Thứ Hai, 9 tháng 11, 2009

Dân chủ kiểu Trung Quốc

Dân chủ kiểu Trung Quốc
“Hiến pháp nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, rất có thể là bản hiến pháp lập dị nhất thế giới, được thông qua bởi Quốc hội do Đảng Cộng sản Trung Quốc kiểm soát, đã hợp pháp hóa quyền lực tối cao của Đảng trước người dân Trung Quốc. Đặc biệt nhất, nó cho phép Đảng sửa đổi bất kỳ khi nào hiến pháp không còn phù hợp nhu cầu chính trị của Đảng…
Ngày nay, Đảng Cộng sản Trung Quốc còn duy trì tám “tổ chức dân chủ.” Đảng bao cấp mọi chi phí, lương bổng, phúc lợi, kể cả chi phí điều hành và xuất bản báo chí, thông qua ngân sách của Bộ Lao Động. Các tổ chức nhân sự của Đảng và Bộ Lao Động chịu trách nhiệm bổ nhiệm, xếp hạng, điều chuyển, và nâng bậc cho họ, vốn nhiều năm qua chỉ phục vụ như đồ trang sức cho “nền dân chủ xã hội chủ nghĩa” Trung Quốc. Họ tán thành và hoan nghênh mọi quyết định của Đảng Cộng sản cho dù có thô bạo đến đâu chăng nữa (gồm cuộc đàn áp đẫm máu phong trào dân chủ năm 1989 và phong trào Pháp Luân Công năm 1999). Ngoài những tổ chức này ra, Đảng Cộng sản Trung Quốc không công nhận bất kỳ tổ chức dân sự và phổ biến nào – thậm chí những nhóm nghiên cứu thuần túy – mà họ không kiểm soát được.”

(Hà Thanh Liên, “Trung Quốc cách nền dân chủ bao xa”, BVN dịch. Bauxite Việt Nam).
Tuy nhiên, theo Gordon G. Chang, “Sự đồng thuận của Bắc Kinh sẽ không thể kéo dài”, vì “Các lãnh tụ cộng sản cao cấp giờ đây đang phải đối mặt với tình trạng tiến thoái lưỡng nan cho tất cả những kẻ độc đoán chuyên quyền đang tiến hành cải: sự thành công về kinh tế gây nguy hiểm cho việc tiếp tục cầm quyền của họ. Họ có thể cố mạnh tay hơn – chiến thuật được Hồ Cẩm Đào ủng hộ – nhưng họ sẽ bị thất bại.”
(Gordon G. Chang, “Đảng chỉ mở ra con đường mới để đi tới thất bại”, một độc giả của Ba Sàm dịch. Cơ quan ngôn luận Ba Sàm)
Lời người dịch: Andrew J. Nathan là giáo sư môn Khoa học chính trị tại Ðại học Columbia, Hoa Kỳ. Ông là đồng biên tập cuốn The Tiananmen Papers (Hồ sơ Thiên An Môn), (2001), đồng tác giả cuốn China’s New Rulers (Các nhà cai trị mới của Trung Quốc), 2002, và đồng biên tập cuốn How East Asians View Democracy (Người Á đông quan niệm dân chủ như thế nào), 2008. Trong số các sách của ông có Chinese Democracy (Nền Dân chủ Trung Quốc), 1985.
Bài dưới đây dịch toàn văn từ bài “Authoritarian Impermanence” (Tính chất vô thường của chế độ chuyên chế) đăng trong Journal Democracy, số tháng 7 năm 2009, Nxb Johns Hopkins University Press, HK, tt 36-40.
Chúng tôi dùng bài này để đúc kết loạt 13 bài về Trung Quốc, được đăng tải suốt tháng vừa qua, nhân kỷ niệm 60 năm ngày thành lập nước Cộng hòa Nhân dân Trung Quốc. Loạt bài này cũng được xem như tiếp nối và đối chiếu với loạt 6 bài Kinh nghiệm Toàn trị tại Trung Quốc đã được đăng tải trước đây. Hy vọng cả hai có thể tiếp tay cho vô số bài rất có giá trị của các tác giả khác trên các trang web, cung cấp một số thông tin hữu ích (và luôn luôn cần tái đánh giá) về Trung Quốc đương đại cùng các vấn đề nan giải của nó.
Trước khi chấm dứt công việc mà chúng tôi sung sướng xem là một công tác tự nguyện và có cơ may thực hiện này, xin được chân thành cám ơn độc giả đã theo dõi, bằng hữu khích lệ, và đặc biệt, BBT các trang web thân hữu.



So với các chế độ dân chủ, chắc chắn các chế độ chuyên chế [authoritarianism) có nhiều kiểu hơn, dù chế độ thứ nhất thu hút nhiều chú ý có tính học thuật của chúng ta. Các hệ thống chuyên chế đã và đang ở với chúng ta lâu hơn, cai trị nhiều người dân hơn và trong chừng mực chúng ta biết, trong tương lai chúng có thể cai trị nhiều dân tộc hơn các hệ thống dân chủ. Không nên ngạc nhiên về điều đó nếu chúng ta xét thấy rằng chủ nghĩa chuyên chế là một loại tàn dư của một kiểu chế độ được định nghĩa một cách chật hẹp ([là] sự tự do cạnh tranh chính trị để vào những vị trí cao nhất có quyền lực thật sự), nghĩa là, chế độ dân chủ. Vì là một loại tàn dư, chủ nghĩa chuyên chế không tránh khỏi rất mênh mông và gồm nhiều tiểu loại chế độ rất khác nhau.[1]

Các câu hỏi như làm thế nào các chế độ ấy vẫn tại quyền và chúng biến đổi như thế nào, thường được dùng để thúc đẩy sinh viên chú ý vào chủ nghĩa chuyên chế, chủ nghĩa đoàn ngũ hóa (corporatism), quân phiệt, chủ nghĩa chuyên chế thư lại và chủ nghĩa cộng sản đối chiếu. Nhưng vào đầu thập niên 1990, các chủ đề ấy không còn hợp thời với cái dường như là chiến thắng lịch sử của chế độ dân chủ. Chắc chắn chế độ Trung Quốc (TQ) vẫn còn tại vị, có điều [trên thế giới] đã có vẻ đang tự do hóa; các nhà nước cộng sản nhỏ hơn đã là cái quái dị; và chế độ quân chủ cùng chế độ thần quyền đã có vẻ đang tàn lụi.

Thế nhưng lịch sử vẫn giữ lại sự xảo quyệt của nó – không như một loại mang tính Hegel chủ nghĩa, thao tác theo con đường duy cứu cánh tính qua những hành động mù lòa, mà là một loại hậu hiện đại, phản ứng lại các thông giải của chúng ta bằng một khúc quặt trớ trêu của các biến cố. Hai chục năm sau Thiên An Môn, tính đàn hồi của chế độ chuyên chế TQ vẫn làm chúng ta ngạc nhiên.

Sau khi tra vấn các viễn cảnh cho chế độ dân chủ TQ từ năm 1998 tới năm 2003, Tạp chí Dân chủ (Journal of Democracy) quyết định lưu tâm thêm lần nữa [2]. Chúng tôi đã xem xét có phải các viễn cảnh cho thể chế ấy bị biến đổi vì sự tăng trưởng kinh tế nhanh chóng và sự phân cực, hỗn loạn xã hội, giai cấp trung lưu đang nổi lên và sự tự do mới mẻ của internet. Nếu không bị giới hạn về không gian [của tạp chí], chúng tôi đã có thể đặt vấn đề về các tác động của giáo dục và văn hóa phương Tây; sự xuống cấp của môi trường; băng hoại chính trị; chủ nghĩa dân tộc đại Hán; chủ nghĩa dân tộc sắc tộc thiểu số; cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu; và các lực lượng to lớn khác đang trắc nghiệm không chút xót thương khuôn khổ tổng thể của trật tự công cộng.

Những đóng góp trong các bài trước bài này làm phong phú tri thức của chúng ta về hệ thống TQ như một chủ nghĩa chuyên chế của một kiểu mẫu mới mà cho tới nay sự am hiểu về nó vẫn còn nghèo nàn, một kiểu mẫu trộn lẫn chủ nghĩa trung ương tập quyền với hàng ngũ doanh gia, độc quyền chính trị với tự do cá nhân, quyền lực cá nhân chủ nghĩa với thủ tục pháp luật, đàn áp với đề kháng, đồng dạng theo chính sách với sự uyển chuyển giải tập trung hóa (decentralyzed flexibility), kiểm soát thông điệp với giao lộ truyền thông (message control with media circus). Một hệ thống vẫn mạnh suốt 20 năm qua không do sự thay đổi ngột ngạt mà do việc nuôi dưỡng nó, không do việc giữ cho một trạng thái tĩnh có tính định chế tồn tại mà do việc uốn nắn hệ tư tưởng của Ðảng Cộng sản Trung Quốc (ÐCSTQ) cùng các cơ cấu nhà nước để đáp ứng nhu cầu mới. Hệ thống ấy ngày nay cổ vũ các nhà lãnh đạo có trình độ, thực hiện một cách trật tự sự kế thừa chính trị, đẻ ra các chính sách công cộng hữu hiệu, và thu phục sự ủng hộ của đại chúng. Có lẽ nghiên cứu về các động lực của nó sẽ giúp kích hoạt sống động trở lại việc phân tích các hệ thống chuyên chế đối chiếu.

Bóng tối của Tương lai

Nhưng giống với mọi hệ thống phi dân chủ đương đại, hệ thống TQ chịu một khuyết tật bẩm sinh mà nó không thể nào chữa trị, đó là thực tế rằng hình thức chọn lựa chính phủ là do đồng ý chung hơn là hợp pháp (legitimate). Cho dẫu chế độ ấy tuyên bố một các quả quyết rằng nó là một hình thức dân chủ TQ dựa trên cơ sở nó phục vụ người dân và cai trị theo lợi ích của họ, và cho dẫu đa số công dân TQ hôm nay chấp nhận lời tuyên bố đó [3], nó vẫn thừa nhận, và mọi người đều biết, rằng thẩm quyền của nó chưa bao giờ là đối tượng để dân chúng duyệt xét và nó không bao giờ dự tính làm chuyện đó. Theo ý nghĩa đó, chế độ ấy khắc sâu bằng sắt nung như một thiết thực, một cái gì đó tạm thời, có tính chuyển tiếp (quá độ), và người ta cần tới nó để đáp ứng nhu cầu của thời gian [4].

Ngược lại, các chế độ dân chủ thường gợi cho thấy thất vọng và nản lòng nhưng chúng không đối đầu với một hình thức kình địch có thế giá rực rỡ hơn nó [5]. Theo ý nghĩa này, các chế độ chuyên chế không là mãi mãi. Trong chừng mực đa dạng hóa và tuổi thọ của chúng, chúng sống dưới chiếc bóng của tương lai, dễ bị tổn hại trước các thách đố sống còn, những cái mà các chế độ dân chủ trưởng thành không bị đối mặt.

Chúng ta từng quen với những chuyển tiếp như chớp giật và đầy kịch tính tới chế độ dân chủ. Liệu thay vào đó, chế độ TQ có thể cải cách và thích nghi, thích nghi và cải cách, tới một điểm ở đó nó xuất hiện phía bên kia chiếc gương soi như một chế độ dân chủ hơn? Ðây là niềm hy vọng của những phong trào bảo vệ các quyền tại TQ gồm các luật sư, người viết thỉnh nguyện thư, người viết blog và nhà báo, và một vòng tròn rộng lớn các nhóm tôn giáo mà cho tới nay vẫn duy trì cách ứng xử kín đáo để tránh bị đàn áp. Họ hy vọng rằng chế độ sẽ ngày càng bị vướng víu trong lô-gic của các định chế do nó tạo ra như những chiếc van an toàn hầu bảo tồn nền cai trị của nó, thí dụ tòa án và truyền thông. Lúc đó, Ðảng sẽ nhận ra mình bị buộc phải chung sống với một xã hội dân sự có sức mạnh ngang hàng, và TQ sẽ trở thành một chế độ dân chủ mà không có khoảnh khắc biến đổi đầy kịch tính. Hãy cứ gọi đó là một kiểu chuyển biến mới – không đổ vỡ, không tháo gỡ, không hiệp ước mà là liền lạc êm thắm.
ÐCSTQ chống kịch bản đó. Bài học then chốt mà các lãnh tụ của nó học được từ Thiên An Môn là từ chối đối thoại ngang hàng với xã hội. Khi Lý Bằng, vị Thủ tướng ủng hộ đàn áp thẳng tay, mô tả nó trong các cuộc tranh luận với Triệu Tử Dương, vị Tổng Bí thư của Ðảng ủng hộ đối thoại, rằng việc cho phép các sinh viên biểu tình “thương thảo với Ðảng và chính phủ như những kẻ ngang hàng” sẽ là “phủ nhận quyền lãnh đạo của ÐCSTQ và phủ nhận hoàn toàn hệ thống xã hội chủ nghĩa” [6]. Các biến cố xảy ra sau đó tại Ðông Âu và Liên bang Sô-viết (LBSV) đã xác nhận với hàng ngũ lãnh đạo quan điểm đó [7]. Chế độ đang có ý muốn biến đổi, cách nào cũng được miễn sao giúp nó nắm quyền, nhưng nó không có ý muốn nới lỏng lệnh cấm các lực lượng chính trị hoạt động độc lập. Chính điều này càng khiến cho có khả năng rằng sự thay đổi thể chế, nếu nó xảy đến, sẽ bằng một loại đoạn tuyệt nào đó.

Nhưng sự chuyển tiếp của TQ sẽ không giống của LBSV. Trung Quốc không ở trong cuộc chạy đua vũ trang mà nó không đủ sức. Nó cũng không cạnh tranh quá mức về an ninh với Hoa Kỳ. Các sắc dân thiểu số của nó chỉ chiếm 5 hoặc 6% của thành phần nhân số, và không hơn một nửa. Về mặt hiến pháp, cấu trúc của nó không theo hình thức liên bang với các đơn vị có quyền rút chân ra.

Sự chuyển tiếp của TQ cũng sẽ không giống của Ðài Loan [8]. Chính phủ TQ không cần hội nhập một đa số sắc tộc bị loại trừ trước đó. Nó không cho phép hình thành một phía đối lập có tổ chức hoặc luyện tập cho dân chúng bằng những cuộc bầu cử có tranh đua. Trung Quốc cũng không là một nước phụ thuộc vào Hoa Kỳ.
Do đó, hình thức chuyển tiếp khả thi nhất cho TQ vẫn là kiểu mẫu của Thiên An Môn, với ba thành tố hiệp vào nhau:

(1) một đa số cương mãnh những công dân bất mãn (trong năm 1989 vì lạm phát và tham nhũng, trong tương lai có thể vì nạn thất nghiệp và thảm hoạ môi trường, hoặc một hình thức quốc thể bị sỉ nhục nào đó);

(2) một biến cố mang tính xúc tác; nó gởi tín hiệu cho các lực lượng đang tản mác rằng thời điểm nổi dậy đã tới;

(3) một sự nứt rạn trong giới lãnh đạo (hoặc do những dị biệt cá nhân, tranh giành quyền lực, sự ủng hộ bất định của công an vũ trang và quân đội, hoặc chia rẽ hệ tư tưởng), gây ra phản ứng từ sự bất ổn chóp bu hoặc suy yếu, khiến cho thách đố có cơ hội tăng nhanh.

Việc chế độ tự đánh giá là dễ tổn hại trước một kịch bản y như thế có bằng chứng rõ ràng trong những nỗ lực lớn lao của nó nhằm ngăn chặn sự xuất hiện của ba thành tố ấy. Nó tìm cách che chắn cho dân chúng khỏi những tác động của cuộc bất ổn kinh tế; mua tính chính thống trong các khu vực xã hội quan trọng; kiểm soát các tin tức xấu; huy động ngoài vòng pháp luật; gây chia rẽ và đàn áp phía đối lập; giám sát xã hội dân sự; kiểm soát các công cụ thao tác mạng lưới internet và điện thoại di động; củng cố công an và bán quân sự; và trên tất cả, giữ cho những bất hoà nội bộ khỏi con mắt của công chúng để cho cơ hội hình thành một sự huy động xã hội vẫn còn không hứa hẹn.

Cho tới nay, các nỗ lực đó của ÐCSTQ thành công trong việc ứng xử với tác động của cuộc suy thoái kinh tế toàn cầu lên công nhân TQ. Tản mác về lại thôn quê từ nơi họ đã tới và có được công ăn việc làm phát sinh từ gói kích cầu của chính phủ. Chế độ cũng thành công trong việc bóp nghẹt “Linh bát Hiến chương”, một thách đố phức tạp, có tính trí thức và có cơ sở rộng rãi nhất đối với các nguyên tắc cai trị của ÐCSTQ tính từ Thiên An Môn.

Nhưng các thành tố của cuộc khủng hoảng tiềm tàng ấy có thể hội tụ bất cứ lúc nào. Nếu ta thử mường tượng hệ thống TQ đang đối mặt với những loại vấn đề mà các nước như Hoa Kỳ, Anh, Nhật Bản vừa mới đi qua – các cuộc chiến tranh không thành công; kinh tế lao thẳng xuống vực; các nhà lãnh đạo không được lòng dân; truyền thông chúi mũi phê bình bắt bẻ; chia rẽ sâu xa về bản sắc văn hoá – ta khó có thể tưởng tượng hệ thống TQ sống sót không kém ta tưởng tượng các chế độ dân chủ đang sụp đổ.

Cái giữ cho các cuộc khủng khoảng chính phủ ấy không trở thành khủng hoảng chế độ là văn hoá công khai bất đồng chính kiến; sự cai trị mạnh mẽ của luật pháp; và năng lực có tính định chế thay đổi các nhà lãnh đạo để đáp ứng sự bất mãn của công chúng mà không thay đổi hệ thống. Nếu năm 1989, TQ chọn một con đường khác thì hôm nay nó có thể có những đặc tính làm cho ổn định đó.

Không có những đặc tính đó, chế độ độc tài chuyên chế phải liên tục thể hiện giống như một đội nhào lộn trên dây cao, ngăn chặn mọi khủng hoảng trong khi giữ cho nó cùng nhau hành động không một kẽ hở hay một lằn nứt. Hôm nay, dựa trên bằng chứng của những đóng góp của chúng tôi [trong những bài này], chế độ TQ đang cố xoay xở để làm điều đó. Nhưng nó không thể nào đủ sức thoát ra.


Bài do dịch giả gửi đăng

Chú thích
[1] Amos Perlmutter, Modern Authoritarianism: A Comparative Analysis (New Haven: Yale University Press, 1981); Juan J. Linz, Totalitarian and Authoritarian Regimes (Boulder, Colo.: Lynnne Rienner, 2000)
[2] “Will China Democratize?” Journal of Democracy 9 (Jannuary 1998); 3-64; and “China’s Changing of the Guard,” Journal of Democracy 14, Jannuary 2003): 5-81.
[3] Tianjian Shi, “China Democratic Values Supporting and Authoritarian System” in Yun-han Chu, Larry Diamond, Andrew J. Nathan, và Doh Chull Shin, biên tập, How East Asian View Democracy (New York, Columbia Unversity Press, 2008), 209-37.
[4] Xem, thí dụ “Zhonggong zhongyang guanyu jiaqiang dang de zhizheng nengli jianshe de jueding” (“Resolution on enhancing the governtment capacity of the CCP – Nghị quyết tăng cường khả năng chính quyền của ÐCSTQ”), 19 tháng Chín 2004. Có ở http://news.xinhuanet.com/newscenter/2004-09/26/content_2024232.htm.
[5] Yun-han Chu, Larry Diamond, Andrew J. Nathan và Doli Chui Shin, “Asia’s Challenged Democracies,” Washington Quarterly 32 (Jannuary 2009): 143-57.
[6] Zhang Liang, biên dịch, Andrew J. Nathan và Perry Link, biên tập, The Tianmen Papers (New York: Public Affairs, 2001), 118.
[7] David Shambaugh, China’s Communist Party: Atrophy and Adaption (Berkeley: University of California Press, 2009).
[8] Bruce Gilley và Larry Diamond biên tập, Political Change in Chia: Comparisons with Taiwan (Boulder, Colo.: Lynne Rienner, 2008).



Vũ khí ám sát hoàn hảo
Ngày 17/11/2006 khoa cấp cứu của [Bệnh viện] University College Hospital (UCH, London) tiếp nhập một bệnh nhân mà sau này trở thành một trường hợp làm rúng động y khoa phương Tây. Bệnh nhân có triệu chứng mất nước, ói mửa dữ dội, nhưng không có dấu hiệu nhiễm trùng trực tràng. Bác sĩ nghi ngờ ông bị ngộ độc thực phẩm, có lẽ do nhiễm phóng xạ. Nhưng xét nghiệm sau đó không thấy phóng xạ. Xét nghiệm Greiger (đo lường lượng phóng xạ) hoàn toàn âm tính. Không ai biết ông mắc bệnh gì. Các bác kinh nghiệm nhất của bệnh viện UCH và các bệnh viện lớn khác cũng không đi đến một chẩn đoán dứt khoát.

Bệnh nhân là Alexander Litvinenko, một cựu sĩ quan tình báo KGB của Nga và là một người đối kháng nổi tiếng ở Nga. Trong khi bác sĩ không biết ông mắc bệnh gì, thì Livitnenko không nghi ngờ gì bệnh trạng của mình: ông bị Kremlin ám sát bằng đầu độc. Litvinenko tố cáo rằng chẳng những điện Kremlin ra lệnh giết ông ta, mà còn tiêu diệt bất cứ ai dám phê phán Tổng thống Putin. Trường hợp của Lirvinenko cung cấp cho thế giới một vũ khí ám sát của tương lai với kĩ thuật cao.

Alexander Litvinenko (ảnh từ wikipedia)
Vào thập niên 1990s, Litvinenko được điều động về cục tình báo Nga (KGB) và giao nhiệm vụ đấu tranh chống tham nhũng. Nhưng sau khi nhận nhiệm vụ chẳng bao lâu, Litvinenko trở nên bất mãn với cách làm việc của cơ quan tình báo nổi tiếng thế giới này. Năm 1998, Litvinenko và vài đồng nghiệp tổ chức một buổi họp báo lạ lùng, ông và đồng nghiệp phải đeo mặt nạ trượt tuyết để che dấu danh tánh trong khi trả lời phỏng vấn của giới báo chí về những tiêu cực mà ông và đồng nghiệp chứng kiến trong cơ quan tình bào. Năm 2000, Litvinenko quyết định đào tẩu khỏi Nga và xin tị nạn chính trị ở Anh. Trong thời gian ở Anh, Litvinenko tiếp tục tố cáo Putin với đủ thứ tội danh. Trong một cuốn sách do ông viết, Litvinenko cho biết cơ quan tình báo FSB (trước đây là KGB) đã tiến hành một loạt đánh bom vào các khu chung cư chống lại nhóm người Chechen đòi li khai khỏi liên bang Nga, để Putin sử dụng làm cái cớ xâm lăng Chechnya. Litvinenko còn điều tra cái chết của phóng viên Anna Politkovskaya, người phê phán chính sách của Putin một cách nặng nề. Năm 2007, Kremlin tố cáo Litvinenko phản bội, đã tiết lộ thông tin mật của Nga cho tình báo Anh, và chỉ tội danh đó cũng đủ để kết án tử hình ông dù ông sống ngoài nước Nga.

Cái chết của Litvinenko bắt đầu từ ngày 1/11/2006, khi ông đi ăn tối cùng hai người đồng nghiệp tình báo cũ và nay là doanh nhân Dmitry Kovtun và Andrei Lugovoi tại khách sạn Millennium. Sau buổi ăn tối định mệnh đó, Litvinenko bị tiêu chảy, ói mửa, và rất mệt trong người. Ngày 3/11/2006 Ông được đưa vào Bệnh viện Barnet ở phía Bắc London, nhưng bác sĩ ở đó không chẩn đoán được ông mắc bệnh gì. Vì tình trạng sức khỏe của Litvinenko càng ngày càng trở nên nghiêm trọng, nên bác sĩ quyết định chuyển ông đến UCH vào ngày 17/11/2006.

Khi nhập viện UCH, tình trạng của Litvinenko càng ngày càng tồi tệ hơn. Da ông còn trắng nhợt hơn màu trắng của 4 bức tường chung quanh phòng bệnh. Đến ngày 22/11/2006, bác sĩ phải đặt ống để ông thở. Trong khi đó, hết cơ phận này đến cơ phận khác (gan, thận, phổi, v.v…) trong người Litvinenko ngưng hoạt động theo từng ngày. Hệ thống miễn dịch cũng suy sụp nhanh chóng, với lượng bạch huyết cầu giảm nhanh như đá rơi từ trên cao xuống đất. Các bác sĩ cố gắng lấy tủy xương để làm xét nghiệm, nhưng họ không cách gì lấy được một mẫu. Các bác sĩ bệnh lí nghi ngờ rằng các tế bào phân chia đã bị đầu độc, nhưng họ không biết chất gì là thủ phạm.

Xét nghiệm Greiger cho ra kết quả âm tính phóng xạ gamma. Cần nói thêm rằng phóng xạ gamma là loại dễ phát hiện nhất. Một khi đã loại trừ khả năng phóng xạ gamma và thallium, các bác sĩ và nhà khoa học nghĩ đến một chất khác, nhưng danh sách các chất này rất dài, nên không dễ gì phát hiện được. Trường hợp của Litvinenko là một trường hợp cực kì mới đối với y khoa Anh. Thế là họ quyết định lấy mẫu nước tiểu của bệnh nhân gửi cho Cục vũ khí nguyên tử (Atomic Weapons Establishments, AWE) để phân tích.

Một trong những chất phát tán phóng xạ alpha mạnh nhất là một isotope có tên là polonium-210, thường được sản xuất để dùng trong các dụng cụ chống tĩnh (antistatic). Isotope này trở thành một tâm điểm điều tra và phân tích của AWE. Tuy nhiên, các phân tích này chẳng giúp ích gì cho bệnh nhân vì Litvinenko đang chết dần trên giường bệnh. Đến ngày 23/11/2006 thì AWE khẳng định Litvinenko bị nhiễm phóng xạ polonium-210. Litvinenko chết chỉ vài giờ sau khi chẩn đoán được xác định, và ông không bao giờ biết được mình chết vì chất gì.

Giới vật lí hạt nhân gọi polonium là “Terminator” (kẻ kết liễu), không chỉ vì nó là một là chất đầu độc cực kì hữu hiệu, mà còn là một nguyên tố được sản xuất trong một qui trình có lên là “neutron capture”. Là một nguyên tố, polonium có thể tìm thấy trong vỏ trái đất như là một phó sản của sự phân rả uranium-238, và chiếm khoảng 1% tổng số liều lượng mà con người tiếp nhận phóng xạ hàng năm. Liều lượng polonium mà Litvinenko bị nhiễm chỉ bằng một đầu cây kim nhỏ. Chỉ có khoảng 100 g được sản xuất mỗi năm, và phần lớn là từ Nga.

Không giống như các chất phóng xạ khác, polonium-210 hoàn toàn vô hại nếu như nó không xâm nhập vào cơ thể con người. Nhưng một khi polonium-210 vào cơ thể con người, tia phóng xạ alpha phát tán bởi isotope có thể gây tác hại gấp 20 lần tác hại do phóng xạ gamma (từ thallium) gây ra.

Tia gamma có thể xuyên qua thép, bê tông, và mô con người. Các hạt alpha không thể xâm nhập một tấm giấy hay da con người. Nhưng nếu con người nuốt hay hấp thu tia phóng xạ alpha (qua đường hô hấp), thì tất cả các tế bào trong cơ thể sẽ bị tấn công dữ dội. Hạt alpha sẽ tiêu diệt bất cứ tế bào nào bị phơi nhiễm.

Cảnh sát nghi ngờ rằng Litvinenko bị đầu độc tại khách sạn Millennium vào ngày 1/11/2006, và polonium có lẽ đã được hòa tan trong một chất lỏng không có mùi vị, rồi pha với trà hay cà phê, trong thời gian ông ta tiếp bạn cũ. Polonium-210 xâm nhập vào hệ thống tiêu hóa, và từ đó lan sang máu và khắp cơ thể, tiêu diệt các tế bào phân chia nhanh như tóc, da, bao tử, xương tủy. Có thể Litvinenko đã bị đầu độc với một liều lượng lớn (khoảng 1 đến 10 gigabacquerels – một gigabacquerel bằng 1 hạt alpha phát tán trong 1 giây) hơn là liều lượng cần thiết để giết một con người. Mười gigabacquerel là liều lượng tối đa có thể phóng ra 10 tỉ hạt alpha trong 1 giây. Với liều lượng này, Litvinenko không có hi vọng sống sót. Litvinenko là người đầu tiên trong lịch sử hiện đại bị ám sát bằng polonium-210.

Hai doanh nhân gặp Litvinenko từ chối rằng họ chẳng dính dáng vào cái chết của Litvinenko. Tuy nhiên, dấu vết phóng xạ được tìm thấy tại những nơi mà hai người này từng đi qua hay từng lưu trú. Ngay cả cửa phòng khách sạn, bàn ghế họ từng ngồi cũng có dấu vết phóng xạ polonium-210. Những nơi Litvinenko từng đi qua (như ghế máy bay, ghế xe bus, ghế xe taxi, ghế xem bóng đá, văn phòng làm việc, v.v…) cũng nhiễm phóng xạ. Ngay cả đến nay, một số khách không thể đặt một số phòng khách sạn vì vẫn còn nhiễm phóng xạ polonium-210. Các giới chức y tế Anh cũng xét nghiệm hàng trăm người tình nghi bị nhiễm phóng xạ, và đến nay họ phát hiện 17 người có kết quả dương tính cho ppolonium-210.

Khi Liên Xô cũ bị tan rã, người ra rất quan ngại đến những vũ khí tàn phá hàng loạt, những vũ khí giết người như polonium-210 mà Liên Xô từng sở hữu sẽ lọt vào tay của mấy tên khủng bố, nhưng cho đến nay chẳng ai biết số phận của những vũ khí đó ra sao và ai đang sở hữu chúng.
Giới y tế phương Tây thường đùa rằng chẳng biết y khoa Nga khá cỡ nào trong việc cứu người, nhưng rõ ràng trong kĩ nghệ giết người thì y khoa Nga thuộc vào hạng vô địch. Vụ ám sát Litvinenko được giới báo chí và khoa học xem là vụ ám sát đầu tiên của thế kỉ 21, vì lần đầu tiên một chất như polonium-210 được sử dụng để giết người một cách hoàn hảo và làm ngẩn ngơ thế giới y khoa phương Tây.

NVT

Tổng số lượt xem trang