Tạ Chí Đại Trường
“…thời hiện đại Việt Nam phát sinh và nuôi dưỡng không phải chỉ những lãnh tụ mà còn cả những người mang sắc thái ít nhiều lệch lạc với thực tế bình thường, đông đảo hơn, phức tạp hơn, tạo thành một sức mạnh nâng đỡ lãnh tụ, đưa đẩy trào lưu lịch sử đến những bến bờ không nằm trong khuôn khổ ước mơ lúc ban đầu…”
VIỆT NAM NHÌN TỪ BÊN TRONG:
NHỮNG KHUYNH HƯỚNG CHÍNH TRỊ TIÊN TRI
THỜI HIỆN TẠI Ở VIỆT NAM
Tạ Chí Đại Trường
Đầu đề trên được ghi ngay từ bản thảo đầu tiên, viết xong khoảng tháng 9-1992 ở Sài Gòn, gởi qua Mĩ khoảng đầu năm 1994 (hay cuối 1993 gì đó) và được đăng trong một số Văn Lang tháng 6-1994 với tựa đề “Việt Nam nhìn từ bên trong và bên ngoài”. Theo lời người xuất bản thì việc phối hợp với ông Nguyễn Xuân Nghĩa, người viết phần “Việt Nam nhìn từ bên ngoài” chỉ là sự tình cờ. Những người chủ trương tờ Văn Lang vốn có ý xuất bản một tạp chí nghiên cứu bằng tiếng Việt ở ngoài nước nhưng gặp những khó khăn về bài vở cho kịp hạn kì. Vì thế khi nhận được bài của chúng tôi, ngắn, không đủ cho một lần ra mắt, họ nảy ý mời ông Nguyễn Xuân Nghĩa viết phần “bên ngoài” nối tiếp ý “bên trong”. Thế là có một sự hợp tác tình cờ của hai người không ai biết ai cả, ngạc nhiên nhất là chúng tôi, khi biết ông Nguyễn Xuân Nghĩa là cháu Tổng bí thư đảng Cộng sản Việt Nam đương thời, và do đó, bản sách đưa về Việt Nam được “xin” thêm mươi cuốn cho Bộ Chính trị đọc!
Phần của chúng tôi được in ra đã mắc phải lỗi sai sót của chính bản thân cũng như vì trường hợp xa cách của hai đầu mối viết và in. Bản thảo cũ cũng không còn, nhưng chúng tôi có sửa lại chút ít khi ra ngoài tiếp xúc với vài tài liệu mới, in trong Những bài văn sử, Văn học xb. 1999. Vẫn còn sai sót, nhưng thôi! cứ chép lại nơi đây để đánh dấu một giai đoạn. Lại cũng nhân dịp được đi ra ngoài, chúng tôi thấy vấn đề đang bàn vẫn tiếp tục xảy ra ở lớp người di tản nên chép lại một tài liệu như dẫn chứng của một giai đoạn “Việt Nam Cộng hoà nối dài”.
Westminster tháng 7-2004.
Tư tưởng tiên tri và chính trị
Quên thực tế để mơ mộng, phủ nhận hiện tại để hướng về tương lai, điều ấy đành rằng chỉ hiện rõ nét theo với một mức độ phát triển cá nhân và tập thể nào đó nhưng ở con người nói chung, tính chất ấy đã tiềm tàng từ thời xa xưa dưới nhiều hình thức không mang tính tập đoàn có tổ chức và không đậm nét tục thế. Và vì nó nằm trung gian giữa cái có và cái không có – hay chưa có, mà sự thúc đẩy thực hiện phải đồng thời và đậm nhạt đi qua vừa những biểu hiện tôn giáo vừa những quyền lực trần gian. Tuỳ nơi tuỳ lúc, với sự thăng trầm qua lịch sử loài người kết tập thành quần thể, ta gặp những con người tiên tri viện dẫn đến quá khứ để kêu gào tập đoàn mình đi đến một tương tai xán lạn hơn, quá khứ đó hoặc đã có thật, hoặc chỉ là hình ảnh của trí tưởng tượng được ném về phía trước của bước thời gian. Và những con người nảy sinh các ý tưởng vượt thời gian, không gian như thế không phải không có sự đồng cảm nào với tập đoàn dân tộc họ xuất phát.
Lịch sử của loài người đã như thế thì lịch sử Việt Nam cũng không khác trên đại thể. Đã có những sấm kí viện dẫn để đưa các thần tử lên ngôi hoặc đành chịu là giặc, chưa kể những người chết khuất lấp trong xóm làng, buôn rẫy vừa vặn với tầm mức của mình và với cả tình thế vây quanh. Cơn biến động chính trị xã hội ở Việt Nam trong thế kỉ XIX, XX đưa đất nước vào quỹ đạo của thế giới khiến các ước vọng trở thành to rộng hơn. Những nhà chính trị tiên tri đã không chịu dừng lại ở việc đặt một kế hoạch hướng đến một tương lai cho là gần mà còn có thể nói là họ muốn mở đầu thời đại: nguyên/nguơn – không phải triều đại, để lặp lại dấu vết của quá khứ. Họ muốn mở đầu một thế giới mới to rộng hơn địa vực Việt Nam trước mắt. Ước vọng này rõ ràng là vượt quá khả năng của họ, ít nhiều gì cũng cho thấy không nằm ở cuộc đời này tuy nó đã hiện diện trong đầu óc những con người cụ thể dính liền với địa phương, chịu ảnh hưởng khu vực văn hoá rõ rệt. Tuy nhiên với hoàn cảnh lịch sử như đã nói, thời hiện đại Việt Nam phát sinh và nuôi dưỡng không phải chỉ những lãnh tụ mà còn cả những người mang sắc thái ít nhiều lệch lạc với thực tế bình thường, đông đảo hơn, phức tạp hơn, tạo thành một sức mạnh nâng đỡ lãnh tụ, đưa đẩy trào lưu lịch sử đến những bến bờ không nằm trong khuôn khổ ước mơ lúc ban đầu. Nhưng rồi bóng cây nấm nguyên tử chập chờn, tiếng ầm ầm của cơ khí, xấp vải nilông, miếng kẹo thơm bọc giấy bóng... những gì cụ thể đó sẽ làm tàn ước mơ, lệch mơ ước nhiều lúc đến mức tàn nhẫn, gây “bức xúc”, “nhức nhối”... như bây giờ người ta vẫn thường nói tự an ủi để khỏi phủ nhận bản thân trước nền độc lập không như ý muốn, trước tình trạng xã hội tàn tệ diễn ra trước mắt mà không đủ dũng khí ra tay lần nữa.
Thật ra tất cả cũng đều bị cuốn hút trong đổi thay: Lãnh tụ tiên tri đi tìm quần chúng, kẻ không người có, kẻ ít người nhiều, gây tác động mạnh đến đám quần chúng ngóng chờ đổi thay, lúc cuồng nhiệt đi theo, khi ơ hờ thất vọng, tất cả đã góp phần làm nên một dáng mặt của thời hiện đại Việt Nam.
Dấu ấn tôn giáo và truyền thống
Trong quan điểm đối đầu của tôn giáo và chủ nghĩa mácxít, tôn giáo bị đẩy lùi về phía tiêu cực và tác dụng của nó được coi như chỉ là trì níu tiến bộ. Nhưng ngay cả khi gán buộc như thế, người ta cũng đã chứng tỏ nó vẫn nằm trong hoạt động xã hội, ở đó, những con người “tiến bộ” cũng chia xẻ tâm tư với nó trong một thời gian, ở một vài khía cạnh không thể chối bỏ được. Cho nên đã có một nền tảng chung cho các phe phái chính trị Việt Nam xuất phát và tranh cãi nhau, trong đó luồng tư tưởng mang dấu ấn tôn giáo ma thuật giữ vị trí sát với truyền thống hơn hết và có tác dụng bền vững lâu dài, dù là có khi xuất hiện ở những tổ chức tự xưng vô thần.
Trong phong trào Cần vương sau 1885, người ta gặp Đoàn Chí Tuân trên vùng Quảng Bình, Quảng Trị đẩy mạnh truyền thống kết hợp với tham vọng cá nhân theo ước muốn thay đổi triều đại của lời sấm “Bạch Xỉ ra đời...” Trên đất nhà Mạc cũ nảy sinh một triều đình xóm làng mới với ý định phục hưng triều Mạc cũ với Mạc Đỉnh Phúc (Nguyễn Khắc Tĩnh) và “Quốc sư” Kì Đồng Nguyễn Văn Cẩm, người được quần chúng hưởng ứng vì tác động của loại văn chương khẩu khí. Rồi đến khi nhà Nguyễn quỵ hẳn và sự tổ chức cai trị của người Pháp đã vững vàng thì sự tiếp nối hướng vọng về một ông vua, một triều đại của tương lai được tiếp sức bằng tin tưởng của các dân tộc thiểu số miền Bắc, đặc biệt là ở nhóm người Dao, Mèo. Tính chất tục thế trong ước mơ gắn bó với tập đoàn xã hội sẽ làm ảnh hưởng đến những nhà chính trị về sau dù có thêm những ý tưởng của thời đại mới dồn dập đến, và rồi họ cũng sẽ luỵ vì quá khứ ấy như, nói theo giọng nhà nghề, người phù thuỷ bị âm binh “vật” lại.
Điều kiện lịch sử đã gán ghép khu vực Bắc Việt Nam vào với truyền thống “chân chúa ra đời” trong những bước ngoặt biến chuyển theo kiểu mẫu Trung Hoa, truyền thống ấy cũng tiếp tục xuất hiện ở phía cực nam với dạng hình mới và khác, vì sự tiếp xúc cư dân ở đây đa tạp và phức tạp hơn. Vì sự hiện diện của người Pháp và còn vì sự có mặt của chính quyền dân tộc có gốc gác địa phương, nên bậc chân chúa tương lai ấy không phải là của một triều đại khác mà là của triều đại đương thời dù đó chỉ là bóng hình của dĩ vãng. Bậc chân chúa ấy, một ông minh vương vốn của tôn giáo (Bạch Liên Giáo), dù vẫn là phiếm chỉ nhưng đã xác định hơn, không còn được hiểu tiếp là “vua (nhà) Minh” nhưng là hậu thân của Minh Mạng, vua thứ hai nhà Nguyễn. Tuy nhiên tính chất phiếm chỉ với ý nghĩa một “ông vua sáng suốt” vẫn còn mở rộng ra để dẫn ước mơ đi vào lãnh vực của tôn giáo. [1]
Bàng bạc khắp đất Nam Kì thuộc Pháp là cả một mong ước về một thời thượng nguơn tốt đẹp sắp đến để thay thế cho một thời hạ nguơn đã tới hồi suy tàn. Tuy nhiên vào thời Đàng cựu, cho dù nông dân có bất mãn thì quan niệm trung quân của Nho giáo được bơm vào đây ít nhiều cũng làm cản trở sự chống đối quyền vua quan, quyền người cai trị... Bây giờ, sự hiện diện của người Pháp khiến cho mọi chống đối đều chĩa về phía kẻ xâm lăng cầm quyền, với một sức mạnh tổng hợp gồm những bất mãn mới chồng lên những bất mãn trước kia. Vướng mắc về sự mâu thuẫn giữa ước muốn đổi thay và lòng trung thành với quyền bính nay không cần đặt ra với chính quyền mới nữa, nên bây giờ người ta có thể nhân danh vì vua vì nước mà đòi hỏi đi tới một thời thượng nguơn theo ước vọng, mãnh liệt hơn.
Dù là xa cách về không gian nhưng gộp lại trong quan niệm duy văn hoá của cùng một biến động toàn cầu, ta không thể không liên tưởng nối kết các giáo phái Nam Kì với đảng Đông Học của Cao Li (Triều Tiên) [2]. Phật Thầy Tây An đi lệch ra ngoài dòng Phật Giáo chính thống vì xuất thân là thầy pháp tự phát, phải tránh tiếng “gian đạo sĩ” của triều đình gán cho, về nương tựa phái Lâm Tế mới thoát khỏi kết quả thảm thương của thủ lĩnh phái Đông Học. Từ vị trí đó ông lại còn tìm được uy thế để lưu truyền cho đám đồ đệ nửa tăng nửa tục, xây dựng phái Phật Đường / Đạo Lành, tạo ra cả dòng Bửu Sơn chính thống hay mượn tiếng, âm ỉ hay công khai nhân danh truyền thống đi theo con đường dự phóng tương lai của nó để chống đối người Pháp. Ít ra là trước cuộc tiến chiếm 1867, hẳn Bửu Sơn Kì Hương vẫn chỉ dừng lại ở phần nhắc nhở một cách không xao xuyến về mong ước đổi thay thời thế mà chưa có cơ hội đi vào hành động như về sau này.
Ch’oe Che-u (Thôi Tế Ngu, 1824-1864) thành lập đảng Đông Học [3] cũng sử dụng một loại Tam giáo trong đó có một phần là tín ngưỡng phù thuỷ Cao Li với ảnh hưởng Ki Tô Giáo, và cũng cổ động một thời thượng nguơn có phần nóng nảy hơn Phật Thầy. Nhưng với ảnh hưởng của Thái Bình Thiên Quốc nơi bản thân Ch’oe thì rõ ràng là mức độ mong ước về tương lai đã ngang tầm với các đệ tử của Bửu Sơn Kì Hương. Ch’oe coi mình được ơn Thiên Chúa cũng chỉ là mượn từ ngữ mới để nói đến quan niệm tương thông giữa tín đồ và giáo chủ tối thượng, giống điều mà Bửu Sơn Kì Hương xưng tụng trong tên Phật Thầy và những giáo phái nối tiếp có nhưng người tự xưng là hậu thân của Phật Thầy. Đáng chú ý là nơi xuất thân của Ch’oe ở đông nam Cao Li, vào vị trí tiếp cận nhiều nhất với thế giới bên ngoài, tương tự như Nam Kì trên đất Việt. Tín đồ Đông Học đã tập trung trước hoàng cung ở Hán Thành để lập pháp đàn cầu siêu cho giáo chủ (1893) và gom góp những lời giảng dạy của giáo chủ vốn được đặt thành thơ ca đem ngâm nga, để tập họp thành kinh sách dưới nhan đề Yongdam di sự (Yongdam là quê quán của giáo chủ). Ta không khỏi liên tưởng đến những bài Vãn/Giảng của các chi phái Bửu Sơn Kì Hương và tên quê nhà của Huỳnh Phú Sổ trong giáo phái của ông lập ra.
Ở nơi này cũng như ở nơi kia, đảng phái chính trị và tôn giáo chồng chất lên nhau, hoà lẫn vào nhau. Đông Học đến năm 1905 đổi tên là Thiên Đạo Giáo, năm 1919 kí vào tuyên ngôn độc lập (1-3) ngay trước mũi súng của quân Nhật, và mãi đến năm 1946 mới được Bắc Triều Tiên lập Mặt trận cho hoá kiếp. Tuy nhiên như đã nói, sự tương đồng của nó với các giáo phái Nam Kì chỉ có thể là về mặt biểu hiện văn hoá. Tuy người học trò của Chưởng giáo Nam Cực Đường trên núi Cấm là một phần tử Đông du nhưng hẳn Phan Bội Châu và các đồng chí không thể nêu ý kiến phán đoán gì về Cao Li vì vị thế chính trị tế nhị của họ. (Họ đang nương tựa vào Nhật mà Nhật đang chiếm Cao Li, còn Lưu Cầu huyết lệ tân thư thì Phan Bội Châu viết từ 1904, lúc còn ở trong nước.) Dù thế, sự tương đồng văn hoá giữa hai phong trào vẫn là có thật, bằng cớ nơi cách nhìn của các chính quyền đối với họ trong tương quan lịch sử tương tự: Nhật Bản viện dẫn Đông Học làm cớ xâm lăng quyết định; Đông Học qua Thái Bình Thiên Quốc nối kết tư tưởng với Thiên Địa Hội, mà Thiên Địa Hội lại có ảnh hưởng rất mạnh nơi các giáo phái chống đối người Pháp ở Nam Kì.
Tuy cũng cùng một dòng tin tưởng hướng về thượng nguơn, nhưng nhìn từ tầm mức phán đoán của dân chúng thì Hoà Hảo dữ hơn Cao Đài. Có thể nói là trong những thành phần chia sẻ quan niệm minh vương, nói tới một thời hạ nguơn suy tàn và một thời thượng nguơn chào đón thì Cao Đài có cơ hội thuận chiều lịch sử đã đạt trước được một tổ chức trần thế với một ít kinh nghiệm tranh chiếm quyền hành thu nhận từ kiến thức Tây học của các lãnh tụ viên chức gốc thuộc địa. Nhưng chính sự khuôn khổ đã làm giảm bớt đà sôi nổi của quần chúng giáo phái này. Phật Giáo Hoà Hảo [4] còn bám vào truyền thống Phật Giáo, tuy bị giới hạn trong một khu vực (nông thôn Miền Tây Nam Kì) nhưng từ đó dễ nhân danh tính cách chính thống Bửu Sơn Kì Hương, để nằm trên đà phát triển đúng ngay vào thời điểm có vẻ chứng minh cho lí thuyết đổi dời: Thế giới đại chiến vào hồi khốc liệt nhất ở Đông Nam Á gợi ý về Tận thế, về hội Long Hoa với Hội chủ là Phật Di Lặc. Chỉ cần một bước điều chỉnh, giáo chủ thành nhà chính trị, đạo giáo xê dịch qua bước trần thế không những vẫn còn nắm vững tinh thần tín đồ mà lại thêm sức mạnh của tổ chức đảng phái nữa. Sức mạnh đó sẽ được trả giá bằng sinh mệnh của giáo chủ.
Ý thức và cả nguyên tắc hoạt động chính trị vẫn tiềm tàng trong lí thuyết khai triển từ Bửu Sơn Kì Hương. Quan niệm đối kháng từ thượng/hạ nguơn phải đi qua hội Long Hoa đã làm cơ sở cho sự kết tập thành tổ chức như một giai đoạn tiền-Long Hoa. Một trong Tứ ân, với thời mới biến đổi ân quân vương thành ân đất nước, đã đặt nhiệm vụ cứu nước cho tín đồ trong thời ngoại trị. Tuy ẩn khuất mờ nhạt vì đặt trong niềm tin tôn giáo, nhiệm vụ ấy vẫn dễ nối bật lên theo sự dìu dắt của người lãnh đạo:
Ta có tình yêu rất mặn nồng,Chính bản thân giáo chủ cũng lộ ra hướng biến chuyển. Có thể nghĩ rằng sau những ngày bị quản thúc ở bệnh viện Chợ Quán (tháng 7-1940 – nửa đầu 1941), giáo chủ đã đi sát hơn với đời thường, dẫn đến thực tế đấu tranh chính trị khi được tiếp cận với văn minh cơ khí, theo dõi những biến động của Sài Gòn – hay thông qua Sài Gòn. Có thể nghĩ rằng con người 26 tuổi vào những ngày sôi nổi 1945, được phát triển đúng vào tuổi thanh niên đầy sức sống nên từ một giáo chủ đặt nửa người vào thế giới của mộng huyễn thần linh, ông đã trở thành một lãnh tụ đáng gờm.
Yêu đời yêu lẫn cả non sông...
Dưới tay ông không phải chỉ là một đám quần chúng bềnh bồng, không những xa lạ mà còn đối kháng với chủ nghĩa muốn đeo đuổi đến tận cùng của những người cầm quyền mácxít Đệ tam ở Sài Gòn lúc bấy giờ từng “chê tôn giáo là mùi thuốc phiện” như giáo chủ đã chỉ rõ. Dưới tay ông là một khối tín đồ đảng viên đông hàng chục vạn, dám chết vì lãnh tụ – lãnh tụ một tôn giáo với sự cố kết đang lên của nó, và lãnh tụ các tổ chức thế tục đang có chiều hướng đi đến chỗ chặt chẽ: hệ thống tổ chức phần đời của tôn giáo – Ban trị sự Phật Giáo Hoà Hảo – mở rộng ra là Việt Nam Phật Giáo Liên Hiệp Hội. Các tổ chức Việt Nam Độc Lập Vận Động Hội rồi Việt Nam Ái Quốc Đảng rồi sẽ tồn tại lâu dài hơn với Việt Nam Dân Chủ Xã Hội Đảng (21-9-1946) gọi tắt là Dân Xã Đảng. Trong khi đó ta không thấy một đảng tương đương của Cao Đài. Với tình hình như thế ta mới hiểu được những xung đột đẫm máu của Hoà Hảo và Việt Minh từ sau tháng 6-1945 đến trước tháng 6-1946, cùng nỗi lòng của người lãnh tụ Hoà Hảo qua những bài thơ dè dặt lúc bấy giờ. Cái chết của ông giáo chủ không phải đợi đến ngày 16-4-47. Phải trừ khử lãnh tụ thì mới rảnh tay khai thác những điểm tương đồng của quần chúng để buộc họ hướng về các lãnh tụ mới – những người này cũng đang nắm trong tay một lí thuyết cũng gợi nên một thời thượng nguơn có dáng hình cụ thể hơn vì được tin rằng đã có ở phương trời xa, sắp có trên đất nước độc lập, và một thời hạ nguơn trước mắt kêu gọi hành động triệt phá cũng dữ dội, cũng vô chính phủ như lời gào thét của các ông đạo. Nhưng cũng cái chết ấy đã tạo thành một mối thù không đội chung trời, dai dẳng không dễ tìm ra đường thoát của hai thế lực chính trị chính ở cuối đường phía nam nước Việt.
Trước biến chuyển dữ dội 1945, nhà lãnh tụ chính trị tiến thêm một bước:
Quyết rứt cà sa khoác chiến bàosau khi đã ra những chỉ thị chống Pháp cho tín đồ của mình đồng thời có những tuyên ngôn về tình hình đất nước trước và sau tháng 3-1945.
(1946)
Tuyên ngôn của Dân Xã Đảng tách hẳn với tôn giáo, với tính cách giáo phái: Xây dựng một nước Việt Nam thống nhất, dân chủ, “chống độc tài bất cứ hình thức nào”; về “kinh tế [thì] theo nguyên tắc [của] chủ nghĩa xã hội” nhưng trong giai đoạn hiện tại lại “không chủ trương giai cấp đấu tranh giữa dân tộc Việt Nam”. Ý nghĩa tiếp theo của tuyên ngôn: “muốn tránh khỏi đấu tranh giai cấp về sau” hàm ý nghĩa ngăn chận chủ nghĩa mácxít trên đường giành chính quyền ở Việt Nam – có tác dụng tức thời ít ra là ở Nam Bộ. Điều đáng nói là về sau (1985), một lãnh tụ Đệ tam nắm quyền Công an thời bấy giờ, ông Nguyễn Văn Trấn, xác nhận chương trình Dân Xã Đảng vốn là của một lãnh tụ Đệ tứ, ông Phan Văn Hùm. Đối với chúng ta ở đây, trong hướng nhìn lưu tâm đến tính cách đồng thời của các nhân vật, thì sự nối kết giữa một người mácxít Đệ tứ với một giáo chủ hệ phái Phật Giáo một thời bàng bạc chất thầy pháp là dấu hiệu quan trọng của sự đồng tâm tính, đồng cảm – dù không thú nhận công khai – của những người cùng địa phương trong một giai đoạn lịch sử [5]. Về phía những người cộng sản Đệ tam thì cũng có một bằng cớ dung hợp nữa (tất nhiên là dưới mắt người khác) khi họ để cho một đảng viên từ 1936 của họ nhận danh hiệu “Sư thúc Hoà Hảo” để chiêu dụ tín đồ khi giáo chủ bị giết [6].
Nhưng con đường chính trị có làm mất ý hướng tôn giáo không? Gạt sang một bên về tính chất yếu kém thân xác của giáo chủ, ta vẫn thấy ở người này một nhân vật vượt trần thế:
Tình yêu chan chứa trong hoàn vũ,Có thực lực trong tay, ông giáo chủ lãnh tụ định thực hiện chính sách Mặt trận trên lãnh vực tôn giáo, riêng cho Phật Giáo: Đó là dự tính thành lập Việt Nam Phật Giáo Liên Hiệp Hội. Thời điểm ghi trước tháng 8-1945 cho ta thấy ý định chắc không thực hiện được nhưng lại nổi bật trong chương trình còn lưu giữ, là ông giáo chủ muốn tự mình từ một hệ phái mới mẻ, địa phương trở thành kẻ tập họp, thống nhất Phật Giáo Việt Nam.
Đâu có riêng yêu khách má hồng.
(tiếp phần của bài tứ tuyệt trước, 1946)
Trong thời kì bị lôi kéo vào hệ luỵ cuộc đời qua từng giây phút sống, Huỳnh Phú Sổ tự chia mình làm hai con người có gốc gác “về dĩ vãng... xuất phát trong địa phận Phật Giáo”, nhưng về chính trị thì sẽ là “đại biểu cho chánh đảng nào có một chương trình dân chủ xã hội” [7]. Nhưng “dĩ vãng” vẫn còn đó nên ông vẫn mơ ước thực hiện lí tưởng của Thích Ca về “chủ nghĩa từ bi bác ái đại đồng đối với tất cả chúng sanh”, căn cứ trên quan niệm đúng đắn là Phật và chúng sanh có sự đồng nhất về thể tánh. Theo ông, Thích Ca sở dĩ không hoàn thành được ước nguyện vì Ấn Độ thời thượng cổ không có đủ điều kiện “thuận tiện”, nhưng ngày nay ta có thể thực hiện được nhờ sự tiến bộ của khoa học và “trình độ tiến hoá của nhân loại đã tới một mức khả quan”.
Qua những điều trình bày trên, ta biết, tuy không nói ra nhưng Huỳnh Phú Sổ đã nhận đảm đương việc đổi dời nhân loại ấy. Nhà tiên tri đang đi vào hành động.
Thời thượng nguơn đã có điều kiện để đạt tới – ít ra là trong tâm tưởng của ông –cùng lúc với một quan niệm đại đồng mơ hồ của quần chúng cuốn hút quanh đảng Cộng Sản Đông Dương với một bước tiền-Long Hoa khác là nền độc lập của một đất nước Việt Nam dưới quyền lãnh đạo của một đảng mà phần lớn chưa ai thắc mắc nó có khác gì với một vương triều cũ không.
[1] Ngoài những ông Minh Mạng tái sinh trước và trong Thế chiến II, sau 1975, ông đạo Dừa cũng còn được đồ đệ tôn phò như thế, chứng tỏ sức mạnh của một truyền thống dai dẳng tồn tại ngay cả vào thời các ông đạo và giáo phái tan tác như gà gặp chồn sục vào chuồng.
[2] Lưu ý rằng Lí Quang Vũ xưng vương từ 1864, đến 1896 thoát khỏi ảnh hưởng của Trung Quốc (nhưng lại sa vào tay Nhật) và xưng Hoàng đế, đổi quốc hiệu là Đại Hàn như người dân Miền Nam đã quen nghe gọi.
[3] John K. Fairbank - Edwin O. Reischauer - Albert K. Craig, East Asia - The Modern Transformation (Boston-Tokyo 1986), ttr. 398, 463-467, 486, 762; Sohn Pow-key – Kim Chol-choon - Hong Yi-sup, The History of Korea. (Seoul 1970), ttr. 190. 209-211, 214; Phan Khoang, Trung Quốc sử lược. (Sài Gòn 1970), tr. 417. Tên Hán (Việt) Thôi Tế Ngu thấy trong Han Woo-keun, The History of Korea. Seoul 1970, Index (Chú thêm 2004).
[4] Tài liệu văn bản sử dụng là: Giáo hội Phật Giáo Hoà Hảo, Sấm giảng thi văn toàn bộ của Đức Huỳnh Giáo chủ (1966).
[5] Ông Phan Văn Hùm còn là tác giả một quyển sách về Phật Giáo, hẳn đó là kết quả của những ngày sau khi bị bãi chức ở bộ Công vì ủng hộ cuộc bãi khoá của học sinh Đồng Khánh (tháng 4-1927), ông trở về Nam cạo đầu đi các chùa gặp các sư tranh luận về đạo giáo. Gia đình này cũng là một minh chứng khác: Bà Phan Văn Hùm thuộc phái Đệ tam vậy mà vẫn lấy ông năm 1936, năm có những đòi hỏi sôi nổi ở thuộc địa vì Mặt trận Bình dân ở Pháp lên cầm quyền. Sau này những người Cộng sản Nam Bộ vẫn thích thú kể lại những chuyện giành giật quần chúng trên diễn đàn của hai vợ chồng như thắng lợi của phe phái mình, nhưng lại không dám nói rõ là sau 1955 bà Phan Văn Hùm vẫn ở lại Sài Gòn. (2006; Lấy từ Hồi kí của bà Nguyễn Thị Minh (con ông Nguyễn An Ninh), Nguyễn An Ninh, Tôi chỉ làm cơn gió thổi. Nxb. Trẻ TP. Hồ Chí Minh 2001).
Muốn giành vai trò tiếp dân thường trực ở toà soạn La Lutte với phái Đệ tứ, Nguyễn An Ninh bày vẽ cho Nguyễn Thị Lựu Đệ tam: “Hễ bà con tới toà soạn thì chị ráng tiếp hết bà con. Thử (Lê Văn Thử, Đệ tứ) là đấng mày râu đâu dám tranh giành với phái yếu. Nó lại là em rể của chị lâu ngày nó phải rút lui thôi.” (trang 296) Còn về việc lợi dụng vợ lấn át chồng, Nguyễn Thị Minh kể: “Chú Thử tức lắm, đến nhà lôi chú (Phan Văn) Hùm ra toà soạn tiếp dân. Thấy chú Hùm ra, cô Tám Lựu (Nguyễn Thị Lựu) nhắn cô Huỳnh Hoa (bà Ph.V. Hùm) đến... chú Hùm rút lui êm ru”. (trang 297)
Liên hệ đến các nhân vật Đệ tứ và cuộc xung đột giữa hai phe, tác giả củng cho thấy nhiều chi tiết giành giật lấn lướt ngay từ các thủ đoạn nhỏ nhặt để lấy phần thắng khiến ta dễ hiểu là sẽ dẫn đến sự tàn sát sau này của Đệ tam đối với Đệ tứ: “Huỳnh Hoa bảo Phan Văn Hùm hiền lành như vậy, ở nhà Huỳnh Hoa nói gì cũng nhịn nhưng nhập bọn với tụi nó thì cũng chửi cộng sản (Đệ tam) dữ lắm. Hồ Hữu Tường kêu ông Hùm là ông ba rưỡi, còn nó vỗ ngực là đệ tứ chánh hiệu, là ông bốn hẳn hoi chứ không phải nửa nạc nửa mỡ như ông Hùm”. (trang 336) [Thắc mắc riêng tư: Trước các dấu hiệu yêu vợ như thế, Bà Hùm nghĩ gì khi chồng bị các đồng chí của mình mang đi thủ tiêu?] Trong phong trào Đại hội Đông Dương 1936, Hồ Hữu Tường được nhận định là “phần tử trốtkít hung hăng nhất đã ra tờ báo Le Militant để phá hoại Đại hội... chửi chính phủ Mặt trận Bình dân là phản động, chửi đảng Cộng sản Pháp là thoả hiệp, là tay sai của tư sản... chửi thậm tệ Stalin...” (trang 328-330)
Về Tạ Thu Thâu, khi người con Nguyễn An Ninh hỏi về thái độ khuất phục của Tạ Thu Thâu trước ông thì Ninh trả lời: “Chú Thâu chỉ nể và thương Ba thôi. Chú chỉ sợ có một người – Chú (Trần Văn) Giàu!” Không trách khi Giàu cầm quyền ở Sài Gòn, Thâu lo chạy mà không thoát ở Quảng Ngãi, còn Tường đến được Hà Nội lo nói chuyện Văn hoá, ồn ào tuyên bố đã từ bỏ mácxít từ 1939 rồi! Và cũng từ thời kì tranh chấp Đại hội Đông Dương, Nguyễn An Ninh trước sức ép vào dảng Cộng sản đã lo thân, bàn chuyện với vợ chạy qua Thuy Sĩ (nước trung lập!) ở để toan tính viết sách! (trang 338, 366, 367)
[6] Sự việc này chứng tỏ tính chất đồng dạng ý thức ở mức độ quần chúng trên đất Nam Kì 1945-1975 như đã nói mà còn cho biết người CSVN muốn thực hiện miên tục chủ đích chiếm quyền với bất cứ phương tiện gì. Tuy nhiên, đường lối thực hiện như thế không phải là không ảnh hưởng tới tính chất được gọi là xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Vinh quang đã có mà hệ luỵ của dân tộc cũng từ đó đi ra.
[7] Phỏng vấn ở chiến khu, đăng trên báo Nam Kỳ, Sài Gòn 29-11-1946.
Dấu ấn chính trị truyền thống
Cách đây hơn một ngàn năm, giữa đám Bách Việt tàn tạ, một nước nhỏ bên trong phần đất Nam Việt của Triệu Đà xưa đã lợi dụng sự tan rã của đế quốc Đường, tự xưng là Đại Việt rồi buông bỏ, để cho một nước ở phía nam hơn, cũng mới vừa xưng độc lập, có kinh đô ẩn giấu trong các ngõ ngách hang động đá vôi, tiếp theo tự xưng là Đại Cồ Việt. Thật dễ hiểu như một phản ứng trỗi dậy kêu gọi đến lòng tự tín trong một tương lai còn bấp bênh của chính mình và của những
người nối tiếp.
Cho nên đến một ngàn năm sau, cũng trong một hoàn cảnh tương tự vì tình trạng ngoại thuộc, quốc hiệu Việt Nam – và Đại Nam thoáng qua, An Nam nặng sỉ nhục, không còn giữ được thế độc tôn của một danh xưng đương thời nữa. Một số người quay về với quá khứ xa xưa, sử dụng từ Đại Việt như một bám víu, một sức nặng được thổi phồng làm quân bình cho thực tế không hay của đất nước trong thời hiện đại. Một loạt những đảng Đại Việt ra đời tràn ngập sân khấu chính trị chìm, tập trung trong thời Đệ nhị thế chiến trên phần đất Đại Việt xưa. Không phải bỗng dưng mà trong nhóm đảng có danh xưng hồi cố, bảo thủ rõ rệt ấy lại nổi lên một nhà chính trị thuộc loại tiên tri: ông Lí Đông A, Thư kí trưởng của đảng Đại Việt Duy Dân, thành lập năm 1942. [1]
Ở đây ta cũng gặp được tính đồng dạng với khuynh hướng tôn giáo đã bàn trước, là sự phủ nhận hiện tại, sự cố kết với quá khứ xa xưa và tương lai tốt đẹp được phóng đại. Có điều, với khuynh hướng Lí Đông A, tính chất địa vực có xác định rõ rệt hơn: Nó chỉ một khu vực, một nếp sinh hoạt, suy nghĩ với quá khứ chằng chịt của một bộ phận dân Việt vừa mang tính cách trung ương theo tiến trình lịch sử, vừa mang tính cách địa phương bởi tính chất trung ương nọ kết hợp với sự co cụm bám chặt vào xóm làng, ông thần, gốc đa mà các danh xưng cổ có tác động tăng niềm hãnh diện cho ông lí thuyết gia này.
Trước 1975, ở Miền Nam, các đồng chí của ông Lí Đông A đã lập nhà xuất bản Gió Đáy để in tác phẩm của ông. Tên Gió Đáy chứng tỏ các đồng chí đệ tử đã nắm được yếu tính trong luận thuyết của ông: Đây là tư tưởng quan niệm về một tương lai huy hoàng của dân Việt đang chịu phận khốn cùng. Không phải chỉ là nước Việt trong địa vực hiện tại mà còn là của một Đại Bách Việt / Hồng Việt, một Đại Việt Đại Nam Hải sẽ làm một cuộc “cách mạng nhân chủ... phục hoạt lại loài người”.[2]
Chúng tôi không biết gì nhiều về Lí Đông A. Qua lời ông Lam Giang Nguyễn Quang Trứ, một người ở phía Nam ra Hà Nội học năm 1940, làm liên lạc viên (bất thành) cho Trần Trung Lập bên trong Việt Nam, thì Lí Đông A là người cùng Hoàng Nam Hùng, Đoàn Kiểm Điểm cầm một cánh Phục Quốc Quân tấn công Lạng Sơn. Sau khi Nhật hoà với Pháp, Trần Trung Lập ở lại chiến đấu, bị bắt, bị xử tử ở Bình Châu, còn Lí Đông A và hai người kia rút về Quảng Tây. Có lẽ sự hằn học đối với Nhật trong các tài liệu để lại là phát xuất từ sự kiện này.
Ông Nghiêm Xuân Hồng, một người hình như có liên hệ nhiều với Lí Đông A, cho biết sau khi thất trận ông này đã đi học trường huấn luyện quân sự Liễu Châu (Trung Quốc), đã đọc nhiều tác phẩm của Tôn Văn, Khang Hữu Vi, Lương Khải Siêu. Cuối năm 1944, ông phái một số cán bộ về hoạt động ở vài khu Bắc và Bắc Trung Bộ. Sau tháng 8-1945, một số phần tử Duy Dân và Phục Quốc kéo qua đường Lạng Sơn, Bắc Giang trở về nước, chiếm một phần tỉnh Lạng Sơn và lân cận. Theo ông Nghiêm, Duy Dân “chủ trương triệt để dân tộc”, gồm những thành phần đảng viên thiên về trí thức, tiểu tư sản, đậm nông dân (hơn Đại Việt Dân Chính) nhưng lại là những phần tử trung, tiểu nông chứ không phải là bần cố nông.[3]
Tên Lí Đông A rõ rệt chỉ là biệt hiệu, tên chiến đấu vì gồm lại thì đó là Lí Trần, hai triều đại đầu của nước Đại Việt Việt Nam. (Rất ít người Việt ngày nay biết rằng Đại Việt là tên đầu tiên của nước Nam Hán, nước có ông hoàng Hoằng Tháo bị chết ở Bạch Đằng dưới tay Ngô Quyền.) Các tài liệu xuất bản ở hải ngoại cho biết tên thật ông là Nguyễn Ngọc Thanh, tự là Ngọc Thỏ [4]. Ông Nghiêm Xuân Hồng cho biết riêng là Lí Đông A sinh năm 1920, nghĩa là còn rất trẻ khi đưa ra những luận chứng ồn ào về tương lai đất nước. Ông rất ca tụng Phan Bội Châu, công nhận ông này là khởi điểm tư tưởng, hành động của Duy Dân – tức là của Lí Đông A. Là người của Quang Phục Hội nhưng rõ ràng không thuộc lớp Đông Du, và vì hãnh diện với vai trò lớp người đi sau nên có lúc ông chửi bới “bọn xuất dương”. Ông có căn bản tiếng Pháp nhưng suy nghĩ, phát biểu lại rất là “tàu” chứng tỏ tiến trình hình thành tư tưởng đã bị bó gọn trong lục địa Trung Hoa. Trong các tài liệu để lại có bài viết ghi 1945-1953 nhưng theo ông Nguyễn Văn Lực, một lãnh tụ Quốc Dân Đảng, trong một số Thái độ (Sài Gòn, tháng 12-1967) thì Lí Đông A đã bị “mất tích 1946” (trong những vụ thanh trừng các đảng phái quốc gia của người cộng sản?) Tuy nhiên nhìn chung thì nền tảng suy luận, lập thuyết của ông hầu như tuyệt đối được viết vào năm 1943. Những dấu hiệu năm tháng khác hẳn là do các đồ đệ của ông khai thác về sau như ta thấy trên sách báo lưu vong ngày nay.
Hồi kí của ông Nguyễn Tường Bách có ghi lại một tài liệu quan trọng giúp chúng ta giải quyết vấn đề ở đây. Đó là một bản “Kí trình” (1943) từ Trung Hoa gởi về báo cho các đảng viên liên hệ bên trong biết việc thống nhất các đảng Việt Nam Quốc Dân, Đại Việt Dân Chính, Duy Dân. Những người kí tên có ghi rõ là Nguyễn Tường Tam, Nghiêm Kế Tổ, Vũ Hồng Khanh và Lí Đông A. Trong Kí trình có đoạn: “Một chủ nghĩa: Duy Dân chủ nghĩa của Phan Bội Châu đổi mới (chúng tôi nhấn mạnh)... Huấn luyện: Nhất nguyên hoá chủ nghĩa. Một tên Duy Dân. Lập Duy Dân học xá...” Tác giả Hồi kí sau mấy mươi năm đã nhận ra rằng các đảng phái quốc gia hồi đó không có lãnh tụ có tầm nhìn xa, không những chỉ những người trong nước mà cả ở các lãnh tụ lưu vong người ta đã đặt nhiều kì vọng như Nguyễn Hải Thần, Vũ Hồng Khanh... cũng thế. Như vậy nhìn những đoạn dẫn trong Kí trình trên, ta có thể cho rằng Lí Đông A đã lấp được lỗ trống lí thuyết trên, đưa ra được một chương trình hành động có đầu có đuôi, có cơ sở triết lí lịch sử, có viễn vọng cho tương lai... nghĩa là đủ sức thuyết phục các lãnh tụ gà mờ kia chịu hợp nhất.
Hẳn các bài viết có thời điểm 1943 mà ta có, đã được soạn ra vào lúc này, lúc ông Lí Đông A thấy mộng tưởng của mình có cơ thực hiện với số lượng người tán thành bỗng tăng lên gấp bội. Tuy nhiên vì khởi điểm trên mà nhìn vào các dự đoán về tình hình thế giới sau Thế chiến, nhìn đường hướng xây dựng Đại Bách Việt cho đến năm 2000 với những ý tưởng rất khoa đại, ta có thể ghép ông vào khuynh hướng các nhà chính trị tiên tri.
Và nhà chính trị của “truyền thống”. Truyền thống Đại Việt nổi bật muốn là chủ đạo nhưng lại không thoát khỏi truyền thống Á Đông. Ông có tính chất của một lớp nhà nho cũ – lúc suy tàn: Đọc nhiều, nhớ giỏi nhưng cũng bám nhiều vào chi tiết cho nên tuy có cố gắng tổng quát hoá để lập thuyết vẫn lộ ra sự rời rạc, lúng túng. Có trí nhớ tốt nên dễ sinh tự phụ thông kim bác cổ (không ngờ đến những sai lạc vì chỉ bám vào một luận thuyết nào đó), cho nên ông muốn lập thuyết bao trùm thiên hạ:
Chín mươi huấn cáo quỷ thần khốc;Cũng là “nho” nữa ở chỗ bàn đến lí số, có ảnh hưởng thần bí chen vào lí thuyết mà có lúc lại muốn gạt ra. Nhưng là người của thế kỉ XX, ông cũng bị thu hút bởi tư tưởng mácxít: Trong việc lập thuyết mới, có một số luận đề mácxít đổi tên (nổi bật là gió đáy, đáy tầng), trong quan niệm thành lập đảng chiến đấu (kiểu của Lenin) –tuy là bài bác cộng sản rõ rệt. Là người của thời đại chủ nghĩa phátxít, sống ở khu vực sứ quân, quân phiệt Á Đông ngự trị, và với tính cách tướng lãnh trong những bài bàn về chiến thuật chiến lược, ta thấy ông trình bày ý định thành lập một nước “đồn binh” loại “Đại Đông Á, pangermanique Đại Nam Hải”. Có lẽ vì vị thế của một người mang nhiệt tình tranh đấu cho nền độc lập nên mới có sự lựa chọn hổ lốn trên mà nòng cốt chỉ là bạo động.
Mười vạn quy mô thù địch xiêu.
(Lời đề từ Chu tri lục)
Từ đầu óc quân sự phù hợp với mộng tưởng rất lớn, ông không giấu diếm rằng sự kiến lập một chủ nghĩa vượt nhân loại của thời đã qua và trong hiện tại để dành riêng cho dân Việt, là của Lí Đông A, và có tính chất nằm ở tầm mức tiên tri. Tuy nhiên ý định bàn thật rộng, thật sâu, bao trùm mọi lãnh vực lại khiến cho ông phải trình bày ý tưởng thật rối rắm, tối tăm hình như miễn tìm được từ ngữ có ý nghĩa “cao thâm” là đủ rồi.
Lại cũng theo thói quen của những người lấy quá khứ của mộng tưởng để biện minh cho tương lai mình muốn dắt dẫn – theo truyền thống về một thời đại hoàng kim ở Trung Quốc, Đông Á, Lí Đông A cho rằng dân Việt thuộc một chi nhánh khởi phát của nhân loại, giống Aryen, từ Pamir toả xuống, đi khắp thế giới. Đường di chuyển thấy dấu vết ở Bắc Trung Hoa (Thái Sơn), Dương Tử, Ngũ Hồ, Ngũ Lĩnh rồi xuống Phong Châu và ra các đảo bờ Nam Hải phía đông nam, qua Ấn, Miến phía tây nam. Đó là cả một hệ thống văn hoá rực rỡ “không đâu có” mà Lí Đông A mượn sử Trung Hoa đặt tên là văn hoá Viêm Việt và mượn của các học giả Tây Phương, dùng tên văn hoá Môn. Thành thử trong lí thuyết của ông, văn hoá Trung Hoa khởi phát rất nhiều từ văn hoá Môn: chữ Hán có gốc là hoả tự của Môn, Hà đồ Lạc thư là của dân Việt, Quy lịch Trung Hoa là của vua Hùng. Các chuyện lấy từ thần tích, cổ tích dân gian được ông sử dụng để khơi dậy lòng tự hào – tự kiêu dân tộc, và làm cơ sở lịch sử cho việc xây đắp một Đại Bách Việt trong tương lai.
Thời kì phục hưng / phục hoạt cho dân Việt, theo Lí Đông A, chắc chắn sẽ đến trong tình hình sau Thế chiến II. Bằng những ngôn từ muốn là khác lạ cho phù hợp với tư tưởng mới, ông đã vẽ ra một đường hướng phát triển của thế giới đến năm 2000. Các năm 1937-1941 là thời kì phe Trục thắng thế; năm 1946 phe dân chủ Đồng minh thắng; giai đoạn 1947-1950 là “chuyển hình kì”, là thời kì chuyển tiếp vào một nền văn minh toàn diện, cao cấp mà đảng Duy Dân của Lí Đông A sẽ đưa dân Việt vào, rồi toàn thế giới sẽ đạt tới đó vào năm 2000 là thời hạn cuối.
Lập thuyết vào năm 1943 trong một nước Trung Hoa bị sứ quân nhũng nhiễu, Nhật xâm lăng, Lí Đông A cũng thấy người Cộng sản hiện diện trên bàn cờ thế giới nhưng Cộng sản Trung Hoa lại ở tận Diên An nên tuy ông có bài bác cộng sản vẫn không coi Cộng sản có thực lực đủ xoá sạch mộng ước cướp chính quyền của ông (và xoá thân xác ông). Ông coi Cách mạng 1917 chỉ có tác dụng tiêu cực trên sự tiến triển của văn hoá châu Âu, một thứ “đảo quả” (inverse – hai chữ đều của ông) làm manh mối cho “trung hoà vận động”, nghĩa là hướng về hoà bình. Tuy Cộng sản mưu thống trị cả thế giới, ông vẫn cho Đệ Tam Quốc Tế là chuỗi yếu nhất (!) trong thế giới có Cộng sản, vì tuy Nga lập được các đạo quân thứ 5 ở các nước nhưng “đệ ngũ quốc tế có thể xuất hiện” ở Nga!
Tình hình thế giới lúc bấy giờ như thế nào để có hi vọng xây dựng một tương lai rực rỡ cho loài người? Theo Lí Đông A, các dân tộc, quốc gia bị áp bức theo nhiều mức độ khác nhau (Lí Đông A kể: Nam Mĩ, Canada, Úc, “Hồi Hồi”, Ấn, Bách Việt, Trung Âu, Pháp) là “đáy tầng cách mạng” sẽ nổi dậy tự giải phóng khỏi ách đế quốc, “làm nên hướng tâm vận động Anh, Mĩ, Nga [lôi cuốn các nước Anh, Mĩ, Nga?] và đem đến một cục thế thật quân thể (équilibre) đi đôi với sự thoát thai của một nền văn hoá sinh hoạt mới”. Tình hình thế giới ngày mai đó được ông diễn giải qua 4 giai đoạn mà ta chuyển sang lối nói bình thường thì sẽ là: 1/ Các dân tộc thoát ách thuộc địa, phụ thuộc; 2/ Thiết lập một nền “dân chủ chuyên chính” của toàn dân trong nước; 3/ Nước tương lai sẽ có một nền kinh tế xã hội hoá; 4/ Các nước tập họp thành Liên bang quốc tế bảo vệ hoà bình. Phải nghe chính lời trình bày của Lí Đông A, ta mới thấy với kẻ khác, lí thuyết cộng sản hấp dẫn là dường nào. Cho nên không lấy làm lạ khi về sau, ngoài những kẻ được đào luyện chính thống như Việt Nam, các đảng ở Ấn Độ, Nam Dương... còn có những người xã hội chủ nghĩa bất chợt như Fidel Castro diễn lại vai trò conquistador xong liền nhảy lên chiếc xe mácxít không người lái, không lấy làm lạ với nhóm quân phiệt trong Liên bang Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Miến Điện (Myanmar) từng truy giết Chủ tịch, Tổng bí thư Cộng sản Miến, không lạ với những lãnh tụ quân phiệt khác xuất hiện muộn màng ở Ethiopie, Mozambique.. cuối thập niên 70. Nhưng ở Việt Nam đã có đảng Cộng Sản, còn Lí Đông A thì lại không bằng lòng với vai trò một bí thư chi bộ của Quốc tế.
Còn vai trò của người Việt Nam trong tình hình đó thì như thế nào? Dân Việt, theo Lí Đông A, trong thời đại thịnh vượng của văn hoá Môn vốn “đã tiến trước sự tiến hoá của mọi dân tộc”, nay phải chịu lệ thuộc người, đất nước kém phát triển, tức cũng thuộc “đáy tầng cách mạng” của nhân loại, nên sẽ phải vùng dậy theo ngọn “gió đáy” làm cuộc đảo lộn để kiến thiết thế giới. Thời cơ này thật gấp gáp vì thời kì phục hưng của dân Việt, theo Lí Đông A, là phải làm sao cho kịp hoàn chỉnh từ thời điểm tác giả viết (1943) đến năm 1950, nghĩa là chỉ còn có 7 năm để bước vào giai đoạn sau là hoà nhập và dắt dẫn thế giới. Năm đó ông sẽ vào tuổi 30, tuổi đầy năng động, sáng tạo như những lời ông ca tụng thế hệ này ở các tài liệu Chu tri lục, Bông lau.
Nói thì nhiều, thuộc đủ mọi lãnh vực nhưng chủ yếu của vấn đề phục hưng dân tộc theo Lí Đông A là nhắm vào điều to lớn, trừu tượng hơn mà ông gọi là “phục hoạt văn hoá”, nghĩa là xây dựng lại nền văn hoá rực rỡ xưa kia theo một triết lí hành động mà ta có thể tóm gọn và Lí Đông A cũng thú nhận, là Duy Dân chủ nghĩa, chủ nghĩa của đảng Duy Dân, của Lí Đông A mượn ý của Phan Bội Châu mà vẽ ra hình dạng cụ thể. Từ “duy dân” được dùng ở khắp luận thuyết, văn đoạn không những chỉ nói về đảng có tên Duy Dân mà còn xuất hiện mỗi khi có đề cập đến các ý tưởng vượt trội hơn tất cả những gì đã và đang hiện hữu.
Duy dân chủ nghĩa được coi là bao trùm cả ba triết lí chính trị, theo tác giả, đang chỉ đạo tư tưởng, chi phối hành động của các đảng phái trên thế giới: duy vật, duy tâm và duy sinh. Và Lí Đông A lại tìm thấy một ý tưởng tương đồng ở Phật Giáo (Thắng nghĩa đế), cho là chỉ ra được tính chất siêu việt, vượt trên mọi chủ nghĩa, nên ông đặt cho triết lí chính trị của mình thêm một tên nữa: Duy dân thắng nghĩa. (Thực ra như ta thấy, đó cũng vẫn là một thứ chủ nghĩa, chủ thuyết).
Quá trình vượt trội đó được Lí Đông A gọi là sự tung hợp. Theo thông thường thì ta có thể dùng chữ tổng hợp, nhưng tung hợp (hợp theo chiều đứng) thì sát với quan niệm đáy tầng khi ta theo ông phân tích về tình hình thế giới hiện tại. Tung hợp, trên mặt triết lí của ông còn là một suy luận biện chứng (“duy dân biện chứng”) giữa ý thức được coi là bên trên và ý thức được coi là bên dưới – lí luận về điều này không được rõ ràng cho lắm. Qua sự tung hợp được tập thành, vượt mọi chủ nghĩa, sẽ làm sáng tỏ chủ đích duy nhân của Duy dân chủ nghĩa – nói nôm na là phục vụ cho Con Người. Hướng đạo đức như thế được Lí Đông A mượn một từ của Nho Giáo mà lại muốn đẩy nội dung của nó lên đến “tột bực của tột bực”, và mang ý nghĩa “đưa dắt con người sống thực”: Ông gọi đó là Duy dân cương thường. Tham vọng đạt đến những gì phi thường khiến cho ngôn ngữ của ông không bắt kịp nội dung, nên có lúc nó trở thành mơ hồ lúng túng. Loáng thoáng ở đây có rơi rớt của một thứ quan niệm đạo-khả-đạo-phi-thường-đạo kiêu ngạo với sự bất lực.
Triết lí Duy dân đó đi vào thực tế tổ chức chính trị xã hội theo Lí Đông A muốn, sẽ là cái gì? Một nước Đại Nam Hải liên bang thống nhất có trung tâm là chủng tộc Việt – hiểu theo nghĩa phân tích sử của ông thì đó là dân Bách Việt còn lại ngày nay, nhưng theo thực tế được trình bày lại là dân Việt đồng bằng hiện tại. Thêm nữa, bang thống nhất đó lại đúng là địa vực Đông Pháp chuyển đổi danh tính sau khi người Pháp bị đánh đuổi đi.
Nước có hiến pháp, tổ chức điều hành theo những cơ quan có tên mới mẻ (hay là của Trung Quốc mà chúng tôi không được biết), khá rắc rối mà ta có thể tạm gọi là theo Tổng thống chế với tổng thống có quyền rất lớn; chế độ mang tính chất ngũ quyền của Trung Hoa hiện đại, lại kèm thêm hơi hướng cổ truyền của một cơ chế kì lão. Theo nhà hoạch định chiến lược chính trị Lí Đông A thì nội trị phải theo
nguyên tắc “dân chủ chuyên chính”; chuyên chính theo ông là điều phải có của một cuộc cách mạng, nhưng vì là cách mạng có tên nhân chủ, mới về danh xưng mà cỗi rễ lại là của địa phương, nên có kèm một tổ chức người-già ở tầm mức quốc gia và một thứ ngự sử đài để kềm chế quốc trưởng. Các dân tộc thiểu số theo tinh thần chung thì được coi là bình đẳng về mặt pháp luật, nhưng với nền tảng xây dựng đặc biệt cho Việt tộc (đồng bằng) của ông thì vị thế của họ có dáng bấp bênh, không có triển vọng tốt đẹp cho lắm.
Tuy nhiên dân chủ hay chuyên chính thì không phải là xét theo bề ngoài của cơ cấu chính quyền. Theo dõi các tài liệu giáo dục nội bộ và cả ở vài tài liệu mang tính công khai, ta thấy Lí Đông A, minh thị hay ám tàng, muốn thiết lập một chế độ đảng trị xâm nhập vào hệ thống cầm quyền quốc gia, và ngay ở hệ thống này, tính chất quân chính cũng rất rõ rệt nếu không muốn nói là quân phiệt. Đất nước có phát triển, dân tộc có hạnh phúc hay không là do ở đảng Duy Dân. Mục đích giành độc lập cho nước khiến Lí Đông A có thái độ bài Pháp, Nhật thật dễ hiểu, nhưng sự thù ghét Trung Hoa được nói đến nhiều, rất nhiều và được thấy rõ là có nguồn gốc rất sâu xa. Nền ngoại giao về sau chắc sẽ càng gặp rắc rối lớn không phải chỉ với Trung Quốc, nếu được hướng dẫn bằng ý tưởng này: “Ta còn phòng giữ cả thế giới vì thế giới kẻ nào chiếm được ta mới xưng bá được lâu dài”.
Thật đúng là ý tưởng của một nhà tiên tri sôvanh lớn lối, có căn bản không phải chỉ nơi một người.
Nhìn vào tiến trình lịch sử chính trị Việt Nam kết tụ đến cuối thời Pháp thuộc thì đảng Đại Việt Duy Dân cũng chỉ có thể là một đảng địa phương như phần lớn các đảng Quốc gia khác. Lí Đông A đã đẩy mạnh tính chất ấy hơn bằng vào cá tính địa phương của chính bản thân. Những kinh nghiệm sống ở ngoại quốc (ông chỉ sống ở Trung Hoa) lại gặp sự đồng dạng và được nuôi dưỡng thêm sinh khí từ sinh hoạt của hàng tỉ người cùng chung một nền văn hoá truyền thống đang cố chống cự với văn hoá Tây Phương dưới những dạng hình phức tạp, kể cả việc chấp nhận mời chào vào làm đồng minh. Cho nên thuyết Đại Bách Việt của Lí Đông A tuy có mang hơi hướng Đông Nam Á, mácxít nhưng căn bản vẫn đậm nét sinh hoạt thần bí của tập thể dân chúng đồng bằng sông Hồng. Ông không ngờ được rằng sự cởi ách đô hộ lại sẽ đưa đẩy dân tộc đến một thời kì Tây Phương hoá, thế giới hoá gấp gáp hơn (dù với các dạng hình khác nhau, được thú nhận hay không) khiến cho lí thuyết ông trở thành lạc hậu nhanh chóng ngay cả bên trong vùng đất nhỏ bé mà ông muốn lấy làm kiểu mẫu để mở rộng ra bên ngoài biên giới có từ cuối thế kỉ XIX với sự chiếm đóng của người Pháp. Sự lôi cuốn hướng về tương lai lại bị đảng Cộng Sản tước đoạt, một đảng khỏi mệt óc nghĩ ra lí thuyết, mà thừa hưởng kinh nghiệm tổ chức và sự yểm trợ quốc tế, cùng với cả một “thiên đường” trên mặt đất đủ sức thuyết phục đồng thời cả về lí thuyết lẫn bằng quyền lực. Tính chất đảng trị mà Lí Đông A ao ước đã có người thực hiện thay; nền dân chủ chuyên chính của ông chỉ cần thêm hai chữ “nhân dân” là giống với ý niệm chuyên chính của một thời kì sách lược tiếp theo của người khác, nghĩa là vẫn mang hình ảnh chuyên chính của một tập đoàn chính trị chứ không phải là của một giai cấp như định nghĩa của lí thuyết mácxít mà người Cộng sản tự hào. Và chính vì quần chúng đã hiểu lí thuyết mácxít qua lăng kính thần bí truyền thống, kết hợp với cái từ quái gở (theo lí thuyết chính thống) “tổ quốc xã hội chủ nghĩa” mà đảng Cộng Sản có sức mạnh vô vàn của họ để tuôn đổ hệ luỵ trên toàn đất nước, dân tộc.
Những người đệ tử của Lí Đông A sau 1954 đi vào Miền Nam sống ở thành phố càng xa rời tư tưởng cổ lỗ, lại gặp đám quần chúng địa phương thấm nhuần một hệ tư tưởng thần bí có khía cạnh khác, nên không kết hợp được người để thực hiện mộng của lãnh tụ. Do đó việc in sách của ông chỉ dừng lại như một việc lưu giữ tài liệu lịch sử. Tuy nhiên dù sao thì những ý tưởng chung chung cũng dễ có đời sống lâu dài, dễ gặp sự tán đồng ở cả những người không cùng phe phái. Mặt khác tâm tình thiết tha của một con người dấn thân vào hoạt động để thực hiện mộng ước to lớn cũng tạo được sự cuốn hút ở những người khác, hoặc bằng hành động chính trị hoặc chỉ dừng lại ở phần khai triển chữ nghĩa. Trong hướng hậu - Lí Đông A đó, ta gặp các đệ tử của ông bó gọn trong những phe nhóm nhỏ xuất hiện ở hậu trường chính trị đương thời, và hình như có ảnh hưởng đến một người thân của kẻ viết những dòng chữ này. Ta thoáng gặp một thứ tư tưởng “nhân chủ” ở các lớp học nhân vị Vĩnh Long có vẻ là từ tác động của ông Thái Lăng Nghiêm, cố vấn một thời của ông Cố vấn (Ngô Đình Nhu).
Luận đề về người (Bách) Việt thời cổ xưa có mặt tràn ngập cả Trung Hoa với cả một nền văn minh làm nòng cốt cho văn minh Hán tộc, không biết có ảnh hưởng gì đến các ông Bình Nguyên Lộc (Nguồn gốc Mã Lai của dân tộc Việt Nam. Sài Gòn 1971), Kim Định (Giáo sư Triết Đông Đại học Văn khoa Sài Gòn trước 1975) trong hầu hết các tác phẩm của ông mà ảnh hưởng thấy còn dai dẳng ở hải ngoại ngày nay giữa một tầng lớp trí thức khoa bảng và trung bình. Có điều lí thú là ông Nguyễn Khánh Toàn, Viện trưởng Viện Khoa học xã hội Việt Nam, Viện sĩ thông tấn của nước ngoài, cũng bị hấp dẫn bởi các ý tưởng tương tự (qua Lí Đông A hay Kim Định? Có lẽ từ Kim Định thì phải hơn, xét theo cung cách ứng xử của trí thức Miền Bắc sau chiến thắng 30-4-1975). Ông Viện trưởng vào thời kì chống các cựu đồng chí môi răng, trong một số Khảo cổ học (1980), đã dựa vào một quyển sách có dáng võ hiệp (Vô đỉnh nguyên vương của Kim Dụng [?]) để bảo rằng Lạc thư là của dân Việt bị Tàu lấy và nay được một tác giả Trung Hoa công nhận!
[1] Về các đảng Đại Việt và những người lãnh đạo, có thể tìm thấy sơ lược ở D. Pike, Viet Cong, The Organization and Technique of the National Liberation Front of South Vietnam (The MIT Press 1968), tr. 25.
[2] Trong các tài liệu của ông do Gió Đáy xuất bản, chúng tôi chỉ có tập Chu tri lục (1969); Thư viện Khoa học xã hội Thành phồ Hồ Chí Minh cũng chỉ có quyển này. Ngoài ra chúng tôi còn có các bản photocopy một số tài liệu đánh máy của ông bàn về lịch sử dân Việt, lí thuyết Duy dân áp dụng trong việc tổ chức Đảng, tổ chức quân sự cướp chính quyền, cai trị đất nước, mở rộng ra đến việc cải tạo thế giới, chen vào đó có những lời tâm sự phân trần. Tài liệu này có phần chỉ là phác thảo, chúng tôi được Giáo sư Nguyễn Văn Trung cho mượn để làm việc cho ông.
[3] Nghiêm Xuân Hồng, Lịch trình diễn tiến của phong trào quốc gia Việt Nam. (Sài Gòn 1958), các trang 56, 57, 67, 109.
[4] Cửu Long Lê Trọng Văn, Lột mặt nạ những con thò lò chính trị. (Mẹ Việt Nam xb. 1991), tr. 409; Nguyễn Tường Bách, Việt Nam thế kỉ qua, Hồi kí cuốn Một 1916-1946 (Nxb. Thạch ngữ, 1997), tr. 211, cho biết tên khác là Nguyễn Hữu Thanh, nhưng hồi kí của một người đương thời gần với nhóm lưu vong Trung Quốc hơn (Lí Thái Như, “Một thoáng mong manh còn nhớ mãi”, trong tập họp Khái Hưng, Kỉ vật đầu tiên và cuối cùng: (1) Hồn bướm mơ tiên. Phượng hoàng xb. CA 1997, tr. 215) cũng xác nhận tên Nguyễn Ngọc Thanh.
[5] Nguyễn Tường Bách, sđd, ttr. 295-299.
------------“…thời hiện đại Việt Nam phát sinh và nuôi dưỡng không phải chỉ những lãnh tụ mà còn cả những người mang sắc thái ít nhiều lệch lạc với thực tế bình thường, đông đảo hơn, phức tạp hơn, tạo thành một sức mạnh nâng đỡ lãnh tụ, đưa đẩy trào lưu lịch sử đến những bến bờ không nằm trong khuôn khổ ước mơ lúc ban đầu…”
Dấu ấn quốc tế và truyền thống
Nhiều nhà nghiên cứu đã không lạ với tính chất thần bí trong quan niệm cổ truyền về quyền bính ở xã hội Việt Nam. Không phải chỉ giản dị là lí thuyết về thiên mệnh có lúc được sử dụng như một thứ biện minh. Có cả đông đảo những truyện tích huyền hoặc chỉ dẫn những đường quanh nẻo khuất trong sự cọ xát với thiêng liêng, u minh trên con đường tiến chiếm quyền lực mà qua thời gian chúng đã tạo thành nếp sống tập đoàn. Do đó những tổ chức chính trị cũ cũng như mới đều là những hội kín đậm nhạt ít nhiều. Lãnh tụ, quần chúng đồng thời phải sống vừa mặt trần thế vừa mặt thiêng liêng mà có khi không tự biết. Lối sống hai mặt đó không những chứa đựng tính chất thần bí về mặt ẩn giấu mà còn mang tính chất có vẻ bí hiểm kì lạ trong sự chuyển đổi trơn tru, thể hiện nơi con người Việt Nam khi phải chấp nhận mặt này hay mặt khác của cuộc sống, vào cùng một lúc hay khácthời điểm – hiện tượng này xảy ra bình thường đến độ không thể coi là phản phúc.
Vì thế ta không lấy làm lạ khi một chủ thuyết tiên tri quốc tế như mácxít đánh động đến ý tưởng đại đồng, chia của cộng (tồn tài) sản ăn sâu vào tâm thức của người dân, thì trên con đường tiến chiếm quyền lực, những người tổ chức đã gặp sự hưởng ứng nồng nhiệt của quần chúng trong những biểu hiện không ở mức độ của lí trí bình thường và đầy mâu thuẫn. Nền độc lập đệm một bước gần cho tương lai đại đồng xa, thôi thúc tình cảm say mê biến thành một thứ cuồng tưởng tôn giáo ở số đông người, không phân biệt địa phương, dù dấu ấn địa phương vẫn còn đấy.
Cũng đã rõ – và chỉ có người Cộng sản ngày nay phủ nhận hoặc bào chữa – là các người Cộng sản Việt Nam buổi đầu đều xuất thân từ tầng lớp trên, con cháu quan lại, địa chủ mà sự tiếp xúc với các đô thị Tây Phương sôi sục “mốt tả phái” đã khiến họ chấp nhận con đường giành độc lập theo lối này, vì nó vừa phù hợp với ý thức chiếm lại quyền hành của gia đình đã bị tước đoạt, vừa phù hợp với sự hãnh diện dắt dẫn quần chúng, dân tộc hướng về tương lai hạnh phúc theo mẫu mực của kẻ sĩ ngày xưa. [1]
Tương lai dài hay ngắn là còn tuỳ ở kiến thức, ở trí tưởng tượng của người nắm bắt vấn đề, nếu ta bỏ sự thôi thúc của quyền lực ra ngoài. Khoảng trống giữa hiện tại và tương lai, giữa hiện thực và tiên tri sẽ được nối kết bằng phương tiện tuyên truyền và sức mạnh của vũ khí.
Khoảng trống đó dù sao cũng đã ngắn lại vì trong khi người Cộng sản còn để giai đoạn cộng sản tuy có “lùi một bước” với các danh hiệu “chủ nghĩa xã hội”, “chế độ dân chủ mới”, “dân chủ nhân dân”, hay lộn sòng “dân chủ cộng hoà”, nhưng thế giới độc đảng của người mácxít cũng đã có chỗ đứng trên quả địa cầu cùng với các đảng vệ tinh khắp nơi một lòng tuân phục trung ương. Cùng lúc, sự cụ thể hoá của lí thuyết đã phơi bày thực trạng thấp kém dù được che giấu kĩ nhưng rồi cũng phải ló dạng, và sự phân rã nội bộ dần dà trở thành tranh chấp công khai. Vì thế, đối với một số người, dáng hình xã hội chủ nghĩa đã không còn chung một màu sắc nữa.
Từ những bất đồng về đường lối chính sách, với những biến động mới sau Thế chiến thứ hai, nhiều nhà tư tưởng mácxít, để không tự phủ nhận, đã nghĩ đến chuyện “vượt mácxít” để đưa ra một thứ tiên tri mới thay thế cho tiên tri của ông thầy trước kia. Tất nhiên phần lớn những người muốn vượt-Marx không phải là nhà tiên tri, cũng như trong số đông những người có ý tưởng về chủ nghĩa xã hội của thế kỉ XIX chỉ có ông Marx gốc Do Thái là đã đề ra một lí thuyết với ước mong rằng quá khứ trước ông chỉ là chuyện tiền sử. Ở Việt Nam, chúng ta có thể nghĩ rằng ông Hồ Hữu Tường khi thất vọng với mácxít, với tập đoàn đồng tư tưởng mà khác phái đang truy bức và giết hại phe ông, thì việc đề ra chủ thuyết Trung lập chế để tạo thế quân bình đưa đến hoà đồng cho nhân loại không phải là không ảnh hưởng từ những tin tưởng đầy dẫy, sôi sục của vùng Nam Kì quê quán ông, những tin tưởng mà về sau, với tuổi già sẽ lộ ra, đậm nét và công khai hơn.
Những lời tuyên bố và các trần thuyết nghiêm túc về Trung lập chế xuất hiện ở Paris, Sài Gòn trước sau hiệp định Genève 1954 là đúng vào thời điểm cho một lí thuyết rẽ ngang đưa ra công khai. Cuộc chiến tranh lạnh đã đến Việt Nam trong dạng đối đầu thực sự, dù đối với số đông dân Việt thì nó vẫn là cuộc chiến giành độc lập – và do đó lí thuyết của ông yếu hẳn về mặt thực lực quần chúng. Một “phe thứ ba” ở Việt Nam – dù ông không nhận tên đó – bao giờ cũng chỉ là thứ lục bình trôi vật vờ theo sóng nước của thời thế. Việt Nam là một nước có truyền thống hoặc là (gần như) tuyệt đối phục tùng chính quyền, hoặc là cầm gươm súng chống lại chính quyền, lại với thời hiện đại có một chính quyền Miền Bắc độc tài và một Miền Nam cũng phải độc tài (dù ta thấy thực tế không bằng) như ông đã nhận định khi đưa ra làm cơ sở cho sự rẽ ngang để cứu dân Việt, thì thứ lí thuyết cao vời như của ông không có chỗ đứng trong quần chúng cũng là điều dĩ nhiên.
Trước khi luận thuyết chính thức ra đời không lâu, ông Hồ Hữu Tường đã cho xuất bản bộ sách-đôi Gái nước Nam làm gì? gồm hai tập Thu Hương và Chị Tập (Paris 1954 [?1949?]). Trong tình trạng in ấn và lưu trữ như ở Việt Nam ngày nay, chúng tôi không rõ các bản thảo đó như thế nào trước khi được trình bày rộng rãi, nhưng Tương lai văn hoá Việt Nam xuất bản ở Paris năm 1949 thì đã có một bản in ở Hà Nội năm 1946 (theo trí nhớ của chúng tôi, vào thời kì đọc-mà-không-hiểu-gì-cả).
Vốn xuất thân từ một đảng phái thạo nghề vận động quần chúng, ông đã bày tỏ lí thuyết mình dưới hình thức luận văn khẩu chiến, tiểu thuyết, rồi tiến thêm một bực theo lối tiếp cận “địa lợi” (Nam Kì) là tiểu thuyết có chương hồi với hơi hướng tiếu lâm (Phi Lạc sang Tàu, Phi Lạc náo Hoa Kì, Phi Lạc bỡn Nga). Ở đây chúng ta có thể so sánh với Giấc ngủ mười năm của Hồ Chí Minh với điều khác biệt là một ông làm Chủ tịch nước có đảng, có quần chúng nhất hô vạn ứng, còn một bên là ông chính khách lông bông, sử dụng lối văn cười giả lả để thu hút quần chúng, lỡ mộng không thành thì cũng nên coi chỉ là chuyện vui gượng.
Theo lời tuyên bố về sau, ông Hồ Hữu Tường cho biết mình đã từ bỏ mácxít từ 1936. Trong Tương lai văn hoá Việt Nam, chúng ta thấy ông xác nhận sự từ bỏ đó qua quan niệm chung về các “isme”: [“Ở Tây Phương] có tư tưởng, chủ nghĩa, học thuyết nào không bị đổi làm phương tiện, không bị lợi dụng đâu?” (trang 36). Sở dĩ có tình trạng đó, theo ông, vì văn hoá Tây Phương có cái mà ông gọi là “quái hoá” – một từ không được giải thích thêm nhưng rõ ràng là mang tính cách thần bí mà suy từ những chứng dẫn khác, ta có thể coi đó là sự đề cao tính chất Đông Phương đạo học áp dụng trong lãnh vực chính trị. Trong Thu Hương, ông đã dùng ý niệm thiên thời, địa lợi, nhân hoà. Ở đây, Tương lai văn hoá Việt Nam, ông dồn tâm tư tình cảm cho dân nước Việt với hình ảnh con chim Lạc trốn tuyết về Nam “chờ mùa xuân về mà cùng về với xuân”. Mùa xuân đó, ông đã “thấy” (chỉ mình ông thấy thôi như ông nói trong Thu Hương, trang 117: “... có lẽ trong bầu trời chỉ có một mình tao có nhận định như thế mà thôi”): “Tôi muốn cất tiếng mà kêu to... muốn có một giọng nói thật tha thiết... những luận điệu thật đanh thép... để mọi người cùng tôi đem một cái vinh quang chưa hề có trên quả địa cầu về cho dân tộc ta, dân tộc Việt Nam (Lời tựa).
Ông cho rằng độc lập về chính trị, kinh tế chưa đủ, còn phải lo giải phóng về “văn hoá” (trang 18). Văn hoá với nghĩa ông dùng, là văn hoá đích thực, đối kháng với văn hoá Tây Phương “quái hoá”: “Ta nêu lên một sinh hoạt tinh thần mà kẻ khác phải chịu phục theo” (trang 24). Việt Nam không thể chen lấn với đế quốc chủ nghĩa, không thể cạnh tranh khoa học, nhưng văn hoá Việt Nam sẽ “làm cho người trở nên NGƯỜI” (trang 30) và sẽ “lan rộng ra khắp thế giới” (trang 41).
Ít ra thì ông chuẩn Cao học Toán của Sorbonne cũng gặp ông tướng Phục Quốc Quân ngập chìm trong không khí lí số, quân phiệt ở chỗ hai người cùng tự phụ là dân Việt – rộng hơn, là người Á Đông – cùng có ước vọng làm kẻ xướng suất chủ thuyết mới để đưa dân Việt lên địa vị lãnh đạo thế giới, không nhiều lắm thì cũng là về mặt tinh thần, và điều này với kẻ yếu thế thì cũng đủ là niềm hãnh diện rồi.
Tuy thế giới không quan tâm tới hai ông lí thuyết gia nhược tiểu, nhưng ở Việt Nam đã có một đảng Cộng Sản nắm chính quyền, và đang thắng thế, vậy mà có người lại muốn lập thuyết định đẩy loài-người-có-mácxít vào một thời kì tiền sử nữa. Không được. Cho nên trước lời kêu gào tự phụ đó, không trách ông Đệ tam Mai Văn Bộ
(1949) đã chê Hồ Hữu Tường : “nói sảng!” [2]
Lời tiên tri về văn hoá còn mơ hồ, nhưng qua quan điểm chính trị nó đã có đường nét rõ rệt hơn. Ông đã bày tỏ ý tưởng mình trong quyển Thu Hương, nói về vai trò của một nữ trí thức trong những ngày tiền-1945. Tên Hồ Hữu Tường không được nêu lên, nhưng như ông tự nhận sau này, con người được vẽ ra: “bộ tịch vặm vỡ, tướng đi như con khỉ đột, mặt xấu xí, miệng rộng..”. đúng là ông đã khôi hài về ông. Có thể tư tưởng muốn vượt tư bản, cộng sản đã hình thành trước năm quyền sách xuất bản (1954) nhưng không rõ là có vào các năm 1945 ấy không, vì ta không thấy danh xưng Trung lập chế được xác định cho là lí thuyết của ông, đã xuất hiện trong sách này.
Ông “không đứng về phía nào cả” (trang 114) bởi vì theo ông “sự giải thoát của loài người là một con đường dẫn ra khỏi chế độ tư bản của Mĩ và chế độ đảng trị của Nga” (trang 116). “Sứ mạng lịch sử “ đó, ông cho là thuộc Thiên thời. Tình thế, theo ông, phải xảy ra Thế chiến III. Và tuy không nói ra nhưng hẳn vì bom nguyên tử đã xuất hiện mà mà ông cho là dù Nga hay Mĩ thắng thì vẫn dẫn đến “tiêu thổ”: “Nếu có nội chiến cách mạng Âu Mĩ thì bao nhiêu nền kĩ nghệ bị phá huỷ hoàn toàn như châu Âu bây giờ”. Cho nên rõ ràng theo ông, đây là một thứ đe doạ tận thế mà con đường phải vươn ra là chuẩn bị làm một cuộc cách mạng “giải thoát cho loài người”, lần này sẽ xảy ra từ phương Đông. Đó là điều mà Hồ Hữu Tường gọi là Địa lợi. Thời thượng nguơn mới theo ông, chưa thấy được (1945?) vì chưa có điều kiện Nhơn hoà.
Điều kiện đó có vẻ là đã đến với hiệp định Genève 1954. Hay nói đúng hơn, hiệp định Genève đưa Việt Nam đứng ở tuyến đầu trong cuộc chiến tranh lạnh, tạo một thế đủ thiên thời, địa lợi, nhân hoà cho một người Việt như ông Hồ Hữu Tường bàn chuyện “tổng hợp thế giới”. Bàn ở đâu? Chắc ông không thể ra chiến khu Việt Bắc hay Hà Nội để trình bày lí thuyết của ông với Bộ Chính trị đảng Lao Động hay đăng báo Nhân Dân. Chỉ còn Sài Gòn hơ hỏng trong giai đoạn chuyển tiếp, và có dân chúng người Việt còn hoàn cảnh để bàn chuyện chính trị “đa nguyên”: Lúc nào, ở đâu thì lí thuyết cũng nảy nở vào thời kì suy tàn của một chế độ, tromg một quyền bính yếu ớt [3]. Không thể nói đến sự thui chột lí thuyết dưới một chính quyền mạnh, vì lẽ giản dị là nó không tượng hình, nói chi đến ra đời!
Vậy Trung lập chế của Hồ Hữu Tường xuất hiện rầm rộ ở Sài Gòn cuối 1953, nửa đầu 1954. Ông cũng biện minh, giảng giải về tên ông đặt cho lí thuyết mới mà từ ngữ “trung lập” có thể gây hiểu lầm. Trung lập chế, theo ông, không phải là một thái độ chính trị ta thường thấy, minh định vị thế không thiên về bên nào trong cuộc tranh chấp, để hưởng lợi hay tránh thiệt hại. Trung lập chế bao hàm một nội dung triết lí chính trị, một chiến lược toàn cầu vượt lên trên sự đối đầu tư bản - cộng sản, tránh được chiến tranh nguyên tử, đem lại hoà bình cho nhân loại. Hình như kiến thức khoa học và quá trình cựu mácxít đã giúp ông đẩy cái théorie de complémentarité từ lãnh vực vật lí, không những qua triết lí như các triết gia đề cao thuyết hội tụ, mà còn lại mở đường qua hành động, gợi từ ý niệm praxis của Marx nữa. Ta chỉ biết chắc một điều là ông dự tính tạo dựng chân thứ ba cho cái vạc thế giới thời nguyên tử mới chỉ có hai chân Nga, Mĩ. Chúng ta cũng không rõ những chuẩn bị của các vị Nguyên thủ Thế giới thứ Ba cho Bandung (5-1955) có ảnh hưởng gì trong sự lập thuyết của ông không.
Tất nhiên có thể nói đây chỉ là chuyện của tiểu thuyết hoạt kê, nhưng khi ông để cho nhân vật Phi Lạc sang Tàu thì rõ ràng ông cũng nhắm vào Trung Quốc, tin rằng nước này có thể thực hiện cái mộng tạo lập thế chân vạc của ông – Trung Quốc mà với cuộc chiến thắng 1949 đã nổi lên như một nước phương Đông có thể đảm nhận vai trò lãnh đạo Thế giới thứ Ba nghèo đói, chưa hoặc mới vừa thoát ra vòng lệ thuộc của tư bản thực dân. Ông chưa kịp thấy các bước Đại nhảy vọt và sự cuồng loạn của Hồng vệ binh để kịp kéo Phi Lạc trở về mà điều chỉnh lại mộng tưởng. Ít ra thì đến lúc sáng tác tập truyện nói dóc này, ông chỉ thấy cái mộng nước Việt nhỏ bé dắt dẫn thế giới không có cơ hội thành đạt, nên ông thu nhỏ ước mơ làm một thứ Tô Tần của thời Xuân Thu mới, đi thuyết giảng thế giới để trở thành một người Việt mong được lãnh đạo nhân loại trên giấy in. Thế mà mộng tưởng du thuyết dù đã thu nhỏ thêm để chỉ nhắm vào một phe phái (Bình Xuyên) trong cuộc tranh giành quyền lực ở Miền Nam, cũng vẫn không thành, và suýt nữa ông đã tàn đời vì nó. Nhưng một khi đã chen vào các tranh chấp chính trị thì niềm ước mơ về một thứ “văn hoá” đích thực, nó nằm ở đâu?
Một thử thách nhỏ ở khu vực nhỏ hẹp như thế đáng lẽ cho ông thấy không phải dễ dàng tái diễn cái thế lợi dụng sự xung đột Ngô Nguỵ để thừa chỗ-trống lấy Kinh Châu (theo lối kể Tam Quốc của ông). Sức tràn lấn của Cộng sản thế giới đã làm nghiêng cái chân tư bản yếu ớt ở phương Đông, tràn đến cả “sân sau” của Mĩ (Cuba 1959) thì không còn chỗ nào cho ông dựng được cái chân thứ ba có tên là Trung lập chế. Chỉ còn lại đất nước và những con người cụ thể. Vậy mà những người Đệ tam đang nắm thực quyền không thể chối cãi trên đất nước, lại nhờ tinh thần “vô sản quốc tế” che giấu được tính chất nô lệ ẩn tàng, nên không thể chấp nhận đường lối Bandung của một người Việt mơ mộng. Về phía Hồ Hữu Tường, hình như sự thất bại của phe Đệ tứ bám chặt vào lí thuyết quốc tế khiến họ chỉ quanh quẩn ở Paris, Sài Gòn, Hà Nội, và sự thành công của người Đệ tam sau khi họ bỏ rơi một ít lí thuyết giai cấp đề ra từ Luận cương của Trần Phú (1930) để nói đến dân tộc nhiều hơn, cụ thể hơn, điều đó đã khiến ông chuyển đổi hướng về dân tộc chủ nghĩa. Nhưng ông không thể theo những người truy bức tận diệt các đồng chí cũ của ông. Ông phải theo một hướng khác. Trung lập chế ra đời trong sâu thẳm như thế chăng?
Định làm kẻ hoá giải tư bản và cộng sản mà Hồ Hữu Tường lại nằm trong vòng tay của thế giới tư bản thì trước khi chấm dứt đời vì người Cộng sản, ông cũng phải chịu luỵ vì hệ thống chọn lựa, trong đó cũng có một người cầm quyền mơ mộng: ông Ngô Đình Nhu.
Khi có sự cách biệt quá xa giữa thực tế và ước mơ thì mộng tưởng trở thành hoang tưởng – mộng tưởng còn nằm ở đầu này của thực tế nhưng hoang tưởng lại ở cuối đường ước mơ kia. Tuy nhiên quyền lực có thể đem mộng tưởng của cá nhân trở thành thực tế, và do đó cố biến hoang tưởng trở thành mộng tưởng, chưa kể đã được coi là đã thực sự ở trong tầm tay với (của ảo giác). Vì thế trên đường giải thoát cho loài người, đưa dân Việt lên (một) địa vị lãnh đạo thế giới, người Cộng sản Việt Nam đã sử dụng quyền bính, thực hiện từng cấp độ trong đà mê say một thứ chủ nghĩa xã hội “trong sáng”, muốn biến đất nước thành nòng cốt gây men Cách mạng Á, Mĩ, Phi theo với cơn giật chiến thắng 54, 75 cùng với những lời tán tụng “trái tim của loài người”, “lương tâm của nhân loại” từ miệng các anh nhà báo ưa tìm chuyện giật gân dẫn đến lời huênh hoang sau 1975: “Chúng ta đào tạo cả Tổng bí thư Trung, Nam Mĩ”. Và đến mức độ này thì chỉ có thực tế tàn nhẫn mời kìm hãm lại được.
Ông Ngô Đình Nhu cũng đã có những bước đầu như vậy, lẽ tất nhiên với sự thành công ít hơn nhiều, quá ít để thấy kết quả thảm thương không bù lại được với mong ước. Khi chuẩn bị cầm quyền mà chưa có quyền bính, trong một bài diễn thuyết ở trường Võ bị Liên quân Đà Lạt ngày 15-8-1952, ông đã bày tỏ ý tưởng tổ chức một chính quyền vượt trên tư bản và cộng sản mà theo ông, sẽ giúp cho nhân loại tránh khỏi chiến tranh [4]. Lồng trong một tổ chức chính trị như thế là một ý thức “trở về nguồn”: “... Nền văn hoá Á Đông sẽ cản trở hay sẽ giúp Á Châu tiến gấp về phương diện tinh thần cũng như vật chất hầu thoả mãn sự nóng lòng của nhân loại?... Các giá trị cổ truyền ấy đã bị lay chuyển khi va chạm với tư tưởng Tây Phhương... Vì thế công cuộc chấn hưng văn hoá Á Châu hiện nay rõ rệt là hướng về nhân vị và những giá trị cộng đồng truyền thống... những giá trị truyền thống Á Châu. kể cả tư tưởng Hồi Giáo Á Châu có thể giúp ta xây dựng một xã hội mới, phồn thịnh và vị nhân..”. [5]
Ông nhận thấy tinh thần Á Đông phát sinh từ những đạo giáo (cổ truyền) vẫn còn mãnh liệt tại thôn quê. Và đó là điểm nối kết với tín ngưỡng của ông –cũng là một tôn giáo – để làm công việc chấn hưng lại xứ sở, giữ lại “tinh hoa văn hoá của dân tộc”. Từ căn bản tiên tri tiềm ẩn của Công Giáo, ông đã đề xướng thuyết Nhân vị, muốn là của riêng ông, áp dụng vào một địa vực chống cộng, vào một thời điểm gay gắt đánh động đến sự mất-còn. Tuy nhiên, cơ sở tôn giáo, căn bản Đức tin đã dẫn ông đến một quan niệm chính trị quá lí tưởng: “ Dân chủ... không phải là chế độ ưu đãi riêng biệt một hạng công dân nào, bất cứ là ít hay là nhiều (tác giả nhấn mạnh), mà phải là một chế độ đi đôi với sự tôn trọng mọi người – chung tất cả mọi người và riêng mỗi một con người... Không phải bất cứ lúc nào cũng có thể để các nguyên tắc [dân chủ] ấy đi nghỉ hè vì những nguyên cớ giả dối. Chiến tranh cũng không phải là một cớ chính đáng. (Chúng tôi nhấn mạnh). [6]
Ở đây ta lại gặp một sự cuồng nhiệt mới của một thành phần tôn giáo mới (thật ra thì cũng đã cũ nhưng vẫn còn nhiều vướng víu gây khó chấp nhận), nay muốn kết hợp với truyền thống của khu vực, và với cái thế hậu thuẫn của lực lượng Tây Phương đồng dạng một chừng mực, nó muốn giữ địa vị lãnh đạo nhưng bị lôi cuốn vào các phương tiện, tâm lí ý thức của khu vực trên đường thực hiện chủ thuyết.
Chính vì thế mà những người biết thuyết nhân vị ở Pháp không nhận ra người anh em đồng dạng ở Vĩnh Long. Sự phối hợp Đông Tây của ông Ngô Đình Nhu trong thực tế gặp những chướng ngại to lớn. Việt Nam sau Genève không phải là nơi của những cuộc bàn cãi triết lí, chính trị trong phòng khách, trên các diễn đàn đại học.
Chiến tranh là thực tế mà những người như ông lại không phải là tướng lãnh. Giành giật linh hồn quần chúng là thực tế khác, mà ông lại nói chuyện với đám đông rất dở. Dù sao ông Phó vương thời mới cũng phải luồn mộng tưởng kiến thiết xã hội công giáo của mình vào trong chiến lược chống cộng theo các dữ kiện của thời đại (chương trình ấp chiến lược, tổ chức đảng cầm quyền) để thắng giặc bằng “phương tiện con nhà nghèo”. Và thế là ông chịu cảnh “lưỡng đầu thọ địch”.
Từ vị thế người Á Châu, Eqbal Ahman không tin tương lai là của người cộng sản, nhưng nhìn vào tình thế ở Việt Nam, ông cho rằng “trách ông Diệm [và ông Nhu] đã đưa dân Việt vào chỗ tuyệt vọng là không đúng”. Họ chỉ còn có sức vùng vẫy mà thôi. Trong vòng tay tư bản với cách nhìn chịu tác động của ngôn từ dân chủ tư sản Tây Phương như ông R. Fishel phân tích, chế độ “Democratic One-Man Rule” của họ Ngô dù đã được biện minh [7], vẫn phải nhận lãnh lời công kích “độc tài gia đình trị”. Trong khi đó phía bên kia có một đảng Cộng Sản cương quyết thực hiện không chia sẻ chủ thuyết của mình, và đang trên đà thành công trước mắt với các đảng, nhà nước anh em và phong trào tả phái rầm rộ trên thế giới như sóng trào lớp lớp. Ngay từ căn bản lí thuyết, đối đầu với một người “cầm gươm ôm súng xốc tới” mà lằng nhằng nói “Phe anh cũng có điều phải mà phe tôi phải hơn” thì cái thua đã cầm chắc!
Tất nhiên là người Cộng sản sau khi thắng rồi có thể “xét lại”, “đổi mới” với bao nhiêu đường quanh quất thụt thò co giật nhưng bước đầu là họ phải thắng, thắng để rồi từ đó mọi sự sẽ như là đóng cửa dạy dân, ban ơn thay đổi, sáng suốt ngay từ đầu chứ không phải là ứng biến từng giai đoạn, làm theo ý kiến của những người một thời là “phản động”. Quyền bính trước hết rồi các lí thuyết gia được nuôi dưỡng sẽ theo sau. Dân chúng gom trọn trong tay sẽ là một thứ con tin cho sự tồn tại của chế độ.
Một sự điều chỉnh như thế không có ở ông Hồ Hữu Tường, con người không có một vị trí điều hành thực tế để điều chỉnh. (Hay bởi vì suy nghĩ lệch ra ngoài thực tế mà ngay từ bản thân không lựa chọn được vị trí nào trong xã hội cả?) Sau những năm tháng dài chịu tử hình treo, ta thấy khuynh hướng thần bí của ông bộc lộ rõ rệt.
Không biết đó là do kết quả cận kề với cái chết làm nổi lên tính truyền thống của khu vực thấm nhuần từ lúc còn trẻ mà tuổi thanh niên làm ông gạt đi được, hay đây là kết quả của thủ đoạn đi tìm quần chúng tác động ngược lên con người lãnh tụ – có thể là cả hai. Dù sao thì ta thấy tham vọng của ông cũng thu hẹp lại sau 1963 –nên kể thêm một khoảng thời gian sau đó khi án tử hình chưa xoá về mặt pháp lí. Ông dừng lại ở phạm vi nhà văn hoá, chơi văn giỡn chữ với cách thức nói chuyện thượng/hạ nguơn, luồn mộng ước chính trị, thống nhất đất nước trong thế kỉ XX vào câu chuyện mối liên hệ truyền đời, hàm ý từ bản thân ông nối với nhân vật Nguyễn Huệ [8] mà hào quang quyền lực chiến thắng ở thế kỉ XVIII được hiện đại hoá thành thời trang chính trị nông dân ở Miền Nam, và thành pháp lệnh sử học ở Miền Bắc luồn lọt theo ý thức hệ maoít ca tụng bần cố nông trùm lên sinh hoạt hàng ngày ở đấy. Hồ Hữu Tường cũng là (một) tiêu biểu cho hiện tượng cần so sánh: Con người (chính trị) cá nhân của chế độ tư bản “khờ khạo” hơn con người ranh ma có hệ thống của chế độ cộng sản vốn phải sống trong không khí “chính trị là thống soái” [9]. Ông cũng biết người ta chê mình nói chuyện “huyền bí” nhưng vẫn tự phụ là “nhà tiên tri bàn cờ thế giới”. Bằng chứng theo ông là “từ 1945 đến 1974 đã thể hiện từng trang một” những lời ông tiên đoán, và do đó không có lí do gì mà không đúng, là những ngày cuối tháng 4-75 sẽ mở đầu tích cực cho thời kì dân tộc Việt Nam sẽ nắm địa vị lãnh tụ “không có dân tộc nào tranh giành nổi”, thời kì mang tên văn hoá Việt Nam sẽ “hướng dẫn những dân tộc nhược tiểu ớ Á Châu, Phi Châu và châu Mĩ La tinh” đi vào “cái nền văn minh thứ ba cao hơn văn minh kĩ sư của Tây Phương và văn minh chính uỷ của khối cộng sản” [10]. Nói theo ngôn từ của tiểu thuyết kiếm hiệp thì khi “bàn” theo Truyện Tàu, ông Hồ Hữu Tường đã bị tẩu hoả nhập ma – với cái khác là không chết trong động mà là từ trại cải tạo.
Lí thuyết cao cấp vốn đã không dễ hiểu cho quần chúng huống nữa là lí thuyết vượt thường mang tính cách tiên tri. Chính vì thế mà người ta hay lược giản để hiểu những gì có thể hiểu được. Cho nên không thể nào ngăn người ta hiểu rằng Trung lập chế là trung lập, là đứng giữa. Và thực tế cũng là đứng giữa hai chiến tuyến thực sự, cho nên người đi vào hành động phải chịu hai lằn đạn – điều này người đệ tử của Hồ Hữu Tường, ông NPC (TCD) thấu hiểu hơn ai hết vì phải chịu đánh đổi bằng chính bản thân. Có lần Hồ Chí Minh đã gọi Trung lập là “điếm chính trị” và nước Ấn Độ vĩ đại thân thương (sau này) đã bị Đảng-ta công kích dữ dội sau 1947 trên báo Cứu Quốc. Ở hội nghị Đại đoàn kết 1961 (Sài Gòn), lời phát biểu nhắc nhở về trung lập chế gây sự la ó của các chính khách, cùng thời gian có chủ trương trung lập mồi chài của người Cộng sản tung ra, tất cả hẳn đã dồn lại, gây nên cái chết vùi thây dưới rạch Cát của người thanh niên muốn làm lãnh tụ [11].
Ngay từ khởi điểm của lí thuyết, mácxít đã mang tính chất tiên tri khi vẽ ra một hình ảnh hấp dẫn cho tương lai loài người. Hệ thống lí luận chặt chẽ mang dạng hình tân tiến có sức thu hút mạnh mẽ, và khi Cách mạng 1917 thành công thì mácxít lại có bằng cớ cụ thể về điều tiên tri đã (bắt đầu) thực hiện. Đất Việt lại là mảnh đất mầu mỡ đầy mầm mống tiên tri chờ đợi kết hợp. Lí luận, quyền lực đồng thời đi đôi với nhau thúc đẩy sức thuyết phục mạnh hơn. Sự tự nguyện đã được điều kiện hoá mà người bị ép buộc có khi không hay biết [12]
Sự kềm toả của người Pháp cũng làm tăng thêm ước vọng. Độc lập được nhìn theo vọng tưởng cảm tính: đất nước sạch bóng quân thù (người ngoại quốc và tay sai), không thuế má, không có phú lít phạt đổ rác bừa bãi chẳng hạn... Lí thuyết nào mang chút lí tưởng, khi giản lược đều giống nhau ở chỗ những điều tốt đẹp được giữ lại và dọn chỗ cho những phương cách thực hiện thô thiển nhất. Thế giới đại đồng không ai giàu ai nghèo, không ai áp bức ai, tứ hải giai huynh đệ... cả một loạt tin tưởng cũ lồng vào đầu óc con người mácxít Việt, có sức mạnh hơn vì được thêm vào bằng những luận cứ hiện đại mang sức mê tín mới (khoa học) có tầm mức thế giới. Hải Triều Nguyễn Khoa Văn (1908-1954), người mácxít nổi danh trong cuộc bút chiến nghệ thuật vị nghệ thuật hay vị nhân sinh vào nửa sau những năm 30, từng cổ động thuyết đại đồng mới (hiểu là mácxít), lấy lí lẽ rằng chủ nghĩa kiêm ái của Mặc Tử chẳng hạn đã thất bại “là vì kẻ no người đói, kẻ sướng người cực không đồng đều đó thôi” [13]. Và lời mở đầu Tuyên ngôn độc lập 2-9-1945 nhắc ngay đến Tuyên ngôn độc lập của Hoa Kì không phải chỉ vì Hồ Chí Minh muốn o bế người Mĩ mà còn vì sự cộng hưởng của tác giả với câu: “Mọi người sinh ra đều bình đẳng..”. Nhưng người dân lúc bấy giờ chưa được nghe quyền bính mới biện minh rằng muốn có bình đẳng phải có áp bức, có nền chuyên chính của Giai cấp cho đến hết thời kì quá độ không hẹn ngày chấm dứt.
Sự bắt chước mới, mở ra bằng con đường mòn ngàn năm cũ đã đóng khung hướng suy nghĩ của người Cộng sản Việt. Lối học kinh điển của nho gia được thay bằng cách tụng kinh điển mácxít. Trong Đường kách mệnh (1927), Nguyễn Ái Quốc không chỉ mở đầu cho lối “nói lấy được” bây giờ mà còn cho thấy một cách học thuộc lòng sách vỡ lòng mácxít, bình dân hoá lí thuyết duy vật lịch sử về cách mạng tư sản:
“Ở chỗ nào chủ quyền về tay bọn quyền quý ở đấy nó đối với nhân dân nó coi như trâu như lợn, nó bắt ở yên một chỗ để cày ruộng cho nó, nó đối với mọi người đi buôn thì hàng hoá nó muốn lấy thuế bao nhiêu thì lấy... đi lại phải xin chúng nó cho phép, nó làm nhiều cách trở ngại cho việc mua bán.
“Địa chủ hết sức ngăn trở tư bản mới, tư bản mới hết sức phá địa chủ, hai bên xung đột thành ra cách mạng tư bản”. [14]
Và đây là hình ảnh mâu thuẫn giữa tư bản và vô sản:
“Ví dụ ở mỏ than Hòn Gay thợ làm mỗi ngày 11 giờ... một ngày chỉ được ba hào, ăn không đủ ăn mặc không có mặc, đau không có thuốc, chết không có hòm... Còn anh chủ mỏ ấy không bao giờ nhúng tay đến việc gì cả”.
Loại lí thuyết “thâm nhập thực tế” Việt Nam như thế sẽ là tư tưởng nòng cốt của Đảng lãnh đạo đem phổ biến mãi cho đến thời gần đây với mong ước đưa dân tộc đi vào vòng hào quang của nhân loại mới. Mà thế giới ấy, theo ông, từ 1917 đã có thật một phần rồi:
“Trong thế giới bây giờ chỉ có cách mạng Nga là đã thành công, và thành công đến nơi, nghĩa là dân chúng được hưởng cái hạnh phúc, tự do, bình đẳng thật..”. [14]
Lối tin tưởng mang mức độ tôn giáo đó gây nguy hiểm bản thân cho người nào nói trái lại khi Đảng cầm quyền rồi. Còn khi Đảng chưa có quyền thì người bài bác không có sự kiện trước mắt để làm bằng cớ, mà viện dẫn đến tình hình Liên Xô xa xôi thì cũng chỉ dừng lại chuyện đôi co phe phía, không thể thuyết phục được kẻ đã tin.
Nhưng ngay ở giới hạn này, các tín đồ mới cũng tỏ lộ phản ứng thật gay gắt trong những ngôn từ lấn lướt khó thấy ở một cuộc tranh luận chữ nghĩa bình thường – phản ứng này là dấu hiệu báo trước (mà chưa ai thấy) mức độ sử dụng quyền lực hồi sau. Dấu hiệu phe phái quá quắt và tráo trở rõ rệt khi ông Hải Triều tranh luận với Hoài Thanh đã viện dẫn A. Gide thuộc phe vị nhân sinh vì “(Gide) ngày nay là đảng viên của Đệ tam quốc tế” (1935), rồi lại tố cáo “cái tâm lí phản trắc của nhà văn hào đã viết ra quyển Retour de l’URSS... để tay trong tay ngoài lật đổ cái nền văn minh nhân đạo của loài người... bằng những lời vu cáo hèn mạt... của một bọn bất lương”. (1937) [15] Chúng ta cũng có thể hiểu một phần tâm tình nồng nhiệt của ông Hải Triều “đối với công trình vĩ đại đương kiến thiết ở Liên Bang Xô Viết” khi đọc hồi kí “Ba năm ở Nga Xô Viết” trên 43 số của tờ Tin tức (1930) ở Sài Gòn, tác giả là Trần Đình Long (1904-1946), người được đảng Cộng Sản Pháp gửi đi học ở Đại học Đông Phương (Liên Xô). Những điều mà sau cơn bàng hoàng nhờ được “cởi trói”, các nhà viết lách ngày nay gọi là “ngây thơ” để bào chữa cho quá khứ và biện minh cho quyền bính hiện tại, thực ra đã là tín điều và thống soái một thời, gieo rắc thảm hoạ với ý thức hân hoan tông đồ cho không biết bao nhiêu người, và đồng thời cũng là sức mạnh làm nên chiến thắng trong suy kiệt của đất nước.
Đóng vai trò bộ phận của một tiên tri lớn, người Cộng sản Việt Nam tập trung vào việc thực hiện chủ thuyết trên đất nước mình, dẫn dụ từng bước cách mạng dân tộc dân chủ rồi cách mạng xã hội theo một nguyên tắc cứng cỏi, không buông thả tin tưởng, trong đó có không ít sức ỳ của sự cố chấp truyền thống dưới dạng từ chương mới. Sự dự phóng vào tương lai phối hợp với kĩ thuật tuyên truyền khuyến dụ thấy nổi bật với con người cao nhất: Hồ Chí Minh. Phá hoại để kiến thiết, từ căn bản lí thuyết xoá bỏ căn bản xã hội cũ, xây dựng xã hội mới được chuyển qua hình ảnh cụ thể hơn của cuộc kháng chiến tiêu thổ với lời hứa hẹn của ông Chủ tịch (1947):
“Tôi lại trân trọng hứa với đồng bào rằng: Kháng chiến thắng lợi rồi tôi sẽ ra sức cùng đồng bào sửa sang tu bổ lại hết. Chúng ta sẽ làm những đường sá cầu cống khéo hơn, những nhà cửa tốt hơn và xứng đáng với một dân tộc độc lập tự do hơn”.
Phá thành phố làm mất dấu vết thuộc địa, phá đình miếu, các nhà từ đường tư gia, phá thành quách (thành nhà Hồ, luỹ Thầy, thành Bình Định...) là xoá dấu vết phong kiến, như thế chiến tranh cũng là dịp giúp dễ dàng cho việc thực hiện chủ thuyết. Mà ở dây, dấu ấn tâm tưởng truyền thống về sự phá-sạch đã lấn át khía cạnh chọn lựa, tiếp nối vốn cũng đã có ngay ở chủ thuyết. Điều phá sạch này được biện minh bằng sự cấp thiết của chiến tranh trong mục đích giành độc lập cao cả, nhưng thực ra lại vẫn thấy tiếp nối trong thời bình, cùng một ý thức hướng dẫn nhưng bằng biện minh khác, có tuyên bố hay không: Đào mả Tây Tàu Nguỵ ở Miền Nam, dời mồ mả, tập trung đền chùa, từ đường ở Miền Bắc gọi là để lấy đất canh tác.
Không lâu, hai năm sau lời kêu gọi ngắn ngủi kia, ông Chủ tịch thêm biện pháp thuyết phục qua lối vận động quần chúng, bằng cách dùng thể văn tiểu thuyết dự tưởng thúc đẩy mơ mộng gần với sự tình hơn:
Quyển Giấc ngủ mười năm dưới tên Trần Lực ra đời với nhân vật là một anh bộ đội bị thương, thiếp đi trong mười năm,
thức dậy thấy đất nước độc lập, kiến thiết huy hoàng. [16]
Chúng ta không rõ ở chiến khu Việt Bắc, Hồ Chí Minh có đọc Rip van Winkle của Washington Irving (1783-1859) hay không. Tác phẩm có nhân vật mang tên đó xuất bản năm 1819, được tái bản nhiều lần và được coi như là tác phẩm để đời của nhà văn hào Mĩ [17]. Nó đã được chuyển qua thể opera dưới tên Rip, diễn lần đầu ở Pháp năm 1884 và rất nổi tiếng ở London. Kịch nghệ vốn được quần chúng tán thưởng và nhớ lâu hơn tiểu thuyết. Những ngày ở Pháp lâu dài và ở Anh ngắn ngủi hơn, không biết Nguyễn Ái Quốc có chộp được Rip nơi câu chuyện thoáng qua nào không. Ta cũng có thể nghĩ đến giấc mộng hoàng lương, Nam Kha, nhưng nội dung trong mộng dẫn đến đoạn kết não nề thất vọng của câu chuyện Đông Phương lại không hợp với sự phấn chấn mà tác giả Giấc ngủ mười năm muốn có sau khi tỉnh giấc.
Việc đặt vai chính cho nhân vật là một người thiểu số hẳn là hợp với công tác dân vận trong lúc chính phủ ẩn trốn trên núi rừng Việt Bắc, nhưng sự kéo lùi đó cũng có tác dụng là nhằm để sự tiến bộ nổi bật lên. Nổi bật từ tiềm thức nữa là ánh đèn chói chan làm loá mắt người vừa tỉnh giấc. Khẩu hiệu của Lenin: “Chủ nghĩa cộng sản là hợp tác và điện khí hoá” đã được ghi nhớ, bây giờ cho lồng vào tác phẩm, cũng như sẽ được in trí mãi vào lúc cuối đời trong di chúc mơ tưởng đến điện táng (?!) – lại cũng là một cách nói gợi ý, gợi hình to lớn vượt bực, gây khích động hơn là chỉ một cái gì cụ thể, cách nói tưởng là bình dân hoá những ý tưởng cao xa để đến với dân chúng dưới quyền, nhưng thật ra là che giấu luôn cả cái không biết của người cầm quyền. Điều đáng chú ý là cách nói này rất phổ biến trong cán bộ (ở cả cấp cao, đến tận ngày nay) nên có lời chê: “Nói như VẹM”.
Tất nhiên người ta phủ nhận tính cách mê tín (điện khí) của Hồ Chí Minh nhưng chúng ta thấy cơ sở nó nằm trong loại ngôn từ, truyện xưa tích cũ, những tin tưởng mà ông đã tỏ lộ trong những trình bày, hoạt động chính trị mang tính biểu diễn.
Từ năm 1925, khi chọn hạt nhân cho tổ Đảng của Việt Nam Thanh Niên Cách Mạng Đồng Chí Hội, ông đã chủ toạ buổi họp kết nạp Đảng bằng một lễ cắt cổ gà ăn thề có nét hội kín của những tập họp anh chị ở những thành thị phương Đông chuyển qua văn minh cơ khí. Trong bài viết trình bày về con đường dẫn đến chủ nghĩa Lenin [18] được nhắc nhở khắp nơi của các nhà báo, học giả thế giới, người ta cứ nhấn mạnh đúng theo dụng ý của ông về căn bản dân tộc trong tư tưởng của ông.
Người ta có lẽ đồng hoá sự sôi nổi bày tỏ trong bài đó với nhiệt tình nhân loại nóichung. Nhưng một số người cùng ông Hoàng Văn Chí đã lưu ý đến “dấu hiệu thiên về thần bí và một nhiệt tình đến mức tôn giáo riêng biệt của ông”. [19] Trong bài báo kia, ta thấy một Hồ Chí Minh giác ngộ, và loại tâm tưởng tín đồ này không những đã đóng khuôn lí trí của người lãnh tụ mà còn lôi kéo theo đám quần chúng không thể thoát khỏi tín điều nữa. Câu chuyện Sách ước trong thần tích Tản Viên muộn đã thấy ở Lí Đông A, bây giờ là Hồ Chí Minh. Cuộc sống trốn lánh làm đậm nét thêm con người bí ẩn của ông, và tạo nét huyền bí cho hình ảnh nhà cách mạng Nguyễn Ái Quốc mà ông đã lợi dụng nhuần nhuyễn lúc mới nắm chính quyền 1945-1946. [20]
Cùng một cách bày tỏ đó, Tố Hữu nói đến “Mặt trời chân lí chói qua tim” chứng tỏ sự dấn thân ban đầu của người Cộng sản không phải bằng sự biện biệt của lí trí rành rẽ mà là qua sự chấp nhận của tình cảm:
Liên Xô, Trung Quốc với mình anh em,Và cũng bởi sự yếu kém của lí luận và sự lôi kéo của tình cảm đó mà ta thấy có các đường lối bắt chước hùng hục sau này, vận dụng phối hợp với một thứ cương cường bảo thủ đến cùng cực, lấy sức mạnh của đa số còn nằm trong Bốn ngàn năm văn hiến, dẫn dụ họ mơ ước chuyện mười năm sau, kéo dài đến ba mươi năm xương máu ngỡ ngàng để đạt tới hình ảnh cứ tưởng là không thể nào có hơn:
Tình thân máu chảy ruột mềm...
Đường ta rộng thênh thang tám thước!(còn tiếp)
(Tố Hữu)
Tạ Chí Đại Trường[1] Hoàng Văn Chí và D. Pike đã nhận ra VNQDĐ “vô sản” hơn đảng Cộng Sản. Những nhân vật tăm tiếng gốc quan lại là Hồ Chí Minh, Phạm Văn Đồng, Trần Phú, Hoàng Văn Thụ... Vì thế mới có chủ trương “vô sản hoá” hồi những năm 30 mà thực ra phải được hiểu là “bần cùng hoá”. (Xem câu chuyện được tiểu thuyết hoá của Nguyễn Văn Nguyễn “Tình trong tù”- 1935, ở tập họp Tháng Tám trời mạnh thu. 1987, tr. 173-174.) Lưu ý nhận định của sử gia André Siegfried (1875-1954): “Trái tim của giai cấp trung lưu Pháp ở phe (phía) Tả nhưng hầu bao lại ở phe Hữu”.
Các hồi kí của Việt Tha, Trần Văn Giàu cho thấy hoạt động của các sinh viên tả phái Việt Nam tại Pháp vào thập niên 30. Chính từ những năm này đã đào tạo các nhà lãnh đạo Đệ tam, Đệ tứ hoạt động tích cực ở Nam Kì trước Thế chiến II, những hoạt động ít nhiều gì cũng là nguyên nhân dẫn đến sự tiêu diệt phái Đệ tứ khi người Đệ tam lên nắm chính quyền sau tháng Tám 1945. Mốt tả phái ở các trường Đại học Tây Phương làm phát sinh nhiều người tốt nghiệp ở đây rất hăng say, tiến bộ, ví dụ muộn màng là Bà Ngô Bá Thành nhân danh những người từng sống ở các nước tư bản để bênh vực cho chế độ độc đảng vào lúc ngay cả những người dày công cũng đã thấy phân vân (1991). Bà này dù sao cũng chỉ là một thứ hàng thần lơ láo, trong lúc những người có thực quyền như Pol Pot... đã cho người dân Cambốt biết thế nào là một chế độ trong mê sảng của những con người lí tưởng.
[2] Có thể thấy một dạng “nói sảng” khác ở chính những người mácxít và thiên tả mơ hồ trước 1945, và đậm nét nơi những người chống đối ở Miền Nam cùng các “Việt kiều yêu nước” trước 1975, đã được chứng minh sau đó. Các nhà luận thuyết, các lãnh tụ lớn nhỏ được sự nâng đỡ của địa vị mới, có thể tiếp tục nói sảng mà không ai dám chỉ trích, nhưng những người ngoài Đảng, một số nhà văn, nhà trí thức lại thấy hụt hẫng trước thực tại kinh hoàng không tốt đẹp như trong cơn mơ của mình. Và thế là truỵ lạc tàn tạ (như Thế Nguyên may ra lúc chết dược một bài báo nhắc tới). Còn như ông Vũ Hạnh thì tuy không tự phủ nhận để còn tức giận: “Không cần rồng rắn gì hết!” (nghĩa là từ chối mọi thay đổi theo hướng ai cũng thấy cần phải có) nhưng cũng chua xót xác nhận nhà văn bị “viên chức hoá” (tránh chữ “văn nô” của bọn phản động!) rồi viết báo hình sự, dạy dỗ đạo đức, bán thuốc nam chứ không sáng tác gì thêm ngoài quyền in lại sách cũ để sống với vinh quang xưa. Sự thức tỉnh đó cũng thấy nơi các “Việt kiều yêu nước” trở về phục vụ sau 75, có người không ẩn nhẫn chờ thời được thì luồn lọt để ra ngoài lại, có người liều thân với bụng cá biển, chỉ may mắn hơn là những người thận trọng về thăm rồi lại ta đi, mỗi một lần kinh nghiệm là một lần rơi rớt lòng nhiệt thành rồi tự ứng biến theo tư thế Việt kiều của mình. (Tóm tắt có thể xem bài phỏng vấn ông Lương Châu Phước [Canada] trong Đỗ Quyên, Nhìn cây thấy rừng. Nxb. Văn nghệ CA 1997, ttr. 199-230).
[3] Đặt vấn đề: Triều Tiên / Đại Hàn sau cuộc đình chiến 1953 có nảy sinh một Hồ Hữu Tường không? Ngoài nguyên nhân khởi đầu chiến tranh khác Việt Nam, Triều Tiên có hai phe, hai địa vực chia cắt rành rẽ, hai khu vực cùng nằm sâu trong một vùng chuyên chế (Nhật với quá khứ phát xít còn gần, Trung Hoa với quá khứ quân phiệt gần và độc tài CS mới, và Liên Xô, kể cả sự hiện diện của quân Mĩ). Còn Miền Nam có một mảng “tự do” Tây Phương gây dị ứng trên một nền tảng một đất nước dễ hướng về chuyên chế cố kết, do đó, như đã thấy, các thành thị Miền Nam trở thành nơi bất an, dễ đổ vỡ ngay từ bên trong. Việc các lí thuyết gia lớn nhỏ, các chính khách ngây thơ, ngờ nghệch mà ồn ào phải im hơi lặng tiếng ở Miền Nam, hay bỏ đi sau 1975 đã chứng tỏ điều đó. So với tình hình trước kia thì có thể đúng với câu “Mềm nắn rắn buông”. Và cũng là chuyện khôi hài của nhân thế khi sinh viên Đại Hàn biểu tình rầm rộ tuần hành ra biên giới, kể cả tự thiêu đòi thống nhất đất nước, thống nhất với phần đất có chủ nghĩa xã hội cha truyền con nối, có ông chủ tịch - hoàng đế, có người dân, theo lời phóng viên Temps nouveaux tháp tùng theo Gorbachov, thấy nhà này phải nhìn suốt qua nhà kia để canh chừng nhau!
[4] “Công Giáo với hoà bình”, Xã hội số 1 (8-2-1953), trang 4 và tiếp theo. Cũng là tài liệu của GS. Nguyễn Văn Trung đưa đọc.
[5] Tạp chí Quê hương số 2 (8-1959), ttr. 11-20. Gốc tài liệu như trên.
[6] “Công Giáo với hoà bình” đã dẫn.
[7] Marvin E., Suzan Gettleman, Vietnam – History, Documents and Opinions on a Major World Crisis (New Americain Lib. 1970). Trích dẫn Eqbal Ahmad ở trang 400, E. Fishel trang 228.
[8] Xem Lời Bạt của ông cho sách Hồ Thơm – Nguyễn Huệ – Quang Trung của Nguyễn Ngu Í.
[9] Hãy xem trường hợp của đám người thuộc “lực lượng thứ Ba” hí hửng tưởng sẽ nắm được chính quyền sau tháng 4-1975 để cho ông đại sứ Nguyễn Xuân Phong vội vã bay về nước nhậm chức! Một giáo viên trại cải tạo khi được hỏi tại sao Miền Nam không trung lập như các lời tuyên bố về trước, đã thật thà trả lời: “Đảng sợ bọn tư sản nắm quyền thì khó trị!”
[10] Theo một tài liệu roneo 3 trang phát ra lúc ấy, nói rằng đây là cuộc phỏng vấn ông Hồ Hữu Tường sau ngày Tổng thống Thiệu từ chức. Thực ra có vẻ đây là cuộc phỏng vấn giả để ông trình bày ý kiến về thời cuộc. Theo dẫn chứng của Bà Hồ Huệ Tâm, lấy từ hồi kí chưa in của thân phụ thì ngay từ lúc mới liên hệ với Đệ tứ, ông Hồ Hữu Tường trong bản thảo thư của nhóm trostkit Việt gửi cho Trostky đã khẳng định (1930): “Trung tâm cách mạng thế giới đã chuyển từ Âu sang Á”, nhưng những người có trách nhiệm đã gạt đoạn văn lạc-đạo ấy đi. (Hue Tam Ho Tai, Radicalism and The Origin of the Vietnamese Revolution. Harvard University Press 1992, tr. 240) Chúng ta không rõ tính chất hồi tưởng có làm ông lẫn lộn hiện tại (1969 lúc viết) và quá khứ không.
[11] Đây chỉ là suy đoán riêng, khác với cách giải thích của người đương quyền và dư luận. Người viết không hề chen vào các hoạt động chính trị của gia đình.
Người ta thờ Nga, người ta theo Mĩ, người ta dựa chi chi,Nhà thơ hẳn còn nhớ những cuộc tàn sát ở Quảng Ngãi mà anh đã biết và có lần bày tỏ trong một màn kịch cương ở đấy, lúc bấy giờ – hành động khiến anh suýt về chầu tiên tổ nếu không nhờ một ân nghĩa cũ cứu vớt. (Chú năm 2004: Lời đồn, thân phụ Nguyễn Ngu Í/Nguyễn Hữu Ngư, ông Nguyễn Hữu Hoàn, là bạn với ông Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc, nên khi thấy cậu Nguyễn Tất Thành lảng vảng ở Sài Gòn ông đã mắng, đại khái, bảo đi ra ngoài, chớ loanh quanh ở xó nhà nữa. Chuyện này trong quyển tiểu sử về Nguyễn Ngu Í xuất bản ở TP. Hồ Chí Minh đã bị lọc bỏ vì có hại cho truyền thuyết “ra đi tìm đường cứu nước” của Lãnh tụ. Tuy nhiên cũng vì mối liên hệ xưa mà Nguyễn Ngu Í thoát nạn ở Quảng Ngãi nhờ ông Phạm Văn Đồng là Đại biểu của chính phủ ở Liên khu V / Miền nam Trung Bộ lúc bấy giờ).
Em thân Việt, chỉ dựa vào giống Ức Trai, nòi Nguyễn Huệ. (“Chìm Châu”, thơ Nguyễn Ngu Í 30-11-1963)
[12] Hãy xem câu trả lời của người khùng Nguyễn Ngu Í khi Lưu Hữu Phước nhớ tình đồng chí thời Thanh niên (1943-44). rủ rê: “Hay là Nguyễn hãy cùng vào Thiên Thai với Lưu một chuyến?”;
“... Ở Thiên Thai không có tình người..”.
Người Cộng sản có thể biện minh rằng những chuyện tàn sát chỉ là của thời lộn xộn lúc ban đầu, chứ bản chất của chủ nghĩa cộng sản là nhân bản. Điều này có thể dùng để bác bỏ những ai buộc tội người Cộng sản không có nhân tính như nhà thơ bày tỏ. Tuy nhiên cái nhân tính mà người Cộng sản muốn nói lại là để sử dụng cho tương lai, còn trong hiện tại thì lại có tính chất phường hội, phe phái, cá nhân rất mực: thương yêu người cùng phe với mình, người trong một giai đoạn được lãnh đạo hay tình thế ghép vào cùng phe với mình. Từ đó nảy sinh ra tình trạng trở trái làm mặt, xoay chuyển ngay giữa các đồng chí với nhau, rất khó gọi là nhân tính.
[13] Báo Tiếng dân ngày 11-3-1933. Trích từ Hồng Chương, Hải Triều – Tác phẩm (TP. Hồ Chí Minh 1987), tr. 33. Có thể tìm thấy vô số bằng cớ tương tự về quan điểm mácxít lãng mạn có tác hại lớn về sau ở những tập họp như loại này, xuất hiện sau 1975 vì phương tiện in ấn dồi dào.
[14] Hồ Chí Minh toàn tập, tập II (Hà Nội 1981), các trang 183-185, 206.
[15] Bàn về cùng một vấn đề, Nguyễn Văn Nguyễn (“Nhân bài ‘André Gide và chủ nghĩa xã hội [của Hải Vân]’: tiếng chửi thừa” trong Tháng Tám... sđd, ttr. 130-141), ông này vẫn ca tụng Stalin, bênh vực Liên Xô nhưng lại giải thích thái độ trở cờ của Gide một cách thông cảm hơn. Gide còn bị tai nạn đến gần đây khi một nhà văn Miền Bắc cố vấn cho một người ở Sài Gòn, bảo không nên nhắc tới Gide trong một bài viết nhỏ.
[16] Xét về mặt văn học (tư sản), đây là quyển sách nhạt nhẽo, vô vị nhưng lại là một mẫu điển hình của văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam lúc bấy giờ trong cao trào vận động các nhà văn làm ca dao, hò vè để thúc đẩy quần chúng phục vụ kháng chiến. Quyển này không thấy in lại ở các Tuyển tập, Toàn tập (Hồ Chí Minh) của các năm 60, 80 hẳn vì dự phóng sai của nó.
[17] Rip van Winkle lấy một cô vợ khó tính, đành chỉ thấy có thú vui là đi săn sóc trong rừng. Lúc anh đang ngắm cảnh thì có người đến lôi đi nhập bọn uống rượu rồi ngủ say. Khi thức dậy anh thấy mình vẫn đứng ở chỗ cũ nhưng trên bảng hiệu, hình vua Anh đã thay thế bằng hình Tổng thống Washington, con gái chủ quán lấy được chồng giàu, còn vợ anh đã chết từ lâu. Thoát nạn!
[18] Bài viết trên một tạp chí Liên Xô tháng 4-1960, và đưa vào Hồ Chí Minh Tuyển tập, Toàn tập, hay ví dụ như ở tập họp Marvin E. Gettleman đã dẫn.
[19] Hoàng Văn Chí, Du colonialisme au communisme – L’Expérience du Nord Vietnam (Dialogue 1994), tr. 57; D. Pike, sđd, tr. 10: “No other world leader in modern time is as enigmatic as Ho Chi Minh”.
[20] Ông cũng điều chỉnh những lời đồn đại bằng cách viết tiểu sử của mình (kí tên Trần Dân Tiên) cho cơ quan Đảng ấn hành (1949), nhưng như thế cũng là tạo thêm một tấm màn hư ảo vì sự mượn tên kia. Theo ông Trần Trọng Khắc thuộc lớp người Đông Du, thì ông Nguyễn đã lấy tên Hồ Chí Minh của ông Hồ Học Lãm để nắm quyền lãnh đạo Việt Minh lúc bấy giờ trên đất Trung Quốc (Hồi kí Hai mươi năm hải ngoại, 1970, tr. 45). Điều này có vẻ chung một tâm lí với lời truyền tụng rằng lãnh tụ Kim Nhật Thành của Triều Tiên hiện tại cũng lấy tên từ một lãnh tụ kháng Nhật đã mất.
“…Cơn mê của dân tộc là kết quả điều kiện hoá quần chúng của một chính đảng áp dụng đồng loạt, không thắc mắc, các biện pháp của một chính quyền công khai và những cách thức giang hồ của hội kín …”
1 2 3 4
Cơn mộng du Ba mươi năm
Sự kết hợp của tầng lớp lãnh đạo (được quen gọi là Đảng) và quần chúng, được đảng Cộng Sản đề cao như là một tính chất căn bản làm nên sức mạnh của họ: “Nhân dân một lòng theo Đảng”. Tuy nhiên sự kết hợp không phải là trơn tru và bao trùm như nền văn chương phục vụ đã gợi nên.
Những cán bộ lớp đầu của Đảng vào những năm 20, 30 và đầu 40 còn rất gần với bản chất và cuộc sống thôn quê – tất nhiên đậm nét truyền thống đến hồi tan rã ở Bắc và Bắc Trung Bộ. Ông Trường Chinh, dòng dõi địa chủ và khoa bảng, theo lời đồ đệ, trong thời kì trốn chạy đã giả dạng làm thầy lí, thầy hương và qua mặt được mật thám tỉnh thành, điều đó không có nghĩa là ông đã xuất thần nhập vai mà là chính tự lề lối suy nghĩ, cung cách hoạt động của ông đã có dạng như thế. Tính chất kì mục giúp ông trốn chạy khỏi kẻ thù thành phố sẽ vẫn tồn tại trong người ông, từng lúc từng lúc theo địa vị cao hơn mà phát lộ trong những lời quát nạt những kẻ không đồng ý (như với nhóm Tân văn hoá – Đệ tứ) và trong việc sử dụng quyền uy ở vị thế tột đỉnh trong cải cách ruộng đất, thời kì áp dụng chủ nghĩa maoít hợp với niềm say mê thán phục Mao Trạch Đông khi ông chọn biệt hiệu cho mình. [1]
Như đã nói, tính chất mộng huyễn của mácxít được các nhà lí thuyết thời ấy tiếp thu phát biểu với một chừng mực khoái cảm xuất thần trong kiểu nói huênh hoang nắm vững chân lí của họ mà ngày nay có người “tự phê” là đã có quan niệm ngây thơ về chủ nghĩa xã hội. Còn hình ảnh của Đảng nhìn từ bên ngoài vào cũng đậm nét thần bí hơn: Ta gặp một nhân vật trong Giông tố (Vũ Trọng Phụng), ông già Hải Vân “cực tả” có dáng kì quái, khoáng đạt, biết cả thôi miên từ hải ngoại về giải quyết gọn ghẽ ân thù rồi chờ tàu đi trong một đêm dông bão.
Ở một khu vực đặc biệt hơn – vùng Nam Kì – thì tầng lớp trí thức cộng sản là địa chủ, ông làng hay con cháu địa chủ ông làng, nằm trong không khí hội kín Thiên Địa Hội, thâm nhiễm Truyện Tàu, vẫn không thoát khỏi vòng huyền bí, nên tạo được sự xuyên suốt với các tầng lớp bên dưới. Ông Trần Văn Giàu viết sách dạy triết học duy vật biện chứng đã dẫn Phong thần, Tây du thay cho Prométhée, cho hệ thống thần thoại Hi La của các nhà kinh điển phương Tây. Ngày nay ta còn gặp các biệt danh “anh Ba”, “anh Năm”, “chị Sáu” trong hệ thống chính quyền – trong hệ thống Đảng thì thường xuyên, tự nhiên hơn. Đó là các thứ bực của Thiên Địa Hội, của băng đảng từ tính chất gia đình chuyển sang. Chúng ta gặp những người “tự động” thành cộng sản trước khi được tổ chức Đảng công nhận, và những người này lại kết tập theo liên hệ bà con thân thuộc, làng xóm, láng giềng nông thôn. Ba tổ chức cộng sản riêng biệt trước khi được thống nhất, chứng tỏ có sự gắn bó với ba vùng lớn của đất nước mà chính người bên trong cũng hãnh diện về sự riêng biệt của mình: “Thằng Cộng sản Nam Kì nào cũng có máu du côn..” [2]
Cho nên khi Đảng giấu bớt cái vỏ tranh đấu giai cấp dữ tợn thì đúng là có sự liên kết nhuần nhuyễn về mức độ sinh hoạt, tinh thần xuyên suốt từ những người Cộng sản – bắt đầu ở các lãnh tụ – đến các tầng lớp dân chúng, trong mức độ truyền thống cấp thấp ở Việt Nam dưới thời Pháp thuộc, và được lưu giữ mãi về sau vì hiệu quả của nó. Vì thế trong hình ảnh hư ảo của nhân vật Nguyễn Ái Quốc, các ông già mới thấy mắt vị Chủ tịch nước có hai con ngươi. Còn ở Nam Bộ thì hình ông Chủ tịch phải được “thỉnh”, lại phải là hình cười, nghĩa là có giá trị của một loại bùa phát tài, phát lộc [3]
Viễn ảnh độc lập nâng cao giá trị cho loại tin tưởng này, và xa hơn nữa thì có một thiên đường hạ giới Liên Xô được người Cộng sản cho xâm nhập vào dân chúng như một chọn lựa ưu việt và nhất là, không còn đường lối nào khác: “Thử chỉ ra xem, có chế độ nào hơn chủ nghĩa xã hội nào!” người bộ đội bình thường năm 1975 đã dạy cho một người Sài Gòn như thế.
Bước kết hợp hai mục tiêu: độc lập và chủ nghĩa xã hội, được lèn vào đầu óc dân chúng theo với trình tự Đảng củng cố chính quyền và thế giới cộng sản bành trướng trên các lục địa. Không thể có một tổ quốc Việt Nam khơi khơi mà phải là tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Nghĩ, làm trái với chủ nghĩa xã hội là phản bội tổ quốc. Ai không nhận ra điều đó thì phải ở bên kia ranh giới của sự dung thứ. Vấn đề còn lại của những kẻ đó chỉ là sự lanh chân hay chậm bước mà thôi. Cho nên giá như không có Trung Quốc thì vẫn phải có cuộc thanh trừng trên toàn quốc kiểu Stalin. Nhưng Mao đã thắng năm 1949, và hệ thống đồn bót của Pháp ở đông bắc do đó đã bị dẹp bỏ năm 1950, thì chủ nghĩa maoít tràn vào Việt Nam không phải chỉ là sự đồng cảm văn hoá mà còn là sức đè của lực lượng Vạn lí trường chinh. Có điều uy tín lãnh đạo dân tộc của người Cộng sản không suy suyển đối với đại bộ phận dân chúng, bởi vì đã có sự phân biệt ý niệm dân tộc xã hội chủ nghĩa (phe ta) và dân tộc tư sản (phe địch) cùng hiệu quả cầm quyền phối hợp, khiến cho không ai có thể (và dám) dùng luận cứ chủ nghĩa thực dân kiểu mới áp dụng cho chính phủ Hồ Chí Minh được, mặc dù đây là kiểu hoàn hảo nhất. Cho nên kết quả là chính sách giảm tô, giảm tức, phong trào chỉnh huấn, cải cách ruộng đất... kiểu Mao được thi hành với sự triệt hạ một lớp người có liên hệ với thế giới văn minh Tây Phương và sự nổi lên một tầng lớp Chí Phèo, Thị Nở được tung hô. Đám trí thức, văn nghệ sĩ thành phố mắc vào quá khứ phải ngậm ngùi cởi lốt, lúng túng làm vài bài văn thơ tán tụng quan điểm Giai cấp để cứu lấy thân, không đủ sức sản xuất ra một Bạch mao nữ nội hoá để phục vụ mà chỉ đi theo chứng kiến để tự răn đe. Cửa bên ngoài đã đóng vì chiến tranh, kẻ nội thù vốn có liên hệ với bên ngoài về mặt tư tưởng đã bị dẹp bỏ, từ đây chỉ có một truyền thống áo vải chân đất cụ thể, và những thần tượng mới [4].
Trình độ thấp xuống nhưng hiện thân của lí tưởng đã được kéo gần lại, hấp dẫn hơn thời Pháp thuộc. Chiến tranh mịt mù khói lửa chẳng ai biết Liên Xô là đâu nhưng tiểu thuyết Liên Xô đã được dịch, trong đó vị Chủ tịch rảnh rang bỏ công chuyển ngữ quyển Tỉnh uỷ bí mật mang cái tên đầy quyến rũ, hàm chứa một không khí ẩn khuất hào hùng. Với người dân thường, sự sung túc của Liên Xô thấy rõ qua lời đồn, đại loại con bò có cái vú chu vi đến bốn mét. Và cụ thể hơn, là phương pháp cấy nhau Filatov thần kì chữa đủ bá bệnh, phổ biến đến tận chiến khu Nam Bộ, hấp dẫn cả người “trong thành” lặn lội tìm vào. Nhà khoa học đâm ra có dáng ông thầy pháp, ông đạo, giải thích chuyên môn bằng công thức khoa học nhưng hành nghề trong không khí thần bí! Gần hơn nữa là nước Trung Hoa vĩ đại đối với ta như môi với răng, thì người cán bộ lớp chỉnh huấn bảo rằng chẳng có một hãng tư bản nào của Anh đủ khả năng mua số lượng lông heo của thương nghiệp Trung Quốc thu nhặt trong một năm [5]. Loại chuyện này sẽ lần lần chuyển về đề tài đất nước dân tộc theo kiểu “liên hệ” để xây dựng tinh thần tự tôn dân tộc, nói đến rừng vàng biển bạc, lặp lại lời Lãnh tụ chuẩn bị ngày khai phá, đánh bắt. Cứ theo đà đó mà hễ cứ phát hiện một từ ngữ nào, sự kiện nào nói đến tai là chộp lấy và khai triển: như dầu lửa Trung Đông đối với dầu lửa Việt Nam chỉ là con tem dán lên mông con voi! Sự biến dạng củalối co rút tự tôn này sau 1975 sẽ là một thứ tự tôn địa phương che không kín sự hổ thẹn tự ti: Mỏ dầu ở Thái Bình một thời được đăng hình bốc cháy trên tờ Nhân Dân, mỏ dầu ấy chỉ ở độ sâu 20 mét mà có xăng máy bay, là quý vô cùng, nên được để dành, và trước hết hãy xài dầu ở biển Đông, phía Nam, ít hơn, xấu hơn!
Tất cả đều có vẻ khôi hài đối với người đứng ngoài, người tỉnh giấc sau này.
Cơn mê của dân tộc là kết quả điều kiện hoá quần chúng của một chính đảng áp dụng đồng loạt, không thắc mắc, các biện pháp của một chính quyền công khai và những cách thức giang hồ của hội kín như đã thấy và được nói nhiều trong các bước của tiến trình cải cách ruộng đất ở Bắc Bộ, Bắc Trung Bộ, các vùng Nam Trung Bộ yếu hơn, và còn nằm trong dự tính của Nam Bộ. Chính quyền làm nhiệm vụ lá chắn cho các hoạt động mà ngày thường có thể gọi là “bạo loạn” cho nên đất nước trở thành tràn ngập một không khí hội kín khủng bố len lách vào tận tâm hồn người dân – và cả đảng viên [6]. Trường hợp ở đây, với hệ thống tư tưởng maoít lấy bần cố nông làm nòng cốt thì có thể nói là mang tính cách quần chúng phương Đông.
Tính chất kiến hiệu của một chính quyền có căn bản như thế đã tạo được sự thán phục của bên ngoài: Những người cầm quyền thì ao ước có quần chúng nghe theo, còn dân chúng thì mơ tưởng một sự toàn tâm toàn ý với những người ở trên đầu mình [7].
Từ sự tương thông đó nảy sinh sự chấp nhận các huyền thoại mới lồng vào huyền thoại cũ, không phải chỉ ở các tầng lớp thấp mà còn ở các cán bộ trung cao cấp. D. Pike [8] đưa dẫn chứng, nhận ra rằng những điều Đảng dạy dỗ cho lớp người nối tiếp về “tính cách Hồ Chí Minh”, về sự tài ba của Đảng tuy có mang tính chất huyền thoại nhưng ông coi đó là một sự gian lận không cần thiết, bởi vì chiến thắng đối với người Pháp (và đối với Mĩ-VNCH, thời Pike viết sách) đúng là do tài tổ chức sắc bén của Đảng, không thể phủ nhận được. Ông không thấy rằng các bài báo-sử chính do Đảng tạo nên đó đã là một thành phần của tổ chức, đã góp phần cho sự thành công liên tiếp vì nó kết tập thành một hệ thống thần thoại có đầu có đuôi, ràng rịt che lấp những yếu kém, điều chỉnh sự lừng khừng của người nghe, khuyến dụ tương lai với những người thần phục và đàn áp tận trong tâm tưởng những kẻ phản đối.
Hãy nghĩ, nếu cứ nói như một học giả, là anh thanh niên Nguyễn Tất Thành vào Sài Gòn như bất cứ người xuôi Nam nào khác đi tìm sinh kế, hay đi thăm ông cha cựu Tri huyện mất chức đang lưu lạc ở đấy, rồi trong vòng quen biết được đưa đẩy / xúi giục đi Tây, thì hẳn không có cái huyền thoại “Ra đi tìm đường cứu nước” được hiểu là đã xuất hiện ngay từ đầu ở xứ Nghệ. Nói như thế thì sẽ không có tên Thành phố Hồ Chí Minh, và cái trụ sở của Messageries Maritimes kia hẳn phải bị đập phá hay để cho tàn tạ chứ không phải là một ngôi đền của thời đại mới mà Đảng cố tìm cách cho nó trở thành linh thiêng, nơi một vùng đất người ta lo ăn nhậu, kinh doanh, không cuồng nhiệt lắm với ông Chủ tịch. Nhắc đến chuyện làm việc dưới quyền Borodin hoặc Noulens thì có hại đến vị thế tối cao của lãnh tụ. Cả đến việc ông lãnh tụ không có gia đình, chằng chịt với huyền thoại con người vượt thường, mãi đến năm 1991 được công khai ở báo Trung ương mà còn mang hệ luỵ cho báo Thành phố – lỗi ở việc gợi ý bàn thêm (vượt quyền) có thể gây tác hại lớn. Một giới chức Thành phố lúc đó đã lớn tiếng: “Đây là một vụ Bùi Tín!” Phải tìm lại từ ngữ thuộc loại “đi xa”, chứ không phải là “chết” với cái xác trái với Di chúc còn nằm đó mới có thể giữ được thần tượng để ổn cố nội bộ, tiếp tục cuộc chiến và về sau còn có thể sử dụng “tư tưởng Hồ Chí Minh” vốn không có gì đặc sắc lắm để làm việc níu kéo chủ nghĩa xã hội một thời thống soái nay đã tan rã ngay từ cỗi gốc. Phải có huyền thoại người lính lấy thân chèn pháo (người lính bị pháo đè khi di chuyển?) mới xây dựng và nâng cao tinh thần chiến đấu lên đến mức, nếu rủi ro có trường hợp “anh hùng” Nguyễn Văn Bé (thời “chống Mĩ”) được ca tụng lỡ đà thì cũng không hại gì cho sức dâng ồ ạt của những người hăng say. Sức mạnh “cả vú lấp miệng em” do đó được nâng cấp, dữ dằn, chặt chịa hơn.
Không nên quên tính chất ma thuật của ngôn từ văn chương tác động trên dân chúng. Trong quá khứ văn chương đã châm ngòi bạo loạn ở những sấm kí, thơ khẩu khí, và văn chương nằm trong các bài hịch biện minh cho những cuộc tiến quân, những lần cướp chính quyền thành công. Nhưng đám nho sĩ cũ dù phục vụ cho chính quyền, đến khi muốn phản đối, lui về ở ẩn thì vẫn còn ruộng để cày ra lúa gạo nuôi thân xác. Đằng này, đám trí thức lớn nhỏ của chế độ mới bắt buộc phải tách rời mối nguy đe doạ thân xác có tên là địa chủ và tư sản, phải né tránh là đối tượng triệt hạ của cách mạng maoít “Trí, phú, địa, hào đào tận gốc, trốc tận rễ”. Họ không còn một cơ sở tài chính nào để bảo đảm tự do tối thiểu của mình, nên đành làm công nhân viên chức lãnh lương, chịu chế độ tem phiếu canh chừng bữa ăn hàng ngày, mà trên ngôn từ của chủ trương chính sách thì được gọi là “trí thức xã hội chủ nghĩa, con em công nông” [9]. Một số ít được xếp vào hàng ngũ nomenklatura để biểu diễnvới thế giới, hưởng thụ có khi là một chút gì đó không nhiều lắm nhưng cũng đủ cho đàn em, những người của thế hệ kế tiếp suy nghĩ mà đầu tư cho tương lai của mình.
Sự nồng nhiệt hăng say được sự sợ hãi thúc đẩy, sự mơn trớn của Đảng che lấp được nỗi tủi nhục, thế là từ đó khả năng từ chương rổn rảng của ngàn xưa nổi lên vang vang trong tiếng nhạc, trong âm điệu thi ca, hùng hồn trong các luận thuyết, nghiên cứu đầy giọng căm thù, không từ cả chuyện vu khống [10]. Vai trò thiết yếu của tuyên truyền khiến người ta đưa ra các chuyên viên, văn nghệ sĩ ra chiến trường, càng lúc càng nhiều, càng nhặt qua những giai đoạn chiến tranh tiếp nối và ngược lại, Đảng được phục vụ hết mình. Không nên lấy làm lạ khi ông Trần Đức Thảo bỏ cả tương lai trên đất của thực dân đế quốc trở về (1952) phục vụ dân tộc, lại mất khí thế kiến thức, chỉ được phô bày trong mức độ cho phép để phục vụ Đảng: viết sách triết học cao cấp (tuy với kiến thức đã trở thành lạc hậu) in ở bên ngoài cho người ta tưởng là Đảng trân trọng người tài, còn trong nước thì tự nguyện nói như ở Nghị quyết, xã luận báo Nhân Dân, và khi muốn phát biểu ở một mức độ cao hơn thì lại viện dẫn kinh điển, lãnh tụ còn hơn nhiều người khác nhờ thói quen đọc sách nhiều hơn [11].
Sau cải cách ruộng đất, quyền lực của Đảng bao trùm đến tuyệt đối. Đợt sửa sai với những dao động không làm sức mẻ quyền lực ấy mà còn củng cố thêm. Bởi vì người cầm đầu đã khôn ngoan hiểu rõ câu: “Già néo dứt dây..”. – hay là dùng từ mới: “Lùi một bước..”. mà họ đem áp dụng để bảo đảm quyền lực lâu dài. Còn phần lớn quen sống dưới oai lực sấm sét của quyền bính, vẫn coi những bước lùi ấy như những ân huệ ban xuống chứ không phải là kết quả từ sự đòi hỏi chính đáng của mình, của lẽ phải.
Vụ Nhân Văn-Giai Phẩm (1955-1956) không thể đóng vai trò nguy hiểm. Đây là thời kì cởi trói ngắn ngủi trước khi có tên đó sau 1986 với những nét dị biệt về hậu quả chỉ vì thế giới đã đổi thay. Thời kì hậu-Stalin ở Liên Xô, Trăm hoa đua nở ở Trung Quốc là yếu tố bên ngoài, sự tiếp quản Hà Nội và một số thành phố dù sao cũng còn nếp sống khoáng đạt chưa có thói quen sợ chính quyền đến tận ngõ ngách, là yếu tố bên trong để các nhà trí thức và văn nghệ ra đi từ 1946 có thời cơ và quần chúng. Nhưng Đảng đã có một bộ máy siết chặt tuyệt vời, cùng lúc cánh cửa thông thương với thế giới bên ngoài đóng sập xuống sau ba trăm ngày tập kết (1955) nhốt một đám nguỵ dân mới đây còn hồ hởi đón chào Bác nhiều hơn Đảng mà không biết rằng Đảng đã Mao hoá, và Bác chỉ đóng vai trò thần tượng không còn nắm được tình thế trong tay nữa. Cuộc nổi dậy ở Quỳnh Lưu (11-1956) riêng biệt trong phạm vi tín đồ Công Giáo chỉ là thêm một cuộc thanh trừng của chính quyền mới, một hồi di cư chậm bước làm sạch sẽ Miền Bắc hơn.
Sự cương cường chống đối bị dẹp tan, người dân trở lại ngoan ngoãn hơn bao giờ hết [12]. Vài giọt nước mắt ân hận của vị Cha già dân tộc không gây ra ý tưởng đòi hỏi một trách nhiệm pháp lí nào của “sai lầm” mà là xuê xoa cho những người nuốt nhục, nhớ đến lời tục “Chờ được vạ thì má đã sưng” – còn với thời mới thì: thân xác đã rã... Đảng đủ mạnh để đề ra chủ trương Miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội, và Miền Nam làm nhiệm vụ cách mạng dân tộc – nghĩa là nổi dậy với một kế hoạch cài người chặt chẽ (Lê Duẩn): ém quân, chôn vũ khí, về thành sống hợp pháp, đổi vùng, “quần kết” (đi rồi trở lại), lấy vợ để lại mầm mống liên hệ trước khi tập kết... Dân chúng hai miền Nam Bắc nhìn nhau bằng hình bóng ảo ảnh của nhau, hoặc dưới sự dắt dẫn của Đảng hoặc theo đà mơ ước, trong đó có sự tự đánh lừa mình dần dà thành lí tưởng thiết thân, hay để đánh lừa người khác.
Dù có phản ứng gì mặc kệ, Miền Bắc vẫn rập khuôn theo chủ nghĩa Mao tuy rằng vài năm sau ở thập niên 60 người ta có thêm phần sức nặng về đường hướng dân tộc để nhằm chiến thắng. Quan điểm nông dân của một vùng châu thổ quanh năm không đủ ăn, với kiến thức nhồi nhét về ông tổ Hùng trên vùng cận sơn khiến Đảng chăm chắm nhìn vào đồng bằng Cửu Long màu mỡ, không quan tâm – có thể không biết đến nữa – đến vùng hải đảo rộng lớn trước sức ép của người bạn vĩ đại.
Giá như tổng tuyển cử 1956 thực hiện được, Đảng chắc chắn sẽ chiếm được Miền Nam, và trò đấu tố sẽ diễn ra khắp nước mà một lần biểu diễn cuối cùng phối hợp với đà chiến thắng để thu chiến lợi phẩm muộn vì đã tiêu hết vàng bạc sau 75, là vụ “đánh tư sản” Miền Nam, chỉ đạo bởi ông cựu thợ hoạn Đỗ Mười.
Dù sao thì sau 1955, Đảng cũng đã nắm quyền nửa nước với thủ đô, với đại sứ các nơi nên không chỉ có chuyện tuyên truyền theo lối hò vè cổ động mà còn phải lập thuyết điều chỉnh cho hợp sách lược đề ra. Phải tìm cơ sở cho tập họp chữ mới: tổ quốc - xã hội chủ nghĩa [13]. Chữ tổ quốc có âm vang tình cảm giúp nuốt trôi ýniệm xã hội chủ nghĩa khó chấp nhận hơn nhưng là mục đích thực sự, tột cùng của Đảng. Quan niệm truyền thống vốn chỉ quen nhìn giá trị đất nước, dân tộc theo độ dài thời gian, với định kiến về một thời hoàng kim trong quá khứ nhưng với thời đại khoa học thì phải chứng minh, và chứng minh cho bằng được. Lãnh tụ đã nói: “Các vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước” thì các nhà sử học phải cùng nhau vẽ cho ra vua Hùng, cưỡng ép các lớp đất chứng minh một thời trước đó hàng vạn năm để vua Hùng tăng tuổi thọ ngược thời gian. Niềm say sưa mê mẩn tìm bằng cớ lây lan sang một ông thầy Tàu (hay nói theo ông Viện trưởng Phạm Huy Thông 1969: một học giả nước ngoài) đem thẻ ngọc An Dương dâng lên vị Cha già kính yêu, và được lớp học giả nội địa xúm vào tán tụng cho đó là bằng cớ vật chất của thời Cổ Loa [14].
Nhưng vua Hùng được chứng minh không phải là để cho vua Hùng.
Lịch sử nước Việt được dẫn giải có hai giai đoạn vẻ vang mà rốt lại chỉ có một là ở tột đỉnh: lịch sử từ thời thành lập Đảng, vì lịch sử vua Hùng có thân xác là nhờ Đảng. Thứ lịch sử huyền thoại thời nay mà D. Pike thấy rõ là dành cho thanh niên, nhắm vào Miền Nam, nay nhờ Đảng được kéo dài đến nhiều thiên niên kỉ trước Công nguyên.
Lịch sử đang xảy ra trước mắt biến thành huyền thoại, còn huyền thoại trong quá khứ lại khoác áo khoa học hiện hình qua trống đồng, búa đá: Lớp lãnh tụ hãnh diện với công lao dắt dẫn, đào tạo trí thức, và lớp trí thức được hãnh diện góp phần phục vụ chủ nghĩa xã hội. Một dáng dấp khoa học như thế đã mang lại ảnh hưởng không
nhỏ [15].
Cùng với đà chiến thắng và sự tự tin “khoa học” đó đã nổi lên một thứ tư tưởng “Việt Nam trung tâm” rất nghiêm túc. Tính ưu việt của Việt Nam là đương nhiên, át cả lời lãnh tụ dặn dò: “Chớ coi Việt Nam là nhất nhé!” Nhưng chính con đường dắt dẫn của lãnh tụ tất yếu phải đi đến đó! Con đường đã vạch sao không đi? Và còn có lối nào khác? Con đường khai thác lòng tự tôn đến mức độ tối tăm, thấy cả ở mọi tầng lớp, trở thành một nếp sống, ngăn chặn mọi tiến bộ để chỉ còn những quẩn quanh thần bí: Cán bộ giải thích việc các công ti ngoại quốc đề nghị ngăn chận tác hại môi sinh của các nhà máy dân chủ cộng hoà mới thành lập, là “trong nước thải, trong ống khói nhà máy ta có thứ quý báu vô chừng mà bọn tư bản quỷ quyệt muốn lấy về làm giàu cho họ”. Cũng cái đầu óc hợm hĩnh lãnh đạo trong cơn mơ ấy, đi vào cầm quyền một địa phương Miền Nam sau này, đã từ chối một công ti xin “làm giùm” một con đường – công ti này chỉ muốn “làm ơn” để nhân tiện chuyển đưa máy móc của họ dễ dàng hơn mà thôi!
Cường độ chiến tranh càng cao thì văn nghệ sĩ càng có đà cao tiếng phục vụ. Ngôn từ văn chương nhuần nhuyễn đã là đặc tính của Miền Bắc, nay thì đường lối đề tài đã có Đảng lo, văn nghệ sĩ chỉ còn lo gọt giũa câu cú với lòng đầy tự tôn của tông đồ chuyển phát chân lí. Tất nhiên nếu có những ngây ngô trong phát biểu, những vụng dại trong trình bày thì mục đích phục vụ đúng đã là điều kiện bào chữa cho tất cả. Có một thời quanh các năm 50, người ta bắt các thi sĩ làm ca dao hò vè, hay viết văn cho nông dân hiểu theo lời dặn của Hồ Chủ tịch, còn ca dao cũ thì phải giải thích sao cho hợp với thời Bần cố, như ông Vũ Ngọc Phan đã làm, và rồi sẽ hối hận. Dần dần thấy hiệu quả ma thuật của chữ nghĩa cao cấp cũng có thể phục vụ chế độ mới, nên ông Chế Lan Viên của thời Vàng sao nay được phép làm thơ triết lí biện minh (đại khái): “Văn nghệ sĩ phải chịu sự lãnh đạo của Đảng cũng như chiếc hoả tiễn đi vào vũ trụ kia phải được điều khiển bằng cả một bộ máy tinh vi”. Thế là dù ở mức độ được gọi là cao cấp, người ta vẫn cứ uốn nắn luận cứ cho giản dị để bồi đắp tin tưởng vững chắc, để thúc đẩy con người hành động cương quyết hơn.
Tình trạng lạc hậu của Miền Bắc khiến cho tổ chức và sự điều hành chính quyền tương đối giản dị so với những nước khác, hay với chính trong nước nếu hoà bình được kéo dài. Chiến tranh đem lại đường lối đánh nhau quen thuộc cho những nhà lãnh đạo phát triển thêm, khỏi vướng mắc những vấn đề phức tạp trong thời bình, kéo dài sự nghèo đói chịu đựng được. Chưa kể, chiến tranh còn đem lại những ngõ ngách dễ thở vì sự viện trợ của cả khối cộng sản quốc tế bị buộc phải vượt trên sự tranh chấp phe phái để giúp một tiền đồn của chủ nghĩa xã hội bị uy hiếp, thuận theo chiều hướng của phần thế giới tư bản thù nghịch đang ủng hộ một David hào hùng chống Goliath thời mới. Miền Bắc trở thành một trại quân khổng lồ với công tác lớn nhất không phải chỉ là lo điều hoà, viện trợ vũ khí cho chiến trường mà còn là tiếp nhận và phân phối lương thực, sản phẩm tuôn đổ từ bên ngoài vào. Các công tác sản xuất trong nước kiểu “cánh đồng năm tấn” ồn ào trên văn thơ ca nhạc, có dáng hào hùng vì biểu hiện sự kiệt lực của con người “nghiêng đồng đổ nước ra sông”, hơn là vì chính kết quả nâng cao mực sống của dân chúng. Cho nên các bộ Tài chính, Kinh tế (nếu có tên này) đã không cần đến khả năng ngang tầm của một Bộ. Điều này rõ rệt ở cách báo cáo chi thu kết toán hàng năm đưa lên Quốc hội phê chuẩn, còn thấy đến đầu những năm 90: thu: ... tỉ... triệu... đồng... hào... xu, chi: ... tỉ... triệu... đồng... hào... xu, cân bằng! Một nhà máy gang thép ở Thái Nguyên cỡ trung nho nhỏ vừa tầm với lượng quặng đã được biết, và vỉa than đá dọc biển được khai thác bằng những phương tiện cũ kĩ, khiến cho tên một bộ Kĩ (hay Công) nghệ nặng phải lấn cấn. Bộ Nội vụ đã có các chi uỷ, tổ đảng nằm ở các cơ quan hành chính, chuyên môn nên tránh được những rắc rối phức tạp của một bộ tương đương ở các nước tư sản. Nó chỉ là bộ Công an nên do đó bộ Tư pháp cũng không cần thiết.
Cuộc chiến 1964 tràn ra Miền Bắc thực ra cũng làm rạn nứt cuộc sống xã hội chủ nghĩa công xã vừa tạo dựng nên – tương tự như cuộc chiến 1978-79 của một chính quyền xã hội chủ nghĩa được coi là chính thống đang canh chừng đám xét lại Nam Tư ở Miền Nam, sẽ nới lỏng sự kềm kẹp khiến cho đám nguỵ dân cũng hưởng lây được chút dễ thở. Những đòi hỏi tiếp thu kĩ thuật cao do chiến tranh bắt buộc, cho phép ngóc đầu dậy đám con nhà khá giả cũ vì những người của Giai cấp không thắng nổi sức ỳ của quá khứ đề đổi thay kịp thời. Cùng lúc, dạng hình trở lại của những ngày kháng chiến trước kia, giải toả được một phần nỗi nhục nhằn nô lệ tư tưởng của đám trí thức cũ/mới, thực ra thì như đã nói, không có quyền hành gì vì chìm lấp trong chế độ tem phiếu, nhưng vẫn còn bám chút tự tôn của dân khoa bảng, chữ nghĩa.
Mục tiêu xã hội chủ nghĩa (lí tưởng) đồng thời với sự đề cao tinh thần dân tộc ở Miền Bắc được sự bưng bít của chế độ và tình hình chiến tranh, đã khiến tạo ra một sự hấp dẫn từ Miền Nam và thế giới. Một phần với định kiến gạt hẳn những điều nói trái lại, đây là cách nhìn một-nửa, chăm chú riêng về điều tốt của Miền Bắc.
Trong cuộc đấu tranh một mất một còn mà một bên thì nhất quyết mình là thành phần ưu việt không có sai sót nào và sử dụng mọi cách để đạt được mục đích, còn một bên thì nhìn nhận cái tốt cái xấu, lẽ tất nhiên cũng giành lấy phần tốt về mình, nhưng mục tiêu như thế đã trở thành tinh tế xa vời; cuộc đấu rốt lại có căn bản là sự suy yếu tinh thần dẫn đến cung cách điều hành không hoàn hảo – kém cỏi nữa, khiến sự thua thiệt nằm về bên nào đã thấy rõ. Hãy hát lên vài bài của Phạm Duy, Trần Thiện Thanh... để nhìn ra giữa muôn ngàn thí dụ ở các lĩnh vực khác: “Anh trở về về trong chiếc poncho...”, “Anh không chết đâu em...”. Tất nhiên không phải chúng “đâm sau lưng chiến sĩ”, chúng được người ta ưa chuộng, nhưng âm vang rờn rợn phát ra từ đó có khác gì không khí hoảng hốt điên cuồng của các bài tường thuật, hình ảnh báo chí tạo nên trước ngày 30-4-75 theo tinh thần “trung thực, vô tư” của truyền thông ở các nước phát triển?
Thế giới nhìn vào Miền Bắc qua sự hấp dẫn của chiến tranh, của chiến thắng bên phía đó, và với một sự ưu ái về hình ảnh của chủ nghĩa dân tộc nghĩ theo kiểu của mình, lạc hậu so với quan niệm dân tộc, chủ nghĩa xã hội của Hà Nội khuôn nắn và thúc đẩy đi tới. Người ta không thấy ở đó truyền thống đã bị biến dạng theo hướng nội chuyển, nên tuy vẫn còn dáng hình truyền thống nhưng lại thiên về những đặc tính mà giá nằm ở đối phương thì sẽ bị coi là “tiêu cực”, xấu xa. Sự khác biệt và cách biệt giữa lí tưởng và thực tế đẩy mạnh tính dối trá ở văn học có tên là Hiện thực xã hội chủ nghĩa [16]. Sự khác biệt kia còn làm đậm nét cuộc sống hai mặt mà với một tình thế không căng thẳng, không va chạm đến sinh mệnh thì có tên là sự tế nhị, tinh tế, khéo léo. Lí tưởng gặp khó khăn, có người khăng khăng theo lời dặn của Lenin “bám chặt vào chiếc xe nơi khúc quanh bỏ mặc kẻ thiếu kiên trì văng ra ngoài”, biến lí tưởng thành cuồng tưởng, ép người khác phải theo. Từ đó tự nguyện và cưỡng bức quyện với nhau, dối trá trở thành nếp sống do nhu cầu tồn tại của cá nhân, và với nhu cầu xây dựng Đảng, nó được thể chế hoá: Dối trá không chỉ là bệnh tật của cá nhân, mà trở thành của tổ chức lãnh đạo, của cơ quan công quyền, của Nhà nước.
Sự thông tin tràn lan, không thể nào kiểm soát được của thế giới tự do chỉ giúp công sức cho phía bên kia, nơi sử dụng thông tin có chọn lọc, được sự phụ giúp vô tình của một trình độ kĩ thuật thấp kém. Một quan niệm dân chủ tư sản về tổ chức chính quyền vốn đã có hiệu quả kềm thúc yếu ớt ngay ở Tây Phương, đem thực hiện ở Miền Nam – ít ra là trong chừng mực nguyên tắc chung, đã chặn tay chính quyền một phần – quan niệm đó chỉ dẫn đến hỗn loạn ở một nơi có hỗn loạn sẵn. Và hỗn loạn nào cũng dẫn đến mơ ước bình yên. Thế mà đã có một chủ thuyết định xây dựng tương lai hoà bình tốt đẹp cho nhân loại thì người ta không còn ngần ngại gì trong chọn lựa nữa. Người Cộng sản đã khai thác các phong trào hoà bình như một vũ khí thật sự và kiến hiệu. Ngay trên đất nước Việt Nam đã có một thành phần của nhân loại tự xưng là tranh đấu cho hoà bình thế giới, đồng thời đem lại bình yên cho đất nước loạn lạc, lẽ tự nhiên các phong trào hoà bình phải hướng về Miền Bắc, không ít thì nhiều, không biết rằng ở đấy hoà bình là phương tiện để chiến thắng, còn ở đây, với họ, hoà bình là bình yên, yên thân, là thời trang ca hát, chưa kể là lí tưởng khơi khơi.
Miền Nam với danh hiệu cũng là Việt Nam, được đối chiếu với Miền Bắc như là Ác đối với Thiện, Vô hình dạng đối với Hoàn hảo. Một sự ưu ái thiên lệch đến độ tức cười, và dẫn đến những hành động vào lúc khác thấy là quá khôi hài. Có thể nói đến một sự mê tín truyền thống, mê tín về Miền Bắc ngay ở Miền Nam với những mức độ khác nhau, ở những tầng lớp khác nhau, về một khuôn mẫu tốt đẹp của dân tộc và thế giới trong sự kích thích hào hùng của chiến tranh [17]. Và như thế cũng có thể nói là đúng đến sự kiện toàn dân đánh Mĩ.
Sự tồn tại của Miền Nam nằm trong vòng tay của chế độ tư bản mà lại không có sự kết tập đảng phái, quần chúng của nền dân chủ tư sản tự do. Đảng phái “tư sản” suy yếu từ gốc. Ngoài tính chất cá nhân lãnh tụ còn là sự yếu kém của quần chúng thị dân vốn gốc gác nông dân mà biến loạn chiến tranh dồn họ về đô thị càng làm tăng chất lượng nông dân ở thành phố. Các đảng phái di cư nhiều năng động nhưng lại khó xâm nhập vào quần chúng ở Miền Nam vốn là của các tôn giáo. Mà các tổ chức này thì lại không thích hợp với đời sống chính trị mới, cả về quan niệm lẫn trình độ. Công Giáo có điều kiện quốc tế để thích ứng hơn, nhưng nói chung các tôn giáo chưa qua khỏi mức độ những khối áp lực, dù là có tầm vóc. Những cố gắng muộn màng từ vụ Phật Giáo (1963) chưa kịp cho các tôn giáo dấn thân vào đời sống chính trị vững vàng hơn. Các phong trào, đảng phái có nền tảng là những tôn giáo,có đời sống hết sức mờ nhạt, hoặc chỉ xuất hiện cấp thời. Rốt lại chỉ làm rối loạn tăng thêm.
Quan niệm chính trị dân chủ tư sản cũng xuất hiện trong chừng mực có lợi cho người chống đối. Và ở trường hợp này thì kẻ quá khích thu lợi nhiều hơn cả. Hệ thống chính quyền song hành mà người Cộng sản thiết lập được, nắm giữ việc điều chỉnh bằng những biện pháp không dành cho sự nương tay. Thấy có tác hại là có trừ khử: nhà báo Từ Chung với kiến thức đại học cao cấp và lập trường chống cộng, ông viện trưởng Nguyễn Văn Bông có thể đổi bộ mặt quân phiệt của các tướng lãnh... Và trừ khử thì không phải bận tâm đến đạo lí bình thường: Một nữ biệt động Đà Nẵng bị kiểm thảo gay gắt đến phát khóc chỉ vì không ném lựu đạn vào “mục tiêu” trong lúc còn có “đồng bào” chung quanh. Các trí thức hoặc co rút, hoặc có phần muốn như tầng lớp mình tưởng ở Miền Bắc, đã xông vào các phong trào chống đối chính quyền trong guồng máy pháp lí mà họ hưởng thụ, để bày tỏ lòng dấn thân cho đất nước. Tuy nhiên họ quên (hay không hiểu?) rằng những điều họ đòi hỏi chỉ là những thứ của nền tư sản mà thôi: tự do ngôn luận, tự do tư tưởng, tự do lập hội, lập đảng... là các thứ tự do không được đặt thành vấn đề nữa ở phía người ta ngưỡng vọng, vì ở đó quyền bính đã về tay “nhân dân”, nghĩa là vấn đề đã giải quyết xong cả rồi. Vấn đề nhà nước pháp quyền được Miền Bắc quan niệm giản dị tới mức cơ quan trung ương chỉ có một Ban pháp lí, và mãi đến sau thống nhất, trong thập niên 80 mới có chức chưởng Bộ khiến cho Cơ sở II của nó ở Thành phố Hồ Chí Minh phải chúi vào trong một ngõ hẻm, trong lúc Cơ sở II của các Bộ khác đều có nhà cửa bề thế vì sau 30-4-1975 đã chiếm ngay các Bộ cũ của Sài Gòn.
Vì thiếu tính chất pháp lí nên trong ngôn từ thường dùng đã có câu tự khen “Giải quyết có lí có tình”, thực ra chỉ là cái lí cái tình thấy trước mắt đem ra xuê xoa cho đỡ rắc rối. Loại tâm lí sàn sàn như thế dễ mở ra để đón những lời tuyên truyền giản dị về tình tự dân tộc. Trong lúc đó, ý niệm về tình tự dân tộc của tầng lớp trên ở Miền Nam sống vào thời gian trước, sau 1945 lại có phần là kết tụ mặc cảm của thời ngoại thuộc. Định kiến đó không xê dịch vì họ không phải sống dưới chế độ cộng sản để chịu hệ luỵ của thời cải cách nơi đó, và “thấy” khác đi. Họ vẫn tiếp tục sống dưới một chế độ nối tiếp khuôn khổ Tây Phương nên không mất địa vị xã hội có sẵn, vẫn thấy mình còn quan trọng để to tiếng đòi hỏi mà không phải chịu rủi ro nhiều lắm [18].
(còn tiếp)
Tạ Chí Đại Trường[1] Ngoài giọng quyền uy chững chạc ở các luận thuyết khẳng định sự lãnh đạo văn hoá của đảng Cộng Sản Việt Nam, ta còn gặp ở nơi khác sự đàn áp tư tưởng thô bạo khi chưa nắm quyền, như khi ông phê bình cuốn Hai Bà Trưng khởi nghĩa của Nguyễn Tế Mỹ (Văn mới 1944) trên tờ Cờ Giải phóng số 10, 21-8-1945. Ông cũng đã chỉ đạo trong Hội nghị tổng kết 10 năm công tác của Viện Sử học là “phải tác chiến chống những quan điểm sai lầm về lịch sử Việt Nam của đế quốc, phong kiến tư sản, của những sử gia phản động ở Miền Nam” (Nhân Dân 21-12-1963). Đường lối vẽ ra đầy quyền uy đó đã là kim chỉ nam cho vài thế hệ lấy làm mực thước để không cho phép những nhà nghiên cứu Miền Bắc có ý kiến nào khác, và với đà chiến thắng 75 nó là căn cứ để các sử gia ưu việt quát mắng những nhà nghiên cứu ở Miền Nam với giọng thấp kém khó chấp nhận.
Đáng chú ý ở đây không phải là chuyện khác quan điểm, hay tệ hơn, là phe phái, mà là do từ căn bản, chế độ xã hội chủ nghĩa có một khuôn khổ lí thuyết sử học được vo tròn sẵn, gắn liền với một chính quyền được lập nên bằng sự ồ ạt của quần chúng, bằng súng gươm và giữ lại bằng súng gươm, nhất là khi nó lung lay. Cho nên, dù với “đổi mới”, khoa học lịch sử nói riêng, khoa học xã hội nói chung vẫn ì à ì ạch với cái kim cô “duy vật lich sử” (còn được hiểu “sáng tạo” thêm) điều khiển bằng câu thần chú “vô sản chuyên chính”, mặc cho các nhà lãnh đạo hô hào, tưởng có thể thúc giục các nhà trí thức “sáng tạo” thêm nữa.
[2] Nguyễn Văn Trấn, Chợ Đệm – Quê tôi (Tp. Hồ Chí Minh 1985), tr. 390, nhắc lại ý của cựu Bộ trưởng Ngoại giao Ung Văn Khiêm. Nên nhớ ông Trấn là con một nhà địa chủ gộc. Đây cũng không phải là chuyện địa phương. Sự kết tập hai tầng lớp cao thấp này có mầm mống nơi cách hiểu của người cộng sản về mácxít, xây dựng qua thực tiễn bằng chủ trương vô sản hoá, rồi bám rễ truyền thống phương Đông bằng lí thuyềt maoít từ những năm 50, mang tính lấn lướt, du đãng mà lại lấy làm hãnh diện. Gần đây hãy xem: Trần Trọng Đăng Đàn, Văn học thực dân mới Mĩ ở Miền Nam những năm 1954-1975, tập I (Hà Nội 1988), Văn hoá, văn nghệ phục vụ chủ nghĩa thực dân mới tại Nam Việt Nam (Long An 1990). Ông có luận án Văn học trong cuộc đấu tranh tư tưởng ở Nam Việt Nam 1954-1975 (Matxcơva 1987).
[3] Nguyễn Văn Nguyễn, Tháng Tám... sđd, tr. 369.
[4] Nhà văn Nguyễn Quang Sáng trên một số Tuổi trẻ Tp. Hồ Chí Minh (1991) có một truyện ngắn dạng hồi kí, kể chuyện các ông CS Miền Nam dân con-nhà vẫn viết lí lịch là ở đợ, làm mướn hay ít ra cũng có một lần bị địa chủ hành hạ nên “giác ngộ Giai cấp”. Còn dân tập kết Liên khu V tha hồ giấu lí lich thật của mình và thấy đường thăng tiến mở rộng, chỉ lận đận là những anh thật thà khai giai cấp tiều tư sản (hẳn nhiên không dám nhận là con nhà địa chủ!). Ông cựu Thủ tướng Huỳnh Tấn Phát, đương kim Phó chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng của nước thống nhất, người từng góp phần xây dựng Dinh 3 (Đà Lạt) cho Hoàng đế Bảo Đại, khi chết được ghi ở Cáo phó là thuộc gia đình “nghèo”. Còn những người mới vào sau 1975, ứng cử Hội đồng Nhân dân Phường (1990) của TP. Hồ Chí Minh thì hãnh diện kể lí lịch là gốc bần cố, học lớp Ba, lớp Tư. Ý nghĩa “cách mạng” đó không ngăn người CS có hành động xây dựng triều đại mới: thay cho các mả Nguỵ bị đào, bị lấp rác là nghĩa trang liệt sĩ khắp nơi sau 1975, có dành chỗ cho các ông bà lãnh đạo địa phương. Và trên hết là Lăng Lãnh tụ ở Ba Đình, và Lăng ở Đồng Tháp của ông Phó bảng cựu Tri huyện Bình Khê (Bình Định) đánh chết dân, bị kiện mất chức phải đem thân lưu lạc khốn cùng.
[5] Hoàng Văn Chí, sđd, tr. 204. Sự vọng tưởng nấp bóng vĩ đại xuất hiện cụ thể to rộng lần đầu với phong trào Xô viết Nghệ Tĩnh, được tình thế xoay chuyển vẫn không mất tính chất mê tín, khôi hài của nó: Ngày nay (1992) khi thấy chỗ dựa lớn sụp đổ, “bạn bè” hiếp đáp, đế quốc vẫn gầm gừ, Đảng lại dạy đảng viên rằng có người bạn mới Ấn Độ với gần một tỉ dân, đủ sức giúp ta chống bốn kẻ thù (Nga, Mĩ, Tàu, Tây Âu).
[6] Ở vùng kháng chiến, từ lúc Đảng xuất hiện, người dân có thể thấy – hoặc cảm thấy – hai hình thức sinh hoạt thần bí có tính chất cấp bực, gắn liền với những hình tượng vật chất mà tác động xuyên suốt tâm linh, đến tận cùng của sự kích thích, run sợ: Những cuộc tập họp dân chúng về đêm diễn ra dưới ánh đèn dầu bập bùng, được tổ chức mở rộng thành những chuyến đi âm thầm vào vị trí để thấy đèn duốc bật sáng khai hội, rồi tắt đi cho mọi người trở về nơi trú ngụ; mặt khác, những cuộc họp Đảng chỉ được tiết lộ bằng những tiếng rầm rì, cảnh thậm thụt mày la mắt lét của những người ngoài Đảng với nỗi kinh hoàng của những người trong Đảng bị khai trừ, “như đội thúng cứt đi giữa chợ!”
[7] Trong trại cải tạo, một tù binh khen người bộ đội có tinh thần cao thì được trả lời: “Không nhập ngũ chúng nó còng đầu cả nhà đi chứ lại!” Điều phát giác đó chỉ sau 1975 dân Miền Nam mới biết, có khi đến cả hình thức “ngã vạ” rất trung cổ mà khôi hài: Một nhóm “quần chúng” kéo đến nhà người trốn nghĩa vụ quân sự tốc mái, vặt cả cây trái trong vườn... trước khi lôi ông cha hoặc bà mẹ đi nhốt “thế chân” chờ con về trình diện – hoặc trình diện lại, nếu đã di rồi mà đào ngũ!
[8] D. Pike, sđd, tr. 45-46. Xem thêm chương 20: Mystique.
[9] Sau 1975, các trường Sư phạm ở Miền Nam là nơi tập trung sinh viên thuộc loại kém nhất, Còn ở Miền Bắc sau 1955, đây là nơi chứa con em các gia đình “có vấn đề”. Sự khinh miệt lộ ra khi một viên quản giáo trong trại cải tạo bảo tên tù: “Chớ ghi có bà con với ‘cách mạng’ (để bảo lãnh về nhà) là giáo viên với xã viên hợp tác xã nhé!” Đảng cũng không phải lo lắng giáo viên làm hại chế độ vì một mặt cơm áo ràng buộc, mặt khác có “giáo án” và khuôn khổ dạy dỗ tỉ mỉ định sẵn, biến họ thành cái máy dạy học, đào tạo những con người trung với Đảng, hiếu với (nhân) dân. Văn chương dạy ở nhà trường nhồi nhét vào đầu óc không có chỗ cho phán đoán chen vào: Trâu đánh Mĩ vì Mĩ giành uống nước với trâu, người anh hùng bụng chửa 6, 7 tháng còn leo cây dừa canh chừng giặc, người bộ đội về phép không được vợ cho vào nhà vì nghi chồng đào ngũ, mãi đến khi anh chồng chìa giấy tờ chứng minh ra.
[10] Sách vở vẫn còn đó, chỉ nên nói một chuyện chưa in: Để gây căm thù Mĩ Nguỵ, cơ quan truyền thông Miền Bắc đã tố cáo chính quyền họ Ngô đàn áp biểu tình trong ngày Phật đản 1963 ở Hưế bằng lựu đạn nổ và súng đại bác! “Sự kiện lịch sử” này suýt được in trong một công trình nghiên cứu ở Miền Nam sau 1975...
[11] Có thể nhìn thêm trường hợp của ông Lê Văn Hảo, tốt nghiệp Đại học Tây Phương, về dạy ở Miền Nam với chút máu tả phái, chứa các sinh viên tranh đấu trong nhà nên bị liên luỵ phải chạy lên rừng với chức chưởng Liên minh bù nhìn 1968, được diện kiến Bác và thế là... hết! Những “nghiên cứu” sau 1975, dù có trích dẫn Marx, Lenin, Hồ Chí Minh, thấy chưa đủ phải đưa thêm thơ Tố Hữu – nhân vật đang lên lúc ấy – và cả lời Bí thư tỉnh uỷ Bình Trị Thiên vẫn không giúp gì cho ông chịu đựng được chế độ mới. Âm mưu nhờ cậy người ngoài cho trở lại Paris và những lời công kích cộng sản của ông khiến cho một nhà báo CS trở vể Sài Gòn vạch tội ông với những lời đầy khinh miệt.
[12] Mãi đến sau 1986, vài dư luận đề nghị phục hồi danh dự cho nhóm Nhân văn cũng không được chấp thuận vì được quan niệm đó là một “vụ án chính trị” (Trần Bạch Đằng). Thực ra căn bản của vấn đề chỉ là sợ động đến uy tín của Đảng. Sự khiếp sợ đi đến mức một nhà văn có tiếng không dám viết hồi ki (dù là để cất) chỉ vì sợ di luỵ cho con cháu. Người ta đã in trí rằng chế độ sẽ vững bền đến “muôn đời con cháu mai sau”. Ông Trần Đức Thảo sau một thời gian bị đày đoạ, lạc hậu, đến năm 1991, đã sang Pháp vậy mà vẫn còn sợ, khi thuyết trình chỉ muốn “nói về triết lí, chứ không bàn đến chính trị”, trái hẳn với con đường mácxít đã đi, không nhớ tới tinh thần praxis ông tổ đã hãnh diện. (Đỗ Quyên, sđd, tr. 117). Không nên lấy làm lạ rằng ông Đào Duy Anh chỉ có thể lầm bầm với “Thời kì đồ đểu”. Không nên lấy làm lạ rằng đến thời Đông Âu, Liên Xô tan rã, ông Nguyễn Mạnh Tường trình bày hồi kí còn bám víu với vị trí người một thời được chấp nhận nên lấy tên sách (dịch là) “Một kẻ bị khai trừ (khỏi hệ thống được coi là nắm chân lí, có chính nghĩa)”. Điều thấy xuyên suốt tác phẩm là một sự kiêu ngạo về sở học, đụng đầu với một quyền lực đầy tự tín vì chiến thắng và có quần chúng tin phục, khiến ông viết hồi kí khá muộn, chỉ cốt bày tỏ uất ức, được cởi trói mới đưa ra, vậy mà đến khi bị trói lại, lại run sợ chợt nhớ thời Trăm hoa như cái bẫy của Đảng giăng nên chỉ nhận cho xuất bản sau khi tìm được một cách nói kiểu “liều mạng già”! Chúng ta có thể hiểu người trí thức Miền Bắc qua sự khiếp hãi dai dẳng đó.
[13] Sự in trí có kết hợp như thế đã đi đến chỗ thật khó tin: Năm 1991, một cựu Hiệu trưởng trường Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh còn viết (đại khái) rằng : “Dân tộc ta có lòng yêu nước và đã lựa chọn chủ nghĩa xã hội từ ngàn năm trước”.
[14] Không rõ người kia không biết mà cố ý nói bừa hay là y lấy một thứ đồ vật vốn đầy rẫy trong nền văn hoá có quan niệm ngọc mang thần tính của Trung Quốc (ngọc giản, ngọc bội, kim lũ ngọc y...) đem ra bịp cả “tầng lớp tinh hoa của dân tộc” để làm trò nhạo báng? Trong các số Nghiên cứu lịch sử bàn về chuyện này không thấy in lại hình tấm ngọc giản nên chúng tôi không thể có ý kiến gì hơn. Trong trại cải tạo, một người thấy tôi cầm tờ Khảo cổ học đã hỏi: “Nếu họ đào lên thấy chỗ nào đó có đồ Tàu liền vứt đi rồi bảo đó là di tích văn hoá bản địa, thì sao?”
“Tới đó thì tận cùng lí lẽ rồi”.
Đối với người bên ngoài, câu hỏi trên có dáng vô nghĩa, là kết quả của hận thù, nhưng phải là người sống trong nước tràn ngập một không khí cộng sản kiêu ngạo, lẫn lộn một tinh thần dân tộc đến mức tối tăm mới thấy điều nghi ngờ trên là khả thể. Ví dụ anh bạn nọ nếu đọc Hoàng Xuân Chinh và Nguyễn Ngọc Bích, Di chỉ khảo cổ học Phùng Nguyên (Hà Nội 1978) thì sẽ thắc mắc về sự biến mất của một đồ vật dạng đời Hán, có ghi lại như một chi tiết nhỏ để tô đậm thêm màu trung thực cho những người khảo cứu.
[15] Một người cầm trịch sao cho mọi cách giải thích không được rời xa đường lối của Đảng là ông Phạm Huy Thông. Có thể nghĩ rằng khi Nguyễn Huy Thiệp, một văn sĩ gốc sử, viết “Phẩm tiết” hẳn không phải là “bôi nhọ” anh hùng dân tộc mà là đã mượn văn chương hư cấu để bày tỏ một cách phản kháng với những lối đề cao anh hùng dân tộc chẳng có gì là khoa học, khiến các anh hùng chắc cũng đỏ mặt. Tuy nhiên với thời đại có các lãnh tụ đương quyền tự đồng hoá với anh hùng dân tộc thì sự chỉ trích người này không thể không gây liên tưởng đến người kia. Thêm nữa, trong thực trạng của một xã hội có sự chèn ép triền miên của quyền bính thì trong đời sống thông thường, ngôn ngữ phải mang tính cách bóng gió, mỉa mai có khi đến cay độc, và văn chương thì mang tính cách ẩn dụ rồi cũng bóng gió mỉa mai, như trong “Linh nghiệm” của Trần Huy Quang đã lấn qua được sau thời kì trói lại văn nghệ.
[16] Người ta đề cao nhân vật Pavel của Thép đã tôi thế đấy dửng dưng với phụ nữ, và không bằng lòng, gầm gừ với những ai kể chuyện mẹ, chị chiến sĩ thật ra cũng là một phương cách sử dụng tình cảm truyền thống để giải quyết sinh lí cho lớp thanh niên đang tuổi cường tráng phải nằm trong quân ngũ. Tiết lộ muộn màng là những chuyện “săn chất tươi” thanh niên có lúc mang tính cách hiếp dâm tập thể của các cô Thanh niên xung phong trên các cung đường Trường Sơn. Sử dụng lí tưởng sách vở như là sự thật, đem áp dụng vào thực tế, sau 1975 người ta muốn gạt bỏ đám công thần Miền Nam liền mở lại cuộc xét lại đảng tịch trong chiến tranh, trong đó có xét đến tính cách kiên trì “đánh chết không khai” – trong lúc các chức sắc cỡ lớn vào Nam run sợ với hồ sơ những năm 30, 40 còn trong Văn khố Sài Gòn, có bằng cớ “chưa đánh đã khai!”
[17] (Linh mục) Trương Bá Cần “25 năm xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Miền Bắc”, Chọn số 13-14 (1971), Lời nói đầu: “Tất cả những tâm hồn tha thiết nhất với dân tộc... đang hướng về Miền Bắc (nói thêm: bị bão lụt)”. Dụng ý người xuất bản (và cả tác giả) đã rõ rệt. Trong một tranh luận quanh bài nghiên cứu (có đăng lại ở tập san này), phản bác ý kiến cho rằng tác giả đã sử dụng tài liệu của chính quyền Miền Bắc, một ý kiến nổi lên: “Chẳng lẽ lấy tài liệu của VNCH?” Không đi sâu vào khía cạnh chuyên môn, ta cũng thấy nổi ở đây vấn đề có phản ứng khi thần tượng bị động chạm.
[18] Đọc Hồi kí của Trịnh Đình Thảo (Suy nghĩ và hành động, Nxb. TP. Hồ Chí Minh 1985) người ta mới thấy cái tức cười của một luật gia tư sản tranh đấu cho một chế độ ông kiên trì ngưỡng vọng mà không biết gì đến thực tế ở đó. Cũng như những nhà chính trị chuyên nghiệp ở đây, những người như ông đã bị thời cuộc bỏ xa, nhưng khác với các chính khách vốn làm thân tù đày có chọn lựa rõ rệt, các “nhân sĩ” như ông vừa có cái kiêu căng về địa vị xã hội trên nền tảng chế độ họ phản đối, vừa có cái khờ khạo không chịu thú nhận của những người “lạc đường vào chính trị” nên dễ cho người Cộng sản biết lựa chiều lợi dụng. Tất nhiên là họ không bằng lòng với ý kiến này, nhưng con người thật của họ sẽ được nhận ra rõ rệt sau 1975: những lời huênh hoang thật thà của ông Trịnh Đình Thảo, hơi bất ngờ ở chỗ không giấu được vẻ ham danh; vài lời thú nhận của ông Nguyễn Hữu Thọ vào thời kì “Đổi mới” về vai trò bù nhìn của Quốc hội mà ông là Chủ tịch lại nín thin thít; về ông cựu Phó Thủ tướng VNCH Nguyễn Xuân Oánh lo sợ cho cái anonymat technique của mình (nghe như lời Khổng Tử than!) Ta hiểu vì sao ông Nguyễn Văn Linh mắng mỏ ông Lí Chánh Trung “cơ hội chủ nghĩa”, cũng hiểu về thái độ cay cú của bà Ngô Bá Thành sau khi không được bầu vào Quốc hội 1992.
“…ĐCSVN với một nhóm lãnh tụ của những năm 45, trong đà hăng say lí tưởng, có được chính quyền để tăng niềm tin đẩy lên đến mức cuồng tưởng, đã đưa cả dân tộc đi vào con đường mộng du ba mươi năm khiến thế giới nghiêng mình bái phục nhưng thân xác dân tộc thì rã rời, chỉ còn một bộ phận huênh hoang gượng gạo với nhau…”
1 2 3 4
Cơn mộng du Ba mươi năm (tiếp theo)
Có một thứ mặc cảm ở cấp thấp hơn, là của những kẻ xa rời đất gốc, vốn gắn liền với một truyền thống mang tính xóm làng, dòng máu, chủng tộc. Họ xa lạ với quan niệm về một đất nước phức tạp, một thời đại phức tạp mà đúng ra giáo dục mới phải giúp họ có nhận định phóng khoáng hơn. Câu thơ của người chiến sĩ -nghệ sĩ Huỳnh Văn Nghệ từ 1946 vẫn còn trong tâm tưởng của nhiều người, cả nồng nhiệt lẫn gượng ép:
Từ lúc mang gươm đi mở cõi,Vì thế trong khi giới sử học Miền Bắc quảng cáo khoa học về thời Hùng Vương thì ở Miền Nam đã có một nhóm lấy họ Lạc đăng đàn diễn thuyết được cả chính quyền văn hoá yểm trợ, nói về cái trống đồng có kiến giải về nguyên tử – gần lúc với một nhà nghiên cứu Hà Nội nói rằng thiên cầu đã được người xưa vẽ trên trống đồng Hoàng Hạ, một trống đồng được đánh giá thuộc loại xưa nhất! Cũng phải nghĩ rằng cuộc đổ quân ào ạt của Mĩ đã đem lại sự tiếp xúc nhanh chóng với kĩ thuật tối tân, với sinh hoạt mới nhất của thế giới, làm biến đổi mạnh mẽ xã hội Miền Nam –có thể nói là đột biến so với lúc người Pháp hiện diện. Do đó đã nảy sinh những phản ứng luyến tiếc thời xưa, những tập họp bảo vệ truyền thống dẫn đến các cuộc biểu tình chống đối chính quyền, hướng về một khẩu hiệu dân tộc và truyền thống không như những người này vọng tưởng từ Sài Gòn.
Ngàn năm thương nhớ đất Thăng Long!
Một tầng lớp nghiên cứu giảng dạy cũng bị lôi cuốn theo cơn mê hoặc về-nguồnđó. Lôi cuốn bằng áp lực sinh viên qua những cuộc biểu tình – như ở các Đại học Mĩ, bằng chính bản thân thiên tả, “tìm về dân tộc” của nhóm Công Giáo “thức tỉnh”, hay đón gió để may ra cứu vãn được gì có thể cứu được. Thật ra thì trí thức Việt Nam ở đâu cũng chẳng có tiếng nói quan trọng, nhưng ở Miền Nam, nhờ cơ cấu xã hội, dù muốn, chính quyền cũng không đủ sức kềm kẹp chặt chẽ và cũng còn dành một chỗ đứng cho họ, nên lời nói và hành động của họ cũng được chú ý tới, nhất là khi với sự lo toan cho bản thân, họ chịu khó lệch một ít về phía quần chúng ùn ùn chỉ nghe theo duy nhất tiếng nói của xúc cảm được điều kiện hoá [19].
Miền Nam cũng là cái cầu rộng đi ra thế giới tư bản và được bên ngoài – phần đáng chú ý là Việt kiều – hướng về Hà Nội trong ảo giác mà không phải bỡ ngỡ. Trong tâm tư thì họ hướng về Hà Nội mà trong sinh hoạt thì họ chọn Sài Gòn như đã chứng tỏ trong nhiều lần khuất lấp, hay một lần vào năm 1964: Ba (?) người bị tống xuất ra Bắc thì có hai người đã phải qua Pháp để làm Đại diện Mặt trận, công tác “nhẹ nhàng” hơn. Những người còn lại của phong trào tả phái, Bảo vệ Hoà bình, “tự nguyện” ở lại tranh đấu trong lòng địch, sẽ chuyển hướng theo Sài Gòn khi có cơ hội thăng tiến (trường hợp của Thủ tướng Nguyễn Văn Lộc, Bộ trưởng Âu Trường Thanh...), hay ra đi vì bị đưa đẩy như trường hợp ông Nguyễn Hữu Thọ được đánh tháo đem về làm ông Bảo Đại ngược năm 1960, và muộn hơn, ông Trịnh Đình Thảo cùng bà vợ cứ tưởng “trong khu” có khách sạn để yên nghỉ, qua lời thuật có tính cách bao dung kênh kiệu của người phụ trách đưa họ đi năm 1968. Có thể kể thêm bà Ngô Bá Thành / Nguyễn Thị Thanh Vân, giá như không có chiến thắng 1975 thì bà cũng vẫn đang hô hào “phụ nữ đòi quyền sống” tại Sài Gòn đầy bơ sữa, nơi bà dạy Đại học chứ nhất định không về sinh quán Hà Nội vinh quang của Bà.
Mốt tả phái ở các thành phố và các trường Đại học Tây Phương kết hợp với tình tự dân tộc được đẩy lên cao độ, nhờ sự sục sôi bày tỏ chính kiến tự do đã đưa đến những luận thuyết mang dáng dấp trí thức cao và những hành động anh hùng bốc đồng. Bên ngoài, hãy kể đến “toà án” Stockholm với triết gia Bertrand Russell, chứng tỏ lúc “tin” thì ai cũng như ai, đến những luận án chống đế quốc thực dân có đủ biểu đồ, thống kê làm bằng cớ... Ta gặp những cường điệu lịch sử tán rộng tung ra từ các “viện” ọp ẹp ở Hà Nội, nói về phương thức sản xuất châu Á, về nông dân khởi nghĩa, về các anh hùng dân tộc, về chế độ thực dân kiểu mới... không đưa lại phát hiện gì mới ngoài cái khuôn mácxít có uốn nắn và lối trau chuốt văn từ so kè cho hợp với lí thuyết và thực tế tài liệu [20].
Trong hành động, ta gặp những cuộc biểu tình phản chiến dẫn đến cú liều lĩnh thúc đẩy bởi thời trang không tặc của những người hùng khủng bố khiến anh Nguyễn Thái Bình định cướp máy bay bằng một túi chanh giả làm lựu đạn. Rồi dựa vào chân đứng quốc tế, hai nhà giáo Pháp treo cờ Mặt trận trước toà nhà Quốc hội Sài Gòn. Đó là những chặp hồi co giật trong cơn mê lí tưởng, nhưng trong chuỗi thời gian thường nhật vẫn có những phút giây hồi hộp khích động mà không đe doạ mất tinh thần khiến nuôi dưỡng được một trò chơi chính trị ở Miền Nam. Phối hợp trong ngoài, đám thanh niên mới lớn của thế hệ hậu-Genève, cả con cháu người cầm quyền, hành động theo tâm tư của tuổi trẻ thế giới tư bản và vẫy vùng trong thế giới đó, đã làm công việc “quậy phá” Miền Nam trong một không khí đầy hỉ nộ ái ố, và không kém phần hấp dẫn huyền bí lên đến tột đỉnh với những vụ tự thiêu. Những cuộc biểu tình cút bắt với cảnh sát, đốt xe Mĩ trong tiếng reo hò ngoài đường lớn và cười khúc khích trong hẻm nhỏ. Những đêm không ngủ ca hát vang lừng “nối vòng tay lớn” [21] theo một niềm say mê về thống nhất, xuống đường gặp gỡ giấc mơ hoà bình thời thượng nguơn của sư bà Trúc Lâm Nương (Huỳnh Liên). Rồi ra ngoài bưng là những buổi học tập trùm đầu như đảng KKK... Trong kẽ hở của một tổ chức xã hội lơi lỏng, một chính quyền yếu kém, người thanh niên có điều kiện giải toả sức hăng say của mình, nhập vào cơn mê cuồng tưởng của ý thức hệ giữa tiếng bom đạn ầm ĩ và những hình ảnh nhảy múa hốt hoảng của các kênh truyền hình. Cả một không gian quốc tế rộng lớn, những xã hội với trình độ phát triển cao cấp không có ở Miền Bắc, ở toàn thế giới “ưu việt” đã xông vào phục vụ Bác và Đảng bằng cả nhiệt tình tin vào lẽ phải của mình.
Quan điểm phục vụ quần chúng, hoà nhập vào quần chúng, đẩy mạnh bằng chính sách “ba cùng” ở Miền Bắc, từ cơ sở tiềm ẩn của người thực hiện, đã kéo trình độ suy luận hạ thấp xuống khiến cho những tin tưởng thần quyền được khuyến khích, biện minh dù có khi bên ngoài vẫn bị phủ nhận. Khi được coi là đã có quan điểm lập trường đúng – nói nôm na là đã chọn được phe phía rồi – thì sự cả tin được đặt dồn về phía chọn lựa, dành cho phía kia toàn thể những hoài nghi và khinh miệt. Cho nên cán bộ tuyên truyền gốc nông dân mang nhiệm vụ hấp dẫn tín đồ quần chúng không ngần ngại gì mà không lôi kéo người nghe đến góc độ thiên lệch nhất. Và trong cơn đam mê thì những điều vô lí nhất vẫn lọt vào lỗ tai. Nếu còn chút tỉnh trí thì áp lực của Đảng, của đoàn thể sẽ buộc người ta tự động im tiếng để cho người khác tuân phục.
Tính ưu việt là ở phía xã hội chủ nghĩa, ở Miền Bắc thân yêu chứ không phải là ở phe đế quốc và tay sai, cho nên người cán bộ mới bảo nông dân Quảng Ngãi (1964) là xe tăng của địch chỉ bọc bằng carton. May mắn cho mấy ông già ở gần đường lộ có dịp vác cuốc gõ lên để kiểm chứng! Có lí hơn vì khó tra xét hơn, là chuyện các trực thăng Cán gáo chỉ thấy có khung sắt vì Mĩ thiếu kim loại và làm không kịp cho nhu cầu chiến trường nên chưa hoàn chỉnh đã đem ra sử dụng. Ở một phía khác, chúng ta gặp ông đạo Dừa đem tin tưởng cargo-cult lồng vào thuyết vị lai của nhà Phật, hiện đại hoá bằng tư tưởng cộng tồn hoà bình, biểu diễn màn mèo chuột sống chung và bằng chiếc thuyền bát nhã thả neo trên Cồn Phụng. Và đó không phải là chỉ do mối suy nghĩ mê tín dị đoan của những con người “lạc hậu” đã khiến tín đồ đến năm 1990 còn giành giật với công an làm chết ông đạo. Đã nói, có một căn bản tín ngưỡng bình dân mà người Cộng sản cũng chia xẻ và được lí thuyết vô sản – hiểu theo nghĩa bần cùng – nâng cấp tự phụ. Cho nên người cán bộ cộng sản gần đây còn truyền tụng điều loan truyền rằng ngày trước đồng chí của họ đã chặt giáo chủ Hoà Hảo làm ba khúc chôn ba nơi trong tỉnh mới Long (Xuyên) Châu (Đốc) Sa (Đéc) vì sợ Huỳnh Phú Sổ sống dậy! Và mỗi khi vừa chỉ trích thói mê tín dị đoan tàn dư của chế độ cũ nói theo sách vở, thì họ bị dân chúng nguỵ xầm xì: “Không ai cúng vái nhiều hơn các ông bà cán bộ!”
Miền Nam, một xứ` sở phát triển của tôn giáo – có phần tăng tiến vì phản ứng với cộng sản – đã tràn ngập muôn hình vạn trạng biểu hiện mà các tôn giáo cao cấp ngăn chặn, cố trì níu tín đồ để giữ trong vòng tín li chính thống. Ở khu vực tinh thần này lại vang vọng tiếng gọi hoà bình của muôn thuở được sự hưởng ứng đúng đắn của người dân trực tiếp hứng chịu bom đạn và cũng do sự biếng lười của dân thành phố có an toàn tương đối [22]. Và bằng những lời tuyên truyền dễ nghe, cụ thể cùng với sức mạnh quân sự, người Cộng sản cũng dắt dẫn cho thấy một viễn tượng hoà bình không phải chỉ dừng lại với bom đạn im tiếng mà còn mở ra một chân trời sáng rực có Đảng lãnh đạo. Không phải chỉ có chúng tôi biết được câu nói “Rồi đây sẽ không còn ai giàu ai nghèo, không còn người đạp xích lô..”. của anh xích lô Sài Gòn còng lưng giữa bom đạn Tết Mậu thân, mà nhà đạo diễn Đặng Nhật Minh theo đoàn quân chiến thắng cũng được một người dân Đà Nẵng hỏi như thế hồi tháng 3-1975. Người ta tin ở một Miền Bắc tuyệt vời, và ngóng theo lời các cán bộ nằm vùng khuyến dụ, đại loại như dân Tiền Giang hãy chờ hoà bình, Miền Bắc sẽ đem vào cây cầu tiền chế thay bắc Mĩ Thuận, khỏi cần Nhật Bản khảo sát đào đường hầm chui qua sông chẳng hạn.
Sức mạnh nào thì cũng là sức mạnh, và đúng như Đảng đã nói ở nơi khác, vấn đề là phục vụ cho ai? Đảng đã nắm được sức mạnh, Đảng phục vụ dân tộc, xây dựng tương lai loài người. Nằm trong vòng tâm tưởng của quần chúng, sức mạnh đó được nâng cấp lên bội phần. Có hướng dẫn, sức mạnh đó đưa đến những thành quả kinh dị với sức lôi cuốn gần như không có tính chất trần thế nữa, điều mà vào lúc quên tín điều khe khắt ngày thường, người ta dùng đến chữ “thần thánh”. Đảng Cộng Sản Việt Nam với một nhóm lãnh tụ của những năm 45, trong đà hăng say lí tưởng, có được chính quyền để tăng niềm tin đẩy lên đến mức cuồng tưởng, đã đưa cả dân tộc đi vào con đường mộng du ba mươi năm khiến thế giới nghiêng mình bái phục nhưng thân xác dân tộc thì rã rời, chỉ còn một bộ phận huênh hoang gượng gạo với nhau để tiếp tục thu vén thành quả trên một bộ phận dân tộc, về phía khác.
Cho nên sau cơn mê là hồi lạng quạng. Niềm say mê chiến thắng lúc đầu cũng che lấp được một thời gian về thực trạng một chế độ thực dân nội biên Bắc Nam sau 30-4-1975. Lí tưởng “chính nghĩa”, chiến thắng, tất cả đã khiến cho tình trạng ấy trở thành đương nhiên, không phải tranh cãi. Với chiến thắng người ta xử sự như kẻ chiếm đóng, và với lí thuyết về cả chủ nghĩa lẫn dân tộc, người ta huỷ tư cách làm dân, làm người của kẻ chiến bại. Các lãnh tụ bần cố nông – đúng hơn, bần cố nông hoá về mặt tâm tưởng – của Hà Nội ra sức chuyển vận tài sản theo đường Bắc tiến, nuôi sống đất nước theo một cung cách quản lí sách vở thấp kém đến nỗi dù trong vòng e dè, một chuyên viên kinh tế Sài Gòn cũ gần đây cũng phải gọi là “nền kinh tế chiến lợi phẩm”, còn người Cộng sản thì có rất nhiều từ bao biện: tiểu nông, nóng vội, duy ý chí (lại cũng chữ Trung Quốc!)...
Đám thanh niên xung phong choáng ngợp trước lí thuyết và thực tế áp bức dẫn dụ, ăn khoai bắp trong lúc cán bộ xã rượu thịt ê hề, lăn ra làm việc để chuộc tội cho cha anh, cho bản thân, đào sông, phá rừng, cuống quýt đi tìm hột lúa theo một ý niệm hoàn toàn xa lạ, ý niệm của những kẻ suốt đời lo đói phía bắc. Một nền kinh tế hậu chiến trên hai vùng phát triển khác nhau nên mang dạng cướp bóc, phung phá [23].
Một tầm nhìn quản lí đất nước theo kiểu nông dân, địa phương, kềm sức phát triển đồng bằng Cửu Long, một phần bằng cung cách quản lí tệ hại mà cứ cho là đúng ở phía Bắc (tập đoàn, hợp tác xã nông nghiệp...) để đổ tiền vào đồng bằng sông Hồng cạn kiệt chỉ có đất phần trăm dành riêng cho xã viên là khởi sắc. Óc nhân tuần và thói nô lệ tàng ẩn lấn át thực tế, chỉ còn có sức ỳ để bám víu củng cố nơi căn bản và sau đó là trút dân vào Nam, lấn đất rừng Tây Nguyên (dân H’Mong, Dao... vào tận Sông Bé...) để che lấp sự bất lực, giải toả bất mãn quanh thủ đô.
Một loại công dân Việt Nam hạng nhì ra đời qua bước tập sự của biện pháp đăng kí chấp nhận đầu hàng, chịu đựng mất tiền của tích trữ dành dụm, mất nhà cửa. Loại người đó có quá khứ bị xoá sạch với biện pháp đóng băng chặn huỷ giấy tờ pháp lí nhưng để lại thân xác bị đe doạ bởi tờ khai lí lịch [24]. Riêng với đám trí thức, giáo chức thì hồ sơ dồn cho công an văn hoá quản lí. Tác động của biện pháp quản lí như thế rõ ràng là không chừa một ai dưới vĩ tuyến 17, kể cả dân “giải phóng”. Cho nên mới có câu nói đùa cay chua: “(Tỉnh) Bình Trị Thiên là Quảng Bình trị Thừa Thiên” [25]. Kết quả là người ta gian dối để có giấy tờ, luồn lọt để có một hình thức hợp pháp – được gọi là “thành tích phấn đấu”[26], lấm lét nịnh bợ để cầu sống, trước hết là tìm cơm áo trong đời sống vật vờ “nửa đời Vân Tiên” như người phụ nữ Thị Nghè nọ đã than.
Người cầm quyền mới – và nhân dân mới – kiêu ngạo, lì lợm hưởng lợi từ tình trạng ấy, và thế là một nếp sống mới thành hình, một nếp sống sẽ là chỗ dựa để giữ gìn quyền lực, và để phục hồi quyền lực nếu lỡ bị mất đi. Từ lâu ở Miền Bắc người ta xoá “chủ nghĩa công thần” nơi cá nhân để người dân nhắm mắt hi sinh, bằng lòng với một tinh thần yêu tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong sáng cho văn nhân tha hồ múa bút, chỉ còn lại một chủ nghĩa công thần của Đảng không gọi đích danh nhưng tràn trề ở muôn lời xưng tụng. Tưởng là đã bị diệt trừ, nhưng chủ nghĩa công thần bị dồn ép lại được cơ hội phát triển sau 1975, nghiêng trút lên phần chiến bại của đất nước.
Chiến thắng với óc tự phụ nắm giữ “truyền thống” đồng thời với “tiến bộ” khiến diễn ra hiện tượng thực dân văn hoá với tâm tưởng và ngôn từ Chí Phèo ngự trị. Người ta lấy kiến thức xóm làng tố cáo “chế độ thực dân văn hoá kiểu mới” ở Miền Nam khiến đến cả các tay tranh đấu trước kia cũng bị xét lại đảng tịch nhận được gian khổ trong thời chiến, chỉ được nhắc tới vào những dịp kỉ niệm nên lớp bỏ chạy, lớp im tiếng, ngậm đắng nuốt cay chịu khuất lấp sau các tay Tập kết, Hồi kết, chờ đến ngày Kỉ niệm Mười năm chiến thắng (1985) để rụt rè ló dạng ra một chút rồi đến dịp Ba mươi năm (2005) mới tuồn văn thơ in ấn cất kĩ từ lâu ra, ồn ào tụ tập cả với ngươì Di tản ở một góc Huế có phép của Tỉnh, Thành ủy! Loại nhân vật làm cảnh này hoặc sẽ tàn dần trước các nhân vật của Đảng học hành qua quýt cho thành dân khoa bảng, cấp bằng phong tước cho nhau, hoặc luồn lọt thăng tiến kịp theo đà cải sửa “đổi mới”, dọn chỗ cho con cái tránh cảnh chông chênh tủi nhục của cha ông ngày trước.
Có một thứ răn đe bắt ne bắt nét trong ngôn từ văn chương, trên lời ăn tiếng nói, nếp suy nghĩ có khi chỉ là của địa phương lạc hậu mà nhân danh chiến thắng đã trở thành trung ương, tiến bộ. Khả năng thấp kém của loại trung-ương-màđịa-phương đó trong việc quản lí toàn diện, tổng thể – quản lí “vĩ mô” theo từ ngữ học được – là lí do chính của tình trạng thụt thò, ăn đong của đất nước bây giờ. Cả dân tộc, ngoài phần nhờ nhõi bọn gọi là đế quốc (viện trợ từ thiện), bán nước (kiều hối), một thời gian đã sống như con vật ngủ đông, ăn vào bản thân, tàn tạ vật chất lẫn tinh thần.
Cũng có thể nói tới một giai đoạn thực dân kiểu mới trong nước, bởi vì đã có các tay tập kết, nằm vùng làm cán bộ cơ sở trong thế tuân phục dưới sức mạnh “vô sản chuyên chính” (công an) gốc Bắc đến tuyệt đối [27]. Từ đó nảy sinh một hệ thống những người mới cấu kết làm giàu bằng biện pháp truyền thống là hối lộ, tham nhũng theo cách làm ăn kiểu tư sản mà Đảng đã ra lệnh triệt hạ nay công khai xuất hiện thêm với tính cách gia tộc, địa phương của những người biết sử dụng quyền hành, biết cách luồn lách hoặc trở tính ngang bướng hợp pháp quen thuộc từ Miền Bắc xã hội chủ nghĩa. Rồi cũng nảy sinh từ tính cách băng đảng hội kín xưa, từ tính chất ông làng, du kích mới đây mà phát sinh một tình trạng kì thị địa phương quái gở giữa tỉnh, làng, tình trạng cứ tưởng là khó thấy trong một đảng cầm quyền có hệ thống, có tổ chức chặt chẽ đã làm nên vinh quang một thời.
Điều đó nổi lên qua phản ứng chống “chủ nghĩa lí lịch” làm nhẹ bớt – mà không làm mất hẳn – sức đè lên đám dân nguỵ, qua một vài tiếng nói rụt rè cười cợt về khả năng quản lí “vĩ mô”, qua những cuộc giành dân lấn đất ở những vụ hợp tỉnh, chia tỉnh... Cuối hồi lạng quạng có người ngẩn ngơ không tin. Nhưng chính cái “mùi Nam Tư” mà lãnh tụ Lê Duẩn ngửi được khi máy bay lượn trên nền trời Tân Sơn Nhứt của thực dân mới, đã kháng cự bên trong, và tình hình thế giới bên ngoài với sự phát triển của kĩ thuật thông tin đã phá vỡ sự bưng bít ngay cả trước hồi Đông Âu, Liên Xô sụp đổ. Tầng lớp già trì níu vì thói quen, tự ái, vì cả quyền lợi ít ỏi. Một lớp người trí thức, chữ nghĩa cố bám lấy hình bóng vinh quang cũ, trước cảnh hệ thống ý thức của mình đang tan rã, cảm thấy lạc lõng khi đi ra ngoài vòng vây được đào tạo, đã lặp lại nỗi tức giận của người nho sĩ Nguyễn Công Trứ van nợ xưa kia.
Nỗi ám ảnh bây giờ lại to rộng hơn vì nhu cầu tự tồn, sợ kẻ chiến bại Nixon cũ thực hiện được chiến lược “ngăn chặn, vượt lên ngăn chặn, diễn biến hoà bình” trên toàn hệ thống, không cần trở lại chiến trường xưa mà vẫn có dáng đe doạ dữ dội với những nhà kinh doanh da trắng, da vàng ra vào, cùng lúc với sự bức hiếp của người bạn lớn Trung Quốc đang bành trướng về phía nam vì không còn lực cản nào cả.
Vấn đề trước mắt của Đảng không còn là lí tưởng xã hội chủ nghĩa (nhưng cần thiết như một nhãn hiệu để nắm quyền) mà chỉ là quyền lợi thủ đắc của kẻ cầm quyền và sự an nguy của bản thân họ trong lời dặn của Lenin: “Chiếm chính quyền đã khó mà giữ chính quyền còn khó hơn”.
Nhưng dưới lá cờ vẻ vang của Đảng đã có những người mở mắt dưới sự thúc đẩy của một sinh hoạt “nguỵ” ưu việt hơn những gì kinh sách dạy bảo. Con đường tiến về phía trước rốt lại chỉ là con đường đổi chủ qua những thế hệ xương máu, và người ta dần dà thấy những tủi nhục với nhau vì sự nghèo đói có đà làm mất cả tư cách dân tộc. Lời dạy bảo cũ: “Đói cho sạch, rách cho thơm” bỗng trở nên một thứ hợm mình vô lối. Và nếu nhìn như thế thì thấy Hai mươi năm Việt Nam Cộng Hoà không phải là vô ích cho đất nước. Nếu thống nhất sau 1956 thì Nam Bộ sẽ được “hưởng” một cuộc cải cách ruộng đất maoít kinh hoàng hơn Miền Bắc vì chênh lệch thủ đắc tài sản cao hơn, vì có chen vào những hận thù chủng tộc, và Hoàng Sa, Trường Sa sẽ mất sớm hơn, không có dầu mỏ để thay thế củi rừng bứng tận gốc.
Nam Việt Nam không thể làm như Nam Triều Tiên (Đại Hàn) nhưng sức năng động của hai mươi năm thuận chiều lịch sử dưới “chế độ thực dân kiểu mới” vẫn còn đấy trong nỗi tức giận gầm gừ của các lãnh tụ. Dù hệ thống cầm quyền tan rã, dù dân chúng bị sỉ nhục, nó vẫn còn đủ sức tác động lên chính quyền mới: Cả tập đoàn cầm quyền “Đổi mới” năm 1986 dưới sự thúc ép một phần của Gorbachov là bộ sậu tiếp quản và cai trị thành phố Sài Gòn cũ.
Tất nhiên không phải không có những tính toán răn đe dự phòng và trì níu. Sau năm 1986, ở thành phố Hồ Chí Minh, người ta lôi ra tuyên án xử tử ba người của chế độ cũ, có kẻ bị bắt từ 1979, 78: hai tu sĩ Phật Giáo và một người lính. Để đề phòng đám trí thức, tiểu tư sản, cắt đứt mầm mống chia xẻ quyền hành như đã xảy ra ở Đông Âu, người ta giải tán hai đảng Dân Chủ và Xã Hội, các đảng bù nhìn lập từ 1944 nhiều lúc từng hãnh diện là chịu sự lãnh đạo của đảng Cộng Sản. Tất cả rồi sẽ vào khuôn phép sau một lúc mở trói cho dễ thở một chút. Các nhà khoa học xã hội đừng hòng nêu một chút ý kiến riêng tư để mong có chút hănh diện tinh thần bù lại cuộc sống khốn khổ của mình. Những người di tản nên danh ở xứ người, hay thường thường bậc trung hơn, những người làm ăn khấm khá bên ngoài trở về được hoan nghênh, săn đón, nhưng họ chỉ được hiểu như là con cái của Đảng, lầm đường lạc lối nay biết ăn năn. Tuy nhiên lưỡi gươm Damoclès vẫn treo trên đầu họ: Họ vẫn còn có thể bị xử như người Việt Nam dù hiện mang quốc tịch khác chỉ vì khi ra đi vượt biên họ đã không xin phép từ bỏ, và chưa được chấp nhận từ bỏ quốc tịch Việt.
Tuy nhiên, nhờ cái đà cũ, Miền Nam dễ chuyển đổi sang kinh tế thị trường, lấy một nửa nước đỡ gánh nặng trì trệ của Miền Bắc [28], “cải tạo ngược” Miền Bắc, tránh cho cả nước khỏi lâm vào vòng bỡ ngỡ như người dân Liên Xô.
Miền Nam gạt bỏ cái tiếng Nga vô ích mà bị cưỡng ép học, sử dụng mớ tiếng Anh đã mòn mỏi để mở cửa với bên ngoài theo nền nếp bị gián đoạn, thu hút đầu tư ngoại quốc tới 80% tổng số cả nước – không cần kêu gọi “Gởi kiều hối là yêu nước” (1978?) – đẩy mạnh sản xuất, xuất cảng lúa gạo do nông dân vùng dậy đòi ruộng đất làm sụp đổ cả hệ thống hợp tác xã mới thành hình dưới các nghị quyết lỡ làng của Đảng. Đảng có muốn trì níu vị thế thần thánh một thời cũng không còn được như cũ nữa. Và Hà Nội giống như một cai-đầu-dài – hay nói theo ngôn từ sử học, như một thứ vương quyền thu tô trong một chế độ mà dấu vết hội kín của Đảng luồn trong các hương, đàn có tên là khu, tỉnh, huyện, chi bộ với trình độ người lãnh đạo thấp đến mức không ngờ [29].
Một truyền thống thần phục đến hồi lung lay, được cố trì níu, ví dụ dự phòng ghìm lại bằng con đường tải điện Bắc Nam 500Kv dù là nguồn năng lượng phía Nam có đủ và xây dựng ít tốn kém hơn.
Cơn mộng du dữ dội 30 năm trùm lên giấc ngủ 10 năm mộng mị điện khí hoá, một cơn mơ cách mạng mang mầm mống bảo thủ đến cùng cực rốt lại rồi cũng tan dần ra, mort en douce, với nỗi đau khắc khoải của người dân Việt một thời dấn thân hết mình:
Biết phận mong manh cứ đành phương Nam,
Cô quạnh hiên nhà lại sa đáy giếng. [30]
(Hoàng Cầm, Giọt mưa phương Nam, 8-9-1991)Hoàn tất lần đầu: Sài Gòn Thu 1992
Tạ Chí Đại Trường[19] Trên chuyến xe lửa Nha Trang - Sài Gòn đầu 1955, một bà già giải thích cho những người chung quanh nghe về chính sách cải cách ruộng đất của VNDCCH thực hiện theo cung cách nhân trị kiểu vua Vũ xưa vẽ vòng tròn trên đất để nhốt tội nhân! Cán bộ Công dân vụ thời ông Diệm đi vào làng xã Lục tỉnh tuyên truyền về sự đới kém ở Miền Bắc, dân phải ăn cám, thì được trả lời: “Vậy thì ở ngoải chắc phải có nhiều gạo lắm!” Vì thấy cám đi đôi với gạo, người ta không hiểu tại sao gạo có thể mất đi trong nồi của người nông dân và chỉ còn lại cám!
Có thật quá nhiều minh chứng cho thấy một tình trạng hướng vọng như thế, đến mức không thể nào bôi xoá được. Học sinh trường Kiến Thiết (Sài Gòn) niên khoá 1954-55 chuyền tay nhau dưới gầm bàn các lời kêu gọi ra khu tập kết. Một anh bạn lớn tuổi từ Petrus Ký chuyển qua Chu Văn An (anh Lê Chánh Đoáng, sau dạy ở Đại học Khoa học, chú 2004), giữa giờ học kính cẩn lên xin giáo sư Anh văn (LM. Trần Phúc Vỵ) cho làm lễ tưởng niệm “trò Ơn” giữa đám di cư lau nhau bàn chuyện bát phố. Cũng nhờ một sự cố kết truyền thống “Chín năm” như thế mà sau 1975, tuy xã hội không phải là “chín năm” như người ta tưởng, nhưng ông Sơn Nam lại được giữ làm văn sĩ công chức đỡ cơn đói nghèo, khỏi biểu tình đi “ăn mày”. Ông đã trả lời một người quen khi bị bắt gặp lang thang ngoài chợ trời sách: “Viết trả nợ đủ lương 200 đồng rồi thì còn ngồi ở trụ sở làm chi!” Và đầu gật gù, mắt bốc hơi men bia: “Này... có viết gì thì chớ gởi cho bọn nó, bọn nó lấy đăng, kí tên nó, uổng lắm!”
Vậy mà trong lúc ông Nguyẽn Mạnh Tường bị cắt tem phiếu thì ông Trần Kim Thạch biểu tình bị nhốt ở Tổng nha Cảnh sát được trường Khoa học xin về để chấm thi! Sau 1975, nhiều trí thức tốt nghiệp ờ phương Tây đã nhân danh Cách mạng tiếp quản một số Đại học ở Miền Nam, và sau đó thì vượt biên! Dân biều đối lập Nguyễn Hữu Chung chỉ biết sơ qua về Cộng sản, về chế độ Miền Bắc mà dấn thân đi làm chính trị. (Đỗ Quyên, sđd, tr. 231-260).
Còn một sinh viên tranh đấu từng nếm mùi Côn Đảo, tố cáo Chuồng cọp thì thú nhận với bạn bè: “Hồi đó tao có biết Hà Nội là gì đâu!”
[20] Cả chuỗi tiến trình tiền sử Phùng Nguyên - Đồng Đậu - Gò Mun - Đông Sơn được giới sử học Miền Bắc coi như công trình nghiên cứu lớn góp vào việc phát hiện về thời tiền-Hùng Vương, chứng minh được niềm hãnh diện “4000 năm văn hiến” thế mà sau 75, một sử gia thú nhận rằng đó chỉ là do “yêu cầu chính trị” mà có. Trong cơn hăng say, giới khảo cổ học quên sách vở, có lúc cho nền Văn hoá Hoà bình là của Việt Nam (vì nó có ở tỉnh Hoà Bình!), còn một học giả Paris theo dà chiến thắng cho đó là thuộc thời kì tiền-Văn Lang, một vạn năm trước! Có thể xem sự độc bá diễn đàn sử học Việt Nam của Đảng đối với người Việt bên ngoài nước đến những năm 80 ở tờ Đất Việt (Canada số tháng 3-1986). Chúng tôi không biết hơn.
[21] Trịnh Công Sơn đã được gọi là “Bob Dylan Vietnam”. Tuy nhiên khi Joan Baez hát chống chiến tranh Việt Nam, chỉ là chơi trò lí tưởng “không lập trường Giai cấp” nên khi hát cho Kampuchia (1979) đã bị tờ Nhân Dân chê là “lầm lạc”, bị bọn xấu gạt gẫm.
[22] Có thể so sánh một chừng mực về tinh thần chiến đấu năm 1975 ở Việt Nam với các phe ở Triều Tiên năm 1950. Người ngoại quốc chứng kiến cảnh lính Kim Nhật Thành như hùm sói trong khi lính Lí Thừa Vãn chạy như vịt! Không phải vì họ là người khác nước mà vì họ được đào tạo trong các “lò” khác nhau, và tình hình cho đến nay đã chứng tỏ chiến thắng không phải là yếu tố quyết định cho sự phát triển của đất nước.
Sau chiến tranh, người Mĩ tò mò đi nhìn mặt kẻ thù xưa với hàm ý thán phục. Tiện dịp, người chiến thắng không biết đến giới hạn của mình, đã có lần cho diễn lại chiến tích từng thực hiện trong cơn mê cuồng. Tội nghiệp cho người nữ anh hùng Thanh Hoá với cái sổ tiết kiệm nhỏ nhoi nuôi dưỡng tấm thân đơn côi bệnh hoạn, làm sao có thể vác hùng hục một tạ quân dụng như xưa kia! Tuy nhiên, niềm hãnh diện chiến thắng đến nay vẫn là chỗ bám víu thành nếp trong lòng cả đám dân đói rách nay chối bỏ chế độ họ đã từng phục vụ để ra đi nằm chầu chực trong các trại Hongkong, có khi chỉ với dự tính đánh một ván bài thời cơ:
“Thằng chồng tôi nó bảo đi nhanh về kịp vụ gặt. Đánh bạc với Liên Hợp Quốc có mất hào đếch nào đâu!... Sang kiếm bảy chỉ về cho nhanh!” (Đỗ Quyên, sđd, tr. 147). Từ điều này, những người bên ngoài không chứng kiến vẫn có thể hiểu cách hành xử của những người đi vào Nam thống nhất đất nước và cầm quyền lớn nhỏ ở đây.
[23] Hãy nhìn xem tình trạng sử dụng công thự, hệ thống giao thông sau 75. Thay đổi nổi bật nhất ở Miền Bắc là về phương diện in ấn. Báo Nhân Dân được in đồng thời ở Hà Nội, Đà Nẵng, TP. HCM; lối in màu xuất hiện qua các giai đoạn nhợt nhạt, vụng về rồi tinh xảo dần, tuy các sách báo cần trình độ cao cấp thì vẫn phải in ở TP. HCM. Chủ đích chính trị đã làm nổi bật phương diện này. Trung tá O. North trở lại Việt Nam (1993) biết được các dụng cụ bệnh viện ở Nam Việt Nam đã được gỡ đi, chuyển ra Bắc. (O. North & D. Roth, One More Mission. New York 1993.) Còn máy móc chở đi thì đã không được sử dụng đúng mức.
Cuối những năm 80 khi Miền Nam phát triển lại, Sài Gòn đã ra Bắc lôi các máy móc chở ra sau 75 bị bỏ phế về dùng lại (như các máy điện trong mùa khô 91).
[24] Chuyện khôi hài là người ta đã đổ hồ sơ trường Đại học Văn khoa Sài Gòn ra bán ve chai để lấy tiền liên hoan bê tái, dễ gì đã có! Trong những vụ án đưa ra xử, các người gốc “nguỵ” hay có hơi hướng như thế thường làm dê tế thần cho các cấp uỷ Đảng. Ví dụ như vụ Minh Hải (đổi mới kiểu sứ quân trước khi Trung ương cho phép... mà thất bại!) có cựu dân biểu Dương Văn Ba lãnh án tù chung thân với các cấp uỷ lãnh án tù treo; vụ cháy IMEXCO với một người tốt nghiệp Đại học Khoa học cũ, để báo Tuổi Trẻ lẩy Kiều: “Cả nhà vinh hiển riêng oan một nàng!”
[25] Cũng vì vị trí đặc biệt của tỉnh này (nay đã chia ba) mà ranh giới Nam Bắc đã xuống dưới đèo Hải Vân. Bây giờ, thay vì gọi hai “miền” Nam Bắc, người ta dùng chữ “phía Nam”, “phía Bắc” trong quản lí nhà nước với những co giãn tròng tréo đã trở thành quen thuộc. Và nội dung xử lí đối với hai Miền vẫn nổi lên một thứ trung ương mang tính địa phương đến mức nhỏ mọn: chuyện chỉ đạo trong các giải thể thao sau 1975 bắt phía Nam phải thua (danh thủ X. không nghe theo, bị phạt nhiều và vô lí đã đập vợt phản đối, và sau đó vượt biên sang Úc), chuyện lộn xộn chuẩn bị SEA Games 16 bắt buộc tập trung huấn luyện phía Bắc trong những thao trường tồi tệ, tổ chức luộm thuộm, chuyện huấn luyện Judo vốn là mặt mạnh của Miền Nam trước kia... Ấy là chuyện thể thao, nổi được trên trang báo!
Tất nhiên không cần nhắc đến nhiều về sự phân biệt hai lớp văn nghệ sĩ phản kháng: Doãn Quốc Sỹ, Hoàng Hải Thuỷ... bị lên án nặng nề vì là những “tên phản động, tay sai không chịu hối cải” còn những XYZ vốn là những công thần, cựu đảng viên chỉ là làm việc “sai trái”, “lệch hướng”, quá lắm thì bị gọi là “phủ định quá khứ”... Một Dương Thu Hương liều lĩnh hơn cũng chỉ bị nhốt vài tháng! (Tất nhiên trong cảm tình riêng tư ta có thể thở phào cho Bà, nhưng rõ ràng tính chất “người của Hệ thống” vẫn còn đó trong cung cách xử lí sau hồi “li khai”.) Và cho đến năm 1998, với sự xuất hiện của những Hà Sĩ Phu, Trần Độ... trình bày những ý tưởng ngược với chủ nghĩa xã hội, kết quả được lãnh những lời chê trách hoặc bản án nhẹ nhàng (tương đối) thì Đoàn Viết Hoạt vẫn bị coi là “tù hình sự”.
[26] Những người làm văn hoá, sau 1975, muốn giương danh (rất ít) thì phải “tự nguyện” đổi tên. Dân biểu đối lập Lí Quý Chung cũng như nhiều người khác chỉ có thể để tên thật hay biệt hiệu cũ trong những bài tố cáo chế độ cũ, tán dương chế độ mới vào những dịp hiếm hoi 30-4, 19-5, 2-9. Ông chủ báo danh tiếng một thời với thế lực Chợ Lớn đã tiếp tục viết báo để có thể khoe rằng mình viết rất tự do dưới chế độ mới tuy rằng hàng ngày ông chỉ bàn chuyện đá banh – mà dưới một tên khác. Được đi Liên Xô (1980) cùng với một số người (sau này lại vượt biên!), đi Philippines (1991) cả sau khi đám mượn tiếng du lịch đã vượt biên, mãi đến năm 1991, cái tên Lí Quý Chung mới được xuất hiện với báo Lao động Chủ nhật trong một bài bình luận chính trị để biểu diễn. Hành trình “phấn đấu” sao mà đầy gian khổ và nhục nhằn!
[27] Có thể nghe giọng nói để nhận ra các chức vụ chủ chốt trong cấp uỷ Đảng, chính quyền ở quận huyện, phường thuộc TP. Hồ Chí Minh là dân Nam Ngãi thuộc Liên khu V cũ. Thói quen sử dụng lịch sử đã qua để làm nòng cốt cho lập luận chính trị hiện tại khiến người ta thấy phong trào Tây Sơn, vốn xuất hiện ở Miền Nam, có thể dùng làm biểu tượng cho thống nhất, cho luận đề “nông dân khởi nghĩa” chiến thắng phong kiến, xâm lăng. Các nhà nghiên cứu Miền Bắc đổ xô vào Miền Nam theo chỉ đạo, đã phối hợp với các cấp uỷ tỉnh để tổ chức những cuộc “hội thảo khoa học lịch sử” (Bình Định 1977, Sài Gòn 1979, Tiền Giang 1984, Phú Xuân Huế 1986/1992) tiếng là nghiên cứu về Tây Sơn nhưng là để công kích các sử gia “phản động” và xoay quanh vai trò chiến thắng thống nhất đất nước (như Đảng đã làm) với kiến thức cũ mèm từ các viện Hà Nội trước 1975, và cũng không ngần ngại lượm lặt sách vở và ý kiến của “bọn nguỵ”.
Có lẽ chính lớp người thua thiệt mà bị chính trị thúc ép nhất này đã cho ta thấy tính chất mâu thuẫn của các trí thức Miền Bắc phô bày trong cung cách ứng xử theo nhịp của thời thế. Có sự bướng bỉnh bám chặt vào kiến thức hạn chế – nhưng cũng đủ để loè bịp lãnh đạo – có sự tủi nhục vì thuần phục qua thời luồn lách trong “lí tưởng” nhờ chiến thắng có cơ hội vênh váo trút đổ lên người khác, đồng thời với tính cách chơi trội cho bản thân để có thể hưởng thụ trực tiếp hay gián tiếp từ sự sụp đổ của Miền Nam. Có thể thấy ông X nhanh nhẹn tìm đọc các sách đã xuất bản mà xưa kia ông không biết, rồi công bố như một luận thuyết được phát hiện lại, và lắng nghe tiếp thu ý kiến của các đồng nghiệp còn run sợ tránh né, để đi xa trên đường “đổi mời” làm bực mình chính quyền nuôi dưỡng ông, tuy họ vẫn hành động theo cái nghĩa “Đổi mới là lấy lại cái cũ bị vứt bỏ vì bị coi là của kẻ thù, nay dán nhãn hiệu của mình”.
[28] Trước khi những nhà văn được gọi là “phản kháng” xuất hiện ở Miền Bắc thì những nhà văn vào Sài Gòn, có thị trường tiêu thụ, có độc giả đòi hỏi khác, đã viết những tác phẩm tuy còn trong vòng “văn dĩ tải đạo (CS)” nhưng cũng đã lệch ra ngoài lối dạy bảo người lớn đi thưa về trình. Các tác giả tuy có gặp cản trở nhưng không khí chung khiến cho một vài nhà lãnh đạo địa phương gồng mình cho phép, và sách được hoan nghênh. Nguyễn Mạnh Tuấn gần đây đã kể lại nỗi truân chiên của mình trong lúc “nhân dịp” kỉ niệm một người đã chết (Hà Mâu Nhai).
Cũng vì thị trường rộng mở muốn thoả mãn nỗi luyến tiếc quá khứ – như chuyện nhạc vàng, nhạc phản động – các nhà xuất bản trong Nam (lây qua nhà xuất bản Hải Phòng với Lệ Hằng) in ào ạt các tác phẩm cũ trước 75, 45 từ tiểu thuyết qua khảo cứu (cũ mèm) khiến những người chủ trương thu lợi nhuận khá nhiều, cho vào túi riêng, nuôi sống cơ quan, và Đảng được tiếng không có phân biệt đối xử nữa. Nhưng tiếp theo là những lời phiền trách, cay cú, giận dữ của những kẻ chậm chân, lạc lõng, cố giữ vững lập trường, luyến tiếc một thời nuôi dưỡng. Tháng 9-1992, trong 7 nhà xuất bản địa phương bị đóng cửa có 6 ở phía Nam nhưng vẫn tiếp tục có Kim Dung từ Sài Gòn, ngồi trong quán sách nhà nước và đầy các nơi cho mướn ở Hà Nội.
[29] Đây chính là điều kiện tồn tại của Đảng, để Đảng nắm chính quyền. Chính tính chất hội kín đã khiến cho việc giải tán Đảng (11-1946) chỉ là hành động phỉnh gạt với bên ngoài chứ cả cơ cấu vẫn hoạt động đều hoà, hơn cả thời thuộc trị vì không phải lo sợ bị ruồng bắt nữa mà còn dựa vào tầng lớp đang lãnh đạo nước để mở rộng thêm cơ sở. Khả năng điều hành thấp kém của trung ương còn thấy núp bóng trong những việc đại loại “Lấy ý kiến toàn dân”, lạm dụng thể chế “nhà nước với nhân dân cùng làm” để bóc lột sức dân... Khả năng lãnh đạo chỉ vừa đủ với một tầm mức địa phương nhỏ đã dẫn đến việc phân quyền cho tỉnh, huyện (có khi đến phường, xã) tự túc ngân sách (nghĩa là sống còn, cai trị) để từ đó nảy ra các vụ giành giật đầu tư, chia phần khai thác từng dịch vụ, khu vực nhỏ, nổi bật là các vụ tham nhũng, buôn lậu của cơ quan Đảng và công quyền trong “Đêm trước của Đổi mới”mà thành quả cũng là đóng góp vào việc cứu vãn chế độ khỏi bị sụp đổ.. Có thể mượn một câu nói cũ (nghe rằng của Thủ tướng VNCH Trần Văn Hương): “Bài trừ tham nhũng thì lấy ai... lãnh đạo?”Và kêu gào “Sống và làm việc theo pháp luật” thì nhà nước lớn nhỏ làm sao sống, dân chúng đâu có nghe lời Đảng, sợ Đảng nũa?
[30] Có một thứ văn chương truyền khẩu phản cách mạng, nặng nề hơn lời nuối tiếc kia. Dưới đây là hai ví dụ tiêu biểu của hai vùng:
a. Chung quy chỉ tại vua Hùng
Đẻ ra một lũ khùng khùng điên điên.
Thằng khôn thì đã vượt biên,
Thằng ngu ở lại không điên cũng khùng.
b. Một thằng lên vũ trụ,
Mươi thằng đi Mút cu,
Nghìn thằng ăn uống lu bù,
Để dân năm mươi triệu đói thò cu ra ngoài.
TÀI LIỆU
Biến chuyển tháng 4-1975 và những rối loạn tiếp theo đã đẩy một lớp người Việt ra ngoài nước mang theo cả những lối sống, nề nếp suy nghĩ tuy có cố gắng tìm kiếm thích ứng nhưng căn bản vẫn như cũ, lại mượn kĩ thuật trên đất tạm dung để khuếchtrương lớn rộng hơn so với thời trong nước, hay bất chợt gây biến động làm xôn xao đất khách. Trường hợp thứ nhất của vấn đề ta đang bàn ở đây là Thanh Hải Vô Thượng Sư. Bà cho rằng chỉ cần niệm “Nam mô Thanh Hải Vô Thương Sư” là đủ tai qua nạn khỏi (thay vì:Nam mô Quan Thế Âm Bồ tát!) Bà (ít ra là theo bề ngoài) tổ chức được những hoạt động truyền đạo có tầm mức lớn, từ khu vực cũ Á Đông như Đài Loan, đã muốn lấn qua khu vực Mĩ La tinh, lại sử dụng kĩ thuật truyền thông mới như tổ chức họp báo, đại nhạc hội (bỏ tiền mời được gia đình Phạm Duy phục vụ), khiêu vũ, cho phổ nhạc thơ Đạo của mình (hình như đã làm ảnh hưởng đến nhạc Thiền của dòng Phật Giáo chính thống di tản bây giờ)...
Trường hợp thứ hai là ông Đạo Trần Văn Trường, thuộc phái Ông Tư ông Tám gì đấy, người làm xôn xao vùng Orange County, chính xác hơn, khu phố Bolsa của nơi vẫn được gọi là Thủ đô của người Tị nạn Việt Nam. Biến động tuy gây ra từ một nhân vật vốn không có gì xuất sắc, nhưng mang tính cách tiêu biểu nên không thể bỏ qua hành trạng của ông ta được.
Trần Văn Trường với tên viết theo lối Mĩ Truong Van Tran, bỏ mất chữ lót, trở về tiếng Việt thành Trần Trường trong các biến động trên báo Việt ngữ từ năm 1999. Tài liệu dẫn theo đây cho thấy con người và ý thức “chính trị” của ông trước khi xảy ra vụ lộn xộn. Không chỉ đích danh mình nhưng ta thấy ông muốn cho biết mình gốc làng Long Bửu (Vĩnh Long cũ) trên bờ sông Hậu Giang (“Trường Giang”), “vượt biên tị nạn sang Mĩ từ năm 1980”, chủ nhân cửa hàng bán dụng cụ âm thanh điện Hi-Tek trên đường Bolsa, thành phố Wesminster, Orange County, California. Tài liệu đính kèm kêu gọi mọi người đến nghe “buổi giảng thuyết đặc biệt...ngày 23-12-97 tại Hi Tek... là “Chính trị Việt Nam”. “Người xưng vua Trần Văn Trường” đã theo lối Mĩ, không phí sức làm công quả như mấy ông đạo xưa nên căn dặn ai “muốn đến tham dự buổi thuyết giảng trên xin đặt mua vé vào cửa với giá $100 dollars, Money Order gởi về Truong Van Tran ở địa chỉ trên”. Tài liệu cho ta thấy đầu óc diễn giả 7 năm sau khi đến Mĩ vẫn còn tràn ngập những ý tưởng từ trong nước. Trước đó người ta không chú ý nhiều đến ông đạo Trần này, mãi đến sau biến động 1999 mới chợt nhớ ra để gom góp các câu chuyện về ông, trong đó có việc ông thuyết giảng hay ho, được săn đón, mời mọc nên đòi các “đệ tử”phải chứng tỏ lòng tin phục bằng cách chịu lòn qua háng ông, có chụp hình người khăn đóng áo dài thi hành rõ ràng!
Tuy nhiên dù sao thì cũng là chuyện hậu-75, một thứ Việt Nam / Việt Nam Cộng Hoà nối dài ở Mĩ nên ông đề xướng trong hội Long Hoa có “người anh em Quốc Gia phải chịu khổ hạnh về tinh thần điêu luyện du học hải ngoại”. Rồi Đổi mới ở Việt Nam dẫn đến ý tưởng “Người anh em Cộng Sản (Việt Cộng) đóng vai trò thống nhất đất nước và giữ nước”. Hẳn là từ ý tưởng sau cùng này, sau một chuyến về thăm quê hương, đã khiến ông đem treo một khung nhỏ hình Chủ tịch Hồ Chí Minh và lá cờ đỏ sao vàng (cũng nhỏ) phía sau quầy hàng của ông. Chuyện êm thấm khoảng chừng một vài tháng (ở xứ này ai lo phận nấy, người ta thấy cũng chỉ xầm xì) cho đến khi có một nhóm nhỏ phản đối, và lan ra báo chí, cộng đồng biểu tình rầm rộ trong khung cảnh luật pháp Mĩ. Người biểu tình theo lối ăn vạ ở Việt Nam (được sử dụng nhiều lần trong công tác chống Mĩ cứu nước) bị đè trói lăn quay ngay trước ống kính phóng viên, vì tội “gây nguy hại cho trẻ em”. Ông Trần Trường kiện ra toà được xử thắng (theo First Amendment, tự do tư tưởng), được cảnh sát yểm trợ với các đài truyền hình lớn theo dõi, rước hình Hồ Chủ tịch, trang trọng treo về chỗ cũ sau khi cả hai vợ chồng vái lạy thật kính cẩn. Biểu tình ồn ào hơn nhưng có trật tự hơn vì rút kinh nghiệm đã qua. Cảnh sát Westminster phải kêu gọi viện trợ từ các thị trấn chung quanh, nợ nần chịu không nổi, liền xoay qua cách khác: lục soát Hi Tek, bắt chủ nhân ra toà về tội sang băng lậu – chuyện làm ăn thường ngày từ lâu ở phố Bolsa! Báo Register của Orange County cuối năm đã bình bầu đây là vụ nổi bật nhất trong năm 1999 của cộng đồng di dân. Tất nhiên là chính quyền trong nước không chịu bỏ qua người tử đạo của mình ở hải ngoại nên không chỉ truyền thông báo chí rầm rộ mà có cả các văn nhân học giả cũng vẽ vời tán tụng thần tượng. Ông Trần Trường lại có dịp bày tỏ “chính kiến” tiến bộ của mình qua phỏng vấn của báo chí quốc nội.
Những sự kiện nhỏ gần đây, khuất lấp hay không phát sinh to chuyện, đã chứng tỏ cái đuôi đạo Long Hoa theo thời thế vẫn chưa dứt ở một con người. Năm 2004 trên các báo Việt ngữ ở Bolsa đăng những quảng cáo dày đặc hai trang lớn về Cáo phó tang lễ của gia đình Truong Van Tran, nhân dịp đó có nêu tước vị Tiến sĩ của người chủ, nêu thánh vị tự phong của các bậc sinh thành (có phiên bản chữ Anh đàng hoàng!) Lại một quảng cáo khác không kém phần to lớn, báo cho biết ông Truong Van Tran, người quen với gia đình các nhân vật cao cấp Trung Quốc: Đặng Tiểu Bình, Giang Trạch Dân, sẽ đòi lại cho dân Việt Nam hai tỉ rưỡi dollars đang nằm ở đâu đó. Rồi nhân dịp thành phố Garden Grove ra thông báo ngăn chận phái đoàn chính thức của Việt Cộng đến khu Bolsa (chủ-đất sợ sinh rối loạn tốn tiền còn “quần chúng” thì coi là chính nghĩa đã thắng!) thì Trần Trường lại xuất hiện trên toà Thị chính Westminster, nhân danh tự do, ra tuyên bố phản đối khiến cảnh sát lại phải mệt nhọc hộ tống ông ra về. Với chút ngông nghênh đòi làm vua, làm minh chúa cho Việt Nam, cho cả thế giới không được, đến chịu thu mình làm thần tử vương triều Cộng sản mới mà vẫn thất bại, ông phải rời cơ sở kinh doanh đi làm mướn, bị đồng nghiệp nhận mặt, xầm xì, đành đi phát báo hàng ngày để sinh sống, vậy mà ông Đạo Trần Trường vẫn nhất định không từ bỏ vai trò giương danh của mình trong thời mới.
Đọc hết tài liệu dẫn sau, người ta có thể xem thường con người quấy đảo kia, nhưng xét sự việc đã thành hình, rõ ràng to lớn hơn người khởi động, thì nên bình tĩnh để nhận ra một khía cạnh quan trọng trong trình độ, tâm thức của người Việt, về một yếu tố cấu thành lịch sử Việt Nam, ít ra là trong giai đoạn gần đây, và bây giờ. Là người ở thế hệ thứ hai của dòng Di cư 1954 vào Nam mà nói thành thạo chuyện hội Long Hoa, Minh vương... điều đó, một lần nữa, lại chứng tỏ được sự quyến rũ cao độ của phong trào “ông Đạo” trên đất Nam Bộ. Ta còn được dịp so sánh thêm, ở một tầm mức cao hơn, ví dụ, với lí thuyết huênh hoang không dẫn chứng của Lí Đông A về Hà đồ Lạc thư của dân Việt đã được Kim Định khai triển trong trường Đại học Miền Nam trước 1975 rồi ngày nay vẫn có vị trí trong đất nước thống nhất, để khỏi cười cợt về “viễn vọng”của một ông đạo cuối mùa, sống giữa một nhóm người thất cơ lỡ vận không tìm dược phương hướng trong đà đổi thay nơi đất gốc cũng như ở xứ “tạm dung”, chỉ còn mỗi một việc là gặm nhấm thất bại trong vai trò “cứu nước”,hục hặc chửi bới nhau trong thế “tự do” của kẻ bên lề.
Bản sao tài liệu sau đây sẽ rán giữ nguyên trạng trong chừng mực có thể được. Sai lệch nhiều nhất là vị trí các dấu giọng phải theo khuôn mẫu của VNI nên không đúng với nguyên bản, ví dụ dấu huyền của chữ “hoà” được đặt trên chữ a thay vì trên chữ o của nguyên bản, theo lối viết cũ.
MINH VƯƠNG VIỆT NAM
TẠI SAO VIỆT NAM CẦN PHẢI CÓ VUA?Tại vì dân tộc tính của người Việt Nam nói riêng cũng như bản chất của người Á Đông nói chung. Mỗi một cá nhân thì rất giỏi, nhưng trong thâm tâm từng người một không ai chịu phục ai. Tức là ai cũng muốn làm lãnh tụ cả, nhưng không chánh thức bộc lộ. Vì thế đi vào cơ cấu tổ chức thành nhóm rất khó phát triển, mọi kế hoạch gì đưa ra hình như không có kết quả hửu hiệu như người Phương Tây.Hoang tưởng nào thì cũng như nhau, đâu có cần mang danh hiệu cao hay thấp!
Nhìn lại kinh nghiệm lịch sử cận đại nhất của nước Việt Nam chúng ta trãi qua bao triều đại. Từ Đệ Nhất Cộng Hoà, nhân dân và chính quyền luôn luôn không ngừng chống báng đã phá, bôi nhoạ, chỉ trích, bất phục, phá hoại lẩn nhau cho đến khi sụp đổ thời Đệ Nhất Cộng Hoà ấy. Tưởng mọi sự hiềm khích, chống báng bôi nhoạ, phá hoại lẫn nhau sẽ không còn nữa, hay lắng dịu bớt đi phần nào! Đằng nầy những tệ trạng ấy chẳng những không thuyên giãm mà lại còn, ngày một gia tăng thêm, đến thời Đệ Nhị Cộng Hoà cấp lãnh đạo cũng rất khổ sở trong tình trạng hục hặc bất đồng chống đối lẩn nhau, cuối cùng trong sự đau buồn bỏ nước ra đi, tạm dung nơi xứ lạ.
Đến bây giờ trên hai mươi năm trên đất khách bản chất nổi loạn, chống phá, xuyên tạc, bôi nhoạ, chia rẽ, bất tuân, bất kính, bất hoà với nhau, dường như nó đã trở thành một thói quen tập tục. Những sự kiện tệ hại kể trên:
- Là một loại bùa ếm dân tộc Việt Nam đau khổ triền miên, muôn đời chỉ biết làm nô lệ, và bị lợi dụng.
- Là một thứ tâm bệnh trầm kha của dân tộc Việt Nam.
- Công nghiệp của người Việt Nam cả vốn lẩn lời đến đây trả đã đủ. Lá bùa ếm ấy, những tệ trạng ấy, phải được tháo gở. Một vị vua sáng suốt mang thân xác của một người trai trẻ Việt Nam sẽ tuần tự tháo gở những lá bùa thâm độc ấy nó đã thấm sâu trong nảo của người Việt Nam. Lá bùa vô hình sẽ được hoá giải bằng “ánh sáng của nhân điện nảo” ánh sáng nầy được truyền đi bằng ngôn ngữ, bằng chấn động phát ra từ bộ nảo, qua thể xác con người bằng trực giác, bằng diện đối diện, hay là trong giấc ngủ giáng tiếp nhận được trong không gian vô cực.
Khi được giải xong tự nhiên người Việt Nam và nước Việt Nam sẽ trở nên hùng mạnh vinh quang. Chẳng những mười tám nước đến học tại Việt Nam như kinh sấm Trạng Trình và một số kinh sấm các tôn giáo khác đã tiên đoán trước mà là một trăm lẻ tám nước khắp hoàn cầu đến phò minh chúa và học về thuyết khoa học siêu nhiên, chính trị siêu nhiên văn hoá siêu nhiên và xã hội siêu nhiên....
Bửu giang Thiên tử xuấtHai câu thơ trên được trích ra từ trong Sấm Trạng Trình đã tiên đoán được năm trăm năm về sau: Là sau nầy có một vị vua rất sáng suốt từ trên trời sai xuống dạy con người của quả đất nầy và còn mách trước nơi vị vua đó được sanh ra tại Việt Nam.
Bất chiến tự nhiên thành
Địa danh Bửu là tên của một làng gọi là Long Bửu. Giang là tên của một khúc sông được gọi là Trường Giang. Đây là sự việc có thật một trăm phần trăm phải chăng đó là sự trùng hợp ngẩu nhiên hay là có sắp xếp của tạo hoá.
Thiên tử xuất: Người sinh ra ở địa danh nầy đang cư ngụ tại Quận Cam, vượt biên tị nạn sang mỹ từ năm 1980. Từ nhỏ sinh ra người nầy đã được trời đất và khí hạo nhiên ấp ủ điêu luyện rất kỷ. Có thể thay đổi ở một nhịp độ phi thường từ đó xảy ra những hiện tượng giống như là bệnh tật triền miên, chết thì giống như gần chết, nhưng không chết, còn sống thì nữa tỉnh nữa mê. Đến năm 11 tuổi người nầy có gặp một vị chơn tu (vị nầy được gọi là chơn tu vì cả đời ông không bao giờ biết xài tiền và cũng không bao giờ nhận tiền bố thí của một ai; tự làm, tự sống và tự tu, ông ấy hiện còn sống tại Việt Nam).
Vị chơn tu nầy cho biết miếng đất người nầy đang ở có một long mạch chảy xuất từ trước nhà cho đến sau nhà và ông cũng cho biết người nầy sau nầy có một sứ mạng rất lớn không những chỉ riêng cho Việt Nam mà còn cho cả thế giới nữa.
Hiện tại người nầy có lúc siêu thức trong nảo làm việc thì rất thông minh, sáng suốt, tranh luận lí luận xuất chúng, có lúc phàm thức hoạt động trong nảo thì khù khù khờ khờ có khi thì lại giống như một người điên, cười la lẩn lộn nhưng chỉ trong tình thương.
Mười năm về trước người nầy đã xuất hiện thuyết giảng về đạo đức và dự định từ đạo đức sẽ hướng độ qua chính trị đạo đức Việt Nam. Nhưng lúc ấy nghiệp quả của người Việt Nam còn quá nặng, vốn lời trả chưa hết, cũng như trình độ dân trí của con người trên quả đất nầy lúc bấy giờ còn thấp kém hơn so với hiện tại.
Bất Chiến Tự Nhiên Thành Tức là không dùng chiến tranh để xây dựng hoà bình và cũng không dùng súng đạn, bạo lực để thành công. Mà chỉ dùng minh triết lời nói phát ra nhân từ của điện nảo soi sáng cho các nhà lãnh đạo chính trị Việt Nam nói riêng thế giới nói chung và từ đó họ sẽ tìm ra được một phương thức mới hữu hiệu hơn để giáo dục sửa đổi xã hội. Chính trị, Kinh tế và chủ yếu là con người. Tất cả mọi việc tuần tự sẽ thành công và toại nguyện theo một chiều hướng biết kết hợp tự nhiên.
Thời điểm đã đến:
Ngày lành tháng tốt bước raHai câu thơ trên đã tiên liệu trước về thiên cơ ám chỉ về người nầy trong cuốn sách của tiến sĩ Lê Trung Trực với tựa đề là “Điển Quang Biện Chứng Pháp”.
Đứa thì than khóc đứa kêu cha
Để tránh sự hiếu kỳ tò mò vô ích cũng như sự vô tình phạm thượng. Người nào mở tâm ra bắt được ý trời (hiểu dược Thiên – Cơ).
Buổi giảng thuyết đặc biệt sẽ khai mạc đúng 7pm – 9pm
ngày 23 - 12 - 97 tại:
Hi Tek- Cộng Sản và Tư Bản đấu nhau trên mảnh đất Việt Nam sẽ gặp nhau ở một điểm khi hai đường thẳng song song đối nghịch đến tột cùng của nó sẽ gặp nhau ở một điểm vô cực (vòng tròn), Điểm gặp nhau ấy còn gọi là Long Hoa Hội khai màn.
9550 Bolsa Ave. #125. Westminster. CA 92683
Đề tài thuyết giảng đặc biệt là Chính trị Việt Nam
muốn đến tham dự buổi giảng thuyết trên xin đặt mua vé vào cửa vơí giá là $100 dollars. Money Order gởi về Truong Van Tran ở địa chỉ trên.
- Người anh em Cộng Sản (Việt Cộng) đóng vai trò thống nhất đất nước và giử nước.
- Người anh em Quốc Gia phải chịu khổ hạnh về tinh thần điêu luyện du học hải ngoại.
- Đến lúc Minh Vương xuất hiện sẽ khai trí mở huệ cho hai người anh em nầy thức tỉnh và giác ngộ được một điều là anh em chúng ta đều là nạn nhân của Thế Cờ Quốc Tế cả.
- Và từ đó xã hội chủ nghĩa là bước thang nối tiếp qua bước thang Đạo Đức.
- Chủ nghĩa Cộng Sản là bước thang nối tiếp qua chủ nghĩa con người Đạo Đức.
- Chính trị VN, Cộng Sản VN không cần phải sụp đổ, chế độ không cần phải thay đổi, chỉ cần gạn lọc tuyển chọn những vị thánh nhân đạo đức sẽ thể hiện qua kết quả của việc làm hàng ngày trà trộn trong chính quyền, ngoài chính quyền, trong nước, ngoài nước chờ đúng thời cơ lộ diện và liên kết chặt chẻ một lòng một dạ với nhau dưới trên như một.
Mỹ, Nga, Tàu là 3 nước lớn trên quả đất nầy, họ đã thi thố tài phép với nhau trên mảnh đất VN. Về khía cạnh lương Tâm của con người đại trí thức. Nước Mỹ đã dẩn hàng đầu về kỹ thuật, khoa học, lẫn kiến thức đạo đức. Nước Mỹ tất nhiên phải chứng minh với tất cả các nước trên thế giới bằng cách là giúp đở cho nước Việt Nam xây dựng lại mọi mặt, đẹp nhất thế giới, Đạo đức nhất thế giới, và đó cũng là một thí điểm của quả đất nầy, tuần tự sẽ noi gương theo. Sau phần thuyết giảng là phần đối đáp, đặt câu hỏi trong tinh thần ôn hoà.
Mua mau kẻo hết vé, vì số vé rất giới hạn:
Trưởng ban tổ chức: Nguyễn Thị Kim Khanh
Người Xưng Vua: Trần Văn Trường.
(Chép lại ngày 31 tháng Bảy 2004.)
Xét lại ý định bộc lộ trong tờ Rơi quảng cáo kia thì ông Đạo Trường cũng chỉ coi việc trưng bày hình, cờ như là một sự công nhận mang tính giai đoạn cho chế độ Cọng sản, theo ông, đó chỉ là giai đoạn Quá độ dẫn đến thời kì Làm Vua của ông mà thôi. Hẳn là phản ứng dữ dội của cộng đồng Di tản đã làm lệch bước chiến thuật trong chiến lược của ông trên con đường mơ mộng thành đạt.
Chuyện tháng 3 năm 2006:
Theo tin trên đài BBC tháng Ba 2006 và cuộc tranh luận tiếp theo, cùng bài bình luận của tờ Việt Báo (California) thì ông Trần Trường sinh năm 1961 ở Miền Nam nhưng thuộc gia đình di cư 1954, đã trở lại Việt Nam đầu năm 2005, về sống ở ấp Hoà Tân, xã Tân Hoà, huyện Lai Vung, tỉnh Đồng Tháp, đào ao thả cá và bị dây vào một vụ kiện, nay đang ở giai đoạn bị toà án địa phương phong toả tài sản.
Chuyện lại cũng sôi nổi gây ra tình trạng bênh, chống tuy rằng không ồn ào như năm xưa. Thật ra thì cũng phải thấy tội nghiệp cho một con người sống quá-phận, không làm chủ được đời mình mà cứ mơ tưởng là xoay đổi được thời thế. Và cũng tội nghiệp cho những người xung quanh bị lôi cuốn theo cơn điên của thời đại vì một nhân vật không đáng phải bận tâm vào lúc khác. 23-3-2006
Chuyện nghe bên lề là hình như nhà nước Việt Nam đã chen vào thu xếp vụ kiện trên theo hướng có lợi cho ông Đạo để thực hiện đúng chính sách của Nghị quyết 36 đối với Việt kiều – cũng như đã làm chìm vụ phản đối sự đề cao Phạm Duy vào thời gian gần đó, trong đó sự thắng thế của quyền lực Nhà nước có sự tiếp tay của kinh tế thị trường qua vai trò của tập đoàn khai thác biểu diễn Phương Nam.
Hi vọng chuyện ông Đạo chấm dứt từ đây để như một bằng cớ nhỏ của thời đại dân Việt chuyển qua một giai đoạn khác. 5-2006
Chuyện tháng 9 năm 2006:
Nguyễn Tiến Văn viết trên Talawas “ai điếu” Đào Mộng Nam (hình như chết 26-8-06) cho biết ĐMN là Hộ pháp của phái đạo Vô Vi “Ông Tư, Ông Tám” chỉ cách tu xuất hồn trong những nghịch cảnh. Ông Tư là Đỗ Thuần Hậu, Ông Tám là Lương Sĩ Hằng. Không biết gì về những người này, chỉ biết ĐMN hơi bốc láo, xưng hô lung tung trong đời sống, đến trên tin tức ở tờ Người Việt CA 30-6-06 mà cũng nói rằng “dạy Hán Nôm ở Đại học Cornell”! 1-9-06.
© Thông Luận 2009