Chủ Nhật, 6 tháng 9, 2009

Biên Giới Việt Nam: vùng tiếp giáp tỉnh Quảng Tây Trương Nhân Tuấn

Biên Giới Việt Nam: vùng tiếp giáp tỉnh Quảng Tây [1] (Trương Nhân Tuấn)
“…Biên giới giữa hai nước Việt Nam và Trung Quốc xưa nay được xác định do các cửa ải hay các đoạn biên giới thiên nhiên như sông, suối hay núi… Dân chúng hai bên biên giới biết rõ các giới hạn này. Việc xác định lại đường biên giới lịch sử là xác định lại những cửa ải hay đoạn biên giới thiên nhiên ấy…”
1 2 3

Lời tác giả: Bài này viết theo không gian của “biên giới lịch sử”, tức vào thế kỷ 19 trở về trước. Thời điểm này tỉnh Quảng Đông có chung biên giới với Việt Nam, từ biển cho đến Bắc Cương Ải. Đây cũng là chương 2, có sửa đổi và nhuận sắc, trích từ quyển sách Biên Giới Việt Trung 1885-2000 – lịch sử thành hình và những tranh chấp do tác giả xuất bản năm 2005. Đây là lần đầu tiên hồ sơ này được công bố toàn bộ trên mạng internet.


Tài liệu tham khảo: - Ðại Thanh Nhất Thống Chí (DTNTC) 大清一統志 (in năm 1764 theo lệnh của vua Càn Long, trọn bộ 500 quyển) và Ðại Thanh Hội Ðiển Ðồ (DTHDD) 大清會典圖 (80 quyển, in năm 1818), qua bản dịch của ông Devéria: La Frontière Sino-Annamite – Description géopraphique et ethnographique (d’après les documents officiels traduits pour la première fois). l’Ecole des Langues Orientales Vivantes xuất bản, Paris năm 1886. Thư viện AOM, cote D 1198.

Đơn vị đo chiều dài trong DTNTC và DTHDD là “lý”, có độ dài khoảng 400 mét, tác giả trong bài này đổi ra là “dặm” cho phù hợp với các tài liệu dẫn từ tiếng Việt.

Độ dài “lý” trong các biên bản Pháp-Thanh có độ dài là 561m, tác giả giữ nguyên danh từ “lý” để phân biệt với “lý” có độ dài 400 mét.

- Hồ sơ phân định biên giới 1886-1894, CAOM, Aix-En-Provence, Pháp dưới mã số Indo, GGI. Gồm có: Cartons: 65353, 65354, 65355, 65356, 65357, 65358, 65359, 65360. Carton: 31735 hồ sơ phân định biên giới Vân Nam. Carton 19234: Hồ sơ biên giới 1896-1910. Carton 41928: Hồ-sơ thuốc-phiện Vân-Nam 1898-1902. Mã số Indo, GGI, EM/ 1887: Cote 46 Affaire Ðèo Lương. Cote 142 Reconnaissance Porte de Chine. Cote 16 Attaque du poste de Ban-Gioc. Cote 46 Opérations nécessitées par l’occupation du canton de Tu-Long. Indo, GGI, EM//1894/142. EM//1893/16. EM//1887/142.

Ngoài ra tác giả còn tham khảo các tài liệu sau đây (cho vùng biên giới Quảng Tây):

- Deloustal, Les Mines de Tu-Long. Thư viện AOM. Cote B 2899 ou B 6326.

- Dévéria, Histoire des Relations de la Chine avec l’Annam du XVI au XIX siècle. AOM, cote 1134/ 13.

- Famin, Au Tonkin et sur la frontière du Quang-Si. Thư viện SOM, cote C 43.

- Fourniau, Charles, La Fixation des Frontières Sino-Vietnamien. Luận án Tiến Sĩ. Thư viện AOM. Cote 7134/13.

- Les Frontières du VietNam. Histoire des Frontières de la péninsule Indochinoise. Paris, L’Harmattan. 1989. AOM. Cote 42934.

Và nhiều tài liệu khác.

Một yếu tố khác, dân chúng sống trên vùng biên giới Việt-Trung phần lớn là dân tộc thiểu số: Tày, Nùng, Mèo, Thái v.v… Địa danh các làng, xã ở đây (chưa được thống nhất bằng Việt Ngữ) được gọi bằng nhiều tên khác nhau: tên Hán, tên Việt và tên địa phương, trong đó tên địa phương và tên Hán thì phổ biến nhất.

Vùng tiếp giáp Quảng Đông, các làng xã thường gọi là “động” (La Phù động, Động Trung…), “na” (Na Triệu, Na Hoài, Na Lương…) v.v... vùng tiếp giáp Quảng Tây gọi là “na”, “lũng” (Lũng Cú, Lũng Nghiêu…), “thôn”, “bản” v.v… Vùng tiếp giáp với Vân Nam gọi là “trại” (như Cẩu Đầu Trại, Nam Trại), “xã” (như Tụ Nghĩa Xã, Hữu Bằng Xã…), Mường (Mường Khuơng, Mường Tung…), Na (hay Nà), Bản, Lũng v.v.

Khi người Pháp cùng nhà Thanh phân định đường biên giới, vì các lý do chính trị, triều đình nhà Nguyễn hoàn toàn không có mặt trong công tác phân định và phân giới. Các biên bản phân định và phân giới đều viết bằng tiếng Hán và tiếng Pháp. Tiếng Pháp ở đây, tên các làng xã (địa danh), hầu như là phiên âm từ tiếng địa phương, do các thông dịch viên người địa phương (người dân tộc thiểu số) vừa biết (chút ít) tiếng Pháp vừa biết chữ Hán. Việc biên khảo của một người làm nghiên cứu hải ngoại, do thiếu tài liệu tiếng Việt đối chiếu, vì thế rất khó khăn, phải dựa trên các tài liệu chữ Hán. Tuy nhiên, nhiều tài liệu chỉ có bản tiếng Pháp, do đó các địa danh phải để nguyên bản, tức viết theo lối phiên âm từ tiếng địa phương (Tày, Nùng... đôi khi tiếng Hán) sang tiếng Pháp. Vì thế sẽ có nhiều thiếu sót và sơ suất, xin phiền bạn đọc bỏ qua. Nhưng nếu có thể góp ý bổ túc được, tác giả trân trọng cám ơn.

Về tên gọi nước Trung Hoa, nhiều học giả có ý trách móc vì sao người viết dùng chữ Trung Quốc mà không dùng Trung Hoa để chỉ nước (Tàu). Trung Quốc, theo nhiều người, là tiếng của… Trung Cộng, ta không dùng. Thực ra, từ Trung Quốc mà người viết sử dụng ở đây không phải của họ Mao hay họ Tưởng, mà là tiếng đã được sử dụng để khắc trên các tấm bia xác định biên giới, tức trước khi Mao hay Tưởng sinh ra. Trên các tấm bia (vùng Quảng Tây) ta có thể đọc: Trung Quốc – Quảng Tây Giới. Do đó Trung Quốc ở đây vượt ra ngoài các ý thức hệ chính trị.
Phần thứ nhất:
Ðường biên giới lịch sử

Biên giới giữa hai nước Việt Nam và Trung Quốc xưa nay được xác định do các cửa ải hay các đoạn biên giới thiên nhiên như sông, suối hay núi… Dân chúng hai bên biên giới biết rõ các giới hạn này. Việc xác định lại đường biên giới lịch sử là xác định lại những cửa ải hay đoạn biên giới thiên nhiên ấy. Nối các cửa biên giới, các đoạn biên giới thiên nhiên (dòng sông, suối, rặng núi…) ta có được một đường biên giới cụ thể. Đường biên giới đó hiện hữu từ nhiều ngàn năm nay, ta gọi là đường biên giới lịch sử.

Vài thí dụ về biên giới thiên nhiên:

Sông Ðổ Chú, biên giới tổng Tụ Long, tỉnh Tuyên Quang với phủ Khai Hoá tỉnh Vân Nam.

Sông Ðàm Lân là biên giới động Kim Lạc, sông Mang Khê là biên giới động Liễu Cát, sông Tam Kỳ là biên giới động Tư Lâm (Tư Phù), Sông Cổ Sâm là biên giới động Cổ Sâm... với đất Tàu [1].

Núi Phân Mao, phía Ðông Nam phủ Khâm Châu, là một ngọn núi trong rặng Thập Vạn Ðại Sơn (rặng núi này chạy ra tới biển, chấm dứt tại Long Môn). Dưới chân núi Phân Mao có trụ đồng do tướng Mã Viện dựng lên vào năm 41 Tây Lịch, đánh dấu biên giới tỉnh Quảng Ðông (Trung Quốc) với Việt Nam.

v.v.

Ðoạn biên giới tiếp giáp giữa tỉnh Quảng Tây thuộc Trung Quốc với các tỉnh Việt Nam; bên Quảng Tây gồm hai phủ Thái Bình và Trấn An và bên Việt Nam gồm hai tỉnh Lạng Sơn và Cao Bằng; bắt đầu từ Bắc Cương Ải, là giao-điểm 3 đường biên giới Quảng Ðông - Quảng Tây - Việt Nam, đến Nhan Ðộng Hà Ca 顏 洞 河卡, giao điểm 3 biên giới Quảng Tây – Vân Nam và Việt Nam.

1. Các cửa ải, sông, suối, núi… biên giới theo Việt sử:

Có các cửa ải:

Quan trọng nhất là cửa Nam Quan hay Đại Nam Quan, vì nó là cửa chính thức, chỉ được mở ra trong các dịp lễ nghi, trao đổi sứ bộ giữa hai nước (xem thêm phần phụ lục về Nam Quan).

Ngoài ra còn có các của ải sau:

“Phía bên phải ải Ðại Nam có ải Bang ở châu Lộc Bình, ải Tầm Bang thuộc xã Tam Lộc, ải Khấu Sơn ở xã Cần Lua, ải Du ở xã Bảo Lâm. Bên trái ải Ðại Nam có 20 ải: ải Bố Sa, ải Sơn Tử thuộc xã Tiên Hội, ải Học Mô thuộc xã Hành Lư, ải Bản Dương, ải Bản Quyên ở xã Lạc Khư, ải Nguyên Anh, ải Bình Công ở xã Khánh Môn, ải Bình Nhi thuộc xã Cửu Dương, ải Bắc Bố, ải Khấu Trung thuộc xã Nghĩa Ðiền, ải Ba Tạm, Cảm Môn thuộc xã Cự Khánh, ải Na Mân, ải Khô Thịnh ở xã Nghĩa Khản, ải Kiều Lễ, Kiều Lân không biết thuộc xã nào, ải Cốc Ngoạ ở xã Bình Lục, ải Hoa, ải Mộ thuộc xã Nông Ðồn. [2]”

Ải Du Thôn, ở địa phận Du Thôn, xã Bảo Lâm, châu Văn Uyên. Ải này phía Bắc giáp thôn Ðiếu Sách, thuộc châu Thượng Thạch, Trung Quốc. Từ đây đến cửa Ðại Nam, đi đường núi, mất 2 canh rưỡi. Thương buôn và khách thường thì đi qua lại ở cửa này.

Ngoài ra ở châu Thất Khê có cửa Na Thông, châu Văn Nguyên có cửa Bình Nhi là hai cửa thuỷ quan đi đến Long Châu. Na Thông thì do sông Hiến Giang ở Thái Nguyên, Bình Nhi thì do sông Kỳ Cùng ở Lạng Sơn chảy ra; hai sông gặp lại thành Long Giang [3].

Ta nhận thấy có thể ải Na Thông chính là Thuỷ Khẩu Quan và sông Hiến Giang có thể là Bằng Giang. Sông Bằng Giang và sông Kỳ Cùng gặp nhau tại Long Châu và trở thành sông Tả Giang hay Long Giang.

Sông và núi làm biên giới thiên nhiên giữa Việt Nam và Trung Hoa thì Việt sử không ghi rõ rệt. Chỉ có ghi về “ngọn Cao Mẫu Sơn hay Công Mẫu Sơn là ranh giới phía Ðông của Châu Lộc Bình với tỉnh Quảng Ðông [4]”. Theo Ðại Thanh Nhất Thống Chí thì Công Mẫu Sơn thuộc Tư Châu (tức Tư Minh Châu). Thực tế thì ngọn Công Mẫu Sơn hoàn toàn thuộc về Việt Nam theo công-ước 1887 [5].

2. Các cửa ải, sông, suối, núi biên giới theo Ðại Thanh Nhất Thống Chí

2.1. Phủ Thái-Bình (Tai-ping fou 太苹府):

Toạ độ: Vĩ tuyến 22° 25’, kinh tuyến 104° 47’ 10’’ (kinh tuyến Bắc Kinh, do các nhà truyền giáo Jésuites ghi nhận). Có 8 huyện thuộc phủ Thái Bình tiếp giáp với Việt Nam, đó là các huyện (châu): Tư Châu (Sse-tcheou思州), Tư Lăng Châu (Sse-ling tcheou 思陵州), Thượng Thạch Châu (Chang Che tcheou 上石州), Ninh Minh Châu (Ning-ming tcheou 寧明州), Bằng Tường Châu (Pin-siang tcheou 憑詳州), Long Châu hay Hạ Long Tư (Long-tcheou hay Hia Long sse下龍州) , Thượng Hạ Ðông Châu (Chang hia Tong-tcheou 上下東州) và An Bình Châu (Ngan-ping tcheou 安苹州).

Hình 1: Phủ Thái Bình theo kinh tuyến Bắc Kinh của các nhà truyền giáo Jésuites. Theo đó biên giới Việt Nam (khu vực Quảng Đông) là sông Lục Thuỷ (Lu-chuoei) (góc phải, phía dưới)

Ghi nhận:

Tất cả những châu, huyện ghi trên, ngoại trừ Ninh Minh Châu, người Hoa gọi là thổ châu 土州, có nghĩa là châu, huyện của dân tộc thiểu số. Những vùng đất thuộc Quảng Tây dân chúng không thuộc giống Hán phần lớn do thổ ty lãnh đạo, chức vụ này cha truyền con nối, do triều đình sắc phong. Những châu, huyện trên không quan trọng vì phủ Thái-Bình chỉ có khoảng 3 cây số đường chu vi.

Hình 2: Thái Bình Phủ theo Ðại Thanh Nhất Thống Chí

Mặt khác, những châu, huyện của thổ dân kể trên có khắp ở trên vùng biên giới Quảng Tây và Vân Nam. Dân chúng sinh sống tại đây có thể nói là “bán độc lập”, tạo thành một vùng “phên dậu, chư hầu”, gọi là “Tư”. Những thổ ty lãnh đạo là người địa phương. Các sắc dân thiểu số bị gọi chung là “mán”, có nghĩa là dân man rợ phương Nam [6].

2.1.1 Huyện Tư Châu: Biên giới Việt Nam cách 180 dặm ở về phía Ðông Nam và 100 dặm về hướng Tây Nam. (ÐTNTC, q 365, tờ 4). Có núi: Ngọn Công Mẫu Sơn [7] 公母山, cách Tư Châu 120 dặm về phía Nam. Trên đỉnh ngọn núi nầy có hai ngọn nhô cao lên, có dạng người (ÐTNTC, q 365, tờ 10). Núi Ma Thiên-Lãnh 摩天嶺, cách Tư Châu 15 dặm về hướng Nam, còn gọi là Quái Bảng Sơn 褂榜山. Trên núi nầy có nhiều bậc đá trải dài hàng mấy mươi dặm. Những bậc đá này xếp lại như hình vảy cá và đỉnh núi thì trọc (sđd, tờ 11). Phía Tây Tư Châu khoảng 20 dặm thì có những tảng đá tên gọi Phi Tiên Nham 飛仙巖, là ranh giới với Ninh Minh Châu (sđd nt).

Ải và cửa biên giới: Niệm Thê Ải (Nien-ti ai 念梯 隘) [8] cách Tư Châu 120 dặm về hướng Ðông. Ải này tiếp xúc với biên giới tỉnh Quảng Ðông và biên giới Việt Nam. (Như thế, nếu không có gì thay đổi, ải này cũng là Bắc-Cương ải, ghi chú tác giả).

Phía Nam Tư Châu có các cửa ải biên giới như sau: Ải Niệm Khất (Nien-ki ai 念乞 [9] 隘), ải Ðà Diễn (T’o-yen ai 馱演隘), ải Ðà Phu (T’o-fou ai 馱膚隘).

Phía Tây Nam Tư Châu có ải Lê Long (Li-long ai 棃 龍) 隘và ải Ná Hội (Na-houei ai 那 會隘).
Phía Ðông Nam Tư Châu có cửa ải Quyền Tương (Kouan-siang ai 權 相隘).
Tất cả các cửa ải trên đây đều có quân lính canh gác (sđd, tờ 10)

Hình 3: Thái Bình Phủ theo Ðại Thanh Hội Ðiển Ðồ 大清會典圖

2.1.2 Tư Lăng Châu: Biên giới Việt Nam cách 35 dặm về hướng Tây Nam và 50 dặm theo hướng Ðông Nam (sđd, idem). Có núi Ðông Lăng Sơn (Tong-ling san東 陵: ) cách 40 dặm về hướng Ðông (sđd, tờ 10).

Ải và cửa biên giới: Ải Ná Hà [10] (Na-ho ai 那 河隘) cách Tư-Lăng Châu 30 dặm về phía Tây. Ải này mở cửa thông thương với châu Lộc Bình (sđd, tờ 18). Ải Biện Cường ( Pan-tsiang ai 辨 強隘) cách Tư Lăng Châu 40 dặm về phía Bắc. Người ta còn gọi là Biện Cường Ðộng 辨 強 峒. Riêng người Việt Nam thì gọi ải này là Biên Cương Ải [11].

2.1.3 Thượng Thạch Châu: Còn gọi là Thượng Thạch Tây Châu, biên giới Việt-Nam (thuộc lãnh vực của huyện Văn Uyên 文淵, tức Ðồng Ðăng) 30 dặm về hướng Tây và 25 dặm về hướng Tây Bắc (sđd, tờ 5). Cách 20 dặm về phía Bắc có vùng đá tảng Bố Long Nham 布龍巖; tại đây có một khe sâu vài trăm bộ, trong đó dân làng dùng làm nơi tồn trữ ngũ cốc (sđd, tờ 11).

Ải và cửa biên giới hai vùng Thượng Thạch và Hạ Thạch Châu: Ải Do [12] (Yeou ai 由 隘) ở cách 30 dặm về hướng Tây Thượng Thạch Châu, còn gọi là Lục Trúc Lang, ải này thông qua châu Văn Uyên (Ðồng Ðăng) và được một đội quân canh gác (sđd, tờ 18). Ải Ly Nhạc (Lo-yoh ai 罹 岳隘) cách 30 dặm về phía Tây Bắc Hạ Thạch Châu (sđd, nt).

2.1.4 Ninh Minh Châu: Biên giới cách 70 dặm về phía Nam. Từ Ninh Minh Châu đến biên giới huyện Vân Uyên 150 dặm theo hướng Tây Nam (sđd, tờ 2). Bạch Mã Ðộng (白馬), cách 25 dặm về phía Tây Nam châu Ninh Minh. Tại đây chảy ra một dòng suối có độ sâu hơn trăm bộ (sđd, tờ 11).

Ải hay cửa biên giới: Ải Na Tiếu ( Na-siao ai 那肖隘) ở phía Nam châu Ninh Minh, ở kế bên Bản Lập Ải [13] ( Pan-li ai 板 立 隘).

Về phía Tây Nam Ninh Minh Châu gồm có các cửa ải sau: Ải Ðông Môn (Tong-men ai 東 門隘), ải Khấu Sơn (K’eou-chan ai 扣 山隘), ải Ly [14] (Lôh ai 罹隘), ải Bản Kiếp (Pan-kou ai 板刧隘), ải Bản Hội (Pan-houei ai 板會隘), ải Bản Long (Pan-long ai 板龍隘), ải Bản Lật (Pan-piao ai 板凓隘).

Tất cả những cửa ải này đều có quân canh và mở sang biên giới Việt Nam (sđd, tờ 18).

2.1.5 Châu Bằng Tường: Ðường biên giới ở 20 dặm về phía Tây và cách 30 dặm về hướng Nam. Từ Châu Bằng Tường đến châu Văn Uyên cách dặm, theo hướng Ðông Nam. Từ Bằng Tường đến biên-giới là 8 dặm theo hướng Ðông Nam (ÐTNTC, q 365, tờ 6).

Cửa Trấn Nam (Tchen-nan kouan 鎭南關), cách 45 dặm về phía Tây Nam châu Bằng Tường, còn gọi là Ðại Nam Quan (Ta-nan kouan大南關). Ðây là cửa chính thức của hai nước. Hai bên là núi đá cao tận mây và cửa Ðại Nam được xây ở giữa. Ở mỗi bên cửa là một bức tường dài 1190 bộ (khoảng 337m). Cách 30 dặm là trạm Pha Lũy Dịch 坡壘驛 thuộc An Nam, đây là nơi sữa soạn để đưa phẩm vật triều cống sang Tàu (ÐTNTC, q 365, tờ 17).

Ngoài ra có ải Ba Khẩu (Pa-k’eou ai 巴[15]口隘), cách 8 dặm về phía Tây, ải Quyên Thôn (Kiuen-k’souen ai 絹村隘) cách 20 dặm về hướng Tây, ải Bình Công (Ping-kong 平公 隘) 25 dặm về hướng Tây Bắc. Tất cả các ải này đều có quân canh gác (sđd, tờ 18).

2.1.6 Long Châu: Còn gọi là Hạ Long Tư下龍司, biên-giới cách 80 dặm theo hướng Tây và 100 dặm theo hướng Tây Bắc ( idem). Có động Tử Hà (Tze-hia tong 紫霞洞) cách 30 dặm về phía Nam. Phía dưới hốc núi này có sông Tả Giang (sđd, tờ 11). Núi Tú Lĩnh (Sieou-ling秀嶺), cách Long Châu 90 dặm về phía Tây Nam. Núi này tiếp cận với phủ Cao Bằng và huyện Thất Khê (sđd, nt). Ðộng La Hồi (Lo-houei tong羅廻洞) ở về phía Tây Long Châu.

Ải hay cửa biên-giới: Bình Nam Quan (Ping nan kouan平南關) cách Long Châu 90 dặm về hướng Ðông Nam; cửa này thông qua An Nam (sđd, tờ 18). (Thực tế cửa quan nầy tên là Bình Nhi Quan. Hai chữ “Nam 南» và “Nhi爾” viết gần giống nhau nên gây ra lẫn lộn). Ải Na Hoài (Na-houei ai 那懷隘) cách Long Châu 65 dặm về hướng Tây Nam. Tiếp giáp với ải trên là ải Bế Thôn (Pi-tsouen ai 閉村隘).

Ải Duệ Thôn (I-tsouen ai 曳村隘), ải Cảm Thôn (Kan-tsouen ai 敢村隘) và ải Canh Thư (Keng-y ai 更且[16] 隘) ở phía Tây Long Châu. Ba ải này kiểm soát những con đường đi sang Việt Nam và chúng được lính và dân quân địa phương canh gác.

Thuỷ Khẩu Quan (Chouei-keou kouan水口關) ở cách Long-Châu 95 dặm về hướng Tây Bắc, cửa quan này mở sang Việt Nam. Theo ÐTNTC thì cửa này ở trên sông Ki-y-ki ( ?). Sông đến từ Cao Bằng, đoạn này mang tên Mang Giang (trên bản đồ của Việt Nam thì hạ lưu sông có tên gọi là Ðà Hoà). Sông này hiện nay mang tên là Bằng Giang.

Hợp Hữu Quan (Ho-che kouan 合右關), cách Long Châu 100 dặm theo hướng Tây Bắc. Cửa mở sang Việt Nam. (sđd, nt).

Ải Vũ Ðức (Ou-teh ai 武德隘) ở phía Tây Bắc Long-Châu. Kế cận ải này có: Ải Hà Thôn (Ho-tsouen ai 苛村隘), ải Lũng Cửu (Long-kieou ai 隴久隘). Các ải này có canh gác và mở sang biên giới Việt Nam.

Các cửa ải Bổng Thôn (Fong-tsouen 俸村), Ðẩu Áo (Teou-ngao斗奥 và Úm Bố (Ngan-pou唵布 [17] ) ở phía Bắc Long Châu, đều có lính hay dân quân địa phương canh gác. Các ải này kiểm soát những con đường dẫn sang Việt Nam.

Phía Bắc Long Châu có các cửa ải: Củng Thôn (Kong-tsouen 拱村), Na Miêu (Na-miao 那苖), Bả ? (Pa-mé把 ?), Noãn Tái (Nouan-sai 暖 賽). Các ải này có canh gác và mở ra biên giới Việt Nam.

2.1.7 Huyện Thượng Hạ Ðông Châu: biên giới ở 22 dặm về hướng Tây và 30 dặm theo hướng Tây Bắc (sđd, tờ 5). Có núi Củng Thiên Lĩnh (Kong-tien ling拱天嶺) cách huyện đường 10 dặm về hướng Nam. Theo Ðịa Chí dưới thời nhà Minh thì dãy núi này tạo thành một chuổi dài trên 10 dặm, tiếp giáp với biên giới Việt Nam về phía Ðông Nam (ÐTNTC, qs 365, tờ 11).

Ải và cửa biên giới: Ải Du Hoá (Yu-hoa 萸化隘) cách huyện đường 20 dặm về hướng Tây. Ải mở sang biên giới, có đồn canh gác (sđd, tờ 18), Ải Bố Cục (Pou-kiu 布局隘) cách huyện đường 30 dặm về hướng Tây Bắc. Ải cũng mở sang biên giới Việt Nam và có đồn canh gác (nt).

2.2 Những dòng sông ở phủ Thái Bình:

2.2.1. Sông Long 龍, hay Long Giang 龍江, còn được gọi là Long Thuỷ 龍水, Lý Giang 鯉江, Ðại Giang 大江 hay Tả-Giang 左江, được hợp thành từ hai con sông khác bắt nguồn từ Việt Nam. Sông đầu tiên là Ki-y-ki (tức sông Bằng-Giang). Sông này sau khi qua biên giới, chảy qua phần đất phía Tây huyện Long Châu, tại đây sông nhận một nhánh đến từ phía Bắc, sau đó chảy về hướng Ðông Nam huyện Long Châu. Sông thứ hai mang tên là Ping-ting-ki (tức sông Kì Cùng), cũng đến từ Việt Nam, sau khi chảy qua Long Châu thì chảy theo hướng Ðông. Sông nhận một phụ lưu chảy từ phía Nam theo hướng Ðông Bắc. Hai sông họp lại thành ra sông Long (Long Giang, Long Thuỷ), chảy ở phía Bắc huyện Ninh Minh Châu và nhận ở phía Ðông phụ lưu thứ nhất là sông Minh Giang đến từ phía Nam. Theo hướng Ðông Bắc, sông Long (trở thành Lý Giang) nhận thêm một hợp lưu thứ hai ở phía Tây của phủ Thái Bình, đến từ phía Tây Bắc, có tên Qui Thuận. Tiếp-tục chảy về phía Ðông, sông Long mang tên Ðại Giang, chảy vòng qua phủ-đường Thái Bình, chảy qua phủ Nam Ninh, tại đây sông mang tên Tả Giang và nhận một nhánh lớn có tên Hữu Giang 右江, sau đó đổ vào sông Tây Giang 西江 chảy đến Quảng Châu (Canton)(HT, qs 125, tờ 11).

Sông Long (Long Thuỷ) chảy qua phía Nam huyện An Bình Châu, có một phụ lưu đến từ Cao Bằng (Việt Nam) và một phụ lưu khác đến từ huyện Hạ Lôi Châu. Sông Long có nhiều ghềnh thác nguy hiểm, lòng sông chứa đầy đá sỏi, nước cạn, thuyền bè không thể lưu thông được. (ÐTNTC, qs 365, tờ 13).

Ðiểm ngừng của thuyền bè cách huyện-đường Long Châu 40 dặm về phía Ðông, mang tên Ðà Hà Ðộ 馱河渡, có nghĩa là bến bắc Ðà Hà

2.2.2 Ghi nhận:
Minh Giang, nhánh nam ngạn của Long Giang hay Tả Giang, có 2 nguồn: một phía Nam và một phía Bắc và hai nguồn này cùng mang tên Lục Thuỷ (nước xanh). Nguồn phía Bắc thuộc lãnh địa Quảng Tây. Minh Giang bắt nguồn từ rặng Thập Vạn Sơn và đổ vào sông Long Giang tại Long Châu. Sông có nhiều đá, thuyền lớn khó đi. Theo bản đồ Nam Ninh Phủ của các nhà truyền giáo Jésuites thì biên giới cũ của Việt Nam ở về phía Bắc sông Minh Giang.
Sông Tiểu Thuỷ chảy ở phía nam Thượng Thạch Châu. Sông này đến từ huyện Văn Uyên (Ðồng Ðăng), đến gần phía nam Ninh Minh Châu thì nhận thêm một phụ lưu đến từ châu Bằng Tường. Sông chảy phía đông thành Hạ Thạch Châu, chảy qua vùng phía nam Ninh Minh Châu sau đó chảy vào Minh Giang. Lưu lượng sông Tiểu Thuỷ không lớn, lòng sông cạn, nhiều đá, không lưu thông được. (ÐTNTC, q 365, tờ 12)

Sông Niệm Tước Thuỷ (Nien-sioh chouei 捻削) chảy cách Tử Lăng Châu 22 dặm về phía Ðông, bắt nguồn từ Na Hoa Ải.

Sông Giác Ngạch (Kuo-ying chouei 角硬) chảy phía Nam Tử Lăng Châu, bắt nguồn từ núi Giác Ngạch, chảy về phía bắc 20 dặm và nhập vào sông Niệm Tước Thuỷ.

Suối Bản Lật (Bản Lật Khê - Pan-piao ki 板栗溪) đến từ phía tây nam Ninh Minh Châu, gặp một sông khác đến từ phía tây, chảy theo hướng đông-bắc, chảy từ phía đông Ninh Minh Châu về phía bắc và đổ vào Minh Giang.

2.3 Trấn An phủ (Tchen-ngan fou 鎭安府): Phủ đường Trấn An ở vĩ độ 23° 20’ 25’’, kinh độ 103° 59’10’’. Toạ độ này do những nhà truyền giáo Jésuites quan sát vào thế kỷ XVIII. Dân số toàn Thái Bình phủ thời đó là 105.627 suất đinh. Có tất cả 3 huyện thuộc phủ Trấn An giáp giới với Việt Nam, đó là: Hạ Lợi Châu, Qui Thuận Châu và Tiểu Thiên An.

Trấn An, còn gọi là Thiên Bảo, cách huyện Quảng Nguyên (Cao Bằng) 350 dặm theo hướng Ðông. Có núi Luân Sơn (Louen-chan 倫山) ở phía nam, cách 90 dặm (ÐTNTC, qs 366, tờ 4). Có Luân Ải cách 80 dặm về phía Nam (nt, tờ 9). Có trại quân Hồ Nhuận (Ho-joun 湖潤) ở phía Tây, cách Trấn An 180 dặm, cách huyện Qui Thuận (còn đọc là Qui Xuân) 2 dặm về hướng đông và cách biên giới Việt Nam 25 dặm theo hướng bắc (nt, tờ 3).

2.3.1 Hạ Lôi Châu 下雷州 (huyện của dân địa phương, thổ dân): Biên giới Việt Nam, theo hướng tây cách 40 dặm, hướng Tây Nam cách 40 dặm (ÐTNTC, qs 366, tờ 2). Ải Tchouan-yen ( ?) cách huyện đường 40 dặm theo hướng tây nam. Ải mở ra biên giới huyện Thượng Lãng (Cao Bằng) (nt, tờ 9).

2.3.2 Châu Qui Thuận 歸順州: Biên giới Việt Nam cách châu này 65 dặm theo hướng nam và 85 dặm theo hướng tây nam (nt, tờ 1). Có núi Bài Ma Sơn (Pai-mo chan 排蘑山) ở phía nam và cách 30 dặm (nt, tờ 3), dãy núi Dĩ Viễn Sơn (Tsieh-yuan chan 屺遠山) ở phía Tây Nam và cách 80 dặm (nt, tờ 5). Dãy Lĩnh Vệ Sơn (Ling-ouei chan 嶺衞山) ở phía tây và cách 150 dặm; dãy núi nầy rất cao, có hình chữ chi và phân chia hai nước Việt-Trung (nt, tờ 4). Có ải Nga Tào (Ngo-tsao 峨漕) ở phía Tây Nam, cách 80 dặm. Ải nầy ở gần trại quân Hồ Nhuận 湖潤 ghi trên và có quân canh (sđd,nt). Ải Tần Ðồng (P’in-t’ong 頻峒), phía Tây Nam, cách 60 dặm. Ải Truân (Touen 屯) ở phía Nam, cách 60 dặm (sđd, nt). Ải Canh Biền (Keng-ping 更 [18] 駢) (một số sách khác ghi Tai Bình災平), phía Nam, cách 80 dặm, có quân canh (sđd, tờ 9). Ải Vinh Lao (Yong-lao 榮勞), phía Tây, cách 70 dặm (sđd, nt). Ải Thượng Câu (Chang-keou上勾), phía Tây Nam, cách 70 dặm (sđd, nt).

Các ải Tần Ðồng, Tuân, Vinh Lao và Thượng Câu thì có quân canh và mở sang biên giới Việt Nam (sđd, nt).

2.3.3 Tiểu Trấn An小鎭安, theo Ðại Thanh Nhất Thống Chí thì phía nam giáp huyện Qui Thuận (nt, tờ 7), có một tường đất xây từ đời nhà Minh bao bọc. Có ải Bình Mãng (Ping-mong 平孟) phía tây nam. Gần ải này có ải Bác Niệm (Pok-nien剝捻) và ải Bác Khám (Pok-k’an 剝勘) (ở phía Tây). Cả ba ải thông thương sang Việt Nam và đều có quân canh (ÐTNTC, qs 366, tờ 9).

Rất có thể tên ải Bắc Niệm được đặt tên cho một dòng sông chảy từ Cao Bằng sang Trung Quốc. Sử Tàu có chép là năm 1788, một vị vua Việt Nam, từ Cao Bằng cùng với 200 người trong hoàng gia, xuôi sông Poh-nien cho đến Long Châu. Vị vua này là Lê Chiêu Thống, sông Bác Niệp (hay Niệm) là sông Bằng Giang của Việt Nam.

Hình 4: Trấn An Phủ theo các nhà truyền giáo Jésuites

Tiểu Thiên An có sông Qui Thuận, bắt nguồn ở phía bắc huyện Qui Thuận, chảy vào huyện này ở vùng tây nam, sau đó chảy về hướng đông (HT, qs 125, tờ 4).

Sông Bác Lai Thuỷ (Poh-lai chouei 駮來水) ở phía đông của sông Qui Thuận, bắt nguồn trên vùng núi tây bắc châu Qui Thuận, chảy về hướng tây nam và chảy vào phía đông phủ Thái Bình (sđd, nt).

Sông Long Ðàm Thuỷ (Long-t’an chouei 龍潭水), chảy cách huyện Qui Thuận 1 dặm về hướng Tây Bắc. Sông có nguồn từ chân núi, chảy qua vùng phía nam châu Qui Thuận, vào tỉnh Cao Bằng. Sông này thuyền bè không lưu thông được (ÐTNTC, qs 366, tờ 6). Long Ðàm Thuỷ là một tên khác của sông Qui Thuận ghi trên bản đồ của các nhà truyền giáo Jésuites. Sông cắt xéo ngang phần phía bắc tỉnh Cao Bằng, chảy vào Việt Nam qua ải Nga Tào (Ngo-tsao 峨漕) và vào lại Trung Quốc qua Ải Canh Biền (Keng-ping 更 [19] 駢).

Ðoạn ghi nhận về sông Long Ðàm Thuỷ ở trên có thể sẽ rất quan trọng để xác định chủ quyền của thác Bản Giốc. Thác này ở trên đoạn sông Long Ðàm cắt xéo qua vùng Cao Bằng, ở khoảng giữa hai ải Nga Tào và Canh Biền.

3. Ghi nhận:

Nếu ta lấy Ðại Nam Quan là điểm chuẩn, từ Ðại Nam Quan đến Bắc Cương Ải (tức về phía tay phải Ðại Nam Quan), biên giới Việt Nam tiếp cận với các châu Bằng Tường, Thượng Thạch, Tư Lăng và Tư Minh. Tài liệu Việt Nam mà tác giả đã tham khảo chỉ ghi được có 5 cửa biên giới: ải Bang ở châu Lộc Bình, ải Tầm Bang thuộc xã Tam Lộc, ải Khấu Sơn ở xã Cần Lua, ải Du ở xã Bảo Lâm. Theo tài liệu Trung Quốc, từ đông sang tây, gồm có: ải Niệm Thê (Bắc Cương Ải), Ải Do, ải Na Tiếu, ải Bản Lập, ải Ðông Môn, ải Khấu Sơn, ải Bản Kiếp, ải Bản Hội, ải Bản Long, ải Bản Lật, Ðại Nam Quan… tức là gồm có 11 cửa biên giới. Ngoài ra có núi Công Mẫu Sơn là ranh giới thiên nhiên.

Từ Ðại Nam Quan đến giao-điểm 3 đường biên giới Quảng Tây, Vân Nam và Việt Nam thì sử Việt Nam ghi nhận có 20 ải: Ải Bố Sa, ải Sơn Tử thuộc xã Tiên Hội, ải Học Mô thuộc xã Hành Lư, ải Bản Dương, ải Bản Quyên ở xã Lạc Khư, ải Nguyên Anh, ải Bình Công ở xã Khánh Môn, ải Bình Nhi thuộc xã Cửu Dương, ải Bắc Bố, ải Khấu Trung thuộc xã Nghĩa Ðiền, ải Ba Tạm, Cảm Môn thuộc xã Cự Khánh, ải Na Mân, ải Khô Thịnh ở xã Nghĩa Khản, ải Kiều Lễ, Kiều Lân không biết thuộc xã nào, ải Cốc Ngoạ ở xã Bình Lục, ải Hoa, ải Mộ thuộc xã Nông Ðồn, Thuỷ Khẩu Quan thuộc Thất Khê.

Theo ÐTNTC, biên giới Việt Nam tiếp cận với các châu thuộc phủ Thái Bình, từ đông sang tây: Bằng Tường, Long Châu, Thượng Hạ Ðông Châu và An Bình Châu. Gồm có các cửa biên giới: Ðại Nam Quan, Ba Khẩu Ải, Bình Công Ải, Bình Nhi Quan, Na Hoài Ải, Bế Thôn Ải, Thuỷ Khẩu Quan, Hợp Hữu Quan, Vũ Ðức Ải, Hà Thôn Ải, Lũng Cửa Ải, Củng Thôn Ải, Na Miêu Ải, Bả Ải, Noãn Tái Ải, Du Hoá Ải, Bố Cục Ải. Ngoài ra biên giới thiên nhiên là núi Củng Thiên Lĩnh (thuộc Thượng Hạ Ðông Châu) và núi Tú Lĩnh (thuộc Long Châu). Tiếp giáp với các châu thuộc phủ Trấn An là Hạ Lôi Châu, Qui Thuận, Tiểu Trấn An. Gồm có các cửa biên giới: Tchoan Yen ( ?) Ải, Tần Ðồng Ải, Truân Ải, Canh Biền Ải, Vinh Lao Ải, Thượng Câu Ải, Bình Mãng Ải, Bác Niệm Ải, Bác Khám Ải. Núi thì có núi Lĩnh Vệ Sơn thuộc châu Qui Thuận.

So sánh giữa Việt sử và sử Trung Quốc, chỉ trùng hợp 5 cửa biên giới trên một đoạn biên giới dài khoảng 1/3 toàn thể đường biên giới. Ðó là các cửa: Khấu Sơn, Ðại Nam Quan, Bình Công Ải, Bình Nhi Quan và Thuỷ Khẩu Quan. Danh sách các cửa biên giới phía bên Việt-Nam được ghi nhận từ tài liệu của Hà Mai Phương và Chu Thu Hằng. Tài liệu nầy mang tên Sử Liệu về Biên Giới Ta và Tàu Từ Ðời Nhà Lý Cho Tới Ðầu Thời Pháp Thuộc (NXB Mai Hiên, PO BOX 1061 Campell, CA, 95009, không đề năm xuất bản). Như thế các cửa này hiện hữu trước khi có công ước Pháp Thanh 1887. Ðặc biệt là không có con sông nào làm biên giới thiên nhiên giữa hai nước trong đoạn biên giới này.

Thật là khó biết bao để xác định một đường biên giới dài trên 500km mà hai bên chỉ có 5 điểm chung. Việc nghiên cứu trên thực địa vì vậy là việc chủ yếu để xác định đường biên giới.

Phụ lục về Nam Quan:

Phương Ðình Ðịa Dư Chí chép: “Cửa quan có ải [20] Nam Quan: ở địa phận hai xã Ðồng Ðăng và Bảo Lâm châu Văn Uyên. Phía Bắc giáp địa giới châu Bằng Tường tỉnh Quảng Tây Trung Quốc, 2 bên tả hữu núi đá cao ngất, ở giữa mở một cửa quan, có cánh cửa có khoá, chỉ khi có việc sứ mới mở, tên là cửa Nam Quan (một tên là Ðại Nam Quan, một tên là Trấn Di Quan, lại có tên là Trấn Nam Quan [21] ”.

Theo Ðịa Chí Loại Tạp Khảo thì “Cửa Trấn Nam (Chấn-Nam) ở trên đường từ Ung Châu đến Lạng Sơn, được mở vào thời nhà Tống, thuộc động Bằng Tường, phủ Tư Minh [22] . Theo Ðại Nam Nhất Thống Chí, “Trấn Nam Quan ở trong nội-địa nước Tàu, dựng dưới thời Gia Tĩnh nhà Minh” (1522-1566).

Theo bản đồ Itinéraires De Chine en Annam “Các Lộ Trình từ Trung Quốc đến An Nam” - được thiết lập dưới triều Nguyên (Mông Cổ), và được Châu Tư Bổn (Tschou-Sse-Peun) chú giải thêm và công bố vào năm 1579, việc thông thương giữa Quảng Tây và thủ đô An Nam là Hà Nội có ba lộ trình. Hà Nội lúc đó tên gọi là Ðông Kinh; Bắc Ninh tên gọi là Kinh Bắc; Thanh Hoá tên gọi là Tây Kinh...

“Lộ trình thứ Nhất: Từ châu Bằng Tường (Ping-shiang-tcheou), qua cửa ải phía Nam (tức Nam Quan), đến Pha Lũy Dịch thuộc châu Văn Uyên, hoặc đi về phía Bắc châu Thoát Lãng, hai lối cùng đến phủ Lạng Sơn trong một ngày đường.”

Qua các tài liệu trên ta thấy cửa “Trấn Nam” đã có trước đời Nguyên, được “mở” vào thời Tống. Việc “Trấn Nam Quan” được “dựng” dưới triều Gia Tĩnh thì có lẽ cần phải phải chú giải thêm cho rõ rệt.

Theo Đại Thanh Nhất Thống Chí thì vào năm 1726, tức năm thứ 2 triều Ung Chính, cửa này được “tu bổ” lại. “Cửa quan dài 110 trượng (khoảng 50m), có đề 3 chữ Trấn Nam Quan, nghĩa là cửa quan để phòng giữ phương Nam. Ðằng sau cửa có đài Chiêu Ðức và đình Tham Ðường, là nơi đón tiếp sứ bộ nước ta”.

Vì vậy, có lẽ ải Trấn Nam được thông mở dưới thời Tống. Ðến triều Minh thì cửa ải có xây một kiến trúc, gồm hai bức tường thành chạy dài lên núi, giữa là một cánh cửa. Cửa được tu bổ lại vào triều Ung Chính nhà Thanh 1726.

Cửa ải này có nhiều tên khác nhau: Ðại Nam Quan, Trấn Nam Quan, Trấn Di Quan [23] v.v.

Theo Phương Ðình Ðịa Dư Chí của Nguyễn Văn Siêu: “Tháng 6 năm thứ 5 triều Vĩnh Lạc, đổi Kê Lăng Quan làm Trấn Di Quan [24] … Trấn Di Quan thuộc huyện Kê Lăng, Pha Lũy Môn thuộc huyện Uyên… Năm thứ 9 ngày 4 ngày Quí Mão, huyện Kê Lăng phủ Lạng Sơn được đổi thành huyện Trấn Di [25], Kê Lăng Ðệ Vận Sở thành Trấn Di Ðệ Vận Sở, ha Lũy Quan Tuần Kiểm tư huyện Thuỷ Lãng châu Thất Uyên thuộc về huyện Uyên».

Trong phần An Nam Bị Lục, phủ Lạng Sơn được mô tả: “ở phía Bắc Giao Châu, cách 530 dặm, năm thứ 2 niên hiệu Vĩnh Lạc, đổi đặt, có 7 châu: Thượng Văn, Hạ Văn, Thất Nguyên, Vạn Nhai, Quảng Nguyên, Thượng Tư, Hạ Tư và 5 huyện là: Khâu Ôn, Trấn Di, Uyên huyện, Ðan Ba, Thoát huyện”. [26]

Theo hai tài liệu trên thì tên đầu tiên của Trấn Di Quan, (tức Trấn Nam Quan, Ðại Nam Quan hay Hữu Nghị Quan sau nầy), là Kê Lăng Quan và hai cửa quan Trấn Nam và Pha Lũy thì hoàn toàn khác nhau. Cửa Trấn Nam, thuộc huyện Trấn Di, là một cửa biên giới còn cửa Pha Lũy thì thuộc huyện Uyên. Theo tài liệu Chu Tử Bổn, Pha Lũy là một trạm để sứ bộ nước ta, trước khi sang Tàu, ngừng ở đây sửa soạn đồ triều cống.

Tuy nhiên, An Nam Bị Lục, phần ghi về phủ Lạng Sơn, có nhắc cửa Lưu Quan. “Ải [27] Lưu Quan ở phía Bắc, thuộc địa giới châu Văn Uyên, lai về phía Nam là Kê Lăng Quan, xa hơn nữa là Cần Trạm. Năm thứ 2 triều Vĩnh Lạc, Hoàng Thông đưa Trần Thiên Bình về An Nam, tiến qua hai cửa quan là Ải Lưu và Kê Lăng, sắp đến Cần Trạm, đường núi hiểm trở, cây cối rậm rạp, quân đi không thành hàng lối, quân phục của An Nam kéo ra giết chết Thiên Bình và quan Ðại Lý Khanh là Tiết Phẩm… Tướng quân Trương Phụ xuất phát từ huyện Bằng Tường, qua Pha Lũy Dịch tiến quân đánh vỡ 2 cửa Ải Lưu và Kê Lăng đến Cần Trạm, lùng soát hai bên đường, phục binh đều trốn hết, bây giờ mới tiến đóng ở chợ Xương Giang, đặt cầu nổi cho quân sang đến khi nước An Nam yên, mới đổi Khê Lăng làm Trấn Di Quan” [28]

Theo mô tả thì ở về phía Bắc Kê Lăng Quan còn có Ải Lưu và cửa quan này cũng thuộc Văn Uyên. Khi Trương Phụ đem quân sang nước ta thì trước tiên đi từ Bằng Tường, qua Pha Lũy Dịch, sau đó cửa ải Lưu và cuối cùng qua Kê Lăng để vào đóng tại chợ Xương Giang.

Theo Phương Đình: “Pha Lũy Dịch ở phía Bắc châu Vạn Uyên 100 dặm, cũng gọi là Pha Lũy Quan. Từ Bằng Tường vào An Nam tất phải qua đường nầy, nay gọi là Pha Dữ Trạm. Dư Trình Ký chép: Từ của quan (Ðại Nam Quan ?) thuộc địa giới châu Bằng Tường, đi về phía Nam 30 dặm đến trạm Pha Lôi (Pha-Lũy ?), lại qua trạm Ðông Bộc, trạm Bất Bộc, trạm Bất Bác, lại 100 dặm đến trạm Bộc Thượng, lại qua trạm Phi Lê, trạm Xương Giang, trạm Chi Kiều, trạm Lã Khôi tất cả 210 dặm qua sông Phú Lương đến thành An Nam”.[29]

Nếu Pha Lôi là Pha Lũy, ta thấy vị trí Pha Lũy Dịch theo Dư Trình Ký thì phù hợp với tài liệu của Chu Tử Bổn.

Như vậy có một mâu thuẫn lớn về vị trí của Kê Lăng (tức Trấn Di Quan, Trấn Nam Quan hay Ðại Nam Quan), Pha Lũy Dịch và Ải Lưu từ các tài liệu dẫn trên. Ta thấy lúc thì có dữ kiện cho rằng Kê Lăng Quan ở phía nam Pha Lũy Dịch, lúc thì cho rằng Kê Lăng Quan ở phía bắc Pha-Lũy Dịch. Vì sao ?

Việc nầy có thể giải thích bằng nhiều giả thuyết. Có thể là do nhà chép sử ngày xưa, tam sao thất bổn. Cũng có thể do người dịch quyển Phương Ðình Ðịa Dư Chí. Ta thấy quyển sách này do nhà xuất bản Văn Hoá Thông Tin Hà Nội phát hành và biên tập là Ðặng Thị Huệ. Lối hành văn vắn tắt, lại không ghi chú chữ Hán, làm cho việc sưu khảo khó khăn. Nhưng cũng có thể Kê Lăng Quan (được đổi thành Trấn Di Quan vào tháng 6 năm thứ 5 triều Vĩnh Lạc, tức năm 1408) thuộc huyện Kê Lăng, không phải là Trấn Nam Quan, thuộc xã Ðồng Ðăng huyện Văn Uyên, ở vị trí hiện thời. Huyện Kê Lăng được đổi thành huyện Trấn Di và huyện này hoàn toàn khác biệt với huyện Uyên [30]. Có lẽ huyện Trấn Di sau này được đổi tên hay sáp nhập vào một huyện khác. Nhưng nếu đoán theo tương đối của vị trí và cách phát âm thì Kê Lăng Quan (Trấn Di Quan) chính là ải Chi Lăng. Huyện Trấn Di có thể đã đổi thành huyện Chi Lăng. Nếu thế Trấn Nam Quan (tức Ðại-Nam Quan) không thể có tên Trấn Di Quan như cụ Nguyễn Văn Siêu và những sử gia Việt Nam đã viết.

Ngoài cửa Ðại Nam (từ nay sẽ gọi là Ðại Nam thay vì Trấn Nam [31] hay Nam-Quan) là một cửa biên giới, theo An Nam Bị Lục thì phủ Lạng Sơn có 3 cửa ải về phía Bắc, nhưng không ghi rõ có phải là cửa biên giới hay không. Ðó là Lưu Quan như đã ghi trên, còn có Lão Thử Quan và ải Quyết Lý. Lão Thử Quan được mô tả ở phía bắc phủ (Lạng Sơn).

Về ý nghĩa của Ải:

Ta nhận thấy các cửa biên giới đã dẫn, có cửa được gọi là “quan”, như Trấn Nam Quan, Bình Nhi Quan v.v… có cửa thì gọi là “ải”. Thực sự thì các từ ải, quan… đều là từ gốc Hán. Các từ này đã được người Hoa sử dụng, đặt tên cho một số các của thông thuơng giữa hai nước Việt-Trung từ hàng ngàn năm nay. Nhưng khi nào thì họ gọi là cửa “quan”, khi nào là “ải” ? Ngoài hai từ này (quan, ải) thì còn từ nào khác nữa?

Theo một tài liệu bằng tiếng Pháp, dịch từ ba trang mang số 15, 16 và 17 ở quyển thứ Nhất của bộ Long Châu ký lược (Longtcheou Ki lio – Abrégé des Anales de Longtcheou), thì người Hoa sử dụng đến ba danh từ khác nhau để chỉ cửa ngõ thông thương giữa hai nước Việt-Trung. Ðó là: QUAN, ẢI và CA (hay Tạp). [Long Châu là một châu quan trọng ở biên giới thuộc tỉnh Quảng Tây, phủ Thái Bình, về phía Ðông giáp châu Bằng Tường, giáp với Việt Nam về phía Bắc Lạng Sơn và phía Ðông Nam tỉnh Cao Bằng]. Theo tài liệu này, số cửa ngõ thông thương từ Long Châu sang Việt Nam gồm có 2 cửa “QUAN”, 14 cửa “ẢI” và 3 cửa “Ca” (thời nhà Thanh còn gọi là “thủ tạp” để chỉ các nơi canh phòng). Chữ “ca”, trong các biên bản tiếng Pháp được viết là “kh’a”, đọc là “ca”.

Hai cửa QUAN là Bình Nhi Quan 苹 而 關 và Thuỷ Khẩu Quan 水 口 關.

14 cửa Ải là Yêm Bố 淹 布 (có bộ “khẩu” 口 đứng trước chữ “bố”), Long Sương 龍 廂 (Ná Lang 那 懶), Cảm Môn 敢 門 (Na Tuyết 那 雪 ), Na Duệ 那 曳 (Bản Khô 板 枯 ), Khiếu Canh 叫 更, (có bộ “sơn” 山 trên chữ “canh”) (Bản Ma 板 厤 ), Bế Thôn 閉 村, Na Hoài 那 懷 (Na Ai 那 哀), Na Hà 那何, Long Mính 龍 茗 (Na Thông那), Hợp Thạch 合 石 (Long Cống 龍 貢). Chữ 那 có thể đọc là Na hay Ná.

Ba cửa Ca là Hồ Tông 葫淙, Khiếu Khâm 叫欽 và Bách Bố 百布.

Như vậy có những khác biệt (ngoài cách viết) về ý nghĩa của QUAN, ẢI và CA. Cả ba cùng có ý nghĩa là cửa thông thương giữa hai nước nhưng chúng khác nhau ở tầm quan trọng.
Tùy theo tầm quan trọng, một của biên giới có thể gọi khác nhau, lần lượt là “quan”, “ải” hay “ca”.

Cửa “quan” có tầm quan trọng hơn hết, có lính canh gác, là nơi chỉ dành riêng cho các việc việc ở mức “quốc gia”, là nơi sứ thần hai bên tiếp xúc với nhau (như Nam Quan).
Cửa “ải” là nơi (có lính canh gác), dành cho dân chúng hay hàng hoá thông thuơng qua lại.
Cửa “ca” là loại của biên giới (có hay không có lính gác), thường xuyên bị đóng.

Như thế các cửa “quan”, “ải” hay “ca” đều có thể là các đồn quân sự nhằm trấn giữ hay kiểm soát nơi biên giới hai nước.

Nhưng có nhiều trường hợp “quan” hay “ải” không phải là các đồn nới biên giới. Ải Chi Lăng hay Quĩ Môn Quan của Việt Nam là các thí dụ. Ải Chi Lăng là một thung lũng do thiên nhiên tạo thành, có hình dáng hẹp, dài 4 cây số. Ải có hai cửa: cửa bắc là Quỷ Môn Quan, của nam là Ngõ Thề. Do tính hiểm yếu của ải, người VN từ xưa đã lợi dụng, khai thác vị trí địa lý hiểm yếu của ải này, xây dựng thêm các tuyến, hay công sự phòng thủ (ải) chống giặc xâm lăng.
Ải vì thế vừa có ý nghĩa địa lý thiên nhiên và vừa có ý nghĩa như một công sự gìn giữ an ninh.

Phần thứ hai:
Ðường biên giới theo Công Ước 1887

Đường biên giới hiện trạng – la frontière actuelle

Đường biên giới giữa VN và Trung Quốc được phân định theo Ðiều 3 của hiệp ước Thiên-Tân 9 tháng 6 năm 1885:

Dans un délai de six mois à partir de la signature du présent traité, des commissaires désignés par les hautes parties contractantes se rendront sur les lieux pour reconnaître la frontière entre la Chine et le Tonkin; ils poseront, partout où besoin sera, des bornes destinées à rendre apparente la ligne de démarcation; dans le cas où ils ne pourraient se mettre d'accord sur l'emplacement de ces bornes ou sur les rectifications de détail qu'il pourrait y avoir lieu d'apporter à la frontière actuelle du Tonkin, dans l'intéret commun des deux pays. Ils en référeraient à leurs gouvernements respectifs”. Tạm dịch như sau: “Trong một thời gian là 6 tháng bắt đầu từ ngày hiệp ước được ký kết, các uỷ viên hai bên được chỉ định đi ra thực địa nhằm tìm hiểu đường biên giới giữa Trung Quốc và Bắc Kỳ (Ton-kin). Các uỷ viên này sẽ cắm mốc ở các nơi cần thiết những cột mốc để làm rõ rệt đường biên giới. Trong trường hợp hai bên không đồng ý về vị trí của các cột mốc, hay về việc sửa đổi các chi tiết có thể sẽ xãy ra trên đường biên giới hiện trạng của Bắc-Kỳ, vì quyền lợi chung của hai bên, các uỷ viên phải đệ trình việc này lên hai chính phủ của họ”.

Như thế đường biên giới phải xác định là đường biên giới hiện trạng – la frontière actuelle.

Do có tranh cãi về ý nghĩa của “đường biên giới hiện trạng”, một thỏa ước được hai bên Pháp-Thanh ký ngày 28 tháng 8, quốc hội Pháp thông qua ngày 29 tháng 10 năm 1886, nhằm định nghĩa đường “biên giới hiện trạng - la frontière actuelle”.

“Biên giới hiện trạng” theo đó được định nghĩa: ”Il est parfaitement entendue que ces mots frontière actuelle signifient la frontière telle qu’elle existait lors de la conclusion du Traité du 9 juin 1885 - Ðiều dĩ nhiên các từ biên giới hiện trạng có ý nghĩa là đường biên giới đã hiện hữu khi ký Hiệp Ước ngày 9 tháng 6 năm 1885”.

Đường biên giới đã hiện hữu khi ký hiệp ước 9-6-1885 (Hiệp Ước Thiên Tân) như thế là đường “biên giới lịch sử” mà tác giả đã thử vạch lại ở phần I.

Như mọi đường biên giới qui ước, diễn tiến thành hình thường trải qua hai giai đoạn: Giai đoạn phân định và giai đoạn phân giới (cắm mốc và vẽ bản đồ). Trường hợp đường biên giới Việt-Trung, lý ra không có khó khăn, vì đường biên giới lịch sử khá rõ rệt. Nhưng công việc lại trở nên rất phức tạp, do ảnh hưởng các yếu tố chính trị, kinh tế và xã hội. Nhiều nơi đường biên giới không tôn trọng biên giới lịch sử, do trao đổi kinh tế, nhiều vùng đất của VN bị mất cho TQ. Tác giả lần lượt ghi lại các việc này, qua các phụ lục ở phần sau.

I. Thời kỳ 1: do ông Bourcier de Saint-Chaffay làm chủ tịch từ tháng 8 năm 1885 đến 13 tháng 4 năm 1886.

1/ Hai phái đoàn Pháp-Thanh phân định biên giới:

Ðường biên giới hai nước Việt-Trung được xác định qua hai giai đoạn:

1) Giai đoạn phân định bắt đầu từ tháng 8 năm 1885, là thời điểm phái đoàn phân định biên giới Pháp được chính thức thành lập, cho đến tháng 6 năm 1887 là lúc công ước được ký kết.

2) Giai đoạn phân giới và cắm mốc kéo dài từ năm 1888 cho đến năm 1897. Ðường biên giới vùng Quảng Tây được phân định dầu tiên, bắt đầu tại Ðồng Ðăng ngày 12 tháng 12 năm 1885. Uỷ ban Pháp do ông Bourcier de Saint Chaffray làm chủ tịch. Phía bên nhà Thanh do ông Tseng-Tcheng-Siéou (Tăng Chánh Siêu, có sách viết là Tăng Thành Siêu) làm chủ tịch.

Hình 5: Hình của báo La République Illustrée, ra ngày Samedi 2 Octobre 1886

Nhân viên hai phái đoàn Pháp-Thanh Phân Ðịnh Biên Giới gồm có:

Hàng trước, ngồi giữa: Bourcier de Saint-Chaffay, Bộ Trưởng, Chủ Tịch Phái Ðoàn Pháp. Phía trái (là phía danh dự) ông Bourcier de Saint-Chaffay Teng Tcheng-Sieou, thành viên Tổng Lý Nha Môn, Chủ Tịch Pháp Ðoàn Thanh Triều (Trung Quốc). Kế đó là Li Ping-Heng, Tuần-Phủ Quảng-Tây. Phía tay phải St-Chaffay là Wang Tche-Tchouen, Quản Ðốc tỉnh Quảng Châu và Li Hing-Jouei, cựu Giám Ðốc Hải Quân Công Xưởng Thượng Hải.

Ðứng hàng sau, từ phải sang trái, gồm có Bác Sĩ Paul Néïs, nhà thám hiểm, người sau này viết tập bút ký “Sur Les Frontières du Tonkin”. Trung Tá Bouinais, Thuỷ Quân Lục Chiến, đại diện bộ Hải Quân. Ông Haitce, phó Lãnh Sự kiêm nhà Hán Học. Ông Hart, em của ông Rober Hart, Quản Ðốc Quan Thuế Thanh triều, cố vấn phái đoàn Trung Quốc. Li Cheou-Tien, thông ngôn của phái đoàn Trung Quốc. Trung Tá Tisseyre, đại diện Bộ Chiến Tranh. Ông Delenda, Chưởng Ấn, thư ký phái đoàn Pháp.

2/ Pháp giành lấy Đồng Đăng và Kỳ Lừa:

Theo bút ký “Sur les Frontières du Tonkin” đăng trên Le Tour Du Monde 1887 [32] của bác sĩ Paul Néïs, lúc uỷ ban Pháp được lên danh sách thành lập tại Paris thì Lạng Sơn (cùng một số tỉnh biên giới khác) vẫn còn do quân Tàu chiếm đóng.

Thật vậy, sau khi hiệp ước kinh tế và hoà bình được ký kết tại Thiên Tân năm 1885, do việc “bất đồng ý kiến” giữa các phe quân đội (hải quân và bộ binh) và dân sự trong chính phủ Pháp trong vấn đề Tonkin, Lạng Sơn cũng như một số tỉnh, huyện khác trên vùng biên giới vẫn còn bỏ ngõ. Các tỉnh, huyện này hoặc do quân cướp Tàu chiếm đóng hay do quân triều đình nhà Thanh chiếm đóng. Nguyên do là tướng De Courcy, tư lệnh quân đội viễn chinh, có ý muốn bình định hoàn toàn vùng châu thổ trước, do đó để qua một bên vùng biên giới cũng như vùng thượng du Bắc Việt.

Nhưng trong chính trường Pháp, kể cả một phần quân đội, đều cho rằng quyết định này sai lầm vì không thể bình định vùng châu thổ nếu bỏ cả vùng thượng du cho quân cướp, nhất là bọn này rất đông đảo tại các tỉnh dọc biên giới như Lào Cai, Tuyên Quang, Cao Bằng, Lạng Sơn và Hải Ninh (Móng Cái). Mặt khác, mục tiêu chính của Pháp trong việc chiếm Bắc Kỳ là mở đường thông thương sang Tàu. Nếu không bình định được vùng thượng du và kiểm soát được biên giới thì sự giao thương giữa Trung Quốc và Việt Nam sẽ không thực hiện được. Chỉ sau khi có sự can thiệp trực tiếp của bộ Ngoại Giao, phe quân đội đóng ở Bắc Kỳ mới chấp thuận cung cấp quân lính bảo vệ cùng nhân công yểm trợ phái đoàn Pháp phân định biên giới đến Lạng Sơn để làm việc cùng phái đoàn Thanh triều. Dầu vậy phái đoàn Pháp phải chờ ở Hà Nội mất 5 tuần.

Khi phái đoàn Pháp lên Lạng-Sơn, một trị trấn nằm bên tả ngạn sông Kỳ Cùng, vẫn còn do quân Thanh triều kiểm soát. Việc tiếp thu Lạng Sơn của phái đoàn Pháp không có vấn đề: quân Thanh triều rút đi trong hoà bình. Thị trấn Kỳ Lừa, phía hữu ngạn sông Kỳ Cùng, đối diện với Lạng Sơn, lúc đó hoàn toàn do người Hoa sinh sống. Chợ búa nơi đây có vẻ an bình và phồn thịnh chứ không đổ nát vì chiến tranh như Lạng Sơn phía bên này sông (hay như ở các tỉnh khác của Việt Nam). Kỳ Lừa hiện hữu như là một phần đất của Trung Quốc. Lo ngại phe bên nhà Thanh giành Kỳ Lừa, đòi lấy sông Kỳ Cùng làm biên-giới, mà đòi hỏi này rất có thể xãy ra vì Kỳ Lừa là một thành phố tuyệt đối không có người Việt. Phe người Pháp nghĩ cách đối phó.

Phương pháp của phái đoàn Pháp là dành Ðồng Ðăng về Việt Nam. Ðồng Ðăng là một làng nhỏ ở phía Bắc Kỳ Lừa, và cách cửa Ðại Nam không xa lắm, khoảng 2km. Làng này cũng hoàn toàn đổ nát vì chiến tranh. Nếu dành Đồng Đăng thuộc về Việt Nam thì đương nhiên Kỳ Lừa sẽ phải thuộc về Việt Nam.

Nhân khi ông Tseng-Tcheng-Siéou, chủ tịch Uỷ Ban Trung Quốc, biết được phái đoàn Pháp đã đến Lạng Sơn, ông liền gởi thư cho phái đoàn Pháp biết ông sẽ từ Long Châu đến “Porte de Chine” [33] để chuẩn bị làm việc với phái đoàn Pháp. Ông Bourcier De St-Chaffray nói với các nhân viên của ông, ghi lại theo bút ký của Dr Néïs: “Nous devions regarder Dong-dang comme faisant partie du Tonkin, et, si les commissaires chinois désiraient venir habiter cette ville, nous voulions les recevoir comme nos hôtes, mettre en cette qualité les meilleurs logements à leur disposition, mais leur bien montrer qu'ils étaient chez nous” (“Chúng ta phải xem Ðồng Ðăng như thuộc về Bắc Kỳ. Nếu phái đoàn Trung Quốc muốn đến ở đây thì chúng ta phải tiếp đón họ như khách và nhường cho họ những nơi ở tốt nhất. Quan trọng là phải cho họ biết rằng họ đang ở trên đất của chúng ta”).
Phái đoàn Pháp quyết định như thế, lên đường đến Ðồng Ðăng và đặt bản doanh trước tại đây, và sẽ ở lại đây trong suốt thời gian đàm phán.

Hình 6: Ðồng Ðăng 1886, nơi phái đoàn Pháp đặt bản-doanh.(Theo “Sur Les Frontières Du Tonkin” của Dr Paul Néïs)

3/ Phân định vùng cửa ải Đại Nam (Nam Quan)

Theo các hồ sơ phân định, nơi được phân định đầu tiên là vùng Ðại Nam Quan, tức Nam Quan.

Cổng Ðại Nam (Nam Quan) theo Dr Néïs mô tả, cửa này được dựng lên trong một vực núi không sâu lắm. Hai bên cổng, phía trái là núi đá, phía phải là đồi, có độ dốc thẳng đứng, cao khoảng 60m. Cổng được xây dựng lại bằng đá đẽo sau khi cổng cũ đã bị tướng Négrier đánh sập vào năm 1885. Lối kiến-trúc của cổng nầy khá quen thuộc vì có chung một lối xây dựng rất “Tàu”, tương tự như một lầu canh của Vạn Lý Trường Thành. Kiến trúc gồm có ba phần, phía trên hết lợp ngói, chóp mái cong, phần giữa được bao bọc chung quanh bằng một tường thấp bằng đá đẽo, có chừa cách khoảng những ô vuông trống dùng để quan sát hay để làm công sự chiến đấu, phía dưới cùng là một cổng vòm tròn có hai cánh cửa lớn. Trước khi bị giật sập, Nam Quan chỉ là hai cánh cửa làm bằng gỗ có vẽ rồng, phụng [34], phía trên có chạm 3 chữ 鎭南關, có nghĩa là Trấn Nam Quan. Một bức tường xây bằng đá, nối từ cổng kéo dài lên núi, dài 377m (1190 bộ). (xem hình).

Hình 7: Ðại Nam Quan năm 1881[35]


Hình 8: cổng Ðại-Nam, chụp từ phía Trung Quốc[36]

Việc phân định không dễ dàng vì ban đầu, phía TQ muốn dành toàn vùng chung quanh Ðại Nam Quan về phía họ. Việc này xảy ra khi phái đoàn Pháp vừa ra khỏi Ðồng Ðăng, theo hẹn với Đặng Thừa Tu, lên cửa ải, thì thấy cờ nheo cắm đầy trên những ngọn đồi chung quanh và lính Thanh triều phất cờ nheo đứng dọc hai bên đường.

Hình 9: Ðường lên Cửa Ải (theo “Sur Les Frontières Du Tonkin” của Dr Néïs)
.
Phái đoàn Pháp cực lực phản đối việc nầy. Vì có tính toán trước, phe bên Pháp đòi hỏi đường biên giới phải đi qua cổng Ðại Nam, tức là đường biên giới phải là bức tường đá nối cổng Ðại Nam lên đỉnh núi. Nhưng phe TQ nhất định không đồng ý, phản đốivà đòi hỏi đường biên giới ở phía Nam cổng Ðại Nam, tức đòi thêm một vùng đất phía trước cổng. Rốt cục, sau khi quan sát thực địa, đòi hỏi của phe người Hoa được thỏa-mãn.

Theo bác sĩ Néïs thì đường biên giới tại đây đi theo một con suối nhỏ chảy phía trước cổng khoảng 150m. Và đó cũng là kết quả đầu tiên 6 tháng sau khi uỷ ban Pháp được thành lập và 3 tháng làm việc tại Ðồng Ðăng.

Tuy-nhiên, sự-việc đã không xảy ra như thế, có nghĩa là: biên giới con suối nhỏ chảy phía trước cổng khoảng 150m.

Xin ghi lại lá thư [37] của tướng Berguis Desbords, viết ngày 4 tháng 3 năm 1889: “...De ce travail (abornement de la frontière), il résulte que la partie de la frontière attenant à la porte de Nam-Quan serait mal tracée sur la carte au 1/100.000 de la région de Lang-Son et de That-Khe, ci joint. D’après l’ancien chef du canton de Dong-Dang nommé Hoang Mai Trinh, la frontière, au lieu de se diriger de Nam-Quan droit à l’ouest, devait avoir une dirrection Sud, jusqu’à un kilomètre de Dong-Dang, puis, prusquement, remonter de ce point au Nord sur la porte de Ki-Lech. Le village de Lang-Nien appartiendrait ainsi à la Chine.

D’après le Docteur Néis, “la frontière devrait suivre le ruisseau qui passe à 150 mètres environ de la porte de Chine”. Je suppose qu’il s’agit toujour de la porte de Nam-Quan, à l’Est et à l’Ouest de la quelle la carte de la région au 1/100.000 accuse, en effet des cours d’eau, tandis qu’il n’en existe pas aux portes de Ki-Da et de Ki-Lech. Mais ce ruisseau passe à Dong-Dang, et je ne vois pas, en suivant cette carte, comment il pourrait servir de limite
...” (Tạm dịch: “Từ việc phân giới cho thấy phần biên giới thuộc vùng Nam Quan có thể vẽ không đúng trên bản đồ 1/100.000 của vùng Lạng Sơn và Thất Khê kèm theo đây. Theo vị cựu tri huyện Ðồng Ðăng, tên Hoang Mai Trinh, thì đường biên giới, thay vì đi thẳng từ Nam Quan sang hướng Tây, thì phải đi về hướng Nam, cho đến khi cách Ðồng Ðăng chừng 1 cây số thì đi ngược lên lại phía Bắc tại cửa ải Ki-Lech (?). Làng có tên Lang-Nien (Lũng Nghiêu, ghi chú của TNT) vì thế có thể thuộc về Tàu.

Theo ông Bác sĩ Néïs: “đường biên giới phải theo con suối cách cổng khoảng 150 thước.” Tôi giả sử cổng nầy là cổng Nam Quan, phía đông và phía tây cổng nầy, trên bản đồ 1/100.000 thì cho thấy có sông suối, nhưng tại các cửa Ki-Da và Ki-Lech, theo bản-đồ, thì không có (sông suối nào). Nhưng con suối đó chảy qua Ðồng Ðăng, tôi không hiểu được, theo bản đồ nầy, thì làm sao mà con suối đó có thể dùng để làm biên giới...”)

Hình 10: Sông Kỳ Cùng và các con suối chung quanh. Theo hình này có con suối
qua Đồng Đăng nhưng không có suối nào ở phía trước cổng Trấn Nam Quan 150m

Có lá thư trên là vì, sang thời kỳ phân giới cắm mốc, các viên chức trách nhiệm việc cắm mốc vùng nầy (giai đoạn này là tướng Berguis Desbords) đã không tìm thấy các biên bản phân định ký kết giữa hai phái đoàn Pháp-Thanh. Những người nầy phải đọc lại bút ký của bác sĩ Néïs để biết đường biên giới nơi đây được xác định thế nào. Nhưng họ đã không tìm thấy dòng suối nào chảy dưới chân những ngọn đồi ở đây, cách cổng Nam Quan khoảng 150 mét. Vì thế bài bút ký của bác sĩ Néïs ở nhiều điểm thì thiếu chính xác.

Thực tế thì theo biên bản số 4, ký ngày 7 tháng năm 1886, phân định từ Nam Quan đến Bình Nhi, có sự hiện diện của cả Dr Paul Néïs, đường biên giới tại Đại Nam Quan cách cổng này 100 mét về phía nam.

4/ Phân định từ Đại Nam Quan đến Bình Nhi Quan:

Sau khi phân định vùng Ðại Nam Quan, lần lượt các cửa ải ở vùng chung quanh cũng được phân định.

Ngoài cổng Ðại Nam được xây hoành tráng, những cửa ải khác chỉ là những cánh cửa đơn-giản làm bằng tre (phía nhà Thanh gọi là “sách” hay “ngoại sách”), dựng chặn ngang con đường hẹp, ở giữa hai ngọn núi hay đồi (ải). Vì thế vị trí cửa ải có thể thay đổi dễ dàng, chỉ cần bỏ cái này, dựng trên đường một cánh cửa khác, tùy theo địa điểm, hoàn cảnh hay theo ý muốn.

Cũng theo tài liệu Sur Les Frontière Du Tonkin của bác sĩ Néïs, phía phái đoàn TQ không hài lòng với việc phân định biên giới. Họ không ngờ được cách làm việc chính xác khoa học của dân Tây Phương. Có nơi, như tại cửa ải “Bo-Chai”, tức là cửa Bố Sa 布沙, viên quan ở châu Bằng Tường đã lén dời cửa ải này lấn sang Việt-Nam, làm cho 4 làng của Việt Nam trở thành của Tàu. Nhưng dân Việt sống tại các làng đã tới khiếu nại, phái đoàn Pháp phản đối, do đó phía người Hoa phải dời cửa Bố Sa trở về vị trí cũ và trả đất lại cho Việt Nam.

Về diễn tiến chung quanh việc phân định 1885-1887 được Bác sĩ Néis ghi lại một cách khá tỉ mỉ trong loạt bài “Sur Les Frontières Du Tonkin”. Nhưng trong loạt bút ký này các biên bản phân định thì không ghi lại nội dung.

Phân định từ Nam Quan đến Bình Nhi được ghi lại theo biên bản số 4, ký ngày 7 tháng 4 năm 1886.

Ðây là công trình duy nhất của uỷ ban De Saint Chaffray, hồ sơ còn tại văn-khố Bộ Ngoại-Giao Pháp. Công trình có giá trị thực tiễn, vì kết quả phản ảnh khá đúng với đường biên giới trên thực địa, tức đường biên giới trước khi ký hiệp ước Thiên Tân 1885. Đường biên giới lịch sử tương đối được tôn trọng (ngoại trừ 100m trước cổng Nam Quan).

Nguyên văn biên bản:

Commission de délimitation des frontière de la Chine et du Tonkin

Procès-verbal N° 4

La Commission de Délimitation Franco-Chinoise a reconnu, le sept avril mil huit cent quatre-vingt-six, qu’à partir du point situé à cent mètres en avant de la Porte de Nam-Quan, sur la route de Nam-Quan à Ðồng-Ðăng, la frontière remonte à l’Ouest jusqu’au sommet de la montagne rocheuse sur lequel est situé le fort marqué A sur le croquis ci-joint, suit à partir de ce fort le haut de la muraille rocheuse qui domine la route de Ðồng-Ðăng jusqu’au point marqué B sur le croquis. Ce point B se trouve à l’endroit où le sentier qui, se détachant de la route de Ðồng-Ðăng à Nam-Quan, conduit au village de Lung-Ngieu, coupe la muraille rocheuse. Elle suit ensuite ce même chemin jusqu’au la Porte du village de Lung-Ngieu. A partir de cette Porte elle reprend le haut des rochers qui contournent le cirque du village de Lung-Ngieu pour arriver à un point marqué C. Du point C elle se dirige à l’Ouest jusqu’à la Porte de Kida.

Dans la journée du huit avril, la commision a reconnu que la frontière à partir de la Porte de Kida se dirige vers le Nord-Ouest, en passant au sommet marqué D jusqu’à la Porte de Bo-Chai et au Porte de Hong-Meun-Ai, Na-Lau, Na-Han, Na-Choc et Na-Ngoa restant au Tonkin. De la Porte de Bo-Chai elle se dirige vers le Nord en suivant par la crête des hauteurs jusqu’au point marqué E, et du point E, jusqu’aux deux forts chinois marqués F et G; du fort marqué G elle s’inflèchit vers le Nord-Ouest jusqu’à un fort chinois abandonné marqué H pour gagner, de là, la Porte de San-Chi (Chan-tseu-sin-tsouen); elle continue ensuite vers le Nord jusqu’au fort de Kéo-Cho (Pa-Kéo Ngai, en annamite) marqué I qu’elle laisse à la Chine.

Dans les journées des neuf, dix, et onze avril, la commission a reconnu que la frontière continue à se diriger vers le Nord jusqu’à la Porte de Thuong-Duong (Yang ....); de la Porte de Thuong- ... la frontière se dirige vers le Nord-Ouest jusqu’au point marqué J en passant par la Porte de Ban-Quyen (Pan-Tsiuan); du point J elle se dirige vers le Nord-Est jusqu’à un fort abandonné marqué K; de là, elle descend sur le sông Kì-Cùng (Ki-Kiang) en passant par le fort marqué L, d’où elle gagne le Sông Kì-Cùng au point marqué M; à partir de ce point, elle suit rivière jusqu’au coude marqué N”.


(Tạm dịch như sau:

“Uỷ Ban Pháp Trung Phân Ðịnh Biên Giới nhìn nhận, nhằm ngày bẩy tháng tư năm một ngàn tám trăm tám mươi sáu, từ một điểm được xác định cách cổng Nam Quan 100 thước trên đường từ Nam Quan về Ðồng Ðăng (sau này là cột số18, ghi chú thêm của TNT), đường biên giới theo hướng Tây lên đến đỉnh ngọn núi đá trên đó có một đồn binh được đánh dấu là điểm A theo như sơ-đồ kèm theo đây, sau đó đường biên giới từ điểm này, theo đường đỉnh cao của bức tường núi đá nhìn xuống con đường Ðồng Ðăng, cho đến điểm B đánh dấu trên sơ đồ (cột số 17, ghi chú TNT). Ðiểm B là điểm mà con đường mòn - đường mòn này là một nhánh rẽ của con đường Ðồng Ðăng đi Nam Quan - dẫn đi đến làng Lung-Ngieu (Lũng-Ngọ 隴午, còn viết là Lộng 弄) cắt bức tường núi đá. Ðường biên giới theo con đường mòn cho đến cổng làng Lung-Ngieu. Từ cổng, đường biên giới đi lên ngọn rặng núi đá bọc quanh thung lũng làng Lung Ngieu để đi đến điểm C (cột số 16, ghi chú TNT). Từ điểm C đường biên giới đi về hướng Tây cho đến cửa Ki-Da (trên bản-đồ ghi Khua-Da, ghi chú TNT).

Vào ngày tám tháng tư Uỷ Ban nhìn nhận rằng, từ cửa Ki-Da, đường biên giới đi về hướng Tây Bắc, qua đỉnh núi được đánh dấu là D, cho đến cửa ải Bo-Chai (Bố Sa, cột số 15) và cửa ải Hong-Meun. ‘Các làng) Na-Lau, Na-Han, Na-Choc và Na-Ngoa thuộc về Bắc-Kỳ. Từ cửa Bo-Chai, đường biên giới đi về hướng Bắc, theo đỉnh các ngọn núi cao, cho đến điểm ghi là E, và từ điểm E cho đến hai đồn-binh (Hy Tự Tiền Dinh và Hy Tự Tiền Dinh Pháo Ðài, ghi chú TNT) của Tàu đánh dấu là F (cột mốc 14, ghi chú TNT) và G (cột mốc 13) . Từ điểm G, đường biên giới nghiêng về hướng Tây Bắc cho đến một đồn binh của TQ bỏ hoang đánh dấu là H, từ điểm này đến cửa San-Chi (Sơn Tự Ải山寺, cột số 12, ghi chú TNT) và theo hướng Bắc cho đến đồn binh Kéo-Cho được đánh dấu là I (Sơn Tự Ngoại Sách, cột số 11) và đồn này thuộc Trung Hoa.

Trong những ngày chín, mười và mười một tháng tư Uỷ Ban nhìn nhận rằng đường biên giới tiếp tục đi về hướng Bắc cho đến ải Thuong-Duong (Thượng Dương上楊, cột số 9 ở gần cửa Bán Tán 半賛, cột số 8 ở Ba Mật Ngoại Sách, cột số 7 Quyên Thôn Ngoại Sách, cột số 6 Phần Quan Lĩnh, các ghi chú này trong dấu ngoặc, của TNT); từ cửa Thượng Dương đường biên giới theo hướng Tây Bắc, đi qua cửa Ban Quyen (Pan-Tsiuan, Bản-Quyên) cho đến điểm đánh dấu J. Từ điểm J đường biên-giới theo hướng Ðông Bắc cho đến một đồn binh bỏ hoang được đánh dấu K. Từ đây đường biên giới đi xuống sông Kì Cùng sau khi qua đồn binh đánh dấu L. Ðường biên giới đến sông tại điểm đánh dấu M và từ điểm này theo sông cho đến khúc ngoặc được đánh dấu N (cột số 5 Cang Anh Ngoại Sách, cột số 4 Cổn Mã Lĩnh, cột số 3 Bình Công Ngoại Sách, cột số 2 Giác Hoài Lĩnh, cột số 1 Bách Tặng Lĩnh, ghi chú của TNT).”)

Ta nhận thấy tên các cửa ải được gạch dưới thì trùng hợp với tài liệu Sử Liệu về Biên Giới… của Hà Mai Phương và Chu Thu Hằng, gồm có 5 cửa ải, những cửa này thuộc tỉnh Lạng Sơn và ở phía trái của ải Ðại Nam.

Công việc sau đó bị ngưng trệ do thời tiết. Theo biên bản ký ngày 13 tháng 4 năm 1886, việc phân định tại vùng Quảng Tây phải ngưng lại, đoạn từ Bình Nhi đến Thuỷ Khẩu không kịp phân định: “les pluies torrentielles, l’état des chemins ainsi que des cours d’eau et, enfin, les maladies qui sévissent sur les hommes d’escorte et les coolies ne lui permettent absolument pas, quelque soit son bon vouloir, de pousser la reconnaissance de la frontière jusqu’à Chouei-K’eou Kouan”, tạm dịch như sau: “trời mưa như thác đổ, tình trạng đường xá (trơn trợt) cũng như những dòng sông, suối (ngập lụt), mặt khác, nhân sự bắt đầu nhiễm bệnh, từ quân nhân bảo vệ cho đến phu phiên, đã khiến hai bên phải đình chỉ lại việc tìm hiểu đường biên giới cho đến Thuỷ Khẩu Quan, mặc dầu việc nầy mọi người đều không ai muốn”.

Hai bên hẹn nhau, cũng theo nội dung biên bản, đến đầu tháng 10 tại Hải Ninh.

Sau khi công việc phân định tạm ngưng, ông Bourcier de St-Chaffray trở về Pháp, từ chức vì lý do sức khoẻ.

Về công trình của Bourcier de St-Chaffray, một số hồ sơ phân định vào giai đoạn do ông làm chủ tịch tìm được tại văn khố bộ Ngoại Giao Pháp tại Paris, trong đó có biên bản liên hệ đoạn biên giới từ Nam Quan đến Bình Nhi Quan. Đó là biên bản số 4, ký ngày 7 tháng 4 năm 1886 đã ghi lại ở trên.

(còn tiếp)
Trương Nhân Tuấn
© Thông Luận 2009

[1] Xem « La perception des frontières dans l’Ancien Viet-Nam à travers quelques cartes vietnamiennes et occidentales » của Mm Tâm-Quách Langlet, trong quyển Les Frontière du Vietnam (Paris, Harmattan 1989).
[2] Hà Mai Phương và Chu Thu Hằng, Sử-Liệu Về Biên-Giới Ta và Tàu Từ Ðời Nhà Lý Cho Tới Ðầu Thời Pháp-Thuộc. Nxb Mai-Hiên, PO Box 1061,Campbell CA 95009.
[3] Nguyễn Văn Siêu, Phương-đình địa dư chí, nxb Văn-Hoá Thông-Tin, Hà-Nội 2001, tr 181.
[4] Ðịa-Dư Chí Các Tỉnh Bắc-Kỳ của các tác-giả Ðỗ Ðình Nghiêm, Ngô Vi Liễn, Phạm Văn Thư. NXB Lê Văn Tân, Hà-Nội 1930. Dẫn bởi Hà Mai Phương và Chu Thu Hằng. Sđd, tr 7.
[5] Xem Dr Néis, “Sur les Frontières du Tonkin”: «A partir de ce point nous nous éloignons de la frontière; nous sommes au pied d'un grand massif montagneux qui domine tout le pays et que l'on aperçoit bien de la citadelle de Lang-son, le mont Mauson. Ce massif fait tout entier partie du Tonkin…»
[6] Vào năm 1887, theo tài-liệu phân-định biên-giới, trên suốt đường biên-giới giữa Việt-Nam và Trung-Hoa, nhất là ở vùng Quảng-Ðông và Quảng-Tây, dân thiểu-số sống trong một vùng đất dọc theo đường biên-giới có chiều rộng trên 200km. Người Hán lấy được đất nơi đây bằng cách « dùng tiền bạc mua » ( ?) tất-cả đất tốt, mầu-mỡ ; dân thiểu-số lần hồi không còn đất tốt ở đồng-bằng nên phải vào núi rừng khai-khẩn và sống ở đó.
[7] xem ghi-chú 17
[8] Có thêm bộ thủy phía trước.
[9] nt
[10] Tức ải Chí-Mã.
[11] Theo quyển sách Các lộ trình từ Trung Hoa đến Việt Nam do Chu Tư Bổn viết và công bố năm 1579, từ Quảng Tây sang Việt Nam có 3 lộ trình, con đường đi ngang qua Biên Cương ải là một: «Bắt đầu từ Tư Châu, vượt Ma Thiên Lĩnh đế Tư Lăng Châu ; từ đây mất 1 ngày đường đi qua Biên Cương ải để đến châu Lộc Bình. Phía Tây Lộc Bình có đường đi đến Lạng Sơn trong 1 ngày. Nếu đi về phía Ðông thì phải vượt sông Thiên Lý (sông Kỳ-Cùng) ; từ đây mất một ngày rưỡi để đến châu An Bác (thuộc Lạng Sơn) và thêm một ngày rưỡi đi đường nữa mới đến thung lũng Hao Quân (Hao Quân Ðộng). Ðường này núi non hiểm trở. Sau một ngày đường thì đến chợ Phong Nhân (thuộc Bắc Ninh). Từ đây có hai đường, một mất một ngày đường để đến Bảo Lộc (thuộc Bắc Ninh), hai dẫn đến bờ bắc ngạn của sông Cầu» (theo Histoire des Relations de la Chine avec l’Annam-Viet-Nam, trang 79).
[12] Dân Việt-Nam gọi ải này là Ải Rô, có thể còn gọi là Tra Môn Ải.
[13] Dân VN gọi là đèo Cốc Giốc (giốc Cốc ?)
[14] Ải Loa
[15] Có bộ «sơn» ở trên.
[16] Có bộ «sơn» ở trên
[17] Có bộ «khẩu» bên trái.
[18] Có bộ "sơn" trên chữ Canh.
[19] Có bộ "sơn" trên chữ Canh.
[20] Dịch-giả Phương-Ðình Ðịa Dư Chí có lẽ đã viết thêm chữ Ải trước chữ «Nam-Quan». Theo người Hoa thì các từ «Quan, Ải, Ca» đều có cùng một nghĩa là cửa thông-thương có canh gác. Theo ngu ý phải viết là Ải Nam hay Nam Quan (không có ải phía trước) hay Ðại-Nam Quan.
[21] Nguyễn Văn Siêu, Phương-đình địa dư chí. nxb Van-Hóa Thông-Tin, Hà-Nội 2001, tr 451.
[22] Sđd, tr 180.
[23] Sđd, tr 451.
[24] Sđd, tr 57.
[25] Sđd, tr 65.
[26] Sđd, tr 98.
[27] Xem ghi-chú 1. Theo ngu ý phải viết là Ải Lưu hay Lưu-Quan (không có ải phía trước).
[28] Sđd, tr 102.
[29] Sđd, tr 104-105.
[30] Thời Minh thuộc gọi là Uyên-Huyện, nhà Lê đổi thành Văn-Uyên.
[31] Trấn-Nam là tên của Tàu gọi cho cửa ải thông-thương chính-thức giữa hai nước. Nhưng Trấn-Nam còn có nghĩa trịch-thượng một cách lố-bịch là cửa trấn-áp nước Nam. Trấn-Di cũng có nghĩa tương-tự là cửa trấn-áp bọn mọi, lố-bịch lại càng hơn. Ðại-Nam Quan có nghĩa là cửa vào nước Ðại-Nam. Ðại-Nam là tên nước Việt triều Nguyễn.
[32] Le Tour Du Monde năm 1887. CAOM. BIB, SOM, 20.543.
[33] Nguyên-văn trong Sur Les Frontières du Tonkin của Dr Néis để chỉ Trấn-Nam Quan, tức cửa Ðại-Nam hay Ðại-Nam Quan. Theo Dr Néis, lúc đó dân Việt gọi đây lả «Cửa Ải».
[34] Theo bút-ký M. Aumotte trong De Hanoi à la Frontière du Quangsi, CAOM, Br 1156 C.
[35] Như trên. CAOM, Br 1156 C.
[36] Hình này của anh Nguyễn Văn Huy (Paris) gởi cho.
[37 ] Tài-liệu phân-giới Việt-Trung, CAOM
------------
Biên Giới Việt Nam: vùng tiếp giáp tỉnh Quảng Tây [2] (Trương Nhân Tuấn)

“… việc phân định biên giới Pháp-Thanh, phía VN không những không có mặt, mà các nỗ lực chống Pháp nhiều lúc trở thành các áp lực giúp cho TQ đạt được ý muốn của mình …”
1 2 3


II. Thời kỳ 2: do ông Dillon làm chủ tịch từ 23 tháng 7 năm 1886 đến 26 tháng 6 năm 1887.

Sau khi ông Bourcier de Saint Chaffray từ chức, chính phủ Pháp bổ nhiệm ông Dillon, nguyên tổng Lãnh Sự kiêm chức Thống Sứ tại Huế thay thế. Ông Dillon đã từng đảm nhiệm công tác ở Trung Quốc trên 25 năm với chức vụ lãnh sự, vì thế ông thông hiểu tường tận ngôn ngữ và văn minh Trung Hoa. Nhưng việc nầy không giúp được Pháp chiếm thế thượng phong trong vấn đề biên giới.

Theo dự kiến, hai bên họp tại Ðồng Ðăng từ Tháng Giêng đến Tháng 4 năm 1886 để giải quyết biên giới vùng Quảng Tây, từ Tháng 6 đến Tháng 11 năm 1886 tại Lào Cai cho biên giới Vân Nam, và từ Tháng 12 năm 1886 đến Tháng 4 năm 1887 tại Móng Cái cho biên giới Quảng Ðông (và biên giới trong vịnh Bắc Việt). Nhưng thực tế đã làm mọi việc đảo lộn.
Từ Tháng Giêng đến tháng 4 năm 1886, thực ra từ tháng 8 năm 1885 đến tháng 4 năm 1886, phái đoàn ông Bourcer de Saint Chaffray chỉ phân định được vùng từ Nam Quan đến Bình Nhi, một đoạn vài mươi cây số, trong khi đường biên giới vùng Quảng Tây dài không dưới 500 km. Có thể do việc (chậm trễ) này mà ông Bourcier De St Chaffray cáo bệnh, từ chức. Nhưng cho thấy vấn đề vô cùng khó khăn, chứ không hề đơn giản như đã tưởng ở Paris.

Về phía nhà Thanh, việc phân định biên giới được do hai uỷ ban độc lập: một uỷ ban vùng Lưỡng Quảng và một uỷ ban vùng Vân Nam (nhân sự vùng Vân Nam sẽ nói sau). Trong khi đó phía Pháp chỉ có một uỷ ban duy nhất, phụ trách toàn biên giới. Do việc này uỷ ban Pháp phải chia làm hai, vì công việc tại Lào Cai chưa xong, một tại Lào Cai và một tại Móng Cái. Toán làm việc tại Móng Cái hoàn toàn thiếu các lực lượng quân sự yểm trợ, trong khi vùng Lưỡng Quảng có nhân vật đáng gờm là Trương Chi Động. Thảm cảnh đã xảy ra cho phái đoàn Pháp. Mọi việc từ đó trôi chảy theo ý muốn của phía Trung Quốc.

1/ Các yếu tố ảnh hưởng đến việc phân định:

Có nhiều yếu tố bất lợi cho VN:

- Về nhân sự: Trong thời kỳ phân định 1886-1887, vùng Lưỡng-Quảng có một viên Tổng Ðốc tên Trương Chi Ðộng, là một nhân vật lỗi lạc. Ông này cũng là đối thủ chính trị lợi hại của Lý Hồng Chương tại Tổng Lý Nha Môn và được nhiều người biết tiếng vì chủ trương cứng rắn đối với người ngoại quốc. Ông đã thành công trong việc huỷ bỏ hiệp ước Livadia ký kết với nước Nga đồng thời kết án người thương thuyết hiệp ước (vì người nầy đã làm cho Trung Quốc thiệt hại). Là Tổng Ðốc Lưỡng Quảng, ông nầy cũng đã thống lĩnh quân đội (cùng với tướng Phùng Chí Tài) đánh với quân Pháp (1884-1885), thắng Pháp tại Lạng Sơn, làm cho tướng Négrier, chỉ huy mặt trận Lạng Sơn, bị thương nặng, đạo quân Pháp phải rút lui.

Những bản tường trình Pháp cho thấy Trương Chi Động chứa chấp Lưu Vĩnh Phúc, chủ tướng giặc Cờ Ðen tại Quảng Ðông. Ông này dùng giặc Cờ Đen để quấy rối Pháp, cản trở việc phân định biên giới.

Trong thời kỳ phân định biên giới, ông Trương Chi Ðộng không hề nhượng một tấc đất nào cho người Pháp mà ngược lại, ông đã thành công trong việc chiếm lấy nhiều vùng đất của Việt Nam (như tại biên giới Quảng Ðông). Tổng Lý Nha Môn, tương ứng bộ ngoại giao triều đình nhà Thanh, thực sự không có ảnh hưởng đến việc quyết định về biên giới. Thật ra nó chỉ là một «văn phòng quốc tế nhận và gởi văn thư. Người ta chưa bao giờ nghe nói tới một quyết định nào của cơ quan này. Nhiệm vụ của nó, từ sáng sớm, chỉ nghe ý kiến của Từ Hi Thái-Hậu và thi hành lệnh của bà ta» [1]. Mọi quyết định vùng Lưỡng-Quảng đều do Trương Chi Ðộng. Ông này giải quyết vấn đề biên giới sao cho có lợi, không cần biết phương tiện đó là thế nào. Theo bản tường trình của ông Chiniac de Labastide, chủ tịch uỷ ban phân giới Pháp (tháng 1 năm 1889 đến 9 năm 1890) phe Trung Quốc, theo lệnh của Trương Chi Động, đã có ý định dùng tiền bạc để mua chuộc “compensations en argent” để ông nầy nhượng bộ về đất đai. Người ta cũng nghi ngờ hai biến cố, một tại Lào Cai, vào tháng 8 năm 1886 và một xảy ra tại Hải Ninh (Móng Cái) vào tháng 11, làm cho một số nhân viên Pháp bị thảm sát, đều do ông Trương Chi Động chủ mưu, đứng đàng sau quân Cờ Đen để quấy phá Pháp.

Do hai việc thảm sát này mà ông Dillon phải viết thư “lạy lục” phía bên Trung Quốc để được phân định biên giới trên bản đồ. Và đây là điều mong muốn của phía TQ.

Sau nhiều lần phản đối của Ðặc Sứ Pháp tại Bắc Kinh, năm 1889, Trương Chi Ðộng chuyển đi làm tổng đốc Lưỡng-Hồ (Hồ Nam và Hồ Bắc), Lưỡng-Quảng do em của Lý Hồng Chương thay thế, nhưng công việc không vì vậy mà được dễ dàng.

Một nhân vật cự phách khác, là tướng Phùng Chí Tài, chỉ huy tám trại quân dọc trên biên giới Lưỡng-Quảng, là một võ quan thuộc hàng cao cấp nhất trong quân đội Thanh Triều. Ông mang tước “Thái Tử Thiếu Bảo” (Ministre gardien du Prince héritier), được xếp vào hạng anh hùng quốc gia vì đã thắng Pháp trong trận Lạng Sơn. Ông này còn được các con giúp đỡ, trở thành một thế lực lớn, theo hồi ký của Chiniac De Labastide: với thế lực cũng như tiếng tăm của ông ta, Phùng Chí Tài mới là thực sự là Tổng Ðốc Quảng Ðông”.

Yếu tố khác, ở thời điểm phân định biên giới cũng là lúc nhà Nguyễn hoàn toàn mất mọi quyền hành trên vương quốc của mình. Phong trào Cần Vương được tích cực hưởng ứng, khuynh hướng “bình tây sát tả” nở rộ trong mọi giới. Cận thần nhà Nguyễn, như Tôn Thất Thuyết, lặn lội sang Tàu (quanh quẩn vùng Long Châu) để mưu cầu sự giúp đỡ. Như thế việc phân định biên giới Pháp-Thanh, phía VN không những không có mặt, mà các nỗ lực chống Pháp nhiều lúc trở thành các áp lực giúp cho TQ đạt được ý muốn của mình.

- Yếu tố chính trị: Theo ông Charles Fourniau, trong tiểu luận “La frontière sino-vietnamienne et le face à face franco-chinois à l’époque de la conquête du Tonkin”, trong quyển Les Frontière du Vietnam (Pierre-Bernard Lafont làm chủ-biên, nxb Harmattan, Paris 1989, trang 85-103), vào khoảng các năm 1860, trên vùng biên giới Việt-Trung tràn ngập dân “tị nạn” người Hoa, do các cuộc binh biến, loạn lạc (Thái Bình Thiên Quốc, Hồi) tại các tỉnh Hoa Tây và Hoa Nam như các tỉnh Vân Nam, Quí Châu. Tiếp theo là các cuộc “càn quét” của triều đình (1853-1878). Chỉ ở các tỉnh nầy thiệt hại nhân mạng lên đến nhiều triệu người (ước lượng tổng cộng là 50 triệu người chết). Vì thế mà vùng thượng du Bắc Kỳ đã bị tràn ngập những nhóm người xa lạ đến từ Trung Quốc: đợt di cư của dân tộc Mèo lần thứ ba (và cũng là lần cuối cùng), dân số trên 10.000 người đến từ các tỉnh Quí Châu, Vân Nam và Quảng Tây; những nhóm vũ trang nổi loạn như Lý Dương Tài (1878-1879), hay những nhóm nhỏ thuộc Thái Bình Thiên Quốc như giặc Cờ Ðen, Cờ Vàng v.v., và cuối cùng là khối nạn nhân, những người khốn khổ, chạy trốn sự giết chóc và chết đói. Ðể sống còn, nhóm người nầy phải gia nhập vào các đảng cướp. Cuộc “nam tiến” nầy tạo thành những đoàn quân vũ trang hùng mạnh, tiến sâu cho đến cao nguyên Cammon ở Lào (ngang với Nghệ Tĩnh ở VN), được Pháp gọi dưới cái tên “invasion des Hô” – “sự xâm lược của quân Hồ”.

Có nhiều hậu quả xảy ra: phần lớn vùng thượng du Bắc Việt, chạy dài cho đến phía bên rặng Trường Sơn miền Trung, đã bị những nhóm vũ trang Tàu xâm chiếm mà các nhóm nầy có những mối tương quan phức tạp với những quan lại phong kiến địa phương. Toàn vùng thuợng du vì thế càng thêm nghèo khổ. Dĩ nhiên, phía bên Trung Quốc hưởng lợi từ những việc nầy.

- Do hậu quả của hiệp ước Thiên Tân: Hiệp ước Thiên Tân 1885 thật ra là một thất bại lớn cho nước Pháp. Tất cả những gì người Pháp mong muốn hay đòi hỏi đều không được, ngoài việc xóa bỏ mối quan hệ “thượng quốc – chư hầu” giữa Việt Nam và Trung Quốc (mà thực ra là cái cái bánh vẽ). Hiệp ước 1885 đánh dấu “chiến thắng” đầu tiên và cũng là duy nhất của Trung Quốc trước một cường quốc Tây Phương.

Thật vậy, trong tất cả các hiệp ước mà nhà Thanh đã ký kết với các cường quốc vào khoảng thời gian này, chỉ có hiệp ước 1885 ký với Pháp là không gây thiệt hại (đất đai) cho Trung Quốc. Ngược lại, công ước thương mãi mà Pháp mong muốn, do ông Cogordan ký kết, là một thất bại lớn cho Pháp.

Công Ước về thương mãi được ký ngày 25 tháng 4 năm 1886 do ông Cogordan thương lượng, kết quả không đúng như mong đợi của Pháp. Ðể sửa chữa, một công ước bổ túc cho công ước thương mãi “Convention additionnelle de Commerce” được Constans thương lượng cùng lúc với công ước về biên giới và cùng ký ngày 26 tháng 6 năm 1887.

Như thế lãnh thổ VN được phía Pháp Quốc dùng để trao đổi với TQ để được quyền lợi về kinh tế.

Mặt khác, điều 3 của hiệp ước Thiên Tân đã gợi ý về một khả năng, là nếu cần thiết, “chấp nhận những thay đổi nhỏ ở đường biên giới hiện trạng”. Phía Trung Quốc đã suy diễn chi tiết nầy như là một dấu hiệu chấp nhận thay đổi đường biên giới, họ cho rằng đó là sự thỏa thuận đền bồi đất đai với việc nhượng bộ chính trị (do Hiệp Ước Thiên Tân, VN thôi không làm chư hầu TQ mà chịu sự bảo hộ của Pháp). Do đó, đối với phía TQ, Pháp phải đền bù việc nhượng bộ này (bằng đất đai của VN).

Lý Hồng Chương nói với tướng Rieunier rằng: “Nước Pháp đã đạt được nhiều quyền lợi khi có được Bắc Kỳ, xứ này là thuộc quốc của Trung Quốc từ 600 năm, và việc này là nhờ trung gian của tôi. Nó đã gây cho tôi nhiều phiền phức; tôi nghĩ rằng một sự đền bồi dưới dạng nhượng vài vùng đất nhỏ trên vùng biên giới là cần thiết” [2].

Ngoài ra, lúc Pháp chiếm Bắc Kỳ thì cũng là lúc Anh Quốc đã hoàn thành việc chiếm đóng Miến Ðiện. Công ước Anh-Hoa về Miến Ðiện (và Tây Tạng) 24-7-1886 đã dự trù thành lập một uỷ ban phân định biên giới. Tất cả những gì TQ nhượng bộ cho nước Pháp tại VN sẽ có thể ảnh hưởng đến những thương thuyết sau nầy với Anh Quốc.

- Khó khăn của địa hình: Vùng biên giới Việt Trung núi non hiểm trở, là vùng rừng thiêng nước độc. Tại các vùng đá nham động (karstiques), mưa lũ xoáy mòn tạo thành những hang rãnh sâu. Đây cũng là rừng rậm nhiệt đới, việc lưu thông của quân Pháp cực kỳ khó khăn. Nhưng nó lại dễ dàng cho các lực lượng đối nghịch thiết lập sào huyệt. Mặt khác, vùng đất nầy rất nghèo, ít dân, (vài trăm ngàn dân cho một vùng đất lớn bằng một phần ba nước Pháp), chỉ có thể giúp cho đạo quân chiếm đóng một nguồn sống nghèo nàn. Việc tiếp tế cho đạo quân nầy vì thế rất khổ nhọc và rất hao tốn cho hậu phương xa xôi. Việc xây dựng những đồn trại sau này ở các vùng Lạng Sơn, Lào Cai v.v. cho việc cắm mốc đã đặt ra vấn đề tiếp liệu cho các đoàn quân trú đóng. Việc nầy được thực hiện liên tục nhiều năm bằng những đoàn cu-li cực kỳ tốn kém, nhân lực cũng như tài lực. Việc xây dựng đường xe lửa Hà Nội - Lạng Sơn trở thành cần thiết trong khi ngân sách lại không có.

Ngoài những khó khăn trên, còn có thêm sự cản trở của tướng De Courcy, ông nầy từ chối, không cung cấp lính bảo vệ cần thiết cho uỷ ban phân định biên giới. Tướng De Courcy và bộ chiến tranh Pháp chủ trương một sự chiếm đóng hạn chế, chỉ giới hạn trong vùng bình nguyên và chung quanh, bỏ trống vùng thượng du như là một vùng không người “no man’s land”. Chỉ sau khi có bộ ngoại giao can thiệp, mặt khác, chính trường Pháp Quốc thay dổi chính trị, ông De Courcy bị rút về, chủ trương chiếm đóng Bắc Kỳ lâu dài, việc cản trở này mới chấm dứt.

2/ Kết quả phân định:

Việc phân định trên thực địa đã không kéo dài không lâu, nhưng cũng kết thúc đoạn (phía bên trái) Nam Quan (Nam Quan – Chi Mã 支 [3]馬). Phía Trung Quốc nhận thấy công việc bất lợi, như qua việc phân định từ Nam Quan đến Bình Nhi từ năm trước, do đó tìm cách phá hoại việc phân định.

Như đã viết trên, hai biến cố, một ở Lào Cai, tại khúc ngoặc trên sông Hồng, gần làng Tiền Phong, do quân Cờ Đen chủ mưu, vào tháng 8 năm 1886 và một xảy ra tại Hải Ninh, (Móng Cái) ngày 25 tháng 11 năm 1886, làm cho một số nhân viên Pháp bị thảm sát. Phía bên Pháp có tài liệu cho thấy cả hai biến cố này đều do ông Trương Chi Động đứng sau, giật dây quân Cờ Đen (và VN) để quấy phá Pháp.

Do hai việc thảm sát này mà ông Dillon phải viết thư “lạy lục” phía bên Trung Quốc để ngưng việc phân định trên thực địa và đề nghị phân định biên giới trên bản đồ. Và đây là điều mong muốn của phía TQ.

Kết quả phân định, điều đáng tiếc là, đoạn từ Chí Mã đến Nam Quan, phân định trên thực địa, đã không tìm được hồ sơ.
Về các biên bản khác (phân định trên bản đồ), đoạn biên giới từ Bắc Cương Ải đến Chí Mã Ải (thuộc Quảng Tây – Bắc Cương Ải là ranh giới giữa Quảng Đông và Quảng Tây) thay vì phân định riêng rẽ, lại được góp chung với vùng biên giới Quảng Đông, theo biên bản phân định từ Trúc Sơn (của sông Gia Long) đến Chi Mã sau đây. Đây là bản copy từ biên bản của TQ, qua Tổng Lý Nha Môn. Nguyên do, các biên bản của phía Pháp đã bị thất lạc (do mưa lũ cuốn đi).
Các biên bản còn lại cũng vậy, rất tiếc không còn bản chính, đều là các bản copy, không có ghi chú chữ Hán, ngoại trừ vài tấm bản đồ phân định (rất sai với thực tế).

Việc này gây trở ngại để so sánh hai công việc ở hai thời ký phân định và phân giới cắm mốc.

2.1 Ðoạn từ Chí Mã Ải đến Bắc Cương Ải:

Procès-verbal du 29 mars 1887
Délimitation de Tchouk-san à Chi-ma


(version française faite sur la copie chinoise communiquée par le Tsong-li Ya-men à la légation de France à Pékin, en mai 1889)

Les membres de la commission franco-chinoise de délimitation ont reconnu que: à partir de Tchou-chan (Trúc-sơn 竹山), qui appartient au territoire chinois, la frontière suit la rivière, de l’est à l’ouest, jusqu’à Tong-hing (Ðông-Hưng 東興) et Mang-kiai (Móng-Cái). Dans cette section, le milieu de la rivière forme la limite frontière, séparant Lo-feou-t’ong (La-phù-đồng 羅浮峒), Tong-hing et autres lieux ; qui appartiennent à la Chine, de Wou-che (Ngũ-sĩ 伍仕), Monkaï et autres lieux qui appartiennent à l’Annam.

Depuis Tong-hing et Monkaï jusqu’à Pei-che (Bắc-thị, Pacsi 北市) et Kia-long (Gia-long 加隆), la frontière est assez sinueuse et se dirige de l’est au nord-nord-ouest ; suivant le milieu de la rivière depuis Tong-hing et Monkaï jusqu’à Pei-che et Kia-long et séparent ainsi Na-tche (Ná-chi 那芝), kia-long et autres localités, qui appartiennent à la Chine, de T’o-ling (Thác-lãnh 托嶺), Nan-li (Nam-lý 南里), Pei-che et autres localités, qui appartiennent à l’Annam.

Depuis Pei-che et Kia-long, la frontière suit le milieu de la rivière Kia-long, qui est un affluent occidental de la rivière de Pei-che (rivière de Pacsi 北 市 江). Le cours de cette rivière a une longueur de trente li environs [ Note: chaque li équivaut à 561 mètres ], et au-delà de ces trentes li, la ligne frontière se dirige directement jusqu’à trois li comptés juste au nord de l’ancien marché du village de T’ong-tchong 峝 中 村, c’est-à-dire jusqu’au point A 甲de la carte n° 1. Les localités de Ling-Houai (嶺 懷 Lãnh-hoài), de P’i-lao (Phi-lao 披 勞), de Pan-hing (Bản-hưng 板 興), la montagne située au sud-est de Pan-hing, touchant à la frontière et appelée Fen-mao-ling (Phân-mao-lãnh 分 茅 嶺) et autres lieux ; sont attribués à la Chine. Na-yang (Ná-duong 那 陽), Tong-tchong (Ðộng-trung 峝 中) et autres lieux sont attribués à l’Annam.

Depuis le point A, la frontière se dirige vers le défilé de Pei-kang-ngai (Bắc-cang-ải 北 崗 隘), de la montagne P’ai-tsien-chan (Phái-thiên-sơn 派 遷 山). Ce lieu est distant de trente li environ ; en ligne droite du village annamite de P’ing-leao-ts’ouen (Bình-liêu-thôn 平 寮 村). La frontière sépare ainsi Na-kouang-k’a (Ná-quang-ca 那 光 卡), Pan-t’ouen-k’a (Bản-thôn 板 吞) et autres lieux ; qui appartiennent à la Chine, de Na-yang (Ná-duong 那 陽), Tch’eng-siang-che (Trình-tường-xã 呈 祥 社) et autres lieux, qui appartiennent à l’Annam.

Depuis le défilé de Pei-kang-ngai, de la montagne P’ai-ts’ien-chan, jusqu’au défilé de Pan-pang (Bản-bang-ải-khẩu 板 邦 隘 口), la frontière se dirige vers l’ouest-nord-ouest, en passant par les défilésde Touei-nien-ngai (Ðối-niệm-ải 對 念 隘), de Kieon-ko-ngai (Khiêu-ca-ải 邱 歌 隘), de K’ouei-ma-ngai (Qui-ma-ải 癸 麻 隘) et par les sommets des montagnes Yong-pa-chan (Dong-ba-sơn 峒 巴 山), Kiao-Hao Chan (Khiêu Hiệu Sơn) et K’ou-houa-chan (Khô-hoa-sơn 枯 華 山 ). Elle sépare ainsi Kieou-t’o-k’a (Cửu-đặc 九 特 卡 ), Kiao-houang-ngai (Khiêu-hoang-ải 叫 荒 隘 ), Nong-ting k’a et autres lieux appartennant à la Chine, du territoire de T’ong-sin-che (Ðồng-tâm-xã 同 心 社 ), de K’ouen-tchong-tchan (Khôn-Trọng 坤 仲 ), de Kieu-mou-che (Kiên-mộc-xa 堅 木 社), de Pan-kou (Bản-gao板), et autres lieux appartenant à l’Annam.

Depuis le défilé de Pan-pang jusqu’au défilé de Ngai-tien (Ải-điếm-ải-khẩu 隘 店 隘 口), aussi appelé défilé de Tche-ma (Chí-mã-ai), la ligne frontière s’infléchit un peu vers le nord-ouest, passant par les défilés de Na-ma (Ná-mã-ải-khẩu那 馬 隘 口), de Na-ho (Ná-hà 那 河 隘 口), de Sinn-peng (Sầm-Bảng) et de Na-wo (Ná-oa 那 窩 隘 口), et séparant Na-ma-k’a (Ná-mã 那 馬 卡), Pai-yi-k’a (Phái-y 派 衣卡), T’ien-k’i-k’a, et autres lieux qui appartiennent à la Chine, des territoires de Pan-long (Bản-long板 龍) , de Lin-ko (Lâm-ca 林 歌), de Kiu-k’i-che (Kiều khê xã 橋 溪 社), de Pan-yang (Bản-dương 板 陽), de Pan-yu (Bản-dục 板 派), Pan-p’ai (Bản-phái 板 欲), de Pan-tchan (Bản-trạm 板 砧) et autres lieux appartenant à l’Annam.

Les commissaires chinois et français ont signé le présent procès-verbal, dressé en double expédition dans chacune des langues chinoises et française ; un exemplaire en chaque langue a été remis à chacune des deux délégations, ainsi qu’une carte ci-annexée, de la frontière reconnue.

Signé à Monkay, le 5e jour de la 3e lune de la XIIIe année Kouang-siu (le 29 mars 1887).

Signatures chinoises de:
Teng, commissaire impérial, chargé de la délimitation, directeur de la cour du cérémonial d’Etat ;
Wang, commissaire impérial, chargé auxiliairement de la délimitation, taotai des grains du Kouang-tong ;
Li, commissaire impérial, chargé auxiliairement de la délimitation taotai en expectative du Tche-li.

Signatures françaises de:
Ch. Dillon,
Dr Paul Néïs.
Pour traduction conforme.
Le 1er interprète de la Légation à Pékin.
Signé: A. Vissière.


Tạm dịch ra tiếng Việt như sau:

Uỷ ban phân định biên giới Pháp-Trung
Biên bản ngày 29 tháng 3 năm 1887

Uỷ ban phân định nhìn nhận từ Trúc Sơn 竹山, thuộc Trung Quốc, đường biên giới theo dòng sông, hướng Ðông sang Tây, cho đến Móng Cái – Ðông Hưng 東興. Ðường trung tuyến của dòng sông được dùng làm ranh giới và chia các khu vực thuộc Trung Quốc là La Phù Ðộng 羅浮峒, Ðông Hưng 東興v.v.. với các khu vực thuộc An Nam là Ngũ Sĩ 伍仕, Móng Cáy v.v...

Từ Móng Cái – Ðông Hưng đến Bắc Thị 北市 – Gia Long 加隆 đường biên giới khá quanh co, hướng chung Bắc đến Bắc Tây Bắc và theo trung tuyến của dòng sông, phân chia những vùng đất Na Chi 那芝, Ka Long v.v… thuộc Trung Quốc những vùng Thác Lãnh 托嶺, Nam Lý 南里, Bắc Thị v.v... thuộc An Nam.

Từ Bắc Thị - Gia Long đường biên giới theo trung tuyến sông Gia Long, là một phụ lưu tây ngạn của sông Bắc Thị 北市江, có độ dài khoảng chừng 30 lí (mỗi lí là 561 thước), và khi vượt ra ngoài 30 lí nầy đường biên giới rời sông, theo đường thẳng trực tiếp để đến điểm cách Ðộng Trung 峝中村 3 lí về hướng Bắc, tức điểm được đánh dấu A (甲) trên bản đồ số 1. Ðường biên giới chia cho phía Trung Quốc các vùng Lãnh Hoài 嶺懷, Phi-Lao 披勞, Bản Hưng 板興 v.v… và một ngọn núi mang tên Phân Mao Lĩnh 分茅嶺, núi nầy ở phía Ðông Nam của Bản Hưng 板興 và dựa lên đường biên giới. Các vùng Ná Dương 那陽, Ðộng Trung 峝中 và những nơi khác thì thuộc về An Nam.

Từ điểm A, đường biên giới đi về hướng ải Bắc Cương 北崗隘, núi Phái Thiên 派遷山, cách làng Bình Liêu 平寮村 của An Nam khoảng 30 lí theo đường thẳng. Ðường biên giới chia (các ải) Ná Quang Ca 那光卡, Bản Thôn Ca 板吞卡 v.v... cho Trung Quốc và các vùng Na Dương 那陽, xã Trình Tường 呈祥社 v.v… cho An-Nam.

Từ ải Bắc Cương, thuộc núi Phái Thiên Sơn, cho đến Bản Bang Ải Khẩu 板邦隘口, đường biên giới theo hướng tổng quát Tây Tây-Bắc, qua các ải Ðối Niệm 對念隘, ải Khiêu Ca 邱歌隘, ải Qui Ma 癸麻隘 v.v… và qua các đỉnh núi Ðông Ba Sơn 峒 巴 山, Khiếu Hiệu Sơn (叫效山), Khô Hoa Sơn 枯 華 山. Ðường biên giới chia cho phía Trung Quốc Cửu Ðặc Ca 九 特 卡, Khiếu Hoang Ải 叫 荒 隘, Lộng Đinh Ca 弄 叮卡 v.v… và chia cho An Nam xã Ðồng Tâm 同 心 社, Khôn Trọng 坤 仲, Kiên Mộc 堅 木 社, Bản Kết 板桔v.v…

Từ Bản Bang Ải Khẩu cho đến Ải Ðiếm Ải Khẩu 隘 店 隘 口 (còn gọi là Chi Mã Ải) đường biên giới nghiêng chút ít theo hướng Tây Bắc, qua các ải Ná Mã Ải Khẩu 那 馬 隘 口, Ná Hà Ải Khẩu 那 河 隘 口, Sầm Bảng Ải Khẩu và Ná Oa Ải Khẩu 那 窩 隘 口 ; đường biên giới chia cho phía Trung Quốc Ná Mã Ca 那 馬 卡, Phái Y Ca 派 衣 卡, T’ien-Ki Ca v.v..và cho An-Nam những vùng Bản Long 板 龍, Lâm Ca 林 歌, Kiều Khê xã橋 溪 社, Bản Dương 板 陽, Bản Dục 板 派, Bản Phái 板 欲, Bản Trạm 板 砧v.v….

Các uỷ viên hai bên ký trên biên bản nầy gồm hai bản tiếng Pháp và hai bản tiếng Hoa, mỗi bản của mỗi thứ tiếng được trao cho hai uỷ ban cùng với một bản đồ đường biên giới đã được công nhận để đính kèm.





Hình 11-15: Biên bản ngày 29 tháng 3 năm 1887 (Procès-verbal du 29 mars 1887)

2.2 Biên bản số 2, phân định từ Bình Nhi đến sông Cao Bằng làm tại Móng Cái ngày 9 tháng 3 năm 1887, (Bản đồ 2 đính kèm)

Biên bản này, cùng một số biên bản khác sau đây không ghi chú chữ Hán, cho thấy sự khó khăn khi “nhận diện” các địa danh ghi trong biên bản. Các địa danh được ghi bằng tiếng Pháp, phiên âm từ tiếng địa phương. Tác giả ghi lại nguyên văn như thế, thật tình không biết địa danh đó là gì ? Điều may là các biên bản này, cùng các bản đồ đính kèm, không có giá trị. Nó là sản phẩm của việc phân định trong văn phòng, trên các tấm bản đồ (hoàn toàn sai) của phía TQ.

Dân biểu DUREAU de VAULCOMTE, đại diện uỷ ban Quốc Hội Pháp phụ trách theo dõi công ước 1887, đã làm bản báo cáo, nội dung có đoạn như sau:

En somme, deux ans après la signature du traite de paix, on avait tout juste reconnu 120 kilomètres de frontière; tout le reste, plus de 1.000 kilomètres figurait sur des cartes fantaisistes. La Convention n’était pratiquement qu’un chiffon de papier et tout restait a faire».

Tạm dịch như sau:

“Kết cuộc, hai năm sau khi ký hiệp ước hòa bình, người ta chỉ biết có 120 Km đường biên giới; phần còn lại, hơn 1.000 Km vẽ trên các bản đồ vô căn cứ. Công ước trên thực tế chỉ là một mảnh giấy vụn và tất cả đều phải làm lại”.

120 km đường biên giới đó là khu vực từ Nam Quan đến Bình Nhi và từ Nam Quan đến Chi Mã. Và thật sự như thế, tất cả các biên bản phân định trên bản đồ đều không có giá trị, hay có giá trị rất tương đối, tất cả phải phân định lại (trên nội dung tổng quát của biên bản cũ), cùng lúc với việc cắm mốc. Mặc dầu vậy, tác giả cũng ghi lại các biên bản này, cùng các bản đồ đính kèm.

Procès-verbal N° 2

La commission de délimitation a reconnu que entre Binh-Nhi sur la Song-Ki-Kong au point marqué A sur la carte N° 2 au Nord-Est de Na-Tan, entrée de la rivière de Cao-Bang sur le territoire Chinois, la frontière se dirige de Binh-Nhi à la passe de Bac-bo-aï (Moh-pou-aï) vers le Nord Nord-Oust laissant le poste militaire de Bac-Bo-Kh’a, etc, à la Chine ; elle suit entre la passe de Bac-bo-aï et le point C de la 2e carte une direction de Est à l’Ouest, laissant en Annam le territoire de Na-Luong etc. A partir du point C de la 2e carte elle se redresse de l’Est au Nord-Ouest , laissant au Nord le poste chinois de Kho-Mao-Kh’a etc, etc, au sud, le village annamite de Ban-Kou etc, etc.

De la passe de Hiu-Kao-Aï (Kame-moune-aï) après un coude léger au Sud, la frontière prend la direction Nord Nord-Ouest jusqu’au point B de la 2e carte , en traversant la passe de Coc-Neum-Aï, laissant à l’Annam les localités de Ban-Thion etc, etc ; à la Chine , le poste militaire de Kou-Cheng-Kh’a etc, etc.

Du point B à la passe de Kainh-hoa-aï qui se trouve près du village annamite de Na-Nim, la ligne de démarcation se coude de l’Est à l’Ouest, ainsi que l’indique la carte, et remonte ensuite vers le Nord , laissant à l’Est et en Chine les postes militaires de Jroane-hoai-Kh’a , Duong-ba-Kh’a, Ha-Luong-Kh’a etc, etc ; à l’Ouest et en Annam, les territoires de Na-bang, Ba-la-Tong, Nam-Jring, et Pa-Thiau, etc, etc.

De la passe de Kainh-Hoa-Aï, après une légère inflexion vers l’Ouest qui se termine entre le poste militaire chinois de Loung-ma-Kh’a et le village annamite de Bac-bo la frontière jusqu’au point A de la 2e carte au Nord-Est du village annamite de Na-Lan a une direction générale Sud Nord et coup les passes de Ki-Truong-Aï et de Na-Lam-Aï etc, etc. à hauteur du village annamite de Na-Lan.

En foi de quoi les commissairesont signé le présent proçès-verbal , en double expédition en français et en chinois, dont un exemplaire en chaque langue a été remis aux deux délégations avec un croquis certifié conforme pour y être annexé.

Fait et signé à Mon-Kay le vingt-neuf Mars mil huit cent quatre-vingt sept (le 5 de la 3e lune de la 13e année de Kouang-Shiu)


Tạm dịch như sau:

“Uỷ ban phân định biên giới công nhận rằng: từ Bình Nhi trên sông Kì Cùng tới điểm đánh dấu A trên bản đồ số 2 ở Ðông Bắc Na-Tan, nơi sông Cao Bằng chảy vào đất Trung Quốc, đường biên giới đi từ Bình Nhi đến ải Bắc Bộ (Moh-Pou-Ai) theo hướng Bắc Tây-Bắc để lại công sự Bac-Bo-Kha v.v.. cho Trung Quóc, từ ải Bắc Bộ đến điểm C trên bản đồ số 2 theo hướng từ Ðông sang Tây, để lại cho An Nam khu vực Na Lương v.v.. Từ điểm C của bản đồ thứ 2, đường biên giới đi lên từ hướng Ðông sang Tây Bắc, để lại phía Bắc công sự Trung Quốc Kho-Mao-Kha v.v.. phía Nam, các làng An Nam Ban Kou v.v.

Từ (ải) Hiu-Kao-Ai (Kame-Moune-Ai), sau một khúc ngoặc về hướng Nam, đường biên giới lấy hướng Bắc Tây Bắc cho đến điểm B của bản đồ thứ 2, xuyên qua Coc-Niem-Ai, để lại cho An Nam Ban-Thion v.v.. ; cho Trung Quốc công sự Kou-Cheng-Kha v.v.

Từ điểm B cho đến (ải) Kainh-Hoa-Ai ở gần làng Na-Nim thuộc An Nam, đường biên giới gập lại, từ Ðông sang Tây, như vẽ trên bản đồ, sau đó lấy hướng Bắc, để lại cho Trung Quốc, về phía Ðông, các công sự Jroane-Hoai-Kha, Duong-Ba-Kha, Ha-Luong-Kha v.v.. ; phía Tây cho An Nam các khu vực Na-Bang, Ba-La-Tong, Nam-Jring và Pa-Thiau v.v.

Từ (ải) Kainh-Hoa-Ai, sau khi nghiêng nhẹ về hướng Tây và chấm dứt tại khoảng giữa công sự Trung Quốc Loung-Ma-Kha và làng An Nam Bac-Bo, đường biên giới, cho đến điểm A của bản-đồ thứ 2, cho đến phía Ðông-Bắc của làng An Nam tên Na-Lang, có một hướng tổng quát Nam-Bắc và cắt các ải Ki-Truong-Ai và Na-Lam-Ai v.v.. ở khoảng làng Na-Lang (An Nam).

Ðể làm tin các uỷ viên ký tên trên biên bản này, hai bản bằng tiếng Hoa cũng như bằng tiếng Pháp, mỗi bản của mỗi thứ tiếng trao cho hai uỷ ban cùng với một họa đồ đã được chứng nhận để đính kèm.

Làm tại Móng Cái ngày hai mươi chín tháng ba năm một ngàn tám trăm tám mươi bẩy, nhằm ngày mồng năm tháng ba năm Quang-Tự thứ mười ba”.

Hình 16: Bản đồ số 2 đính kèm Biên Bản số 2 (Procès-verbal N° 2)

2.3 Biên bản số 3 (29-3-1887) và hình chụp 2 góc bản-đồ đính kèm:

Vùng này là vùng có thác Bản Giốc. Thác Bản Giốc ở giữa khúc sông được đánh dấu BC trên bản đồ. Sông Date-Dang là sông Qui Thuận.

Commission de délimitation de la frontière Franco-chinoise
Procès-verbal N° 3

La commission de délimitation a reconnu que:

1e: du point A de la 2e carte situé à l’endroit où la rivière de Cao-Bang, le Song-hiem entre en Chine , et à huit lis du poste militaire chinois de Cheao-choui-Koon au confluent du Song-Bak-Vong avec le Song-hiem , la frontière se dirige vers le Nord-Est, laissant en Chine le poste de Bong-Thane etc, et en Annam , les villages de Na-Thong, Luong-van-Trai, et Fate-mé-Xa, etc. etc.

2e à hauteur de de ce dernier village la frontière est déterminée par le Song-bak-Vong, la ligne de démarcation passant par le milieu du lit de ce ruisseau jusqu’à la passe de Do-hoa-aï, fait une légère inflexion vers le Nord , laissant en Chine le poste militaire de Kéo-Kam-Kh’a, la passe de Do-Hoa-Aï etc, etc ; en Annam les villages de Long-Lang etc, le fort de Bi-ha-bao etc, etc.

3e de la passe de Do-hoa-aï la frontière abandonnant le lit du Song-Bak-Vong se dirige vers le Nord-Est jusqu’au point A de la carte N° 3 où la frontière atteint le Song-Date-Dang, laissant en Chine la passe de Heup-Theck-Aï, la passe de Bing-long-aï, de Tong-Thone-Aï, Oi-Tchoum, Mieme-Tho, Loung-ti-aï et la passe formant frontière de Ha-Cao-Aï (Kia-Ki-Ngaïe) etc ; et en Annam , les villages de Hainh-Dang-Xa, de Ngoc-cheum-xa, de Hui-nhi-xa etc.

4e du point A de la 3e carte au point B de la 3e carte , près du village annamite de Luong-Bak-Trai, la frontière suit le milieu du lit du Song-Date-Dang

5e du point B de la 3e carte au point C de la 3e carte , près du village annamite de Bao-Khé, la frontière décrit un arc de cercle dont la convexité est tournée vers l’Est , laissant en Chine le poste de Ban-Thao-Kh’a traversant la passe de Ko-Ya-Aï, laissant en Chine le poste militaire de Ko-Ya-Kh’a et de Kaing-hane-kh’a etc. etc. en Annam , le Song-Date-Dang entre B et C et les villages de Luong-bak-Trai, de Loung-bo-Xa et de Pham-Khé etc. etc.

6e du point C de la 3e carte , point où le Song-Date-Dang entre sur le territoire annamite, la frontière suit une direction N.O. jusqu’à la passe de Keng-Qui-Aï, laissant en Chine le passe de Ding-lang-aï, le poste de Nhiam-tiang-Kh’a, de Dinh-la-Kh’a, de Lung-bang-aï etc. etc. ; en Annamles village de Loung-Tu-thone, de Linh-chiem, le territoire de Loung-trat-thone et de Pia-mé-thone etc. etc.

7e de la passe de Keng-qui-aï jusqu’au point D de la 3e carte , la frontière court directement au Sud-Ouest , puis se relève directement au Nord jusqu’au point E.

8e du point E de la 3e carte au point F de la 3e carte , passe de Chang-Keou-aï la frontière fait une légère inflexion O.N.O et N.N.O. dont la convexité est tournée vers l’Annam, laissant en Chine le passe de Tu-bang-aï (Ssi Pang Aï), les postes militaires de Na-laing-kh’a et de Piai-laie-kh’a etc, etc, en Annam les villages de Bac-Bien-Xa , Loung-Thone etc. etc...

En foi de quoi les commissaires ont signé le présent le proçès-verbal en double expédition en français et en chinois , dont un exemplaire en chaque langue a été réunis aux deux Délégations avec un croquis certifié conforme pour y être annexé.

Fait et signé à Mon-Kay le vingt-neuf Mars mil huit cent quatre-vingt sept (le 5 de la 3e lune de la 13e année de Kouang-Shiu)


Tạm dịch như sau:

“Uỷ ban phân-định biên-giới công-nhận rằng:

1/ Từ điểm A của bản-đồ thứ 2, tại điểm mà sông Cao Bằng, Sông Hiêm vào đất Trung Quốc, và cách 8 lý công sự Cheao-Choui-Koon (TQ), tại hợp lưu của sông Bak-Vong với sông Hiêm, đường biên giới theo hướng Ðông Bắc, để lại cho Trung-Hoa đồn Bong-Thane v.v.. và cho An-Nam các làng Na-Thong, Luong-Van-Trai và Fate-Mé-Xa v.v.

2/ Từ khoảng làng cuối cùng ghi trên đường biên giới xác định bằng sông Bak-Vong, đường biên giới theo trung tuyến cho đến (ải) Do-Hoa-Ai, làm một độ nghiêng nhẹ về hướng Bắc, để lại cho Trung Quốc công sự Kéo-Kam-Kha, (Ải) Do-Hoa-Ai v.v.. để lại cho An Nam các làng Long-Lang v.v.., công sự Bi-Ha-Bao v.v..

3/ Từ (ải) Do-Hoa-Ai đường biên giới rời sông Bak-Vong, theo hướng Ðông Bắc cho đến điểm A của bản đồ thứ 3, nơi mà đường biên giới đến sông Date-Dang, để lại cho Trung Quốc (ải) Heup-Theck-Ai, (ải) Bing-Long-Ai, (ải) Tong-Thone-Ai, Oi-Cjoum, Mienne-Tho, Loung-Ti-Ai và (ải) phân chia biên giới Ha-Cao-Ai (Kia-Ki-Ai) v.v.. và để lại An Nam các xã Hainh-Dang-Xa, Ngoc-Cheum-Xa, Hui-Nhi-Xa v.v.

4/ Từ điểm A của bản đồ thứ 3 đến điểm B của bản-đồ thứ 3, gần làng An Nam Luong-Bak-Trai, đường biên giới theo trung tuyến của Sông Date-Dang

5/ Từ điểm B của bản đồ thứ 3 cho đến điểm C của bản đồ thứ 3, gần làng An Nam Bảo Khê, đường biên giới vẽ một vòng cung mà phần lồi hướng về phía Ðông, để lại cho Trung Quốc công sự Ban-Thao-Kha, xuyên qua ải Ko-Ya-Ai, để lại cho Trung Quốc công sự Ko-Ya-Kha và Kaing-Hane-Kha v.v.., thuộc về An-Nam, khoảng sông Date-Dang giữa hai điểm B và C, các làng Luong-Bak-Trai, Loung-Bo-Xa và Pham-Khé v.v.

6/ Từ điểm C của bản đồ thứ 3, điểm mà sông Date-Dang chảy vào An Nam, đường biên giới theo hướng Tây-Nam cho đến (ải) Keng-Qui-Ai, để lại cho Trung Quốc các (ải) Ding-Lang-Ai, công sự Nhiam-Tiang-Kha, Dinh-La-Kha, Lung-Bang-Ai v.v.., để cho An Nam các làng Toung-Tu-Thone, Linh-Chiem, vùng đất Loung-Trai-Thon và Pia-Mia-Thon v.v.

7/ Từ (ải) Keng-Qui-Ai cho đến điểm D của bản đồ thứ 3, đường biên giới theo hướng thẳng Tây-Nam, sau đó ngược lên hướng Bắc cho đến điểm E.

8/ Từ điểm E 3 cho đến điểm F của bản đồ số 3, (ải) Chang-Keou-Ai đường biên giới hơi vòng về hướng Tây Tây-Bắc và Bắc Tây-Bắc mà phần lồi hướng về An Nam, để lại Trung Quốc ải Tu-Bang-Ai (Ssi Pang Ai), các công sự Na-Laing-Kha và Piai-Laie-Kha v.v.. bên An Nam các xã Bắc-Biên, Loung-Thone v.v.


Hình 17-18: Bản đồ số đính kèm Biên Bản số 3 (Procès-verbal N° 3)


Biên bản số 4 (29-3-1887). (Bản đồ số 4 vì chụp hình bị mờ nên không đưa vào)


Procès-verbal N° 4

La commission de délimitation a reconnu que:

Du point F de la 3e carte, au passe frontière de Thang-Kéou-Aï, point A de la 4e carte, la frontière suit une direction O.N.O. laissant en Chine le poste militaire de Lang-Vong-Kh'a et la passe Vinh-Lao-Aï etc. etc., traversant la passe frontère de Jrang-Quang-Aï et enfin atteignant celle de Loung-Touc-Aï, point A de la 4e carte ; en Annam, le territoire de Nam-Sching-Thone, de Trung-An-Thong et de Xuân-Mong-Xa etc.

De la passe frontière de Loung-Touc-Aï point A de la 4e carte à la passe de la Binh-Mong-Aï (Ping-Moung-Ngaïe) la frontière fait un arc de cercle dont la convexité ets tournée vers Annam, elle est coupée à son sommet par un torrent venant de Chine et qui passe à l'Est du défilé de Binh-Mong-Aï, laisse à l'Est le poste militaire de Loung-Poung-Kh'a etc. etc., et enfin traverse la passe de Binh-Mong-Aï ainsi que l'indique la carte; en Annam, le village de Schok-Koung-Pho et de An-Lung-Xa etc. etc.

De la passe de Binh-Mong-Aï à celle de Cau-Thi-Aï (Kouei-Ky-Aï) point B de la 4e carte, la frontière se dirige vers l'Ouest laissant en Chine le poste militaire de Ba-Luoie-Kh'a et de Khoie-Laie-Kh'a etc. etc.; en Annam le village de An-Jruong-Xa et de Tong-Nong-Xa etc.
De la passe de Cau-Thi-Aï, pointB de la 4e carte jusqu'au point C, passe frontière de Po-Tsen-Aï, la frontière suit une direction O.N.O laissant en Chine la passe de Dong-Long-Aï et le poste militaire de Pa-Kuoc-Kh'a etc. etc. en Annam le village de An-Quang et de Pa-Kau , etc.

De la passe de Po-Tsen-Aï point C de la 4e carte à celle de Pa-Tou-Aï, point D de la 4e carte, la frontière se dirige vers le Nord, laissant en Chine le postede Thuoung-Long-Kh'a etc, en Annam la passe de Cau-Aï et le village de Eim-Kouang-Xa etc, etc.

De la passe de Pa-Tou-Aï point D de la 4e carte au point E de la 4e carte, frontière entre le Yunnan , le Quang-Si et l'Annam, la frontère après avoir fait un coude brusque se dirige vers l'Ouest, laissant en Chine les passe de Thuong-Ha-Kai-Aï, Bak-kam-Aï, traverse la passe frontière de Cung-Aï, laisse en Chine celle de Bech-hoai-ta-Aï et le poste militaire de Na-Ban-Kh'a à l'Ouest de la passe de Bech-Hoai-Ta-Aï etc, etc.

Le point E est situé entre les villages chinois de (Tra-Cheng) Ko-Ta-Cheng et le village annamite de Long-Ban-Kaï,

En foi de quoi les commissaires ont signé le présent proçès-verbal en double expédition en français et en chinois dont un exemplaire en chaque langue a été remis aux deux Délégation avec un croquis certifié conforme pour y être annexé.

Fait à Mon-Kay le vingt-neuf mars mil huit cent quatre-vingt sept (le 5 de la 3e lune de la 13e année de Kouang-Shiu.


Tạm dịch như sau:

Uỷ ban phân định biên giới công nhận rằng:

Từ điểm F trên bản đồ thứ 3 đến cửa ải (của biên giới) Thang-Kéou Ai, tức điểm A của bản đồ thứ 4, đường biên giới theo hướng Tây Tây-Bắc, để lại cho Trung Quốc công sự Lang-Vong Kha và cửa ải Vinh-Lao Ai v.v… để lại cho An Nam vùng Nam-Sching Thone, Trung-An Thone và Xuan-Mong Xa v.v…; đường biên giới đi qua cửa ải Jrang-Quang Ai để đến cửa ải Loung-Touc Ai, là điểm A của bản đồ thứ 4.

Từ cửa ải Loung-Touc Ai, tức điểm A của bản đồ số 4, cho đến cửa ải Binh-Mong Ai, đường biên giới làm thành một vòng cung mà phần lồi quay về hướng Việt Nam, vòng cung này bị cắt trên đỉnh bằng một con suối đến từ Trung Quốc, suối này đi qua phía Ðông ải Binh-Mong ; đường biên giới để lại phía Ðông công sự Loung-Poung Kha v.v… cuối cùng đi qua Binh-Mong ải như đã vẽ trên bản đồ và để lại cho An Nam những làng Schok-Koung-Pho và An-Lung Xa v.v.

Từ cửa ải Binh-Mong đến cửa ải Cau-Thi Ai (Kouei-Ky Ai), tức điểm B trên bản đồ thứ 4, đường biên giới đi về hướng Tây để lại cho Trung-Hoa các đồn Ba-Louie Kha và Khoie-Laie Kha v.v…, để lại cho An Nam các làng An-Jruong Xa và Tong-Nong Xa v.v.

Từ Cau-Thi Ai, điểm B của bản đồ thứ 4 cho đến điểm C, tức Po-Tsen Ai, đường biên giới theo hướng Tây Tây-Nam, để lại cho Trung Quốc Dong-Long Ai và công sự Pa-Kuoc Kha v.v… An Nam các làng An-Quang và Pa-Kau v.v.

Từ Po-Tsen Ai, tức điểm C của bản đồ thứ 4, đến Pa-Tou Ai, tức điểm D của bản đồ thứ 4, đường biên giới theo hướng Bắc, để lại cho Trung Quốc công sự Thuoung-Long Kha v.v… và để lại cho An-Nam ải Cau-Ai và làng Eim-Kouang-Xa v.v.

Từ Pa-Tou Ai, tức điểm D của bản đồ thứ 4, đến điểm E, giao điểm ba biên giới Quảng Tây, Vân Nam và An Nam, đường biên giới sau khi đi ngoặc lại, theo hướng Tây, để lại cho TrungQuốc các cửa ải Thuong-Ha Kai Ai, Bak-Kam Ai, qua cửa ải Cung-Ai, để lại cho Trung-Hoa cửa ải Bech-Hoai Ta Ai và công sự Na-Ban Kha ở phía Tây của cửa ải Bech-Hoai Ta Ai v.v.

Ðiểm E ở khoảng giữa hai làng Trung Quốc Ko-Ta-Cheng (Tra-Cheng) và làng An-Nam Long-Ban Kai.

(còn tiếp)
Trương Nhân Tuấn
[1] Journal d’un mandarin, Lettre de Chine et Documents Diplomatiques Inédites par un fontionnaire du Céleste Empire. Paris, Lib. Plon. 1887. CAOM.tr 16.
[2] dẫn bởi Charles Fourniau, sđd.
[3] Để ý chữ « chi 支 », ở đây viết theo biên bản cắm mốc giới 15 tháng 12 năm 1890, viết khác với biên bản phân định Trúc Sơn-Chi Mã (hình).

© Thông Luận 2009
--------------
Biên Giới Việt Nam: vùng tiếp giáp tỉnh Quảng Tây [3] (Trương Nhân Tuấn)
“…Biên giới giữa hai nước Việt Nam và Trung Quốc xưa nay được xác định do các cửa ải hay các đoạn biên giới thiên nhiên như sông, suối hay núi… Việc xác định lại đường biên giới lịch sử là xác định lại những cửa ải hay đoạn biên giới thiên nhiên ấy…”
1 2 3


Phần thứ ba:
Giai đoạn phân giới và cắm mốc

Công tác phân giới cắm mốc được chia làm 4 thời kỳ.

Thời kỳ thứ nhứt (1889 - 1890) do ông Chiniac De Labastide làm chủ tịch. Ông này không có công trình nào tại vùng Quảng-Tây.

Thời kỳ thứ hai (1891 - 1892) do ông Frandin làm chủ tịch. Ông này là một nhà ngoại giao, nguyên là phó lãnh sự Pháp tại Cao Ly, phụ trách cắm mốc vùng Quảng Tây.

Thời kỳ thứ ba (1892-1893) do đại tá Servière làm chủ tịch. Công việc của ông Servière là trắc địa, lập bản đồ các vùng Quảng Tây và Vân Nam, giúp cho việc phân giới được chính xác hơn sau này.

Chi tiết đáng nhắc của uỷ ban Servière là các nhân viên của ông đã từ chối phân giới vùng Phong Thổ, Hưng Hoá, Lai Châu v.v. là vùng hữu ngạn sông Hồng (tức vùng Tây Bắc, gồm các tỉnh Lai Châu và Hoàng Liên Sơn hiện nay) vì theo công ước 1887, vùng này phải nhượng một nửa cho Tàu. Đây là nguyên nhân đưa đến phụ ước Gérard 1895. Vùng đất này thuộc ảnh hưởng của giòng họ Ðèo Văn Trị và tác giả sẽ nói rõ hơn trong phần biên giới Vân Nam.

Thời kỳ thứ tư (1893-1894) do đại tá Galliéni làm chủ tịch. Việc phân giới vùng Lưỡng Quảng được kết thúc dưới thời kỳ này.

Thời kỳ thứ năm (1895-1897) do đại tá Pennequin làm chủ tịch. Ông này phụ trách phân giới vùng Vân Nam (phân định và cắm mốc lại các đoạn tả ngạn sông Hồng cũng như thi hành phụ ước Gérard).

Hai thời kỳ 1 và 2 rất tốn kém cho ngân sách Pháp mà thành quả chẳng được bao nhiêu. Thành phần phái đoàn phân giới (1890-1891) được tổ chức gồm có: 1 uỷ ban trung ương thường trực và 3 ban trắc địa.

Uỷ ban trung ương có: 1 chủ tịch, 2 uỷ viên, 1 sĩ quan chỉ huy đội bảo vệ, 1 sĩ quan tiếp liệu, 1 nhà Hán học, 1 nhà Việt học, 1 thông dịch viên tiếng Hoa, 1 thông dịch viên tiếng Việt, 60 lính bảo vệ và khoảng 200 phu khuân vác.

Ba ban trắc địa, mỗi ban gồm có: 1 uỷ viên thuộc uỷ ban phân định biên giới, 1 sĩ quan chỉ huy, 3 trung uý hay thiếu uý, 1 sĩ quan bảo vệ, 1 sĩ quan tiếp liệu, 1 thông dịch viên tiếng Hoa, 1 thông dịch viên tiếng Việt, 60 lính bảo vệ và 80 phu khuân vác. Riêng ban tiếp liệu, mỗi ban có 1 sĩ quan, 50 nhân viên và khoảng 90 phu khuân vác.

Qua các báo cáo, vùng biên giới phong thổ độc địa, vào những tháng sắp mưa, phu cũng như lính bệnh như rạ. Họ chỉ làm việc được từ khoảng Tháng 10 cho đến Tháng 4, là những tháng không mưa. Mặt khác, theo các điều ước đã ký, hai phái đoàn Chiniac Delabaside và Frandin không có quyền quyết định chung cuộc, những cột mốc được cắm chỉ là những mốc tạm, biên bản kết quả phân giới phải đưa về Tổng Lý Nha Môn và Ðặc Sứ Pháp tại Bắc Kinh phê duyệt. Hao tổn lại càng tăng vì mất thì giờ chờ đợi.
Chỉ đến Tháng 12 năm 1891, toàn quyền Lanessan quyết định cho thành lập những khu quân sự trên toàn cõi Ðông Dương. Vùng biên giới được chia làm nhiều phân khu và công việc phân giới được giao cho các vị chỉ huy trưởng. Những vị này có thẩm quyền chung cuộc, không cần đưa về Bắc Kinh để chờ xét duyệt. Công việc phân giới vì vậy ít tốn kém và hiệu năng tăng cao.

Như thế, liên quan đến biên giới Quảng Tây là hai thời kỳ: Thời kỳ thứ hai (1891 - 1892) do ông Frandin làm chủ tịch và thời kỳ thứ tư (1893-1894) do đại tá Galliéni làm chủ tịch.

1/ Thời kỳ do ông Frandin làm chủ tịch (1891-1892)

Kết quả phân giới của ông Frandin là cắm mốc (tạm) trên ba đoạn biên giới, trên vùng phía Ðông Quảng Tây: đoạn 1 từ Bắc Cương Ải đến Chí Mã Ải, đoạn 2 từ Chí Mã Ải đến Ðại Nam Quan và đoạn 3 từ Ðại Nam Quan đến Bình Nhi Quan như theo biên bản dưới đây.

Tất cả các bản đồ (3 bản đồ) phân giới đính kèm biên bản đều tìm được tại CAOM, nhưng là những tấm bản đồ rất lớn, tỉ lệ 1/50.000, vẽ trên vải lụa, nhưng nét vẽ đã phai nhạt rất nhiều cũng như nền vải thì nhàu nát, như áo quần giặt chưa ủi, có lẽ do mưa gió, lấm bùn phải giặt lại. Vì thế không thể chụp hình toàn thể. Tuy nhiên, những chi tiết về các cột mốc thì vẫn còn thấy rất rõ. Một tấm bản đồ tỉ lệ 1/200.000 từ Bắc Cương Ải đến Bình Nhi, in trên giấy bồi, tác giả chụp hình lại làm thành 5 mảnh phía dưới.

Hình 19: Mảnh 1 bản đồ khu vực từ Bắc Cương Ải đến Bình Nhi

Mảnh thứ nhất: Theo bản đồ, từ phải sang trái, đường biên giới là đường nối các gạch chéo, theo sống núi, qua các đỉnh hay các cửa ải, có cắm mốc là tam giác màu đỏ, mang tên : Bắc Cương Ải, Bắc Cương Sơn, Ðối Niệm Ải, Quì Long Sơn, Cao Ðông Sơn, Phái Thiên Sơn, Phái Thiên Ải, Giao Bài, Tỷ Ðạt Sơn (Ðồng-Ba).

Hình 20: Mảnh 2 bản đồ khu vực từ Bắc Cương Ải đến Bình Nhi

Mảnh hai, tiếp theo mảnh một: Khiếu Hiệu Sơn (Keo-Hieu-Son), Thúc Môn Sơn (Long-Mong-Son), Bạch Thịnh Sơn (Bac-Thang-Son), Thử Hà (Cao-Poai-Son), Na Mã Ca (Na-Ma Kha), Bản Phường Ca (Ban-Hang Kha), Na Lâm hay Giao Phê (Tchi-Son).

Hình 21: Mảnh 3 bản đồ khu vực từ Bắc Cương Ải đến Bình Nhi

Mảnh thứ ba, tiếp theo mảnh hai: Na Hà (Na-Ha), Na Thang hay Giao-Oa (Na-Thang), Ngọc Hầu Sơn (Ngoc-Ao Son), Na Thượng Sơn, Thạch Bi, Lễ Do, Phủ Môn, Chí Mã Khẩu (Ai-Tiem), Ðạo Nê, Lục Vinh Sơn, Công Mẫu Sơn, Na Chi Ải (Na-Chi Ai), La Nông Sơn (Lo-Nung Son), Ðạo Hạ Ca (Kouei-Cha Ai), Na Lộc Sơn.

Hình 22: Mảnh 4 bản đồ khu vực từ Bắc Cương Ải đến Bình Nhi

Mảnh thứ tư, tiếp theo mảnh ba: Ðồng Hộ Ca, Bản Trụ Sách, Kim Cang Sơn, Mỹ Mục Sơn (Mey-Moc Son), Khô Giảng Sơn (Co-Tsiong Son), Khô Ma Sơn (Co-Ma Son), Khấu Sơn Ca (Cau-Son) tức Ải Loa, Tam Sắc Sơn (Ton-Yac Son), Na Ma Lĩnh, Tác Dục ( ?) Sơn, Pháp Ca Sơn (Phac-Ca Son).

Hình 23: Mảnh 5 bản đồ khu vực từ Bắc Cương Ải đến Bình Nhi

Mảnh thứ năm, tiếp theo mảnh bốn: Thôn Khảo Sơn, Phái Bình Sơn (Pai-Binh), Áp Môn Ải tức Ải Rô (Ai Ro), Khấu Cừ Sơn (Cao-Cap), Bộ Bộ Sơn, Khôn Thăng Sơn, Nam Quan, Lộng Diêu (Liong Nau), Bố Sa, Na Thốt, Hi Tự Tiền Dinh Pháp Ðài, Sơn Tử, Na Phiêu…

Bản đồ trên đây, cũng như biên bản dưới đây, do uỷ ban ông Frandin thiết lập, (đã được uỷ ban Galiéni xem là thất lạc) sẽ rất quan trọng vì nó bổ túc vị trí các cột mốc cho biên bản (để trắng) 19 Tháng 6 năm 1894 của ông Galliéni.

Procès-Verbal de la Commission d’Abornement de la Frontière Sino-Annamite

Section EST du Qouang-Si


Le 15 Décembre 1890 (le 4e jour de la 11e lune de la 16e année Kouang-Shui) les commissaires de la commission d’abornement France- Chinoise se sont réunis à Tong-Tchong (Hoang-Mo).

Le 20 décembre les potographes ont commencé les travaux à Tien-Tsong-Chau (Ba-Kong-Si) et ont mis cent vingt jours pour arriver à Binh-Nhi.

La mauvaise saison ne permettant pas de poursuivre les travaux sur la frontière Ouest du Qouang-Si la commission a décidé d’en remettre la continuation à l’automne prochain.

D’après les procès-verbaux de la Commission de délimitation la frontière EST du Quang-Si était tracée à l’origine sur deux cartes l’une allant de Tien-Tsong-Chau (Ba-Kong-Si) et l’autre de Chi-Ma à Binh-Nhi toute fois pour pouvoir désigner d’une façon plus précises le tracé de la frontière en y inscrivant en détail les nom des montagnes, villages et passes, la Commission a décidé de faire trois cartes, la première de Tien-Tsang-Chau (Bo-Kong-Ai) à Chi-Ma, la seconde de Chi-Ma à Nam-Quan et la troisième de Nam-Quan à Binh-Nhi.

Le tracé parcouru en mesure chinoise est d’environ 604 li.

Sur les cartes le tracé de la frontière a été marqué en vert pointillé de croix noire pour permettre d’en vérifier facilement la similitude.

De Nam-Quan à Binh-Nhi, il a été placé 15 petites bornes ; on placera l’automne prochain les bornes qui n’ont pas encore été plantées, aux points indiqués par un triangle rouge sur le tracé frontière des cartes.

Les petites bornes sus désignées seront remplacées plus tard par de grandes bornes aux mêmes endroits.

Les commissaires franco-chinois ont comparé le tracé frontière des cartes et ont reconnu qu’il était conforme aux proçès-verbaux de l’encienne commission de délimitation, et qu’il n’a fait de part et l’autre, l’objet d’aucune discussion.

Les trois cartes ont été signées et scellés par les commissaires Franco-Chinois, en quatruple expédition, deux expéditions faites par les topographes chinois et deux par les topoghaphes français, une expédition chinoise est remise par le Président chinois au Président français et une expédition française remise par le Président français au Président chinois.

Le procès-verbal est écrit en français et en chinois en double expédition.

Chaque commission gardera une des expéditions des cartes et du proçès-verbal qui feront foi.

Les bornes seront placées aux points portés sur les cartes conformément aux indications suivants:

1e borne: à l’entrée du défilé de Bac-Cuong-Aï (Bắc Cương Ải 北崗)

2e borne: sur le sommet de Pac-Cong-Son (Bắc Cương Sơn 北崗山)

3e borne: au col de Doi-Na-Mai (au point côté 773) (Đối Niệm Ải 對捻)

4e borne: sur le sommet de Qui-Tong-Son (Quỳ Long Sơn 葵隆山)

5e borne: au col situé à l’ E du village chinois de Cao-Tong (Cao Đồng Sơn 高桐山)

6e borne: sur le petit mamelon à l’E de la porte de Pai-Tchiem-Aï (Phái-Thiên Ải派遷

7e borne: à l’E. de la précédente sur le chemin qui conduit à Na-Pha (Phái Thiên Sơn派遷山)

8e borne: à Cao-Pai (près du chemin) (Giao Bài 交排)

9e borne: à Song Pai (près du chemin) (Bắc Cương Sơn北崗山)

10e borne: à Ken-Hien-Son (près de la porte) Khiêu Hiệu Sơn 呌…山

11e borne: sur le sommet de Long-Mong-Son (Ðông Môn Sơn東có bộ 山 ở trên) 門山)

12e borne: sur le plateau de Pin-Cong (La borne n° 12 a été supprimée d’un commun d’accord)

13e borne: sur le plateau de Bac Thang Son (près du sentier) Bạch Thịnh Sơn 白盛山

14e borne: à Cao-Pao-Son (au croisement des deux sentiers) Bộ Hà 步河

15e borne: à Na-Ma-Kha (Na Mã Ca那馬卡)

16e borne: à Ban-Hang-Kha (Bản Phường Ca 板坊卡)

17e borne: au point où le sentier de Na-Lam traverse la frontière (Na Lâm 那林)

18e borne: à la porte de Na-Ha(那河 Ná Hà ải)

19e borne:à la porte de Na-Thang那

20e borne: au sommet de Ngoc-Hao-Son Ngạc Hầu Sơn 鱷矦山

21e borne: au point où le chemin de Ban-Thinh à Na-Thuong traverse la frontière板

22e borne: au point où le chemin de Ban-Thinh à Na-Hu traverse la frontière石碑

23e borne: au point où le chemin de Na-Phat à Na-Hu traverse la frontière禮由

24e borne: près du poste de Pa-Mau (au sud de la porte de Chi-Ma) 埔 門 Bộ Môn

25e borne: à la porte de Chi-Ma

2e section de Chi-Ma à Nam-Quan

1e borne: sur le chemin de Phaï Sam à Chi-Ma à 1200m mesurés sur ce chemin au N.E. 道泥 Đạo Nê

2e borne: sur le premier sommet au N-O et à 800m de la 1e borne Lục Vinh Sơn 六榮山

3e borne: à 500m à l’Ouest de la cascade situé près du village chinois de Po-Ho Công Mẫu Sơn 公母山

4e borne: à la porte de Na-Chi那支

5e borne: sur le sommet de Lo-Nung-Son La Nông Sơn 羅農山

6e borne: à la porte de Kouei-Kha Đạo Hạ Ca道下

7e borne: au sommet de Na-Loc-Son (côté 409) Nã Lộc Sơn 那祿山

8e borne: à la porte Tong-Hon Đồng Hộ Ca 同戶

9e borne: à la porte de Pau-Tchau Bản Trụ Sách 板宙柵

10e borne: au sommet de Kim-Kam (côté 402) Kim Cương 金崗

11e borne: au sommet de Mey-Moc-Son Mỹ Mục Sơn 美目山

12e borne: sur le chemin de Packing à Cauxo (à 300m au N de ce dernier village) Khô Giảng Sơn 枯 講

13e borne: sur le chemin de Na-Piou à Po-Héo sur la ligne de crête du Co-Mo-Son Khô Liểu Sơn 枯柳

14e borne: à la porte de Aï Loa Khấu Sơn Ca 扣山

15e borne: au sommet de Sam-Sie-Son Tam Sắc Sơn 三色山

16e borne: à la porte de Na-Bo Nã Ma 那摩

17e borne: sur le chemin de Na-Pha à Ha-Lai (à 900m au S. de ce dernier village)

18e borne: à la porte de Phac-Kha Pháp Ca Sơn 法卡山

19e borne: sur le chemin de Gia-Muc à Ban-Chau (à 1300m de ce dernier village) Cốc 谷

20e borne: sur le sommet de Paï Binh-Son Phái Bình Sơn派苹

21e borne: à la porte d’Aï Ro Áp Môn Ải 閘門

22e borne: à 400m au S.E. du porte de Cao-Cap (sur le plateau)

23e borne: à Po-Seu Bộ Tá埔些

24e borne: sur le sommet placé face du fort chinois de Kouei-Tao Khôn Long Ải 坤隆

25e borne: à 100m en avant de la porte de Nam-Quan sur le chemin de Dong-Dang

3e section de Nam-Quan à Binh-Nhi

1e borne: sur le chemin de Nam-Quan à Dong-Dang (à 100m au S de la porte)

2e borne: au petit col coupant la crête rocheuse sur le sentier allant de la route de Dong-Dang à Nam-Quan au village de Lung-Ngao. Lộng Diêu 弄搖

3e borne: à 250 m à l’O du village de Lung-Ngao sur le sentier allant à Khua-Da

4e borne: à la porte de Bo-Sa Ải Bố Sa

5e borne: 500m au S.E. du village de Na-Thot (sur un sommet élevé) Nã Thốt Lĩnh 那卒嶺

6e borne: à 100m à l’O du fort de Hi-Tu-Tien-Dina-Phao-Dai

7e borne:à la porte de Song-Tu Sơn Tử Ải

8e borne:à 400m au S.E. du village de Na-Phéo Ná Phiêu那票 (có thêm bộ 木 đứng trước chữ « phiêu »

9e borne: à 150m à l’O. du fort de Kéo-Chu Ba Khẩu 巴(có thêm bộ 山 ở trên chữ « ba ») 口

10e borne: à la borte de Thuong-Dong Thuợng Dương Ải

11e borne: à la porte de Pha-Mat Ba Mễ Ải 巴 (có thêm bộ 山 ở trên chữ « ba ») 米

12e borne: à la porte de Ban-Tuyen Bản Quyên Ải (Quyên Thôn 絹村)

13e borne: à 200m au N.E. du confluent du ruisseau de Ban-Quyen et du ruisseau ayant la direction N.S. Phần Quan Lĩnh 坟官嶺

14e borne: à la veille porte située à 500m du point coté 345 Cang Anh Sách亢英柵

15e borne: à l’E de la vallée de Na-Dong près du sentier allant de Luc-Bac à Tra-Kieu Cổn Mã Lĩnh滾馬嶺

16e borne: sur le mamelon situé à 250m au N.E. du point coté 294 Bình Công Ải平公

17e borne: au col très bas à 1000m au S. du fort Na-Ho Tan-Tien-Ten-Tien-Sao Giác Hoài Lĩnh 角懷嶺

18e borne: sur un mamelon dominant le Song Ki-Cung à 150m de la rivière Bách Tặng Lĩnh 百 贈 嶺

A Binh-Nhi le 21 Avril 1891, le 13e jour du 3e mois de la 17e année Kouang-Siu

Le Président de la Délégation française

(signature)

Les membres de la délégation française

(4 signatures)


Tạm dịch như sau:

Biên bản của Uỷ Ban Phân Giới Việt-Trung

Ðoạn phía Ðông Quảng Tây

Ngày 15 Tháng 12 năm 1890, nhằm ngày 4 Tháng thứ 11 năm Quang Tự thứ 16, các uỷ viên phân giới Pháp-Trung nhóm họp tại Tong-Tchong (Hoành Mô).

Ngày 20, các trắc địa viên bắt đầu công việc ở Tien-Tsong-Chau (Bắc Cương Ải) và mất một trăm hai mươi ngày để đến Bình Nhi.

Thời tiết mùa nầy xấu, không cho phép tiếp tục công-việc phía Tây Quảng Tây, uỷ ban quyết định dời công việc lại vào mùa thu năm tới.

Theo các biên bản của uỷ ban phân định, biên giới vùng Ðông Quảng Tây được vẽ trên hai địa đồ: tấm thứ nhứt từ Tien-Tsong-Chau (Bắc Cương Ải) đến Chi Mã Ải và tấm thứ hai từ Chí Mã tới Bình-Nhi. Để có thể xác định một cách chính xác đồ tuyến biên giới, trên đó có gi tên các núi non, làng mạc, các ải... Uỷ ban đã quyết định thành lập 3 bản đồ: thứ nhứt từ Tien-Tsang-Chau (Bắc Cương Ải) đến Chi Mã, tấm thứ nhì từ Chi Mã đến Nam Quan và tấm thứ ba từ Nam Quan đến Bình Nhi.

Ðồ tuyến đã đi qua đo được bằng đơn vị TQ, khoảng 604 lí.

Trên bản đồ, đường biên giới được vẽ đường màu xanh lá cây, xen vào các chữ thập đen để dễ dàng nhận diện.

Từ Nam Quan đến Bình Nhi cắm được 15 cột mốc nhỏ ; người ta sẽ cặm vào mùa thu năm tới những cột mốc chưa được cắm tại các điểm chỉ-định bằng một tam-giác đỏ trên các bản đồ.

Các cột mốc nhỏ sẽ được thay thế sau này bằng các cột mốc lớn, cùng địa điểm.

Các uỷ ban Pháp-Trung đã so sánh đồ tuyến của đường biên giới và công nhận rằng chúng phù hợp với các biên bản của uỷ ban phân định biên giới tiền nhiệm. Hai bên không có phản đối nào.

Cả ba tấm bản đồ được các uỷ ban Pháp-Trung ký tên và đóng dấu, sao ra mỗi tấm làm bốn bản, hai bản do các trắc địa viên TQ ấn ký, và hai bản do các trắc địa viên Pháp ấn ký, một bản tiếng Hoa do chủ tịch uỷ ban Trung Quốc trao cho chủ tịch uỷ ban Pháp và một bản tiếng Pháp được chủ tịch uỷ ban Pháp trao cho chủ tịch uỷ ban Trung Quốc.

Biên bản được làm hai bản, viết bằng tiếng Pháp cũng như bằng tiếng Hoa.

Mỗi uỷ ban giữ một bản biên bản và các bản đồ để làm chứng.

Các cột mốc sẽ được cắm tại các điểm ghi trên bản đồ, phù hợp với những ghi chú sau đây:

(Xem bản chính ở trên)

Bình-Nhi ngày 21 Tháng 4 năm 1891 nhằm ngày thứ 13, Tháng 3 năm Quang-Tự thứ 17.

Chủ-tịch uỷ-ban Pháp
ký tên.
Flandin
Các uỷ-viên Pháp
4 chữ ký: Dr Pethelaz, Didelot, G. Mahé…









Hình 25-33: Hình chụp nguyên bản biên bản phân giới 21 Tháng 4 năm 1891
(có chữ ký của hai uỷ ban phân-giới)


2/ Thời kỳ do ông Galliéni làm chủ tịch (1893-1894)

Ngoài ông Constans, đặc sứ toàn quyền Pháp tại Bắc Kinh, là người đã ký kết công ước về biên giới 26-6-1887, đã nhượng các phần đất của VN như Tụ Long, mũi Bạch Long cho Trung Quốc để được quyền lợi kinh tế, thì đại tá Galliéni là người đã nhượng các vùng đất ở Hải Ninh (thuộc các xã ở Kiến Duyên và Bát Tràng) và tổng Đèo Lương (Cao Bằng) của VN cho TQ để được một đường biên giới an ninh. (Xin đọc diễn tiến các việc này ở các bài phụ lục).

Vùng biên giới Quảng Tây, ông Galliéni đã nhượng cho TQ đất Đèo Lương để lấy ¾ núi Khấu Mai (mốc 14 và 15).

Tuy nhiên, nhiều năm sau, cột mốc ở khu này bị dời. Do đó ngày 2 Tháng 3 năm 1936 mốc này được cắm lại, và cắm thêm mốc 14 bis. Biên bản cắm cột mốc số 14 bis được ký kết giữa các ông: Ðại Uý Chubilleau, Uỷ Viên Hành Chánh Thất Khê ; Ðinh Văn Trân, Tri Phủ Tràng Ðịnh với quí ông: Ha Cho Ly, Uỷ Viên Cảnh Sát Thuỷ Khẩu ; Ho Tchau Wan, Thư Ký Cảnh Sát Biên Giới Thuỷ Khẩu. Cột 14 bis có ghi: Frontière Sino-annamite ; Borne 14-bis ; 580 mètres Sud-ouest de la borne 14 ; Est, Sud-Est de la borne 15. Cột 14 bis cách cột 14 là 580m về phía Tây Nam ; cột ở phía Ðông Ðông Nam cột số 15.

Biên bản phân giới 19 Tháng 6 năm 1894 là biên bản chung cuộc của đoạn biên giới Quảng Tây, ghi bên dưới, trong đó có đoạn ghi nhận công nhận công trình của Frandin. Nhưng theo biên bản này, công trình của ông Frandin đã không tìm thấy được. Danh sách vị trí các cột mốc ghi lại trong phần một của biên-bản Galliéni 1894 là do báo cáo của Dr Péthellaz (xem photo phần phụ-lục), nhân viên phân giới dưới thời Frandin, viết ngày 14 Tháng 4 năm 1892.

Danh sách nầy thiếu sót, không ghi lại vị trí các cột mốc, cũng không đúng theo thứ tự các cột mốc do ông Frandin và phái đoàn đã cắm như biên bản vừa ghi trên đây. Việc này đã gây khó khăn cho các nhân viên sở Ðịa Dư Ðông Dương thiết lập bản đồ sau này. Vì thế, trong biên bản chính thức 19-6-1894 của Galliéni, phần thứ nhứt từ Bắc Cương Ải đến Bình Nhi Quan, tức phần biên giới phía Ðông Quảng Tây, cần phải bổ túc lại với biên bản 21-4-1891.

Biên bản tổng hợp hai vùng Ðông Quảng Tây (khoảng 60km) và Tây Quảng Tây (280km) được ghi lại sau đây.

Procès-verbal résumant les opérations de l’abornement de la province du Kwang-Si


Le (*) 1894, à (**) heures de l’après midi les membres Français et Chinois des Commissions d’abornement de la frontière du Kwang-Si se sont réunis au Yamen du Taot’Ai de Long-Tchéou pour arrêter définitivement les détails de l’abornement de la frontière entre la Chine et le Tonkin, en ce qui concerne la province de Kwang-Si.

Après examen des differentes pièces il a été reconnu d’un commun accord que le tracé de la frontière qui ferait foi désormais dans les différentes relations entre la Chine et la France serait celui porté sur les cartes jointes au présent procès-verbal, lequel tracé est figuré sur le terrain à l’aide de 207 bornes placées de la manière suivante:

1ère Section: de Bi-Nhi sur le Sung-Ki-Kung à la frontière du Quang-Tong.

N° des bornes
(mốc mang số)
Nom portés sur les bornes (Tên ghi trên cột mốc) Indications sur l’emplacement
des bornes (ghi chú trên cột mốc)
1 Pa-Xuin (Bách Tặng Lĩnh 百 贈 嶺)
2 Co-Wai (Giác Hoài Lĩnh 角懷嶺)
3 Binh-Con-Xuen-Son (Bình Công Ngoại Sách平公外柵)
4 Con-Ma-Son (Cổn Mã Lĩnh滾馬嶺)
5 Hau-anh-wai-thà (Cang Anh Ngoại Sách亢英外柵)
6 Phan-quan-linh (Phần Quan Lĩnh 坟官嶺)
7 Quyen-tôn-wai-thà (Quyên Thôn Ngoại Sách 絹村外柵)
8 Pa-mi-wai-tha (Ba Mễ Ngoại Sách 巴 (có thêm bộ 山 ở trên chữ « ba ») 米外柵)
9 Gévon-thôn (Lăng Thôn Ngoại Sách 楞村外柵)
10 Pa-Cai-Wai-tha (Ba Khẩu Ngoại Sách 巴(có thêm bộ 山 ở trên chữ « ba ») 口外柵)
11 Son-tei-wai-tha (Na Phiêu Lĩnh 那票 (có thêm
bộ 木 đứng trước chữ « phiêu ») 嶺)

12 Na-pi-à-leu (Sơn Tử Ngoại Sách 山子外柵)
13 Li-lou-len-thio (Lục Lê Lĩnh 淥黎嶺) Porte de Ki-thin, po-tha-lin-thio (hi tự quản bảo
đài lĩnh cước)
14 Ma-thio-len (Nã Thốt Lĩnh 那卒嶺)
15 Bo-Sa-wai-tha (Bố Sa Ngoại Sách 布 (có bộ 口đứng trước chữ « bố ») 沙外柵)
16 Long-Niémou-wai-tha (Lộng Diêu Ngoại Sách 弄搖外柵)
17 Keou-ka-Son (Khiêu Giá Sơn 呌稼山)
18 Nam-Quan (Trấn Nam Quan Ngoại 鎭南關外)A environ 100m en avant de la porte de
Nam-Quan
19 Qui-nang-Ning (Đạo Lang Lĩnh道郞嶺)
20 Bo-Xé (Phổ Ta Lĩnh 溥些嶺)
21Kuhn-Nung (Khôn Long Ngoại Sách 坤隆外柵)
22 Can-Khé (Khấu Cự Lĩnh 扣虡嶺)
23 Thiap-Moun-Ai (Áp Môn Ngoại Sách 閘門外柵)
24 Phai-Binh (Phái Bình Lĩnh 派苹嶺)
25 Ban-Piau-Wai-Tha (Bản Phiêu Ngoại Sách 板漂外柵)
26 Phac-Khai-Tha (Pháp Ca (Tạp) Sơn 法卡山)
27 Phu-Tha-Tha-Mau-Son (Bộ Tác Sơn 埔作山)
28 Na-Ma-Son (Nã Ma Lĩnh 那摩嶺)
29 Sa-Sen-Sôn (Tam Sắc Sơn 三色山)
30 Câu-Son-Wai-Thà (Khấu Sơn Ngoại Sách 扣山外柵)
31 Cou-Ma-Son (Khô Liểu Lĩnh 枯柳嶺)
32 Con-Thiang-Son (Khô Giảng Lộ Khẩu 枯 講路口)
33 Mey-Moc-Son (Mỹ Mục Sơn 美目山)
34 King-Than (Kim Cương Sơn 金崗山)
35 Phan-Tchau-Wai-Tha (Bản Trụ Ngoại Sách 板宙外柵)
36 Tong-Hou-Ai (Đồng Hộ Ngoại Sách 同戶外柵)
37Na-Loc-Son (Nã Lộc Sơn 那祿山)
38 Kouey-Kha-Wai-Tha (Đạo Hạ Ngoại Sách 道下外柵)
39 Na-Nong-Song (La Nông Sơn 羅農山)
40 Na-Chi-Wai-Tha (Nã Chi Ngoại Sách 那支外柵)
41Noc-Vinh-Son (Lục Vinh Sơn 六榮山)
42 Cong-Mau-Son (Công Mẫu Sơn 公母山)
43 Khouey-Ny-Son (Đạo Nê Sơn 道泥山)
44 Ai-Them-Wai-Tha (Ải Điếm Ngoại Sách 隘玷外柵)
45 Po-Mau-Son (Bộ Môn Sơn 埔 門山)
46 Ly-Sao-Son (Lễ Do Sơn 禮由山)
47 Sha-Pey-Son (Thạch Bi Sơn 石碑 山)
48 Na-Pong-Wai-Tha (Đồng Đẳng Ngoại Sách 同等外柵)
49 Io-Than-Son (Ngạc Hầu Sơn 鱷矦山)
50 Kieu-Hoa-Son (Giao Oa Sơn 交蛙山)
51 Chia-Wai-Tha (Chi Hoàn Sơn脂還山)
52 Chio-Py-Tha (Giao Phê Sơn 交批山)
53 Kou-Hoa-Schà (Khô Hoa Sơn 枯華山)
54 Po-Noi-Shà (Ba Nội Sơn 波內山)
55Po-Ho-Shà (Bộ Hà Sơn步河山)
56 Bac-Sheng-Shà (Bạch Thịnh Sơn白盛山)
57 Dong-Moun-Sha (Ðông Môn Sơn東có bộ 山 ở trên) 門山)
58 Keo-Hoa-Scha (Khiêu Hiệu Sơn 呌…山)
59 Peu-Cang-Sha (Bắc Đạt Sơn 北達山)
60 Chio-Pai-Sha (Giao Bài Sơn 交排山)
61 Pai-Thiem-Son (Phái Thiên Sơn 派遷山)
62 Pai-Thiem-Son (bis) Phái Thiên Sơn (bis)
63 Keuey-Nong-Son (Quỳ Long Sơn 葵隆山)
64 Cao-Dong-Son (Cao Đồng Sơn 高桐山)
65 Doi-Nam-Son (Đối Niệm Sơn 對捻山)
66 Pa-Cang-Sha (Bắc Cương Sơn 北崗山)
67 Then-Sang-Sha (Thôn Thương Sơn 吞倉山)

La Commission présidée par M.M. Flandin & Hsiong n’a laissé aucun document indiquant exactement l’emplacement des bornes posées entre Quang-Tong et Bi-Nhi. (***)

2e Section: De Bi-Nhi sur le Song-Ki-Kung à la frontière du Yun-Nam.

N° des Bornes Noms portés sur les Bornes Indications sur l’emplacement des bornes
1 Keo-Tseu-Linh (Khiếu Sách Lĩnh 叫册嶺) Sur le mamelon au Nord de Bi-Nhi (Rive-Gauche du Song-Ky-Koung)
2 Khuoi Lan Son (Hội Lan Thôn 會瀾村)Sur la pente du mamelon au côté Nord de Khuoi Lam. A côté du chemin
3 Pou-Kinh Linh (Phố Cấm Lĩnh 浦禁嶺)Sur le mamelon à l’Est de Ka-Luong et sur le chemin de Ti-Ngai (Tu-Ai)
4 Po-Ha-Son (Phách Ấp Thôn百村)Sur le chemin de Po-Ma (Pac-Niat à Na-Kouang)
5 Tsié Long Linh (Tiếp Long Lĩnh 接龍嶺)A 25 pas en avant du poste chinois de Nghi Tan Duan
6 Foù Poù Son (Phục Ba Sơn 伏波山)Sur le mamelon à l’Ouest de Ban-Khio
7 Poù Men Linh (Phố Môn Lĩnh 浦門嶺)Sur le mamelon au S-E de Khuoi Thuong (Khuoi Son)
8 Cong Tieu Linh (Củng Thiên Lĩnh栱天嶺)A dix pas à l’Ouest du retranchement
9 Song Tsié Linh (Tống Tích Lĩnh 送昔嶺)A 10 pas du retranchement au S de Kuien Ly
10 Tsin Kouan Linh (Tỉnh Khổn Lĩnh 井捆嶺)A 50 pas en avant et au S du poste chinois de Quien Ly
11 Khuoi Tao Kha (Hội Ðao Ca 會刀卡)A côté du chemin venant de Quien Ly, à l’Ouest de la borne précédente
12 Co Long Linh (Cốc Long Lĩnh 谷隆嶺)A 5 pas en avant du retranchement au Sud de Nam-Cap
13 Po Lai (Phố Lai Lĩnh 浦來嶺)Au N du village de Pac-Khuoi au S.O. de Nam-Cap
14 Tu Na Kha (Cúc Na Ca 菊那卡)Sur le rive droite de l’arroyo au pied et à l’Est du Cao-May
15 Khau Moy Linh (Khấu Mai Lĩnh扣梅嶺)Sur le versant Est du Khau-Moy
16 Khau Moy Po (Khấu Mai Lĩnh扣梅嶺)Au pied et au N.O. du Khau Moy
17 Canh Hoà Ai (Canh Hoa Ải 更花隘)Sur le chemin de That-Khe à Long-Tchéou, à 5 pas à l’ouest de la palissade
18 Long Mo Kha (Lũng Ma Ca 隴魔卡)Au pied des rochers à côté du chemin de Na-My
19 Lung Ho Kha (Lũng Dương Ca 隴卡)
20 Khaù Khaù (Canh Khẩu Sơn更口山)Au S.O de la porte de Bo-Cup
21Bo Cuc Ai (Bố Hát Ải 布喝隘)A l’Ouest du cirque qui se trouve en avant de la barricade et du fort chinois sur le chemin de Na-Lam
22 Lung Chi Son (Lũng Chủ Sơn 隴山)Sur le chemin de Lung Lao à Lung Khat, au pied à
23 Pho Tong (Phố Tòng Thôn 浦從村)Sur la rive droite du Sung Bang Giang, à 10 pas en avant du village
23 bis Pho Tong (Phố Tòng Ðối Hà浦從對河)Sur le bord du Sung Bac Vung (rive droite) pris de son confluent avec le Sung Bang Giang
24 Pa Khouan (Ba Khuông Thôn 巴匡村)Sur le bord du Sung Bac Vung (rive droite) en face du poste chinois de Dong Thou (Fong Lou)
25 Ho Sèn (Hạp Thạch Ải 石隘)Au confluent des deux rivières sur la rive droite au N du marché de Dong Qui
26 Ling-Minh (Lũng Mính Ải 隴茗隘)Au pied des rochers sur la rive gauche de la rivière
27 Ban Kho (Bản Chiêu Sơn 扳昭山)Au pied des rochers, à l’O de l’ancien poste français
28 Na Ho (Na Hà Ải 那荷隘)Sur le mamelon au N. du barrage (rive droite de la rivière)
29 Na Pai (Na Bài Sơn 那排山)Sur la rive droite de la rivière au pied d’un petit mamelon, en face des rochers de la rive gauche
30 Pau Pan (Bản Bản Hà 扳本河)Sur la rive droite à l’O du Cuc Lo au pied des rochers
31 Cuc So ( Cốc Túc Thôn谷宿村) Dans l’intérieur du village mixte entre la porte et le chemin de Ban-Kha
32 Kho Tseu Ai (Khả Thôn Ải 哿村孔隘)A 30 pas au N de la barricade dans le ravin
33 Pha Duc (Ba Ðức 巴德) Au haut du col qui domine le petit cirque de Lung Noi
34 Po Man (Phố Mẫn 浦敏)Au milieu de la gorge et à environ 150m du village
35 Lung Loc (Lũng Lộc隴祿)Au haut du col qui sépare les cirques de Long Loc et de Lung Han
36 Canh Tong (Canh Thang Ải更湯隘)Au haut du col à 10 m en avant d’une grande barricade en pièrres sèches
37Linh Khiu (Lăng Mộc Ải凌楘隘)
38 Lùng Son (Lũng Thuần Lĩnh隴純嶺)Au milieu de la vallée, 25m avant la fin du couloir rocheux et à environ 500m de Kytruoc
39 Canh Sat (Canh Tật Ải更疾隘)Au haut du col et à environ 300m du village de Ban Sat
40 Canh Song (Canh Trùng Ải更重隘)Au haut du col
41Lung Thang (Lũng Ðàn隴壇)Dans le cirque de Ban Chau à 25 m au S du chemin de Luong Ouang à Ban Chau entre la rivière et la montagne
42 Lung Vuc (Lũng Thành隴城)Sur les bord de la rivière à environ 500m du village de Lung Vuc
43 Canh Khou (Canh Cang Ải更隘)Au haut du col à environ 500m du village de Ban Bay
44 Khou Sen (Khổng Thôn Ải孔村隘) Au haut du col qui sépare les cirques de Lung Ki et de Coc Mang
45 Nam Tan (Niệm Ða Ải念多隘)Au haut du col qui sépare les cirques de Lung Phan et de Lung Thang
46 <>Dans le cirque de Po-Kai au bord du chemin venant de Chine
47 Lung Thang (Canh Thang Khẩu更湯口) Au bord du chemin conduisant de Lung Thung à Luong Hoang
48 Thù Tham Ai (Ðể Ðôn Ải底墩隘)A 10 pas à l’O de la porte et à 5 pas au N du chemin
49 Ban My (Bản Mi Ải扳眉隘)Contre la barricade entre le chemin de Ban-My à Sy Ban et le Sung Quei Cheun
50 Hia Khù (Hạ Cốt Ải下骨隘Près de l’escalier descendant du marché de Lung Quang au bac
51 Khau Pang (Canh Bàng Ải更旁隘)Sur la berge du Sung Quei Cheun (rive gauche) à 130 pas en aval d’une cascade
52 Khau Canh Ai (Khẩu Canh Ải 口更隘)Sur la berge et à 5 pas en avant du poste
53 Pau Ngô (Bách Nga Khẩu百峨口)Au bord du chemin au SO et sur le prolongement d’un petit bois
54 Lung Trang (Lũng Tằng Sơn 隴曾山)Entre le pied des rochers et la limite des cultures en face Ban Mong
55Luong Noi (Lũng Nội Sơn 隴內山)Au bord du chemin de Lung Linh à Thin Thang
56 Thin Thang (Thôn Ðẳng Ải 吞等隘)A 5 pas à l’E de la barricade sur le chemin de Lung Deng à Thin Thang
57 Lung Po (Lũng Tỉ Ải 隴芘隘)Au bord du chemin, à 10 pas au S de la barricade de Dzoc Khanh Ai
58 Lung Thung (Lũng Thông Sơn 隴通山)Au bord du chemin et à 4 pas à l’Est des rochers formant barricade
59 Da Giao Kha (Phục Giả Giới 洑也界)En haut du col à l’endroit où les rochers rétrécissent le passage
60 Lung Nam (Lũng Niệm Khẩu 隴念口)En haut du col au bord du chemin
61 Lung Hoa (Lũng Oa Sơn隴窩山) En haut du col au bord du chemin
62 Canh-Binh-Kha (Canh Bình Ca 更苹卡)A 5 pas au SO de la barricade
63 Bo-Thao-Giai (Bố Thấu Thôn布村透)Au bord du chemin sur la ligne de partage des eaux
64 Lung-Lau (Lũng Lâu Sơn隴樓山)Au bord du chemin à l’entrée du bois
65 Dou-Quan-Kha (Truân Quân Sơn屯麇山)A 5 pas au S d’un retranchement en terre
66 Co-Gia-Song (Khô Giá Thượng枯架上)A 25 pas à l’Est de la barricade
67 Co-Gia-Kha (Khô Giá Trung枯架中Contre la barricade et au bord du chemin
68 Co-Gia (Khô Giá Hạ枯架下)En haut du col, au bord du chemin de Lung-Anh
69 Lung-Anh (Lũng Anh Ca 隴英卡)Presque en haut du col au pied d’une muraille rocheuse
70 Canh-Khan (Canh Cấm Khẩu更禁口)En haut du col
71 Canh-Han Kha (Canh Hán Khẩu更漢口)Au bord du chemin à 25 pas à l’O. de la barricade
72 Canh-Hoai (Canh Hoài Khẩu更懷口)Au bord du chemin à 15 pas au S.E. de la barricade
73 Da-Lang-Kha (Ðả Lăng Ca 打陵卡)A 25 pas à l’Est de la barricade à la croisée de 2 chemins
74 Pui-Tung (Tần Ðồng Ải 頻峝隘)A 15 pas au S de la porte (rive gauche). Borne bis symétriquement placée sur la rive droite
75 Co-Chi (Khô Chi Khẩu 枯支口)En haut du col, au S et près de la barricade au dessus de Lung-Man
76 Co-Mau (Khô Mẫn Sơn 枯敏山)A 10 pas au S de la barricade au bord du chemin
77 Co-Phan (Khô Cảm Sơn 枯橄山)A 7 pas au S de la barricade au bord du chemin
78 Co-Bang (Khô Long Ca 枯隆卡)A 25 pas au S de la barricade au pieds des rochers
79 Hoang-Phao (Huỳnh Pháo Sơn黄炮山)A 5 pas du S de la barricade
80 Na-Long (Ma Lộng Sơn 磨弄山)A 25 pas au SE de la barricade au bord du chemin
81 Lung-Ai (Lộng Ải Ca 弄隘卡)A 5 pas au S de la porte au bord du chemin
82 Khéo-Qui (Khiếu Quí Khẩu 叫貴口)A 12 pas au sud de la barricade au bord du chemin
83 Khéo-Bac-Bo (Khiếu Bách Bố 叫百布)A 3 pas à l’Est de la barricade
84 Lung-Na (Lũng Na Giới 隴那界)En haut du col rocheux à 12 pas au SE de la barricade
85 Lung-Song (Lũng Tống Giới隴送界)Au bord du chemin au S d’un petit cirque à côté de touffles de bambous
86 Da-La-Kha (Ðả La Ca打邏卡)A 4 pas à l’Est de la barricade en haut du col
87 Thon-Bang-Kha (Thôn Bằng Ca吞棚卡)A 20 pas au S de la barricade
88 Pat-Sa-Ho (Phách Tào Ải擘嘈隘)Entre le chemin et la rivière (rive droite) à 5 pas au S de la barricade
89Lung-Chang (Lộng Giang Ca弄江卡) Au bord du chemin, à 15 pas au S de la barricade
90 Lung-Niu (Lũng Dịch Sơn 隴易山)Près de la palissade et à l’Est
91 Tù-Khaù (Tư Khẩu Sơn 私口山)Dans le col et près du chemin
92 Lung-Mai (Lũng Mai Sơn 隴梅山)Au S d’un petit cirque, entre la barricade et Lung-Mai (grottes)
93 Pha-Den-Son (Pháp Đồn Lĩnh 法屯嶺)A 60 pas au S de la barricade au bord du chemin de Hi-Son
94 Kin-Koué-Kau (Kim Thiền Khẩu 金 澶口)Sur le chemin venant de la porte de Lung-Ban et allant à Tra-Linh à l’Est de ce chemin, sur la rive gauche d’un petit arroyo
95 Si-Pang (Tứ Bang Lĩnh 四邦嶺)Sur la bordure Est de la route allant de Si-Pang à Tra-Linh et sur un talus qui domine la route
96 Chi-Lung (Cự Long Lĩnh巨龍嶺)Sur un chemin allant de Si-Pang à Tra-Linh à l’endroit où il traverse un col placé sur la ligne de partage des eaux des bassins de 2 petits arroyos
97 Lung-Roué (Lũng Quỳ Sơn隴葵山)Sur un chemin venant de Lung-La (Chine) et entrant au Tonkin en suivant la direction de l’Ouest à l’endroit où ce chemin traversse une chaine rocheuse
98 Lung-Xen (Lũng Trần Sơn隴陳山)Sur le chemin allant de Lung-San (Chine) à Bac-Kan (Ton-Kin) au point où il traverse un col
99 Khon-Nham (Khôn Nhâm Sơn坤壬山)Sur la route de Quan-Lin (Chine) à Tai-Kan (Tonkin) adossé à un mur en pierres sèches
100 Khéou-Lan-San (Cầu Luân Sơn 璆倫山)Sur le chemin de Lung-Zon (Chine) à Kin-Lan (Ton-Kin) à un défilé formé par un mur en pierres sèches
101 Lung-Hoai (Lũng Hoài Sơn隴懷山)Sur la route de Lung-Hoai à Lung-Xen à un col formé par un mur en pièrres sèches
102 Lung-Hoai (Lũng Hoài Ca隴懷卡)Sur la route de Lung-Hoai à Lung-Po à un col fermé par un mur en pierres sèches qui domine la plaine de Lung-Po
103 Na-Lung (Ðại Long Sơn大龍山)Sur la route allant de Ta-Lung (Chine) à Kha-Yan (Ton-Kin) au point où elle traverse un col
104 Na-Ling-Ai (Na Lẫm Ải那廩隘)Sur le chemin de Na-Linh à Tapéo (Tonkin) à environ une 50 de mètres de la porte de Chine
105Na-Linh-Kha (Na Lẫm Ca 那廩卡)Sur le chemin de Na-Linh à Pau-Thau (Ton-Kin) entre deux rochers
106 Lung-Tai (Lộng Ðới Sơn 弄帶山)Sur la bordure N du chemin allant à Lung-Tai à Nam-Son (Tonkin) à un col traversé par ce chemin
107 Ta-Nia (Ðức Nghiệp Ca 德業卡)Sur le chemin de Linh-Wan (Chine) à Khen-Tac (Tonkin)
108 Lin-Tiao (Lăng Kiệt Sơn凌傑山)Sur le chemin venant de Co-Ma (Chine) l’endroit où ce chemin venant du N tourne à l’O. pour suivre la frontière
109Pin-Kian (Bình Khích Lĩnh 平郤嶺) Sur le sentier indiqué ci-dessus dans la partie qui longe la frontière à l’environ 1800m (3k) de la borne précédente
110 Pin-Tian (Bình Khích Lĩnh 平郤嶺)Sur un mamelon au S d’un sentier allant de Pin-Tiau au Tonkin à l’endroit où ce sentier sort de la vallée de l’arroyo de Pin-Thian
111 Lung-Kem (Lộng Canh Sơn 弄埂山) A un col entre les cirques de Lung-Kem (Chine) à Loc-Son (Tonkin) derrière une maison isolée qui appartient à l’Annam
112 Lung-Bin (Lộng Bình Lĩnh 弄平嶺)Au S et à l’environ 15m du sentier allant de Lung-Bin (Chine) à Lung-Heun adossée à un rocher isolée au milieu des champs
113 Hao-Lung (Hạo Long Sơn 後龍山)Au bas de l’escalier descendant du fort chinois au N et près du chemin allant de Na-Sat à Bing-Mang
114 Binh-Mang (Bình Mãng Ải Khẩu 平孟隘口)Près de la porte de Chine. A la patte d’oie formé par les chemins allant de Na-Sat à Soc-Giang (Soc-Hung) et Soc-Lung
115 Pan-Ly (Bản Lợi Lĩnh 扳利嶺)Sur un des mamelons qui forment la ligne de partage des eaux des deux affluents du Sung-Bang-Giang près d’un chemin allant à Soc-Lung
116 Koué-La (Khôi Lai Lĩnh 魁 來嶺)Sur un mamelon de la même ligne de partage des eaux
117 Koué-La (Khôi-Lai Ca 魁來卡) A l’environ 600m de la précédente, sur un sommet, à l’endroit où la ligne des mamelons tourne à l’angle droit pour prendre la direction du S
118 Lung-Moù (Lộng Mộc Lĩnh 弄木嶺)Sur un sommet très boisé à l’Est du village de Lung-Moù (Chine)
119 Kou-Tseu-Ai (Khô Thiên Lĩnh 枯天嶺)Sur le chemin de Koué-Ky-Si à Bo-Gai sur la rive gauche de l’arroyo de Bo-Gai
120 Teim-Tien-Kha (Tuần Thiên Ca 遁天卡)Sur un mamelon à l’Ouest et à environ 1Km de la précédente sur un chemin de Lung-Tao à Bo-Gai
121 Lung-Khé-Thon ou Lung-Thi-Son (Kê Sơn 嵆山)Sur un chemin venant de Lung-Tai (Chine) et suivant la direction du Sud au Nord et à environ 100m d’une muraille rocheuse
122 Hang-Hien (Áng Yên Sơn 盎煙山)Contre un mur en pierres sèches qui coupe le chemin venant de Nam-Tiei (Chine)
123Si-Ma (Tẩy Mã Sơn 洗馬山)En haut d’une montagne élevée où passe un chemin venant de Nam-Tien
124 Hià-Siu-Xa (Hạ Thanh Sơn 下青山)A un col d’accès difficile traversé par un chemin venant de Po-Dèo (Chine) et dont la direction est à peu près N.S.
125 Sau-Siu-Xa (Thượng Thanh Sơn 上青山)A un col d’accès difficile traversé par un chemin venant de Pech-Dèo (Chine) et dont la direction est à peu près Est-Ouest
126 Mai-Lam-San (Mai Lâm Sơn 梅林山)En haut d’un col d’accès difficile traversé par un chemin venant de Naon-Lien
127 Lò-Mòn (Lộng Mông Sơn 弄蒙山)Sur la route venant de Lò-Mòn (Chine) à Coc-Lai (Tonkin) à l’endroit où cette route traverse un plateau rocheux
128 Pò-Moùn (Bác Niệm Ải 剝念隘)Sur la rive droite de Sung-Ngo (Ngo-Giang) dont le cours est en cet endroit encaissé entre des roches élevés
129 Khao-Koin (Cẩu Khuông Ải 笱匡隘)Sur le chemin allant de Khao-Koin au Song-Ngo sur l’alignement des rochers qui continuent la frontière à gauche. A environ 400m du fort chinois de Khao-Koin
130 Sung-Lô (Lộng Lạc Sơn 弄洛山)Sur un rocher en bordure du chemin venant de Song-Lô (Chine) et pénétrant au Tonkin en suivant la direction du Sud à environ 4 lieus de Sung-Lô
131 Laù-Leùm (Lang Lôn Sơn 郞崙山) A l’origine d’un grand chemin qui suit la frontière pendant 11 à 12 Km et qui appartient à la Chine à l’intersection d’un chemin entrant au Tonkin
132 Pò-Kan (Bác Kham Ải 剝堪隘)Au pied du fortin chinois au Sud et en bordure du chemin côté précédemment
133 Pò-Kiau (Pha Giang Tử Ải 坡江子隘)En bordure du même chemin à un col où passe un sentier allant de Pò-Kiau au Tonkin et suivant la direction générale N.S.
134 Pac-Phan (Bác Kham 剝堪)Au pied du fortin chinois au Sud et en bordure du même chemin
135 Maà-Tiaà (Mã Ca 馬卡)Près d’une maison isolé, au S et en bordure du même chemin
136 Po-Phail (Bạch Hoài Ðại Ải 白懷大隘)Sur la rive gauche du Pou-Mi-Ho en bordure d’un chemin ayant la direction générale N.S.
137 Cù-Shon (Cốc Tùng Sơn谷松山)Au col rocheux traversé par un chemin venant de Còn Chon et passant en Annam
138 Hia-Thio (Áp Cước Sơn鴨脚山)Au col rocheux traversé par le chemin de Hia-Tio (Chine) à Lung-Lang (Tonkin)
139 Lùng-Bò (Long Bao Sơn龍包山)Au col rocheux traversé par le chemin de Lung-Bô (Chine) à Lung-Lang (Ton-Kin)
140 Khaù-Ta (Các Ðạt Sơn各達山) Dans un défilé rocheux traversé par le chemin de Khau-Ta (Chine) à Lang-Lang (Tonkin) et suivant la rive droite d’un arroyo affluent du Pou-Mi-Ho

Les bornes frontière, qui comme on vient de le voir portent toute un N°, de 1 à 67 pour la 1e section et de 1 à 140 pour la seconde, ont été placées aux endroits indiqués ci-dessus en présence d’un délégué Français et un Mandarin Chinois. Aucun d’elle ne saurait par suite d’être déplacée désormais sans le consentement réciproque des deux nations.

En foi de quoi, ont signé le présent procès-verbal en quadruple expédition, Monsier T’sai Hsi Pin (蔡希邠 Thái Hy Bân) Tait’Ai de Long-Tcheou, Président de la Commission d’Abornement Chinoise, Monsieur Tchang-Chai-Jin interprète et M.M.le Colonel Galliéni, Commandant les 1e et 2e Territoires Militaires au Tonkin Président de la Commission d’Abornement Française et le chef de Bataillon Famin, adjoint à Mr le Commandant de 1e et 2e Territoires Militaires Vice-Président de la Commission d’Abornement Française.

A Long-Tcheou, la 19 Juin 1894

Le Colonel Président de la Commission Française: Galliéni
Le Chef de Bataillon, Vice-président de la Commission Française: P. Famin.
Le Taot’Ai Président de la Commission Chinoise
L’Interprète de la Commission Chinoise


(*) Theo bản tường trình của Ðại Tá Galliéni, biên bản được ký vào lúc 3 giờ chiều ngày 19 Tháng 6 năm 1894.

(**) Kết quả công tác của Ông Frandin được ghi lại qua biên bản ký ngày 21 Tháng 4 năm 1891, tức là biên bản « Est-Quangsi » ghi lại ở trên.

Hình 34: Một kiểu cột mốc tạm vùng Quảng Tây


Hình 34: Cột mốc ở vùng biên-giới Quảng-Tây. Trên mốc ghi:
“Trung Quốc Quảng Tây Giới”

Hình của Dr Péthellaz, đăng trong Au Tonkin et sur la Frontière du Quang-Si của Commandant Famin. Cột mốc này có thể thấy ở vùng biên-giới Quảng-Tây. Trên mốc ghi: “Trung Quốc Quảng Tây Giới”.

Ta thấy từ «Trung Quốc» mà người viết sử dụng trong sách, không phải của họ Mao hay họ Tưởng, mà là tiếng đã được sử dụng để khắc trên các tấm bia xác định biên giới, tức trước khi Mao hay Tưởng sinh ra.
Trương Nhân Tuấn
© Thông Luận 2009

Tổng số lượt xem trang