Phần 1: Kinh tế Việt - Trung: Bất đối xứng
GDP của Việt Nam năm 2007 chỉ bằng 3% GDP của Trung Quốc. Trung Quốc là nhà xuất khẩu máy móc lớn thứ 2 thế giới và là nhập khẩu lớn thứ 3 thế giới. Việt Nam xếp vị trí tương ứng là 50 và 41.
![]() |
| Biểu đồ 1 |
Việt Nam và Trung Quốc có chỉ số thương mại trên đầu người đáng kể, nhưng với Việt Nam, tầm quan trọng của thương mại gấp đôi so với Trung Quốc. Tỉ lệ thương mại trên GDP của Việt Nam là 150 trong khi với Trung Quốc chỉ là 71,3.
Cấu trúc thương mại cũng rất khác biệt. Với Việt Nam, nông phẩm, dầu khí và các sản phẩm khai khoáng chiếm 46,3% trong tổng kim ngạch xuất khẩu, trong khi đó tỷ lệ này với Trung Quốc chỉ 6,7%. Việt Nam là nhà xuất khẩu ròng về dầu và than, và Trung Quốc cũng là nhà xuất khẩu ròng về than.
Hàng hóa Trung Quốc lấp đầy thị trường Việt Nam. Trung Quốc là nguồn cung chính cho Việt Nam các mặt hàng: máy móc, máy tính, hóa chất và may mặc. Đáng ngạc nhiên hơn, Trung Quốc cũng bán hoa quả và rau cho Việt Nam gấp 3 lần mức mà nước này mua từ Việt Nam.
Sự khác biệt trong khả năng và cấu trúc kinh tế này, cũng như trong tỷ trọng kinh tế toàn cầu tạo nên khuôn khổ quan hệ kinh tế bất đối xứng giữa hai nước.
Biểu đồ 2

Như biểu đồ 2 đã chỉ rõ, sự bất cân xứng giữa hai nền kinh tế Việt Nam và Trung Quốc đã được thể hiện rõ trong sự mất cân đối giữa xuất khẩu và nhập khẩu. Trung Quốc dễ dàng trở thành nguồn nhập khẩu số 1 của Việt Nam, chiếm tới 79% tổng kim ngạch nhập khẩu từ tất cả các nước thành viên ASEAN, mặc dù đã tính tới lượng lớn sản phẩm lọc dầu từ Singapore.
Trong khi Việt Nam xuất khẩu hàng may mặc và các hàng tiêu dùng như đá quý, cà phê sang các nước phát triển, phần lớn hàng hóa Trung Quốc mua là nguyên liệu thô. Ví dụ, Việt Nam xuất khẩu 70% cao su sang Trung Quốc, nhưng chính Việt Nam cũng mua các sản phẩm chế biến từ cao su từ Trung Quốc nhiều hơn 2/3 so với lượng mà Việt Nam bán ra.
Nhìn chung, Việt Nam dựa vào Trung Quốc trên rất nhiều các mặt hàng nhập khẩu, chiếm 20% tổng kim ngạch nhập khẩu, và bán than, dầu và các nông sản sang Trung Quốc.
Việt Nam là thị trường bên ngoài hoàn hảo cho hàng hóa Trung Quốc bởi vì điều kiện kinh tế tương tự, văn hóa tiêu dùng và chi phí vận chuyển thấp. Khi Việt Nam không thể tìm ra nguồn hàng với giá cạnh tranh như hầu hết các sản phẩm mua từ Trung Quốc, Trung Quốc có thể lấy dầu và các sản phẩm nhiệt đới từ nơi nào khác chứ.
Hơn nữa, trữ lượng than của Việt Nam đang giảm đi. Năm 2010, nhu cầu than trong nước gần bằng tổng mức sản xuất, và đến 2015 Việt Nam được dự đoán sẽ nhập khẩu 25 triệu tấn than, tương ứng với hơn 1 nửa tổng sản lượng trong nước hiện nay. Nhưng trong 6 tháng đầu năm 2009, hơn một nửa sản lượng đã được xuất khẩu, trong đó 2/3 là xuất sang Trung quốc. Và Việt Nam sẽ rất khó để thay thế nguồn thu ngoại tệ từ than.
Cùng lúc đó, sản lượng dầu đã giảm từ 2005. Xuất khẩu dầu năm 2007 thấp hơn mức năm 2000, mặc dù số tiền thu về lớn hơn do giá tăng.
Các xu hướng trong quan hệ thương mại song phương với Trung Quốc đang chống lại Việt Nam. Việt Nam nhập khẩu nhiều hơn, và trong điều kiện thiếu vắng sự thay đổi nhanh chóng trong tỉ trọng xuất khẩu, Việt Nam sẽ có ít sản phẩm để bán ra ngoài.
Với Trung Quốc, quan hệ thương mại với Việt Nam ít quan trọng hơn mối quan hệ này với Việt Nam. Năm 2007, Việt Nam xếp thứ 22 trong số các nước xuất khẩu sang Trung Quốc, ở giữa Thái Lan và Mexico và xếp thứ 38 về nhập khẩu, giữa Mexico và Venezuela.
Trong các đối tác châu Á của Trung Quốc, Việt Nam xếp thứ 16 về xuất khẩu, đứng sau 5 nước ASEAN, và đứng thứ 11 về nhập khẩu, sau Singapore, Malaysia, Indonesia và Thái Lan.
Biểu đồ 3

Trong khi thâm hụt thương mại của Việt Nam với Trung Quốc rất lớn và đang tăng lên, biểu đồ số 3 đã cho thấy Việt Nam có sự cân bằng nhờ vào thặng dư thương mại với Mỹ. Tuy nhiên, sự tăng trưởng nhanh của quan hệ thương mại Việt - Trung từ 2005 đã xóa bỏ lợi thế của Việt Nam.
Việt Nam cũng đã có được thặng dư lớn với EU, nhưng dưới tác động của cuộc khủng hoảng tài chính hiện nay, thị trường tiêu dùng ở các nước phát triển sụt giảm, trong khi nhu cầu của Việt Nam đối với hàng hóa Trung Quốc vẫn tăng lên. Năm 2007, thặng dư với Mỹ tương đương 92% thâm hụt thương mại với Trung Quốc. Trong nửa đầu năm 2009, con số này chỉ tương đương 81%.
Trong khi đó, dù nền kinh tế Việt Nam vẫn đang tăng trưởng, tháng 8/2009, nhập khẩu của Việt Nam giảm 28%, xuất khẩu giảm 14% và du lịch giảm 18%.
Cuộc khủng hoảng hiện nay không chỉ là vấn đề trong nước của Việt Nam, mà còn ảnh hưởng trực tiếp đến quan hệ kinh tế, thương mại với Trung Quốc. Và nó cũng tác động đến quan hệ chính trị song phương.
Còn nữa
Gs. Brantly Womack (Theo The Asia-Pacific Journal, Vol. 36-2-09, T9/2009)
Phần 2: Khủng hoảng thách thức Việt Nam, Trung Quốc: Tương đồng&Khác biệt
| Láng giềng thời khủng hoảng: Tương đồng và khác biệt | ||
| 08/09/2009 13:54 (GMT + 7) | ||
| Trong khủng hoảng, hai nước Việt Nam - Trung Quốc đều phải điều chỉnh chiến lược phát triển. Tuy nhiên, thách thức mà khủng hoảng mang lại cho mỗi nước cũng có sự khác biệt - Gs. Brantly Womack. | ||
| >> Quan hệ Việt - Trung thời khủng hoảng kinh tế Tương đồng Cả Việt Nam và Trung Quốc đều đặt ưu tiên cao vào việc tối đa hóa tăng trưởng kinh tế, và phần quan trọng của chiến lược này là khuyến khích sản xuất các mặt hàng phục vụ thị trường các nước phát triển. Bảng 1 Hơn nữa, cả hai nước đều dựa vào lợi thế cân bằng thương mại với các nước phát triển để đối phó với thâm hụt thương mại với khu vực khác. Chỉ riêng nền kinh tế Mỹ và 5 nền kinh tế lớn nhất châu Âu đã chiếm tới 39% nền kinh tế thế giới. Vì thế, cũng không có gì ngạc nhiên khi 6 nước này trở thành phần quan trọng trong chiến lược xuất khẩu của các nước còn lại. Hơn nữa, đây cũng là khu vực chịu rủi ro, ở ngay tâm chấn của sự bất định toàn cầu hiện nay. Mô hình thương mại tiền khủng hoảng khiến cho tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu sẽ rơi vào Việt Nam và Trung Quốc và đòi hỏi sự điều chỉnh như một ưu tiên. Thách thức sâu hơn và quan trọng hơn là chuyển chiến lược phát triển từ sản xuất các mặt hàng phục vụ cho các thị trường sẵn có sang việc tìm kiếm và phát triển các thị trường mới. Duy trì thị phần ở các thị trường đang chìm cũng rất quan trọng, nhưng điều quan trọng hơn là phải chiếm được thị phần ở các thị trường đang lên. Thị trường phát triển nhanh nhất trong kỷ nguyên mới sẽ là các nước thu nhập trung bình, bao gồm cả chính Trung Quốc và cơ hội lớn nhất trong dài hạn chính là ở các nước nghèo nhất. Cả Việt Nam và Trung Quốc có lợi thế đặc biệt bởi bản thân hai nước này là các nước đang phát triển và do đó, đã khá quen với nhu cầu của các nền kinh tế này. Tuy nhiên, FDI có vẻ không đóng vai trò chủ đạo trong sản xuất của các thị trường các nước đang phát triển, do đó, các Chính phủ sẽ phải tích cực khuyến khích tinh thần kinh doanh và sự phát triển ở địa phương. Thách thức quan trọng nhất trong phát triển thị trường chính là trong bản thân kinh tế nội địa của Việt Nam và Trung Quốc. Thị trường mỗi nước chính là chỗ dựa quan trọng nhất trong thời điểm bất định hiện nay. Sự bất định toàn cầu đã làm giảm tốc độ tăng trưởng GDP của hai nước Việt Nam, Trung Quốc và thúc giục hai nước cố gắng duy trì mức tăng trưởng hiện tại bằng mọi giá. Cả hai nước đã đưa ra gói kích thích kinh tế lớn, chiếm 15% GDP Trung Quốc và 6,8% GDP Việt Nam nhằm chống lại các tác động tiêu cực của suy thoái. Tuy nhiên, mục tiêu đạt tăng trưởng kinh tế tối đa là một chiến lược còn phải bàn cãi trong điều kiện kinh tế thuận lợi nay càng phải đặt câu hỏi nghi vấn trong khủng hoảng. Tăng trưởng bền vững trở nên quan trọng hơn. Sự tăng trưởng không bền vững sẽ tạo nên khủng hoảng trong hiện tại và tương lai. Một mô hình tăng trưởng chậm hơn nhưng chắc chắn hơn sẽ ngăn ngừa xu hướng bất định. Thách thức chung cuối cùng của hai nước cũng như các nước láng giềng là phát triển và tăng cường các thể chế khu vực, đặc biệt trong lĩnh vực phát triển, thương mại và tài chính. Sự yếu đi và biến động của đồng USD nhắc nhở Đông Á về tầm quan trọng của việc tạo dựng sự ổn định tài chính toàn cầu, và những vấn đề của các nhà cung cấp dịch vụ toàn cầu như AIG và Lehman Brothers đã cho thấy sự khôn ngoan của các thể chế dựa trên nền tảng khu vực hoặc địa phương. Khác biệt Bất chấp sự giống nhau cơ bản giữa Việt Nam và Trung Quốc khi đối mặt với khủng hoảng, những thách thức mà hai nước gặp phải hoàn toàn khác nhau ở nhiều lĩnh vực quan trọng. Việt Nam là một nền kinh tế nhỏ hơn, ít giàu có hơn so với Trung Quốc. Trung Quốc có 7 năm đổi mới và mở cửa trước Việt Nam, và nước này không phải chịu ảnh hưởng của chiến tranh và thái độ thù địch quốc tế. Mỹ bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc vào năm 1979 trong khi mãi tới năm 1995, Việt Nam và Mỹ mới bình thường hóa quan hệ. Hơn nữa, Việt Nam gia nhập WTO năm 2007, chậm hơn Trung Quốc 6 năm. Khi Việt Nam còn là một con thuyền nhỏ chạy tốc độ chậm trong nước, thách thức cấp bách hơn là đối phó và thích ứng với cuộc khủng hoảng hiện nay. Trước khi cuộc khủng hoảng bắt đầu, lạm phát là một vấn đề lớn, ở mức 28% vào tháng 8/2008. Các giải pháp xử lý lạm phát được đưa ra vào tháng 4/2008 đã giúp kiểm soát được tình hình nhưng sự sụp đổ của các thị trường xuất khẩu ở các nước phát triển (tháng 1/2009, xuất khẩu giảm 24% trong vòng 1 năm) đã dẫn tới việc Việt Nam phải thay đổi chính sách theo hướng ngược lại, thực hiện kích thích tài chính và kiểm soát rủi ro. Trung Quốc cũng trải qua một chu trình tương tự với việc xử lý áp lực lạm phát, các chính sách kiềm chế lạm phát và kích thích kinh tế, nhưng mức lạm phát thấp hơn (5%) và nước này có thặng dư thương mại khổng lồ. Từ năm 2003, Việt Nam đã thâm hụt thương mại với tất cả các nước ASEAN, trừ Campuchia và Philippines. Ngoài hai nước này cùng với Nam Phi, tất cả các nước Việt Nam có thặng dư thương mại là các nước phát triển. Tháng 6/2009, IMF tính toán cho rằng tăng trưởng GDP của Việt Nam trong năm 2009 sẽ đạt 3,5%, được đánh giá là có sự thích ứng tốt với khủng hoảng. Tuy nhiên, IMF quan ngại về sự mất ổn định tài khóa dưới tác động của gói kích thích kinh tế. Rõ ràng, vấn đề đầu tiên của Việt Nam là kiểm soát tốt nhất có thể các vấn đề do cuộc khủng hoảng hiện nay gây ra. Sự cải thiện nhanh chóng của hệ thống đường bộ và đường sắt của Trung Quốc ở phía Nam tạo thuận lợi cho sự tiếp cận của Việt Nam. Dự án phát triển chung ở các cửa khẩu quan trọng Lạng Sơn, Móng Cái cũng như các dự án lớn hơn như dự án phát triển khu vực Vịnh Bắc Bộ mang lại thời cơ đặc biệt. Xuất khẩu từ Việt Nam sang Trung Quốc tăng. Thương mại đã tăng 11 lần từ năm 1999 tới 2007 nhưng xuất khẩu dầu, than và các nguyên liệu khác chiếm tỷ trọng lớn. Trong nửa đầu năm 2009, tổng kim ngạch thương mại Việt Nam với Trung Quốc chiếm 16%, gần bằng mức tăng thương mại với ASEAN. Xuất khẩu sang Trung Quốc chiếm 7,5% tỷ trọng xuất khẩu, và bằng một nửa tỷ trọng xuất khẩu sang Mỹ (19,5%), trong khi đó Trung Quốc chiếm tới 23% nhập khẩu của Việt Nam, gấp 3 lần mức nhập khẩu từ EU và hơn mức nhập khẩu từ ASEAN khoảng 1 tỷ USD. Thách thức của Việt Nam trong đa dạng hóa xuất khẩu sang Trung Quốc là có thể tìm ra mặt hàng và khu vực tiêu thụ có thể cạnh tranh thành công với các nhà sản xuất trong nước của Trung Quốc. Tuy nhiên, nỗ lực marketing một cách tinh tế các sản phẩm sang Trung Quốc có thể có kết quả. Các nhà sản xuất Việt Nam có thể xây dựng thương hiệu và danh tiếng ở thị trường Trung Quốc và tìm kiếm mảng thị trường cho sản phẩm của mình. Bên cạnh đó, thị trường của Việt Nam ở ASEAN và Đông Á vẫn còn không gian để mở rộng. Vượt ra ngoài châu Á, thành công của Trung Quốc ở châu Mỹ Latinh, Trung Đông và châu Phi gợi ý về cơ hội cho Việt Nam khi Việt Nam có cùng chung lợi thế cạnh tranh trong sản xuất, dù không so được về quy mô và tiềm lực tài chính. Thương mại với Nam Phi, Australia và New Zealand của Việt Nam đang tăng lên. Việt Nam không có đủ tài chính cho các chương trình đầu tư dài hạn ở các nước nghèo hơn, nhưng quan hệ thân thiết với Campuchia và Lào có thể phát triển hơn. Trong khi Trung Quốc xây dựng mối liên hệ theo chiều dọc với các quốc gia ĐNA, Việt Nam có thể tiếp tục hợp tác với các nước láng giềng để tăng cường kết nối theo chiều ngang. Các dự án này không hề xung đột với nhau và có thể mang lại lợi ích cho cả hai bên. Trái với Việt Nam, tình hình tiền tệ của Trung Quốc là điều mà bất cứ quốc gia nào cũng thèm muốn trong thời điểm này: có rất nhiều USD và đồng tiền bị định giá thấp. Điều này đặt ra vấn đề khó khăn cho lãnh đạo Trung Quốc, bởi nó hoàn toàn khác về mức độ và tình nguy cấp của vấn đề. Hơn nữa, trong khi các ngành sản xuất phục vụ xuất khẩu nhắm vào các nước đang phát triển gặp khó, các ngành kinh tế khác của Trung Quốc có khả năng gặt hái lớn hơn các ngành kinh tế của Việt Nam. Thách thức chiến lược chủ đạo với Trung Quốc là xem lại định hướng tăng trưởng kinh tế tối đa, và từng bước chuyển ưu tiên sang phát triển bền vững. Nếu Trung Quốc không xử lý thành công thách thức trong việc kiểm soát tác động xã hội và môi trường do cách thức tăng trưởng này, Trung Quốc sẽ đối mặt với khủng hoảng nghiêm trọng hơn trong tương lai. Trong cuộc khủng hoảng hiện nay, có vẻ Trung Quốc là nền kinh tế lớn ít chịu ảnh hưởng nhất và đạt mức tăng trưởng cao nhất. Tỷ trọng của kinh tế Trung Quốc trong nền kinh tế thế giới đang tăng lên tuyệt đối và nhanh chóng. Không chỉ có lợi thế tài chính, Trung Quốc có một thị trường trong nước năng động và đã đầu tư tốt cho cơ sở hạ tầng thông tin và vận tải. Hơn nữa, việc đầu tư lớn vào giáo dục đại học và nghiên cứu đã chuẩn bị cho nước này có thể đi đầu trong sáng tạo công nghệ. Nhìn chung, tỷ trọng châu Á trong nền kinh tế thế giới sẽ tăng lên và vai trò trung tâm của Trung Quốc ở châu Á cũng lớn hơn. Tuy nhiên, nếu Trung Quốc không xử lý được vấn đề phát triển bền vững trong thời gian tới, nước này sẽ phải đối mặt với cuộc khủng hoảng xã hội và môi trường ngày một gia tăng. Trước khủng hoảng, Trung Quốc đã có một vị thế tốt trong nền kinh tế toàn cầu. Nước này có khoảng 250 đối tác thương mại. Đầu tư của Trung Quốc ở châu Mỹ Latinh và châu Phi đã tạo nên thị trường và nguồn cung cấp nguyên liệu thô mới. Từ năm 1997 đến 2006, thương mại của Trung Quốc với châu Mỹ Latinh đã tăng 978% và với châu Phi tăng 838%, cao hơn nhiều so với mức tăng thương mại chung. Tuy nhiên, tăng trưởng thương mại của Trung Quốc với các khu vực khác cũng rất ấn tượng, đều tăng 500 – 600%, trong đó mức tăng thấp nhất là với châu Á. Đương nhiên, thương mại với châu Á đã có xuất phát điểm cao. Bằng việc xây dựng thị trường và nguồn cung không chỉ ở các nước láng giềng và thị trường đang phát triển mà vươn ra ngoài thế giới, Trung Quốc đã giảm thiểu được tác động từ một vùng kinh tế cụ thể và tăng cơ hội phát triển cho mình. Cả Việt Nam và Trung Quốc đều đối mặt với thách thức về việc tổ chức lại khu vực, nhưng ở mức độ khác nhau. Với Trung Quốc, thách thức quan hệ đa vùng. Trung Quốc đồng thời phải xử lý quan hệ với Đông Bắc Á, Đông Nam Á và Trung Á. Vị trí của Trung Quốc là trung tâm của nền kinh tế châu Á và là thị trường hứa hẹn nhất để thúc đẩy Trung Quốc ở vị trí lãnh đạo khu vực và nêu những mối quan tâm và ý tưởng của nước này đôố với cấu trúc toàn cầu. Chiến thắng của Đảng Dân chủ ở Nhật trong cuộc bầu cử tháng 8/2009 tạo điều kiện để Trung Quốc có thể hợp tác chặt chẽ hơn với Nhật Bản trong các sáng kiến khu vực, Với Vịêt Nam, nhiệm vụ khu vực quan trọng nhất là củng cố ASEAN, cả nội bộ ASEAN cũng như quan hệ hợp tác với Trung Quốc và Ấn Độ. |
| Quan hệ Việt - Trung thời khủng hoảng (Kỳ 3) | |||
| 09/09/2009 10:00 (GMT + 7) | |||
| Sự bất định toàn cầu hiện nay khiến cho việc kiểm soát mối quan hệ song phương vốn bất đối xứng càng khó khăn hơn. Cuộc tranh luận xung quanh một số dự án khai thác khoáng sản là minh chứng rõ nhất... | |||
| >> Quan hệ Việt - Trung thời khủng hoảng kinh tế (Kỳ 1) >> Láng giềng thời khủng hoảng: Tương đồng và khác biệt (Kỳ 2) Hài hoà lợi ích Điều may mắn trong quan hệ Việt Nam - Trung Quốc là các nguyên tắc và thực tiễn quan hệ hai nước khi bình thường hóa khá tương thích với đòi hỏi của kỷ nguyên mới. Khuôn khổ 16 chữ được đưa ra tháng 2/1999 vẫn có thể áp dụng. Cam kết song phương về 5 nguyên tắc cùng tồn tại hòa bình được đưa ra năm 1954 đã giúp duy trì khuôn khổ quan trọng cho mối quan hệ này. Cụ thể hơn, việc thiết lập đường biên giới trên bộ, xử lý sự khác biệt trên Vịnh Bắc Bộ, và quyết định về nguyên tắc việc hợp tác cùng phát triển trên biển Đông đều rất quan trọng, không chỉ ở việc điều đó giúp giảm thiểu những điểm xung đột, mà còn vì sự thành công trong đối thoại ở các vấn đề nhạy cảm đã tạo khuôn khổ cho tương lai. Hơn nữa, mối quan hệ bất đối xứng giữa hai nước đặt ra những thách thức đặc biệt với mỗi bên. Với Trung Quốc, nước lớn hơn, thách thức chính là khẳng định lại việc Trung Quốc tôn trọng bản sắc và chủ quyền của nước nhỏ hơn. Bởi vì nước lớn có khả năng xâm phạm lợi ích của nước nhỏ, nước lớn phải thể hiện sự tôn trọng chủ quyền của nước nhỏ và thái độ sẵn sàng đối thoại hơn là “ăn nạt”. Muốn như vậy, nước nhỏ phải thuyết phục nước lớn rằng nước nhỏ tôn trọng sự khác biệt về năng lực và không có ý định thách thức nước lớn. Nói ngắn gọn, nước nhỏ phải tôn kính (deferential) nước lớn. Tuy nhiên, sự tôn kính này không đồng nghĩa với việc nước lớn kiểm soát nước nhỏ hoặc chi phối mối quan hệ. Thực tế hoàn toàn ngược lại. Nước nhỏ chỉ có thể thể hiện sự tôn kính nếu nước lớn tôn trọng lợi ích và chủ quyền của nước nhỏ. Sự trao đổi giữa một bên là sự tôn kính của nước nhỏ và bên kia là sự công nhận chủ quyền của nước lớn với nước nhỏ sẽ giúp cho khả năng đối thoại trong tình trạng bất tương xứng có thể diễn ra bình thường. Một mối quan hệ song phương bình thường mang lại lợi ích cho cả Việt Nam và Trung Quốc. Mặc dù có vẻ như nước lớn có thể gặt hái nhiều hơn từ mối quan hệ này bằng việc “ăn nạt” nước nhỏ hơn là một sự thỏa hiệp, tuy nhiên thực tế, nước nhỏ hoàn toàn có thể kháng cự lại nước lớn. Không quốc gia nào có lịch sử lâu dài về sự kháng cự của chủ nghĩa yêu nước như Việt Nam. Một khi tình trạng đối đầu xảy ra, cả Việt Nam và Trung Quốc đều mất đi cơ hội để có được mối quan hệ hai bên cùng có lợi. Cái khó của nước nhỏ
Bất chấp cam kết theo lệ, luôn có sự va chạm giữa xu hướng muốn tự khẳng định một cách tự mãn của Trung Quốc và mối lo ngại của Việt Nam về khả năng bị tổn thương do nước lớn. Sự bất định toàn cầu hiện nay khiến cho việc kiểm soát mối quan hệ song phương vốn bất đối xứng càng khó khăn hơn. Cuộc tranh luận xung quanh một số dự án khai thác khoáng sản là minh chứng rõ nhất... Việt Nam không phải là quốc gia duy nhất ở vào tình thế tiến thoái lưỡng nan trước đầu tư của Trung Quốc vào tài nguyên. Năm 2005, Mỹ đã ngăn chặn việc bán Unocal cho Công ty dầu khí ngoài khơi quốc gia của Trung Quốc CNOOC và hiện nay Australia đang vật lộn với câu hỏi liệu nên cho phép Trung Quốc được đầu tư bao nhiêu vào khai thác tài nguyên của nước này. Với Việt Nam, mối quan ngại này còn được khuếch đại do sự mất cân bằng giữa Việt Nam với người láng giềng khổng lồ. Nhưng nếu kinh tế thế giới ổn định hơn, Việt Nam sẽ không quá lo lắng. Nhưng tình hình hiện nay làm tăng lợi ích của mỗi cơ hội, đồng thời cũng tăng sự nghi ngờ và lo lắng. Vị trí của định chế đa phương Sự gia tăng va chạm này có thể được giảm bớt nhờ các thể chế đa phương toàn cầu và khu vực. Nếu Việt Nam không thể gia nhập WTO trước cuộc khủng hoảng hiện nay, Việt Nam sẽ ở thế khó khăn hơn nhiều trong quan hệ với Trung Quốc. Tuy nhiên, những yếu tố giống nhau trong thu hút đầu tư đã giúp Việt Nam thu hút được các DN muốn đa dạng thị trường, không muốn đặt cược vào một chỗ. Tổ chức đa phương quan trọng nhất trong việc tạo vùng đệm cho quan hệ song phương Việt Nam - Trung Quốc là ASEAN và rộng hơn, là ASEAN +3.
Việc hợp tác trong lĩnh vực kinh tế của ASEAN rất yếu trước khi khủng hoảng tài chính châu Á nổ ra, nhưng kể từ Hội nghị thượng đỉnh ASEAN 6 tổ chức tại Hà Nội năm 1998, các thành viên đã cam kết về một khu vực tự do thương mại ASEAN (AFTA) và quan trọng hơn, đóng một vai trò chủ động hơn trong phát triển quan hệ khu vực với Nhật Bản, Trung Quốc va Hàn Quốc (ASEAN + 3). Kết quả ngoạn mục nhất của việc này là việc khu vực tự do thương mại ASEAN – Trung Quốc đã được tuyên bố vào năm 2002 và dự kiến sẽ hoàn thành vào năm 2010 – 2015 và hiện nay vẫn theo đúng kế hoạch. Hợp tác kinh tế đã được bổ sung bằng lĩnh vực an ninh và chính trị với Tuyên bố về ứng xử trên biển Đông được kí vào năm 2002 và việc Trung Quốc tham gia Hiệp ước Thân thiện và Hợp tác ASEAN (thành viên đầu tiên ngoài ASEAN) năm 2003. Sự tham gia của Việt Nam trong các sáng kiến của ASEAN đã giúp tái cam kết sự tôn trọng của Việt Nam với Trung Quốc cũng như giúp Việt Nam có “chiếc ô” khu vực cho chính sách song phương với Trung Quốc của mình. Liệu ASEAN sẽ phản ứng như thế nào với cuộc khủng hoảng hiện nay? Với đà của ASEAN và sự hội nhập kinh tế châu Á nói chung từ năm 2002, chí ít ASEAN sẽ tiếp tục tồn tại. Thậm chí ngay cả khi chủ nghĩa bảo hộ xuất hiện trở lại các nước phát triển, ASEAN và Đông Á có thể hợp tác và cùng nhau xử lý. Các nước có chung những vấn đề kinh tế như sự bất định của tỷ giá đồng USD, sự sụt giảm đầu tư nước ngoài và việc làm, sự suy yếu của các thị trường tiêu dùng ở các nước phát triển, và nhu cầu xây dựng nền tảng tiêu dùng trong nước, một loạt các sáng kiến có thể sẽ được áp dụng. Trong quan hệ ASEAN – Trung Quốc, có thể ASEAN sẽ hành động nhiều hơn để khuyến khích xuất khẩu sang Trung Quốc và thu hút đầu tư của Trung Quốc vào khu vực. Những hoạt động như vậy sẽ tăng cường mối quan tâm đối với hội nghị thượng đỉnh Đông Á, một sáng kiến của ASEAN được khởi động vào 2005 và trong tương lai, một cộng đồng Đông Á có thể hình thành. Kết luận Trong bối cảnh hiện nay, một chiến lược khôn ngoan là phải tránh rủi ro. Hiện nay, những tác động tiêu cực của khủng hoảng là không thể tránh được với cả Việt Nam và Trung Quốc do cấu trúc của thương mại với bên ngoài. Hai nước không phải là nguyên nhân gây nên sự bất ổn toàn cầu hiện nay, do đó, nếu vượt qua thách thức này, hai nước sẽ sớm hồi phục và thịnh vượng. Với vấn đề lạm phát và sự lệch lạc của công nghiệp trước mặt, Việt Nam phải đối mặt với thách thức định hướng lại chiến lược phát triển nhắm vào thị trường nội địa và các nước thu nhập trung bình. Thị trường tiềm năng và có thể tiếp cận nhất chính là Trung Quốc, và nước này là hình mẫu của việc làm thế nào mở rộng cơ hội thương mại ra bên ngoài. Trung Quốc ở vào vị trí thuận lợi trong khủng hoảng kinh tế hiện nay. Nước này đã mở rộng thị trường nội địa cũng như thị trường bên ngoài và tiềm lực tài chính của Trung Quốc rất mạnh. Trung Quốc sẽ hưởng lợi từ chiến lược khôn ngoan được triển khai sớm của mình. Thách thức lớn nhất của Trung Quốc là ngăn ngừa khủng hoảng tương lai bằng việc chú trọng vào phát triển bền vững. Điều may mắn cho cả hai nước là quan hệ Việt – Trung hiện nay ở tình trạng bình thường. Điều này đặc biệt quan trọng với Việt Nam, bởi Trung Quốc có cơ hội vươn ra bên ngoài lớn nhất. Mối quan hệ với Việt Nam cũng quan trọng với Trung Quốc bởi đó là nền tảng cho lợi ích của cả hai bên. Tuy nhiên, tình hình hiện nay làm tăng rủi ro cho nước nhỏ trong mối quan hệ bất đối xứng này. Các thể chế khu vực và quốc tế giữ vai trò quan trọng trong việc tạo vùng đệm cho quan hệ song phương. Với Việt Nam và Trung Quốc, ASEAn và các sáng kiến khu vực lớn hơn của tổ chức này sẽ tạo khuôn khổ hữu dụng để ổn định mối liên hệ song phương và tăng cường hội nhập. |
----
Đại biểu Quốc hội cần được hỗ trợ thông tin
Quốc hội và các Đại biểu Quốc hội cần phải được hỗ trợ hiệu quả về mặt thông tin để thực hiện tốt cả ba chức năng: lập pháp, giám sát tối cao và quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước… TS Đinh Xuân Thảo, Viện trưởng Viện Nghiên cứu lập pháp phát biểu tại hội thảo: "Tổ chức cung cấp thông tin phục vụ hoạt động của đại biểu Quốc hội giữa hai kỳ họp"…Gian lận ở cây xăng: "Thượng đế" cũng phải lên tiếng
Vietnam's Ministry of Information and Communication said that Vietnam expects to launch the second satellite in 2012.
Thanh sắt rơi trúng người đi đường cand.com
Khoảng 7h ngày 6/9, một số phương tiện lưu thông trên đường Lê Thị Hồng Gấm, phường Nguyễn Thái Bình, quận 1, TP HCM hoảng hốt khi chứng kiến một thanh sắt từ công trình đang thi công rơi xuống đường đập vào một xe gắn máy làm hai người bị thương nặng, ...
Thanh sắt rơi trúng đầu, 2 cha con bị thương nặng Tuổi Trẻ
Sắt rơi từ tầng 7 trúng người hai cha con VNExpress
Sắt rơi từ công trình làm 2 người bị thương nặng Lao động
Ba cô gái đáng thương bị bắt tại vũ trường New Century
Câu chuyện phía sau phiên tòa của ba cô gái tội lỗi trong vụ án tại vũ trường New Century khiến cho những người dự khán thương nhiều hơn là giận. Người ta đã được nghe những lời bộc bạch từ trong sâu thẳm đáy lòng của những cô gái trẻ trót lầm lỗi khi nói về cái cách mà họ phạm tội.<<::: vậy mà chủ vũ trường ..... chả nhẽ lại thế ???>>>
China leads world in recycling major nonferrous metals
NANCHANG, Sept. 7 (Xinhua) -- China is ahead of the ...



