc đóng góp của các cộng đồng vào việc triển khai các dự án khai thác bauxite. Tuy nhiên, các bằng chứng trong quá khứ, chẳng hạn trong lĩnh vực thủy điện, đã minh chứng rằng ở cả ba nước, nếu có các tư vấn thì chúng thường được tổ chức cho các trưởng làng, mà những người này thì không đại diện cho các quan ngại của cộng đồng được. Một số cộng đồng đã than phiền rằng họ ít được cung cấp thông tin, được thông báo hoặc chẳng được tư vấn gì cả.
5. Kết luận
Campuchia, Lào và Việt Nam có thể thu lợi rất nhiều từ khai thác bauxite qua doanh thu và việc làm. Tuy là nguyên liệu đầu của mọi sản phẩm nhôm, nguồn khoáng sản quan trọng này lại nằm ở một vùng nhạy cảm về môi trường thuộc khu vực sông Mekong. Tỉnh Mondulkiri Campuchia tự hào với bốn khu bảo tồn đời sống hoang dã và hai rừng bảo tồn cấp quốc gia. Cao nguyên Bolaven Lào có rừng bạt ngàn, nhiều vùng đất nông nghiệp quan trọng, cũng như nhiều động thực vật quý hiếm. Cao nguyên Việt Nam là một vùng đất vô cùng màu mỡ với những vườn cà phê rộng lớn và tiềm năng du lịch sinh thái khổng lồ. Cả ba vùng này đều là nơi cư trú của nhiều cộng đồng dân tộc thiểu số, họ đã bám trụ vào các vùng đất này qua bao đời nay.
Nhiều quan ngại về khai thác bauxite phát sinh từ những hậu quả khôn lường về môi trường và xã hội của các dự án khai khoáng kể trên. Như hầu hết các dự án phát triển khác, người dân sẽ phải gánh chịu hậu quả, họ thường phải từ biệt đất đai của mình để tái định cư nơi khác hoặc phải khổ sở chịu đựng những ô nhiễm môi trường cùng với điều kiện sống tệ hại hơn trước. Môi trường cũng phải gánh chịu hậu quả vì hoạt động khai thác bauxite sẽ thải ra nhiều độc chất vốn phải được lưu giữ ở nơi an toàn và vĩnh viễn. Với đặc trưng hệ thống sông ngòi chằng chịt ở cả ba quốc gia, nguồn nước sẽ bị ảnh hưởng cả về chất lẫn về lượng; thêm vào đó, quá trình luyện nhôm cần nguồn cung khủng khiếp về điện và lại phải rẻ tiền.
Một số tử huyệt luôn song hành với việc khai thác trong khu vực này. Thứ nhất, cho đến nay khu vực này chưa thể tiếp cận được nguồn năng lượng rẻ tiền. Phát triển thủy điện thì lại không đồng bộ với các dự án bauxite đã được đề xuất, mà thủy điện thì chưa thể được bán với giá đủ rẻ để giúp hoạt động luyện nhôm trở nên hiệu quả, cho dù đang có nhiều dự án được lập để khai thác các nguồn thủy điện. Các nhà máy điện đốt than đang được sử dụng làm nguồn năng lượng và hơi nóng cho các công đoạn khai thác và tinh chế nhôm oxit, nhưng bị cho rằng không phải là nguồn năng lượng khả thi để luyện nhôm. Thứ hai, trên thế giới chỉ có vài nước xuất khẩu bauxite thô, nếu xuất khẩu nhôm oxit thì vận chuyển sẽ hết sức khó khăn. Vì thế, cách tốt nhất là ba nước cố gắng thực hiện toàn bộ dây chuyền, từ khai thác bauxite, tinh chế nhôm oxit cho đến luyện nhôm.
Hãy bàn về Trung Quốc. Mặc dù không phải là nhà đầu tư duy nhất trong khu vực, Trung Quốc đóng vai trò mạnh mẽ ở cả Lào lẫn Việt Nam. Tại Việt Nam, các công ty Trung Quốc đang tham gia xây dựng các nhà máy nhôm oxit, trong khi đó tại Lào, các công ty Trung Quốc lớn đã dự phần vào việc hình thành hai liên minh của các nhà đầu tư, một số công ty nhỏ thì đang hoạt động độc lập. Trung Quốc đang cần nhôm để nuôi các ngành công nghiệp ô tô và đóng gói đang trên đà tăng trưởng của mình trong khi tài nguyên trong nước thì không đủ cung. Trung Quốc còn là kẻ liều lĩnh, hay nhảy vào những đàm phán đầu tư hết sức phức tạp mà có thể chẳng thấy được thành quả.
Câu chuyện bauxite tại khu vực này sẽ còn tiếp tục có nhiều mắc mứu, như những gì đã diễn ra từ trước đến nay. Một số dự án đã phải đình hoãn do bị công chúng phản đối kịch liệt, như trường hợp tại Việt Nam. Người dân có nhiều quan ngại sâu sắc về tính đúng đắn của các dự án này. Trường hợp của Lào thì tình hình có vẻ yên ắng, nhưng ngày càng có nhiều người trong chính phủ quan tâm nhiều hơn đến các vấn đề tiềm ẩn của bauxite, cả tích cực lẫn tiêu cực, và họ đang mong được hỗ trợ để hiểu biết nhiều hơn về nó. Tại Campuchia, nhiều lời đồn cho hay, nhà đầu tư chính tại tỉnh Mondulkiri là BHP Billiton đã rút lui; tuy nhiên, chưa có xác nhận chính thức nào về tin đồn này. Trong khi đó, những công ty như Rio Tinto đang lên kế hoạch đầu tư tại Lào, còn những công ty khác sẽ đến rồi đi. Xa hơn nữa, bằng cách nào mà Trung Quốc giải tỏa được cơn đói về nguyên liệu nhôm, đặc biệt là khi cơn đói này tác động đến các quốc gia và người dân trong khu vực sông Mekong, thì vẫn còn phải chờ xem.
Phụ lục
Phụ lục 1: Các qui trình khai thác bauxite, chế biến nhôm oxit và tinh chế nhômViệc sản xuất nhôm từ bauxite bao gồm một số qui trình (Hình 9):
Khai thác bauxite: Nhiều hoạt động cần được thực hiện tại công đoạn này, bao gồm việc tái định cư người dân, phát quang, xúc bỏ lớp đất trên bề mặt rồi thu hoạch bauxite thô. Sau công đoạn này, bauxite thô sẽ được xe tải chở đến nhà máy tuyển quặng tinh.
Tuyển quặng tinh: Trong nhà máy, nước với áp lực mạnh được dùng để rửa bauxite thô. Công đoạn này cần nước khủng khiếp và sẽ thải ra nước kèm theo bùn (không có hóa chất độc hại) ra môi trường. Sau đó quặng bauxite tinh được tải trên băng chuyền đưa vào nhà máy chế biến nhôm oxit.
Chế biến nhôm oxit: Qui trình này bao gồm các bộ phận sau: (1) nhà máy nhôm oxit; (2) nhà máy nhiệt năng đốt than; và (3) những hồ chứa bùn đỏ và bùn oxalate. Người ta thực hiện các bước sau:
- Nghiền quặng bauxite tinh thành bột.
- Hòa tan bauxite với natri hydroxit. Phần không tan là bùn đỏ. Trung hòa dung dịch để thu được kết tủa nhôm hydroxit. (Chú thích: Đây là quy trình Bayer. Như vậy bùn đỏ được tạo ra từ qui trình Bayer. Ở qui trình này, nhôm hydroxit được trích từ bauxite để sản xuất nhôm oxit).
- Sấy khô nhôm hydroxit để thu nhôm oxit nhờ hơi nóng từ nhiệt năng do đốt than. Ước tính để sản xuất được một tấn nhôm oxit sẽ cần năng lượng của một tấn than.
Tinh chế nhôm: Điện phân nhôm oxit nóng chảy trong cryolite để thu được nhôm kim loại. Qui trình này cần điện khủng khiếp và lại phải rẻ. Công nghệ hiện đại sẽ cần khoảng 14.500 kilo-oat mỗi giờ để tinh chế một tấn nhôm. Trong cả ba nước khu vực sông Mekong, với tình trạng thiếu điện hiện nay, trong nước không thể tinh chế nhôm, mà chỉ có thể sản xuất nhôm oxit rồi xuất khẩu sang nước khác. Trung Quốc rất có thể là nước sẽ mua nhôm oxit.
Để sản xuất 1 tấn nhôm sẽ cần tinh chế 2-2,5 tấn nhôm oxit (tương đương với 5 tấn quặng tinh bauxite, hay 10 tấn bauxite thô đã qua xử lý), và thải ra 3 tấn bùn đỏ. Một tấn than được dùng để sấy khô 1 tấn nhôm oxit.
Hình 9: Các qui trình sản xuất nhôm từ bauxite

Đây là văn bản quan trọng nhất của Chính phủ Việt Nam liên quan đến khai thác bauxite. Có thể tham khảo văn bản này trên nhiều trang web tại Việt Nam, chẳng hạn
http://www.ciren.gov.vn/uploads/1201676594_167-2007-QD-TTg.pdf