Không thể lấy rừng vàng biển bạc để ru dân mãi
Khai mỏ cũng không đúng tầm cái mỏ
Trong phiên họp Quốc hội, khi bàn về luật thuế tài nguyên, Tổng bí thư Nông Đức Mạnh nói: "Trên thế giới hiện nay, thực tế nước nghèo thì bán tài nguyên, nước giàu họ mua tài nguyên về chế biến sâu, công nghệ là ở nước họ. Ta bây giờ phần lớn là bán tài nguyên, nên vừa rồi cũng có phê phán chỗ này chỗ kia. Đã đến lúc phải đi sâu vào chế biến và Chính phủ sắp tới chắc phải có quy định theo hướng cấm bán tài nguyên thô ra nước ngoài". Bộ trưởng Tài nguyên - Môi trường Phạm Khôi Nguyên cũng cho rằng cần phải để dành tài nguyên cho con cháu mai sau. Giáo sư có suy nghĩ về chủ trương này? Liệu chúng ta có thể kì vọng chủ trương dành tài nguyên cho con cháu mai sau như là tín hiệu của việc hãm phanh các đại dự án khai thác tài nguyên đang và dự kiến triển khai mà thiếu nghiên cứu kĩ hoặc còn có nhiều ý kiến khác nhau trong công luận và các nhà khoa học?
GS Phan Trường Thi: Có lẽ vậy.
Thực ra, nên giữ lại hay là khai thác phải đặt vấn đề kĩ thuật lên đầu, chứ không thể cực đoan.
Trước hết, phải xem Việt Nam nên để giành những cái gì? Điều này thuộc về tầm nhìn chiến lược của Chính phủ. Theo tôi, đó là những tài nguyên mà trình độ kĩ thuật trong mười, hai mươi năm nữa cần đến.
Hai là, với tình thế trong nước hiện nay cả về chính trị và kĩ thuật, chúng ta phải xem đã nên đặt vấn đề khai thác tài nguyên đó hay chưa. Nếu kĩ thuật trong nước đã đủ để làm thì ta nên đầu tư vào làm. Nói cách khác, tình trạng khoa học kĩ thuật mình đạt được đến đâu, thì khai thác đến đó.
Chẳng hạn trong khai thác than, bây giờ không ai còn bóc đất lên để lấy than, mà đốt hầm lò, đưa khí lên. Việt Nam muốn làm phải nghiên cứu kĩ nhiều vấn đề.
Bây giờ, nhiều người có ý định mở bển than nâu đồng bằng sông Hồng, nhưng theo tôi, cần nghĩ kĩ.
Các nhà địa chất đã biết về bể than này từ năm 1998, ước lượng 210 tỉ tấn, nhưng nó mới chỉ là hiểu biết khái quát, chưa có nghiên cứu chi tiết.
Cách đây 5, 6 năm, Nhật Bản đã bỏ ra khoảng 8 triệu đôla để nghiên cứu về khai thác than ĐBSH nhưng sau họ rút lui, vì điều kiện kĩ thuật so với hiệu quả kinh tế chưa tối ưu.
Hơn nữa, vấn đề kĩ thuật không thể nói chơi, phải có hiểu biết. Nhiệm vụ của các nhà khoa học là phải nghiên cứu kĩ, chứ không phải đụng vào cái gì bàn lui.
Thế nhưng, ngay cả khi về mặt kĩ thuật, có thể các nhà khoa học nhìn nhận là khai thác được, thì việc công trình đó có được tiến hành tốt hay không lại phải đặt vào bối cảnh chúng là trình độ quản lý, và tính công khai minh bạch trong hệ thống...
Đúng vậy. Đó chính là vấn đề. Điều này hoàn toàn phụ thuộc vào trình độ quản lý.
Chúng ta có hệ thống tài nguyên đẹp như thế, nhưng khi sử dụng thì như những vết lở loét trên thân hình người.
Như mỏ đồng Sinh Quyền, chúng ta bắt tay cùng Trung Quốc làm, kĩ thuật không đáp ứng được. Thế nên, một cái mỏ tìm từ năm 1964, cho đến bây giờ là gần nửa thế kỉ, mà khai thác không xứng đáng với cái tầm của mỏ.
Mỗi tỉnh là một vương quốc
Căn nguyên của tình trạng này là gì, thưa ông?
Do trình độ công nghệ và quản lý. Quản lý thể chế chung hiện nay rất sai lầm. Những vấn đề về công nghiệp, bao gồm các nhà máy, mỏ... ở các nước do các DN quản lý, chịu trác nhiệm, còn chúng ta lại giao tài nguyên, nhà máy cho địa phương, cho UBND tỉnh. Thế nên mới có chuyện dùng tư tưởng địa phương để quản lý cho công trình quốc gia.
Địa phương nắm quyền nên muốn kí hợp tác khai thác thì kí, tùy khả năng lời lãi mà địa phương chấp nhận, chưa kể là khai thác ở đó cần chiến lược hay không chiến lược, công nghệ gì, bảo vệ môi trường không.
Tại mỏ Thạch Khê - mỏ sắt lớn nhất ở VN, đã cho một công ty đến khai thác một diện tích, sau đó có đối tác Đài Loan đến khai thác một vị trí gần đó. Khi hai bên tranh giành nhau, địa phương cắt tạm mấy chục mét vuông của bên ngày giao cho bên kia.
Mở crôm ở Thanh Hóa cũng thế.
Nếu được điều hành bởi công ty lớn từ trung ương, làm có bài bản, quy mô, thì mới tránh được tình trạng này. Mà tổng công ty là phải tổng công ty tư nhân. Tổng công ty nhà nước là chết nữa.
Hiện nay, ta giao cho các tổng công ty nhà nước và các UBND khai thác tài nguyên là để cho 2 hệ thống quan liêu gặp nhau, không cứ gì lời lãi, lợi cho địa phương, đơn vị mình thì làm, không vì lợi ích chung. DN tư nhân không thế.
Khai thác vàng Bồng Miêu, Đắc Sa, Sơn La... là những ví dụ cụ thể. Tại sao một công ty tư nhân, quản lý đâu vào đó, khai thác 5 tấn vàng ngon như chơi, mà mỏ khác lại không làm được. Cũng cái mỏ trên đất nước VN mình, tại sao họ làm tốt thể!
Không phải cái gì nhà nước cũng nhúng tay
Có quan điểm vấn đề tài nguyên thiên nhiên, liên quan đến vấn đề an ninh quốc gia nên nhà nước phải nắm...
Đúng là Nhà nước phải nắm nhưng mà nắm cái gì?! "An ninh quốc gia" thì nắm ở kế hoạch, quy hoạch, đoạn nào khai thác đến đâu, bán cho ai. Còn kĩ thuật khai thác thì phải do các công ty nắm.
Cái gì cũng phải nhà nước nhúng tay vào là một quan niệm sai lầm.
Thế còn luật Khoáng sản?
Luật Khoáng sản, thoạt nghe thì rất tường minh đấy. Nhưng vấn đề hiện nay không phải là luật, mà là thể chế chung giữa cơ quan quản lý nhà nước trung ương và cơ quan quản lý cấp tỉnh. Hai cơ quan đó hiện nay có sự chia sẻ quyền lực, gây tâm lý tỉnh nào cũng muốn là một vương quốc. Khi đó, các địa phương đua nhau xây dựng khu công nghiệp, cảng, nhà máy đường, xi măng... Mạnh ai nấy làm. Trong khi đó, điều quan trọng nhất ở các địa phương là phát triển nông nghiệp, giáo dục... lại bị bỏ quên, lỡ dở.
Rồi chuyện Đà Nẵng có cảng, Quy Nhơn cũng đòi có cảng...
Có rất nhiều những ví dụ như thế. Người ta cứ đua nhau làm mà quên mất thực chất, vùng đó có tiềm năng gì.
"Rừng vàng biển bạc" - không ru ngủ được dân nữa rồi
Ông có cho rằng, các nước lệ thuộc vào tài nguyên thì không phát triển lên được, còn những nước không có tài nguyên thì họ chú trọng vào nguồn lực con người?
Mỗi quốc gia mỗi khác. Tuy nhiên, không phải vì không có tài nguyên mà một đất nước phát triển. Nhật Bản, Hàn Quốc phát triển được vì nó được quản lý tốt. Nếu có tài nguyên thì nó còn phát triển vượt bậc nữa.
Cũng nên hiểu đó là cách nói không đồng ý với việc quản lý tài nguyên hiện nay: Mình có tài nguyên mà không biết sử dụng.
Bây giờ người dân cũng chán các bài ru ngủ kiểu "rừng vàng biển bạc" rồi, vì họ không thấy được lợi gì nhiều. Như chuyện dầu khí chẳng hạn, trước mình nhìn nó ghê gớm lắm, thế nhưng, bây giờ ai cũng hiểu, muốn có dầu, chúng ta phải chìa vai ra cùng gánh.
Thời kì dùng tài nguyên để ru ngủ đã qua rồi.
Một số người cho rằng trong bối cảnh hiện nay nên tạm dừng khai thác tài nguyên để đầu tư vào con người...
Có tài nguyên trong tay thì mình cứ khai thác, nhưng phải thay đối phương cách quản lý.
Các cơ quan quản lý cứ việc quản lý, còn thực hiện hoạt động sản xuất thì để các công ty làm. UBND tỉnh thì lo việc giáo dục, nông nghiệp đi. Còn công nghiệp thì để các tổng công ty làm theo hệ thống từ trên xuống dưới, theo luật. Cứ lo làm đúng luật là tốt rồi.
Mà công ty ra công ty, công ty tư nhân - chứ không phải là công ty do các lãnh đạo quản lý đặt ra. Còn việc của các cơ quan nhà nước là kiểm tra, giám sát.
Đó có phải là điểm khó nhất?
Là cái bế tắc nhất, cần phải quyết vấn đề vĩ mô hơn.
Tất cả vấn đề dồn đến mức buộc người ta phải xem đến vấn đề vĩ mô, chứ không phải vi mô nữa. Cấp vi mô đã bàn cãi nhau chán rồi, và bế tắc rồi.
Nhà khoa học muốn có quan điểm thì phải đứng một chỗ, tránh mọi áp lực. Nó bao gồm việc tránh áp lực trên phương diện quản lý, cũng như áp lực kĩ thuật và cả áp lực của cấp trên.
Khi nghiên cứu phải tránh hết các áp lực, chọn quan điểm khoa học mà làm. Còn nếu một nhà khoa học phát biểu mà luôn dưới ảnh hưởng của các ông này ông kia thì không được.
Chiến lược hồn nhiên
Đặc Xá Bà Ba Sương
Cảnh sát Australia khám nhà giám đốc điều hành Securency
“Không cưỡng chế” dân phố cổ sang khu đô thị mới
Muốn "lướt sóng" vàng, phải có 10 triệu USD
Loài người đang đói và cũng đang hủy hoại lương thực
Tại hội nghị thượng đỉnh về an ninh lương thực diễn ra vào 2 ngày 16-18/11 vừa qua tại Roma, các nguyên thủ quốc gia của 60 nước trên thế giới đã họp để bàn về an ninh lương thực và xóa đói giảm nghèo tại các nước. Một vấn đề được đề cập: Trong khi 1 tỉ 20 triệu người thiếu đói vào năm 2009, tình hình lãng phí lương thực trên thế giới ở hầu hết “các nước no đủ” vẫn...
Va chạm thương mại Trung – Mỹ mối đe dọa lớn nhất toàn cầu
Quan hệ Mỹ-Nhật: Khủng hoảng đang hiện hình (Patrick M. Cronin)
Ngay từ đầu, liên minh và hiệp ước Mỹ-Nhật mang nặng tính chất bất bình đẳng. Không thể khác được với hoàn cảnh của nước Nhật sau Đệ nhị Thế chiến. Nhưng, nếu không thể sửa đổi được lịch sử, chúng ta cần xoa dịu những vết thương mà việc chiếm đóng và sự can thiệp của Mỹ vào Hiến chương Nhật sau chiến tranh đã để lại. Đó là điều mà chính quyền Truman và Eisenhower đã nhận thấy: Sự hồi sinh của nền kinh tế Nhật là động cơ phát triển cho khu vực Á Châu – Thái Bình Dương. Vì vậy, trang bị một hàng không mẫu hạm vô địch để đổi lấy sự phục hưng của kinh tế Nhật đã là một quyết định chính trị mà Hoa Thịnh Đốn và Đông Kinh đã chủ tâm đi đến. Vào thời điểm của hiệp ước đầu tiên, năm 1951, nền tảng của quyết định này là lợi ích sống còn của hai quốc gia. Và thành công đã vượt xa trí tưởng tượng của chúng ta.
Khi Tổng thống Obama đến Á Châu, có lẽ một số chính giới sẽ không nhìn ông ta như đại diện của một đại cường quốc. Ngược lại, họ sẽ xem như là một đối tác đứng chắn ngang con đường của cộng đồng Nam Á đang đâm chồi lớn mạnh. Trong cơn bão tài chánh, các nền kinh tế Á Châu đã chứng minh khả năng phục hồi nhanh chóng. Vì vậy, có một cảm nhận ngày càng lan rộng cho rằng Á Châu đang làm lu mờ Hoa Kỳ và khối Tây Âu. Cảm giác này có thể đang xa vời với thực tế. Tuy nhiên, vấn đề của Mỹ vẫn là sự xét lại của các liên minh thiếu “môn đăng, hộ đối”. Với những thử thách trước mắt, cần gầy dựng một quan hệ mới dựa trên quan niệm bình đẳng, mặc dù đối với Hoa Kỳ bình đẳng có nghĩa là chia sẻ gánh nặng và trách nhiệm, trong khi Nhật lại cho rằng bình đẳng nằm ở quyền quyết định chung.
May mắn thay, “bình đẳng” cũng đang trở thành lời tụng niệm của tân chính phủ Nhật mà người đứng đầu là Thủ tướng Hatoyama, thuộc đảng Dân chủ Nhật. Phải chi thành ngữ “nhất quán” cũng được lập đi lập lại như một tiếng kinh cầu. Thật vậy, những lời tuyên cáo thiếu thuần nhất của nội các Hatoyama liên quan đến căn cứ Mỹ tại Okinawa đã khiến Bộ trưởng Quốc phòng Robert Gates mất bình tĩnh và công khai thách thức Nhật vào tháng trước. Ông Gates đã bối rối khi thấy rằng người đồng minh cột trụ của Hoa Kỳ đã đánh mất cá tính nhất quán: Thái độ của Nhật có thể thay đổi tùy theo người phát biểu, Bộ trưởng bộ Ngoại giao (ông Kitazawa) hay Bộ trưởng bộ Quốc phòng (ông Okada). Một mặt, Nhật đòi thực thi nguyên tắc tái tổ chức căn cứ Mỹ dựa theo thoả thuận của đôi bên vào năm 2006. Mặt khác Nhật cũng yêu cầu tái điều đình thoả thuận trên.
“Bình đẳng” là nguyên tắc để điều hành một liên minh. Nó không là một chiến lược. Tổng thống Obama và Thủ tướng Hatoyama cần đưa tầm nhìn của liên minh Mỹ-Nhật lên trên những ầm ĩ nhất thời. Hai nguyên thủ cần tạo điều kiện để dư luận suy ngẫm về nền thịnh vượng và các cơ hội mà Mỹ và Nhật đã nắm bắt được trong những thập kỉ qua.
Nếu mục đích của liên minh tương lai là bảo toàn thịnh vượng thì mối liên minh này cần được điều chỉnh, mục tiêu cần được xét lại, phương tiện cần được thích nghi và nội dung của quyền lực cần được bảo đảm không bị thất thoát vì dịch thuật.
Tái xác định nền an ninh đòi hỏi xét lại bối cảnh đang thay đổi. Nó ngày càng trở nên đa dạng, phức tạp và hiểm nghèo. Có rất nhiều thách thức: Ổn định các quốc gia như Afghanistan, kìm hãm những tham vọng hạt nhân từ các quốc gia như Iran và Bắc Hàn, tìm ra những giải pháp hữu hiệu cho hiện tượng thời tiết thay đổi và cho các nạn dịch tả. Tất cả những thách đố này đòi hỏi những chiến lược hoàn chỉnh hơn và nhiều đồng minh hơn. Khi cả Hoa Kỳ lẫn Nhật đều tăng cường liên hệ kinh tế với Trung Quốc trong những năm tháng gần đây, cả hai đều cần có một địa vị an toàn trong mối quan hệ với Trung Quốc vì sự hợp tác của Bắc Kinh rất cần thiết khi phải trực diện với những vấn đề vô vàn khó khăn.
Thích nghi các phương thức của liên minh cũng đòi hỏi phải tránh xa thái độ “ngồi chiếu trên” mà Hoa Kỳ thường có. Song song đó Nhật cũng không nên miễn cưỡng chấp nhập rằng mối liên minh cũng tạo ưu thế cho nhân dân họ. Chỉ có một chọn lựa: Một, liên minh tạo lợi ích cho đôi bên. Hai, nó sẽ không mang lại kết quả nào cho tất cả. Obama và Hatoyama cần chặn đứng hiện tược xuất huyết vì đề tài căn cứ quân sự Cả hai nên đưa ra một tiến trình điều hành liên minh rõ ràng và vững chãi. Tiến trình này cần được Bộ trưởng bộ Ngoại giao và Quốc phòng hướng dẫn, dựa vào một bản thảo chung. Những người sinh sống tại Okinawa đã trả một giá đắt để Nhật có được an ninh, nhưng sẽ không dễ tìm ra đáp số trong việc tái định cư các căn cứ quân sự Mỹ tại một nước Nhật phát triển và dân chủ. Giới chức trách đã rà soát bản đồ để tìm ra giải pháp, dựa trên “Tu chính-1996” và trên thoả thuận “Tái tổ chức cơ bản-2006”, để di chuyển đội trực thăng TQLC Mỹ đến vùng đất hoang tại Camp Schwab và đưa một số đông quân nhân và gia đình đến đảo Guam. Giải quyết vấn đề này sẽ đem lại những kế hoạch, những đánh giá tình hình, những cuộc thao dược và hành quân mang tính cách hỗn hợp.
Cuối cùng, ông Obama và ông Hatoyama cũng cần theo sát tình hình. Hai người đều có lý khi chủ trương một “chính sách mềm dẻo” để tạo ảnh hưởng thay vì tạo áp lực. Tuy nhiên, cả hai không nên quên vai trò quan trọng của một “chính sách mạnh” trong một liên minh. Chưa chắc gì chiến lược “làm yên lòng” Trung Quốc của ông Obama sẽ khiến Quân Đội Nhân Dân Trung Quốc hãm tốc độ tân trang. Song song đó, việc ông Hatoyama đã từ chối tuyên dương sự hiện diện quân sự của Mỹ và quyết định hạ giảm vai trò bảo toàn an ninh của Nhật tại Ấn Độ Dương là một vấn đề lớn. Nó pha loãng “chính sách mạnh” cần có trên thế giới. Thay vào đó, Nhật đang gia tăng các chương trình tài trợ phát triển cho Afghanistan (5 tỉ USD trong vòng 5 năm) và Pakistan (2 tỉ USD trong vòng 5 năm). Ở đâu đó, thái độ này đang kéo liên minh Mỹ-Nhật về quá khứ, vào thời điểm của cuộc chiến vùng Vịnh lần thứ nhất. Vào lúc đó, vai trò của Nhật chỉ là một trạm rút tiền của thế giới.
Chúng ta có một chút thời gian. Cả hai, chúng ta đều có những chức trách đầy khả năng để dẫn dắt cuộc đối thoại chiến lược này đến một kết cuộc tốt đẹp từ đây cho đến Tháng 09.2010, nhân dịp kỷ niệm 50 năm Hiệp ước An ninh Hỗ tương.
Mây mù đang quy tụ trên bầu trời liên minh Mỹ-Nhật không là cơn khủng hoảng ngắn hạn xuất phát từ khi hai chính phủ tự do vừa lên cầm quyền. Trong trường kỳ, nguy cơ chính vẫn là quỹ đạo chính trị sẽ được chọn lựa bởi Mỹ và Nhật, hai quốc gia phồn vinh và dân chủ nhưng có lẽ đã quên mất đi những bí quyết đã giúp họ có được địa vị hôm nay.
Patrick M. Cronin là cố vấn cao cấp và giám đốc của Chương Trình Á Châu-Thái Bình Dương tại Trung Tâm vì nền an ninh mới cho Hoa Kỳ.
"Hiện nay, giao cho các tổng công ty nhà nước và các UBND khai thác tài nguyên là để cho 2 hệ thống quan liêu gặp nhau". - GS. TSKH Phan Trường Thị, Khoa Địa chất, Đại học Khoa học Tự nhiên - ĐH Quốc gia HN.
Khai mỏ cũng không đúng tầm cái mỏ
Trong phiên họp Quốc hội, khi bàn về luật thuế tài nguyên, Tổng bí thư Nông Đức Mạnh nói: "Trên thế giới hiện nay, thực tế nước nghèo thì bán tài nguyên, nước giàu họ mua tài nguyên về chế biến sâu, công nghệ là ở nước họ. Ta bây giờ phần lớn là bán tài nguyên, nên vừa rồi cũng có phê phán chỗ này chỗ kia. Đã đến lúc phải đi sâu vào chế biến và Chính phủ sắp tới chắc phải có quy định theo hướng cấm bán tài nguyên thô ra nước ngoài". Bộ trưởng Tài nguyên - Môi trường Phạm Khôi Nguyên cũng cho rằng cần phải để dành tài nguyên cho con cháu mai sau. Giáo sư có suy nghĩ về chủ trương này? Liệu chúng ta có thể kì vọng chủ trương dành tài nguyên cho con cháu mai sau như là tín hiệu của việc hãm phanh các đại dự án khai thác tài nguyên đang và dự kiến triển khai mà thiếu nghiên cứu kĩ hoặc còn có nhiều ý kiến khác nhau trong công luận và các nhà khoa học?
GS Phan Trường Thi: Có lẽ vậy.
Thực ra, nên giữ lại hay là khai thác phải đặt vấn đề kĩ thuật lên đầu, chứ không thể cực đoan.
Trước hết, phải xem Việt Nam nên để giành những cái gì? Điều này thuộc về tầm nhìn chiến lược của Chính phủ. Theo tôi, đó là những tài nguyên mà trình độ kĩ thuật trong mười, hai mươi năm nữa cần đến.
Hai là, với tình thế trong nước hiện nay cả về chính trị và kĩ thuật, chúng ta phải xem đã nên đặt vấn đề khai thác tài nguyên đó hay chưa. Nếu kĩ thuật trong nước đã đủ để làm thì ta nên đầu tư vào làm. Nói cách khác, tình trạng khoa học kĩ thuật mình đạt được đến đâu, thì khai thác đến đó.
Chẳng hạn trong khai thác than, bây giờ không ai còn bóc đất lên để lấy than, mà đốt hầm lò, đưa khí lên. Việt Nam muốn làm phải nghiên cứu kĩ nhiều vấn đề.
Bây giờ, nhiều người có ý định mở bển than nâu đồng bằng sông Hồng, nhưng theo tôi, cần nghĩ kĩ.
Các nhà địa chất đã biết về bể than này từ năm 1998, ước lượng 210 tỉ tấn, nhưng nó mới chỉ là hiểu biết khái quát, chưa có nghiên cứu chi tiết.
Cách đây 5, 6 năm, Nhật Bản đã bỏ ra khoảng 8 triệu đôla để nghiên cứu về khai thác than ĐBSH nhưng sau họ rút lui, vì điều kiện kĩ thuật so với hiệu quả kinh tế chưa tối ưu.
Hơn nữa, vấn đề kĩ thuật không thể nói chơi, phải có hiểu biết. Nhiệm vụ của các nhà khoa học là phải nghiên cứu kĩ, chứ không phải đụng vào cái gì bàn lui.
Thế nhưng, ngay cả khi về mặt kĩ thuật, có thể các nhà khoa học nhìn nhận là khai thác được, thì việc công trình đó có được tiến hành tốt hay không lại phải đặt vào bối cảnh chúng là trình độ quản lý, và tính công khai minh bạch trong hệ thống...
Đúng vậy. Đó chính là vấn đề. Điều này hoàn toàn phụ thuộc vào trình độ quản lý.
Chúng ta có hệ thống tài nguyên đẹp như thế, nhưng khi sử dụng thì như những vết lở loét trên thân hình người.
Như mỏ đồng Sinh Quyền, chúng ta bắt tay cùng Trung Quốc làm, kĩ thuật không đáp ứng được. Thế nên, một cái mỏ tìm từ năm 1964, cho đến bây giờ là gần nửa thế kỉ, mà khai thác không xứng đáng với cái tầm của mỏ.
Mỗi tỉnh là một vương quốc
Căn nguyên của tình trạng này là gì, thưa ông?
Do trình độ công nghệ và quản lý. Quản lý thể chế chung hiện nay rất sai lầm. Những vấn đề về công nghiệp, bao gồm các nhà máy, mỏ... ở các nước do các DN quản lý, chịu trác nhiệm, còn chúng ta lại giao tài nguyên, nhà máy cho địa phương, cho UBND tỉnh. Thế nên mới có chuyện dùng tư tưởng địa phương để quản lý cho công trình quốc gia.
Địa phương nắm quyền nên muốn kí hợp tác khai thác thì kí, tùy khả năng lời lãi mà địa phương chấp nhận, chưa kể là khai thác ở đó cần chiến lược hay không chiến lược, công nghệ gì, bảo vệ môi trường không.
Tại mỏ Thạch Khê - mỏ sắt lớn nhất ở VN, đã cho một công ty đến khai thác một diện tích, sau đó có đối tác Đài Loan đến khai thác một vị trí gần đó. Khi hai bên tranh giành nhau, địa phương cắt tạm mấy chục mét vuông của bên ngày giao cho bên kia.
Mở crôm ở Thanh Hóa cũng thế.
Nếu được điều hành bởi công ty lớn từ trung ương, làm có bài bản, quy mô, thì mới tránh được tình trạng này. Mà tổng công ty là phải tổng công ty tư nhân. Tổng công ty nhà nước là chết nữa.
Hiện nay, ta giao cho các tổng công ty nhà nước và các UBND khai thác tài nguyên là để cho 2 hệ thống quan liêu gặp nhau, không cứ gì lời lãi, lợi cho địa phương, đơn vị mình thì làm, không vì lợi ích chung. DN tư nhân không thế.
Khai thác vàng Bồng Miêu, Đắc Sa, Sơn La... là những ví dụ cụ thể. Tại sao một công ty tư nhân, quản lý đâu vào đó, khai thác 5 tấn vàng ngon như chơi, mà mỏ khác lại không làm được. Cũng cái mỏ trên đất nước VN mình, tại sao họ làm tốt thể!
Không phải cái gì nhà nước cũng nhúng tay
Có quan điểm vấn đề tài nguyên thiên nhiên, liên quan đến vấn đề an ninh quốc gia nên nhà nước phải nắm...
Đúng là Nhà nước phải nắm nhưng mà nắm cái gì?! "An ninh quốc gia" thì nắm ở kế hoạch, quy hoạch, đoạn nào khai thác đến đâu, bán cho ai. Còn kĩ thuật khai thác thì phải do các công ty nắm.
Cái gì cũng phải nhà nước nhúng tay vào là một quan niệm sai lầm.
Thế còn luật Khoáng sản?
Luật Khoáng sản, thoạt nghe thì rất tường minh đấy. Nhưng vấn đề hiện nay không phải là luật, mà là thể chế chung giữa cơ quan quản lý nhà nước trung ương và cơ quan quản lý cấp tỉnh. Hai cơ quan đó hiện nay có sự chia sẻ quyền lực, gây tâm lý tỉnh nào cũng muốn là một vương quốc. Khi đó, các địa phương đua nhau xây dựng khu công nghiệp, cảng, nhà máy đường, xi măng... Mạnh ai nấy làm. Trong khi đó, điều quan trọng nhất ở các địa phương là phát triển nông nghiệp, giáo dục... lại bị bỏ quên, lỡ dở.
Rồi chuyện Đà Nẵng có cảng, Quy Nhơn cũng đòi có cảng...
Có rất nhiều những ví dụ như thế. Người ta cứ đua nhau làm mà quên mất thực chất, vùng đó có tiềm năng gì.
"Rừng vàng biển bạc" - không ru ngủ được dân nữa rồi
Ông có cho rằng, các nước lệ thuộc vào tài nguyên thì không phát triển lên được, còn những nước không có tài nguyên thì họ chú trọng vào nguồn lực con người?
Mỗi quốc gia mỗi khác. Tuy nhiên, không phải vì không có tài nguyên mà một đất nước phát triển. Nhật Bản, Hàn Quốc phát triển được vì nó được quản lý tốt. Nếu có tài nguyên thì nó còn phát triển vượt bậc nữa.
Cũng nên hiểu đó là cách nói không đồng ý với việc quản lý tài nguyên hiện nay: Mình có tài nguyên mà không biết sử dụng.
Bây giờ người dân cũng chán các bài ru ngủ kiểu "rừng vàng biển bạc" rồi, vì họ không thấy được lợi gì nhiều. Như chuyện dầu khí chẳng hạn, trước mình nhìn nó ghê gớm lắm, thế nhưng, bây giờ ai cũng hiểu, muốn có dầu, chúng ta phải chìa vai ra cùng gánh.
Thời kì dùng tài nguyên để ru ngủ đã qua rồi.
Một số người cho rằng trong bối cảnh hiện nay nên tạm dừng khai thác tài nguyên để đầu tư vào con người...
Có tài nguyên trong tay thì mình cứ khai thác, nhưng phải thay đối phương cách quản lý.
Các cơ quan quản lý cứ việc quản lý, còn thực hiện hoạt động sản xuất thì để các công ty làm. UBND tỉnh thì lo việc giáo dục, nông nghiệp đi. Còn công nghiệp thì để các tổng công ty làm theo hệ thống từ trên xuống dưới, theo luật. Cứ lo làm đúng luật là tốt rồi.
Mà công ty ra công ty, công ty tư nhân - chứ không phải là công ty do các lãnh đạo quản lý đặt ra. Còn việc của các cơ quan nhà nước là kiểm tra, giám sát.
Đó có phải là điểm khó nhất?
Là cái bế tắc nhất, cần phải quyết vấn đề vĩ mô hơn.
Tất cả vấn đề dồn đến mức buộc người ta phải xem đến vấn đề vĩ mô, chứ không phải vi mô nữa. Cấp vi mô đã bàn cãi nhau chán rồi, và bế tắc rồi.
Nhà khoa học muốn có quan điểm thì phải đứng một chỗ, tránh mọi áp lực. Nó bao gồm việc tránh áp lực trên phương diện quản lý, cũng như áp lực kĩ thuật và cả áp lực của cấp trên.
Khi nghiên cứu phải tránh hết các áp lực, chọn quan điểm khoa học mà làm. Còn nếu một nhà khoa học phát biểu mà luôn dưới ảnh hưởng của các ông này ông kia thì không được.
Chiến lược hồn nhiên
5. Nhiệm vụ của Tuyên giáo Trung ương:
Cốt lõi là bịt mồm phản biện. Nhưng, cụ thể sẽ bao gồm nhiều mũi nhọn hoạt động:
Một là, sau khi nâng pháp lệnh lên thành luật “Dân quân tự vệ biển – Lực lượng nòng cốt bảo vệ chủ quyền thiêng liêng trên biển của Tổ quốc”, phải khẩn nghiên cứu để đưa luật này vào Hiến Pháp 2010. Ghi luôn cả khẩu hiệu khuyến khích di dân ra biển đảo nữa, cho chắc bắp.
Hai là tổ chức hội thảo liên tục về chủ đề “Ngư dân và Nghĩa vụ bảo vệ chủ quyền biển đảo”. Liên tục đưa ra các khuyến nghị/phân tích/kết luận về tính đúng đắn của chủ đề và được đông đảo dư luận đồng tình.
Ba là khẩn đúc kết kinh nghiệm trong tranh chấp ở vùng biển Tây Nam vào những năm 80 của thế kỷ trước, khẩn soạn thảo/kiểm tra/biên tập lại toàn bộ tài liệu/cẩm nang hỏi đáp Những điều ngư dân cần biết trong hoạt động thuỷ sản trên trang mạng cpv.org.vn, sao cho thích nghi với tình thế mới/tiêu chí mới là: giặc bớt giận, dân thôi kêu. Đồng thời gấp rút nghiên cứu dự án Dạy tiếng Trung cho Lực lượng Nòng cốt Gìn giữ Chủ quyền Biển đảo Thiêng liêng của Tổ quốc.
Bốn là nghiên cứu/đề xuất/tổ chức/tuyển chọn nhân sự vào những cơ chế trực thuộc TW dùng để điều hành/chỉ huy/kiểm tra các đơn vị dân quân tự vệ biển, đặc biệt là để kiểm kê vũ khí đạn dược và chế tài việc lạm dụng vũ khí cho mục đích cá nhân hoặc gây thiệt hại cho tài sản XHCN.
Năm là nghiên cứu/đề xuất ra các loại huy chương/huân chương/kỷ niệm chương và các hình thức khen thưởng cho ngư dân xả thân bảo vệ chủ quyền biển đảo thiêng liêng của Tổ quốc.
Sáu là quy hoạch/tổ chức “chòi canh mẫu trên biển” để tập huấn và quay phim phóng sự.
Bảy là phát động thi đua liên tục về tìm hiểu biển đảo và đặt vè động viên phong trào Ngư dân bảo vệ chủ quyền biển đảo.
Tám là Đưa biển, đảo vào môn giáo dục quốc phòng, song song với các dự án Đưa sân golf ra đảo xa.
Chín là tổ chức trọng thị và an toàn, sau đó, tuyên truyền rộng rãi về những chuyến tham quan bất ngờ và chớp nhoáng của lãnh đạo các thứ, theo gương nhà thơ Trần Đăng Khoa từng kể chuyện về những lần tướng Giáp Văn Cương bí mật đột nhập lên đảo thăm lính.
6. Nghĩa vụ của Thông tin – Truyền thông:
Chính yếu là tụng ca chính sách, nhân rộng mô thức Lã Thanh-Kiu trên cả nước.
Đóng nút Facebook thành Fakebook xong rồi lần lượt tới YouTube, Flickr… và các mạng liên kết xã hội còn lại.
Khai trương tờ báo in/báo online “An ninh Đại dương” trên mạng CAND.com.vn, và tờ báo trực tuyến “Ngư trường Trù phú” thuộc mạng Công Thương mot.gov.vn.
Thực hiện bộ phim nhiều tập “Tầm nhìn xuyên sóng cả” để tuyên dương nếp sinh hoạt của ngư dân trên các chòi canh biển chung quanh những “cái giọt máu dưới ngầu ngầu bọt sóng” (như nhà thơ Trần Đăng Khoa từng mô tả các đảo chìm).
Phục hồi phong trào “Trong thơ có (lưới) thép” – Mỗi thi nhân là một nhà quân sự/nhà hàng hải/nhà thiên văn/nhà khí tượng.
Đẩy mạnh chiến dịch phổ thơ thành nhạc theo chủ đề “Ngư dân anh hùng và vận nước nổi trôi”, hoặc vắn tắt là “Ngư dân và vận nước”.
Triển lãm ký họa/nhiếp ảnh/điêu khắc về chủ đề “Dáng đứng chòi canh tạc vào thế kỷ”.
Phóng tác thành sách những anh hùng/liệt sĩ “Yết Kiêu thời đại”.
Đặt hàng/triển khai những loạt phóng sự/bút ký tương tự như đoàn tàu không số chở vũ khí chi viện cho chiến trường miền Nam thời trước.
Tổ chức những chuyến nữ học sinh/sinh viên ra khơi thăm biển đảo.
Tổ chức dịch vụ Du Lịch Chủ quyền Biển đảo VN theo mô thức du lịch sinh thái trong bờ.
Tổ chức thi hoa hậu dân quân tự vệ biển.
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng trả lời chất vấn của Quốc hội ngày 19/11/2009 về nhiều vấn đề nóng như xử lý tham nhũng, luật đất đai, thuỷ điện, kỷ cương hành chính…[1] Đặc biệt, nhân dịp ngày Nhà giáo Việt Nam, thủ tướng tuyên bố:
“Về đề nghị xử lý trách nhiệm Bộ Giáo dục, bốn tháng rồi chưa thấy trả lời. Tôi đã yêu cầu Tổng Thanh tra Chính phủ kiểm tra. Đến nay, tôi vẫn chưa thấy Thanh tra Chính phủ báo cáo và trả lời. Tôi sẽ yêu cầu báo cáo lại.”[2]
Trả lời câu hỏi về trách nhiệm của thủ tướng trong vấn đề xử lý kỷ luật, ông tâm sự,
“Tôi nhớ đồng chí Phạm Văn Đồng có lần cũng nói, đồng chí có lẽ làm Thủ tướng lâu nhất của đất nước, nhưng đồng chí chưa xử lý kỷ luật một đồng chí nào, từ chủ tịch xã, phường trở lên. Hơn 3 năm nay tôi làm Thủ tướng tôi cũng chưa xử lý kỷ luật một đồng chí nào, chắc là cũng phải học theo đồng chí Phạm Văn Đồng.”
Chắc trong lúc tâm tư nghẹn ngào, thủ tướng chót quên mất công hàm 1958 nổi tiếng của đồng chí Phạm Văn Đồng.
[1] Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng còn hứa sẽ bổ túc cho đại biểu Lê Văn Cuông (Thanh Hoá) một bài học về bóng đá. (“Còn như thế nào là đá bóng, là thổi còi thì tôi và đại biểu còn phải thảo luận thêm.”)
[2] Hỏi bộ, bộ không trả lời; hỏi thanh tra, thanh tra im lặng. Cảm ơn thủ tướng đã hết sức kiên quyết trong việc yêu cầu báo cáo lại.
Đặc Xá Bà Ba Sương
Nếu như các vị thẩm phán của Tòa phúc thẩm Thành phố Cần Thơ thực sự tin rằng, “Nông trường Sông Hậu cho đến nay vẫn là một doanh nghiệp 100% vốn nhà nước, việc lập quỹ để ngoài sổ sách trái quy định là vi phạm pháp luật”, thì chúng ta nên tôn trọng quyết định của các cơ quan tố tụng. Nhưng, nếu như bản án 8 năm tù có thể động được lòng trắc ẩn của các nông trường viên đến mức có tới 110 người ký đơn xin ở tù thay cho bà Ba Trần Ngọc Sương thì các nhà lãnh đạo đã gắn “anh hùng” cho bà Ba Sương, đã cổ vũ, tung hô mô hình của bà có thể cũng đang trăn trở. Nông trường Sông Hậu, nơi có thể coi là một trong những “thành trì cuối cùng của chủ nghĩa xã hội” trong nông nghiệp, sẽ tiếp tục “định hướng” đi đâu nếu bắt tướng giữ thành!
Ba mươi năm trước, khi cuộc chiến tranh Tây Nam kéo các đơn vị quân đội trở lại chiến trường, nông trường Quyết Thắng thuộc Tỉnh đội Hậu Giang gần như bị bỏ hóa. Ông Trần Ngọc Hoằng, nguyên là một thiếu tá, lúc bấy giờ là Phó Ty Nông Nghiệp Hậu Giang đã xung phong về đây. Ông Năm Hoằng mang theo 16 người, gồm nam nữ đoàn viên thanh niên, bộ đội xuất ngũ, học sinh trung cấp vừa ra trường. Tài sản ban đầu: 3.450 ha đất loại IV; 10 chiếc máy kéo mua chịu; 50 ngàn đồng để mua sắm nồi chảo, gạo mắm… Là mô hình tiêu biểu của chủ nghĩa xã hội trong giai đoạn ấy, nhưng ông Năm Hoằng và sau này, con gái ông là bà Ba Sương, đã không nằm chờ bao cấp. Họ tự vay vốn ngân hàng tự tích lũy làm ăn và tự đầu tư mạng lưới y tế, giáo dục, đường sá… trong khi họ có thể khai là “vùng sâu, vùng xa” để nhận tiền từ ngân sách.
Sở dĩ, hàng vạn tập đoàn, hợp tác xã, nông trường… được hình thành theo phương thức sản xuất xã hội chủ nghĩa đã tan tác hoặc chỉ còn tồn tại như những thây ma từ cuối thập niên 80, trong khi nông trường Sông Hậu vẫn tồn tại cho đến ngày nay là bởi có những con người thực lòng trung thành như cha con bà Ba Sương và có những nhà lãnh đạo muốn họ tiếp tục giữ mô hình ấy như một minh chứng: chủ nghĩa xã hội cũng có thể trở thành hiện thực. Nguồn quỹ mà Tòa coi là trái phép và buộc bà Ba Sương phải bồi thường hơn 4 tỷ 3, Luật sư Nguyễn Đăng Trừng phân tích chỉ là “các khoản tiền thu từ tận dụng đất đai… để trợ cấp ốm đau, thai sản, ma chay và hỗ trợ cất nhà ở cho nông trường viên…”, thực ra, chẳng đáng bao nhiêu so với khoản kinh phí mà cha con bà Ba Sương đã phải bỏ ra để tiếp lãnh đạo từ Trung ương tới địa phương đến tham quan “mô hình” trong suốt hơn 30 năm tồn tại.
Với tài năng của cha con bà Ba Sương, nếu không dồn sức xây dựng chủ nghĩa xã hội, hoàn toàn có thể xây dựng một tương lai giàu có cho cá nhân. Cha con bà đã tâm huyết và cũng đã được biết như là những tấm gương; đã được phủ nhiều hào quang và đã được vinh danh. Tuy nhiên, giống như “tập thể hóa” đã tan rã từ lâu, việc bà tiếp tục nhân danh chủ nghĩa xã hội để làm ăn trong thời buổi ngày nay xem ra không còn thức thời cho lắm. Nhất là khi mà mọi giao dịch đều phải có phong bì và gặp lãnh đạo địa phương, dù cho mình là ai, thì cũng cần thưa gửi. Nhưng có lẽ số phận của bà Ba Sương cũng không đến nỗi nếu hàng ngàn hecta đất của Sông Hậu không bị các nhà kinh doanh dự án tính toán “quy hoạch, phân lô”. Chưa kể, trong thẳm sâu, các nông trường viên cũng muốn có mảnh ruộng riêng thay vì làm công ăn đong tiếp tục.
“Nếu so sánh với một số vụ án tham nhũng đã được xét xử gần đây thì bản án này quả là quá bất công”, nói như Cựu Phó Chủ tịch Nước Nguyễn Thị Bình người đã từng đến nông trường Sông Hậu và gặp bà Ba Sương. Nếu như các cơ quan tố tụng đã điều tra, truy tố và xét xử bà Ba Sương như từng thực hiện lâu nay, nghĩa là có lãnh đạo, có chủ trương, thì vụ án có thể là một tín hiệu cho thấy những mô hình như bà Ba Sương không còn cần nữa. Nếu như, “nền tư pháp Cần Thơ” đã tiến bộ tới mức có thể độc lập với cấp ủy khi đưa ra phán quyết nói trên thì việc bỏ tù một phụ nữ phụng sự hết lòng như bà Ba Sương cũng thật vô cùng bất nhẫn. Nhưng, nếu như, trong số những người đương chức có ai còn nhớ tới bà Ba Sương thì cũng không nên can thiệp để thay đổi bản án mà Tòa Cần Thơ mới tuyên. Xét “nhân thân” của bà Ba Sương, Chủ tịch Nước nên ký ngay lệnh đặc xá xóa tội cho bà Trần Ngọc Sương hoặc miễn cho bà việc chấp hành hình phạt.
Huy Đức
Ba mươi năm trước, khi cuộc chiến tranh Tây Nam kéo các đơn vị quân đội trở lại chiến trường, nông trường Quyết Thắng thuộc Tỉnh đội Hậu Giang gần như bị bỏ hóa. Ông Trần Ngọc Hoằng, nguyên là một thiếu tá, lúc bấy giờ là Phó Ty Nông Nghiệp Hậu Giang đã xung phong về đây. Ông Năm Hoằng mang theo 16 người, gồm nam nữ đoàn viên thanh niên, bộ đội xuất ngũ, học sinh trung cấp vừa ra trường. Tài sản ban đầu: 3.450 ha đất loại IV; 10 chiếc máy kéo mua chịu; 50 ngàn đồng để mua sắm nồi chảo, gạo mắm… Là mô hình tiêu biểu của chủ nghĩa xã hội trong giai đoạn ấy, nhưng ông Năm Hoằng và sau này, con gái ông là bà Ba Sương, đã không nằm chờ bao cấp. Họ tự vay vốn ngân hàng tự tích lũy làm ăn và tự đầu tư mạng lưới y tế, giáo dục, đường sá… trong khi họ có thể khai là “vùng sâu, vùng xa” để nhận tiền từ ngân sách.
Sở dĩ, hàng vạn tập đoàn, hợp tác xã, nông trường… được hình thành theo phương thức sản xuất xã hội chủ nghĩa đã tan tác hoặc chỉ còn tồn tại như những thây ma từ cuối thập niên 80, trong khi nông trường Sông Hậu vẫn tồn tại cho đến ngày nay là bởi có những con người thực lòng trung thành như cha con bà Ba Sương và có những nhà lãnh đạo muốn họ tiếp tục giữ mô hình ấy như một minh chứng: chủ nghĩa xã hội cũng có thể trở thành hiện thực. Nguồn quỹ mà Tòa coi là trái phép và buộc bà Ba Sương phải bồi thường hơn 4 tỷ 3, Luật sư Nguyễn Đăng Trừng phân tích chỉ là “các khoản tiền thu từ tận dụng đất đai… để trợ cấp ốm đau, thai sản, ma chay và hỗ trợ cất nhà ở cho nông trường viên…”, thực ra, chẳng đáng bao nhiêu so với khoản kinh phí mà cha con bà Ba Sương đã phải bỏ ra để tiếp lãnh đạo từ Trung ương tới địa phương đến tham quan “mô hình” trong suốt hơn 30 năm tồn tại.
Với tài năng của cha con bà Ba Sương, nếu không dồn sức xây dựng chủ nghĩa xã hội, hoàn toàn có thể xây dựng một tương lai giàu có cho cá nhân. Cha con bà đã tâm huyết và cũng đã được biết như là những tấm gương; đã được phủ nhiều hào quang và đã được vinh danh. Tuy nhiên, giống như “tập thể hóa” đã tan rã từ lâu, việc bà tiếp tục nhân danh chủ nghĩa xã hội để làm ăn trong thời buổi ngày nay xem ra không còn thức thời cho lắm. Nhất là khi mà mọi giao dịch đều phải có phong bì và gặp lãnh đạo địa phương, dù cho mình là ai, thì cũng cần thưa gửi. Nhưng có lẽ số phận của bà Ba Sương cũng không đến nỗi nếu hàng ngàn hecta đất của Sông Hậu không bị các nhà kinh doanh dự án tính toán “quy hoạch, phân lô”. Chưa kể, trong thẳm sâu, các nông trường viên cũng muốn có mảnh ruộng riêng thay vì làm công ăn đong tiếp tục.
“Nếu so sánh với một số vụ án tham nhũng đã được xét xử gần đây thì bản án này quả là quá bất công”, nói như Cựu Phó Chủ tịch Nước Nguyễn Thị Bình người đã từng đến nông trường Sông Hậu và gặp bà Ba Sương. Nếu như các cơ quan tố tụng đã điều tra, truy tố và xét xử bà Ba Sương như từng thực hiện lâu nay, nghĩa là có lãnh đạo, có chủ trương, thì vụ án có thể là một tín hiệu cho thấy những mô hình như bà Ba Sương không còn cần nữa. Nếu như, “nền tư pháp Cần Thơ” đã tiến bộ tới mức có thể độc lập với cấp ủy khi đưa ra phán quyết nói trên thì việc bỏ tù một phụ nữ phụng sự hết lòng như bà Ba Sương cũng thật vô cùng bất nhẫn. Nhưng, nếu như, trong số những người đương chức có ai còn nhớ tới bà Ba Sương thì cũng không nên can thiệp để thay đổi bản án mà Tòa Cần Thơ mới tuyên. Xét “nhân thân” của bà Ba Sương, Chủ tịch Nước nên ký ngay lệnh đặc xá xóa tội cho bà Trần Ngọc Sương hoặc miễn cho bà việc chấp hành hình phạt.
Huy Đức
Cảnh sát liên bang Australia (AFP) đã tiến hành đợt khám xét bất ngờ tại nhà các giám đốc điều hành của một công ty thuộc Ngân hàng trung ương Australia RBA trong quá trình điều tra chống hối lộ ở nước ngoài.
<<<::: ......="" ..="" c="" ch="" d="" i="" m="" n="" ng="" qu="" r="" v="">>
Man Eats His Mother and Says He Dislikes Her Fatty Meat <<<::: .....="" ...="" ch="" cha="" chuy="" con="" d="" h="" i="" m="" man="" n="" nga="" nh="" o="" r="" t="" th="" tq="" u="" x="">>>
<<<::: ......="" ..="" c="" ch="" d="" i="" m="" n="" ng="" qu="" r="" v="">>
Man Eats His Mother and Says He Dislikes Her Fatty Meat <<<::: .....="" ...="" ch="" cha="" chuy="" con="" d="" h="" i="" m="" man="" n="" nga="" nh="" o="" r="" t="" th="" tq="" u="" x="">>>
Thành phố Hà Nội đang lên kế hoạch di dời hàng nghìn hộ dân khu vực phố cổ ra ngoại thành.
Một quỹ đầu cơ hàng đầu thế giới vừa đưa ra quy định, những người muốn góp vốn để đầu tư vàng phải bỏ ra ít nhất 10 triệu USD, trong bối cảnh giá vừa lập kỷ lục trên 1.150 USD mỗi ounce.
Nâng cấp Cao đẳng lên ĐH như "bình mới rượu cũ"
Khi sinh viên đẩy gia đình vào "bước đường cùng"
“Kiếp người tôi sao khổ quá”- chị Hạnh nghẹn lời. Ngày Danh thi đỗ đại học, cả gia đình, họ tộc đều đến chúc mừng. "Nghĩ đến cảnh, giữa vùng đất nông thôn, mẹ bồng em, bố xách mấy túi đồ, cả nhà dẫn nhau đi ở nhờ nhà hàng xóm, thì biết đến bao giờ mới có thể quên cái cảm giác ê chề nhục nhã khi đó. Cố gắng cho con đi học cho bằng bạn bằng bè, những mong con tu chí học hành sau này đỡ khổ, ai dè, nó đầy đọa bố mẹ đến đường này. Biết thế, cho ở nhà bắt cua bắt ốc, có khi bố mẹ đỡ khổ, chứ không đến nỗi rơi vào cảnh đến một tấc đất cắm dùi cũng không còn như thế này”- chị Hạnh cắn chặt môi.
Nối cha mẹ và cô giáo qua sổ điện tử
'Kiều bào là máu thịt của Việt Nam'
Khai mạc trọng thể Hội nghị người Việt Nam ở nước ngoài lần thứ nhất
Xe Camry biển 29S-4788 đâm chết chết người ở Khánh Hòa
Châu Á buộc phải ngăn chặn “tiền nóng”
Nâng cấp Cao đẳng lên ĐH như "bình mới rượu cũ"
Vài năm gần đây, các Cao đẳng có xu hướng đua nhau “lên đời” thành ĐH, có trường mới chỉ thành lập 2 - 3 năm nhưng vội vàng nâng cấp. Với cách làm “ăn xổi” này, không ít Cao đẳng tại TP HCM được nâng cấp lên ĐH chỉ đơn thuần là “việc thay tên đổi họ”.
“Kiếp người tôi sao khổ quá”- chị Hạnh nghẹn lời. Ngày Danh thi đỗ đại học, cả gia đình, họ tộc đều đến chúc mừng. "Nghĩ đến cảnh, giữa vùng đất nông thôn, mẹ bồng em, bố xách mấy túi đồ, cả nhà dẫn nhau đi ở nhờ nhà hàng xóm, thì biết đến bao giờ mới có thể quên cái cảm giác ê chề nhục nhã khi đó. Cố gắng cho con đi học cho bằng bạn bằng bè, những mong con tu chí học hành sau này đỡ khổ, ai dè, nó đầy đọa bố mẹ đến đường này. Biết thế, cho ở nhà bắt cua bắt ốc, có khi bố mẹ đỡ khổ, chứ không đến nỗi rơi vào cảnh đến một tấc đất cắm dùi cũng không còn như thế này”- chị Hạnh cắn chặt môi.
Nối cha mẹ và cô giáo qua sổ điện tử
Không cần phải chờ con mang sổ liên lạc về nhà, hiện nay nhiều phụ huynh chỉ cần mở tin nhắn là đã biết con mình hôm nay được mấy điểm Văn, mấy điểm Toán, ý thức kỉ luật ra sao, hạnh kiểm thế nào?... Sổ liên lạc điện tử hay nói cách khác là thông tin của nhà trường được gửi đến phụ huynh hàng ngày qua internet, qua tin nhắn điện thoại đang được nhiều nhà trường áp dụng.
'Kiều bào là máu thịt của Việt Nam'
Với gần 4 triệu người Việt đang sinh sống, lao động, học tập tại 101 nước và vùng lãnh thổ, trong đó khoảng 300 ngàn người có trình độ đại học trở lên, tiềm lực trí thức người Việt ở nước ngoài được coi là một thế mạnh của cộng đồng. Tuy nhiên, mỗi năm mới chỉ có trên 200 lượt trí thức kiều bào về nước tham gia giảng dạy, hợp tác nghiên cứu, hội thảo khoa học…
Về đầu tư, số người về nước tìm hiểu cơ hội đầu tư, kinh doanh tăng đáng kể hàng năm, nhưng đến nay mới có khoảng 3.000 dự án của kiều bào đầu tư về nước với tổng vốn gần 2 tỉ USD (hơn 30.000 tỷ đồng), trong đó khoảng 2/3 dự án làm ăn có hiệu quả.
Phó Thủ tướng Phạm Gia Khiêm kỳ vọng kiều bào trở về nước sẽ "tận mắt chứng kiến những đổi thay lớn lao của quê hương, hiểu biết sâu sắc hơn về những thuận lợi và khó khăn của đất nước", để củng cố niềm tin vào sự nghiệp xây dựng đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh và khi trở về nơi cư trú, sẽ đóng góp nhiều hơn nữa để "xây dựng một cộng đồng đoàn kết vững mạnh".
"Tôi đề nghị quý vị ở nước ngoài khi nghe thông tin này nhìn về Việt Nam cũng đừng có hốt hoảng nghĩ rằng sao trong nước mình tiêu cực quá. Đây là quy luật muôn đời, con người luôn có hỉ nộ ái ố, cho nên phải luôn luôn vượt qua, mà quan trọng hơn phải vượt qua chính mình. Cái đó cực kỳ quyết định", Chủ tịch nước nhấn mạnh.
"Kiều bào là máu của máu Việt Nam, là thịt của thịt Việt Nam. Chúng ta là con một nhà, con Lạc cháu Hồng, cùng một bọc trứng sinh ra". Khai mạc trọng thể Hội nghị người Việt Nam ở nước ngoài lần thứ nhất
Sáng 21/11, tại Trung tâm Hội nghị Quốc gia, Hội nghị người Việt Nam ở nước ngoài lần thứ nhất đã khai mạc trọng thể.
Xe Camry biển 29S-4788 đâm chết chết người ở Khánh Hòa
(VietNamNet) - Ai là người lái chiếc xe Camry biển số 29S-4788 gây tai nạn chết người cần phải được làm rõ?
Châu Á buộc phải ngăn chặn “tiền nóng”
VIT - Chinanews tại Bắc Kinh hôm 21/11 đưa tin, giới ngân hàng châu Á hiện đang nghiên cứu các biện pháp kiểm soát nguồn vốn, nhằm ngăn chặn sự du nhập của dòng tiền nóng vào thị trường nội tệ.
Loài người đang đói và cũng đang hủy hoại lương thực
Tại hội nghị thượng đỉnh về an ninh lương thực diễn ra vào 2 ngày 16-18/11 vừa qua tại Roma, các nguyên thủ quốc gia của 60 nước trên thế giới đã họp để bàn về an ninh lương thực và xóa đói giảm nghèo tại các nước. Một vấn đề được đề cập: Trong khi 1 tỉ 20 triệu người thiếu đói vào năm 2009, tình hình lãng phí lương thực trên thế giới ở hầu hết “các nước no đủ” vẫn...Va chạm thương mại Trung – Mỹ mối đe dọa lớn nhất toàn cầu
VIT - Hãng thông tấn Reuters tại Singapore ngày 20/11 đưa tin, một quan chức cấp cao của Morgan Stanley ngày hôm qua cho biết, trong vài năm tới, những mâu thuẫn giữa Mỹ và Trung Quốc trong lĩnh vực thương mại và ngoại tệ có thể là một rủi ro lớn nhất mà sự ổn định toàn cầu phải đương đầu.
Quan hệ Mỹ-Nhật: Khủng hoảng đang hiện hình (Patrick M. Cronin)
“… Bình đẳng là nguyên tắc để điều hành một liên minh. Nó không là một chiến lược. Tổng thống Obama và Thủ tướng Hatoyama cần đưa tầm nhìn của liên minh Mỹ-Nhật lên trên những ầm ĩ nhất thời …”
Đa số giới báo chí am tường về đề tài Mỹ-Nhật đều muốn thuyết phục dư luận rằng quan hệ Mỹ-Nhật đang đi gần đến đổ vỡ vì đề tài tái định cư 60 trực thăng thuộc thủy quân lục chiến Mỹ (đang đóng tại căn cứ Okinawa, Nhật). Thật ra, nền tảng của một liên minh bền vững thường dựa vào những lợi ích chung. Nó không giản dị chỉ là những bất đồng về phương tiện được trưng dụng. Việc tái định cư căn cứ không quân thuộc thủy quân lục chiến (TQLC) Mỹ hiện đóng tại Futenma là một đề tài khó xử. Nhưng vấn đề nổi bật hơn là điểm hẹn của lễ kỷ niệm 50 năm Hiệp ước An ninh Hỗ tương được ký vào năm 1960. Liệu năm 2010 sẽ là kết cuộc của mối liên minh mà chúng ta đã biết đến, hay năm 2010 sẽ là bước đầu của một liên minh mới, tối cần thiết cho thế kỷ 21?Ngay từ đầu, liên minh và hiệp ước Mỹ-Nhật mang nặng tính chất bất bình đẳng. Không thể khác được với hoàn cảnh của nước Nhật sau Đệ nhị Thế chiến. Nhưng, nếu không thể sửa đổi được lịch sử, chúng ta cần xoa dịu những vết thương mà việc chiếm đóng và sự can thiệp của Mỹ vào Hiến chương Nhật sau chiến tranh đã để lại. Đó là điều mà chính quyền Truman và Eisenhower đã nhận thấy: Sự hồi sinh của nền kinh tế Nhật là động cơ phát triển cho khu vực Á Châu – Thái Bình Dương. Vì vậy, trang bị một hàng không mẫu hạm vô địch để đổi lấy sự phục hưng của kinh tế Nhật đã là một quyết định chính trị mà Hoa Thịnh Đốn và Đông Kinh đã chủ tâm đi đến. Vào thời điểm của hiệp ước đầu tiên, năm 1951, nền tảng của quyết định này là lợi ích sống còn của hai quốc gia. Và thành công đã vượt xa trí tưởng tượng của chúng ta.
Khi Tổng thống Obama đến Á Châu, có lẽ một số chính giới sẽ không nhìn ông ta như đại diện của một đại cường quốc. Ngược lại, họ sẽ xem như là một đối tác đứng chắn ngang con đường của cộng đồng Nam Á đang đâm chồi lớn mạnh. Trong cơn bão tài chánh, các nền kinh tế Á Châu đã chứng minh khả năng phục hồi nhanh chóng. Vì vậy, có một cảm nhận ngày càng lan rộng cho rằng Á Châu đang làm lu mờ Hoa Kỳ và khối Tây Âu. Cảm giác này có thể đang xa vời với thực tế. Tuy nhiên, vấn đề của Mỹ vẫn là sự xét lại của các liên minh thiếu “môn đăng, hộ đối”. Với những thử thách trước mắt, cần gầy dựng một quan hệ mới dựa trên quan niệm bình đẳng, mặc dù đối với Hoa Kỳ bình đẳng có nghĩa là chia sẻ gánh nặng và trách nhiệm, trong khi Nhật lại cho rằng bình đẳng nằm ở quyền quyết định chung.
May mắn thay, “bình đẳng” cũng đang trở thành lời tụng niệm của tân chính phủ Nhật mà người đứng đầu là Thủ tướng Hatoyama, thuộc đảng Dân chủ Nhật. Phải chi thành ngữ “nhất quán” cũng được lập đi lập lại như một tiếng kinh cầu. Thật vậy, những lời tuyên cáo thiếu thuần nhất của nội các Hatoyama liên quan đến căn cứ Mỹ tại Okinawa đã khiến Bộ trưởng Quốc phòng Robert Gates mất bình tĩnh và công khai thách thức Nhật vào tháng trước. Ông Gates đã bối rối khi thấy rằng người đồng minh cột trụ của Hoa Kỳ đã đánh mất cá tính nhất quán: Thái độ của Nhật có thể thay đổi tùy theo người phát biểu, Bộ trưởng bộ Ngoại giao (ông Kitazawa) hay Bộ trưởng bộ Quốc phòng (ông Okada). Một mặt, Nhật đòi thực thi nguyên tắc tái tổ chức căn cứ Mỹ dựa theo thoả thuận của đôi bên vào năm 2006. Mặt khác Nhật cũng yêu cầu tái điều đình thoả thuận trên.
“Bình đẳng” là nguyên tắc để điều hành một liên minh. Nó không là một chiến lược. Tổng thống Obama và Thủ tướng Hatoyama cần đưa tầm nhìn của liên minh Mỹ-Nhật lên trên những ầm ĩ nhất thời. Hai nguyên thủ cần tạo điều kiện để dư luận suy ngẫm về nền thịnh vượng và các cơ hội mà Mỹ và Nhật đã nắm bắt được trong những thập kỉ qua.
Nếu mục đích của liên minh tương lai là bảo toàn thịnh vượng thì mối liên minh này cần được điều chỉnh, mục tiêu cần được xét lại, phương tiện cần được thích nghi và nội dung của quyền lực cần được bảo đảm không bị thất thoát vì dịch thuật.
Tái xác định nền an ninh đòi hỏi xét lại bối cảnh đang thay đổi. Nó ngày càng trở nên đa dạng, phức tạp và hiểm nghèo. Có rất nhiều thách thức: Ổn định các quốc gia như Afghanistan, kìm hãm những tham vọng hạt nhân từ các quốc gia như Iran và Bắc Hàn, tìm ra những giải pháp hữu hiệu cho hiện tượng thời tiết thay đổi và cho các nạn dịch tả. Tất cả những thách đố này đòi hỏi những chiến lược hoàn chỉnh hơn và nhiều đồng minh hơn. Khi cả Hoa Kỳ lẫn Nhật đều tăng cường liên hệ kinh tế với Trung Quốc trong những năm tháng gần đây, cả hai đều cần có một địa vị an toàn trong mối quan hệ với Trung Quốc vì sự hợp tác của Bắc Kinh rất cần thiết khi phải trực diện với những vấn đề vô vàn khó khăn.
Thích nghi các phương thức của liên minh cũng đòi hỏi phải tránh xa thái độ “ngồi chiếu trên” mà Hoa Kỳ thường có. Song song đó Nhật cũng không nên miễn cưỡng chấp nhập rằng mối liên minh cũng tạo ưu thế cho nhân dân họ. Chỉ có một chọn lựa: Một, liên minh tạo lợi ích cho đôi bên. Hai, nó sẽ không mang lại kết quả nào cho tất cả. Obama và Hatoyama cần chặn đứng hiện tược xuất huyết vì đề tài căn cứ quân sự Cả hai nên đưa ra một tiến trình điều hành liên minh rõ ràng và vững chãi. Tiến trình này cần được Bộ trưởng bộ Ngoại giao và Quốc phòng hướng dẫn, dựa vào một bản thảo chung. Những người sinh sống tại Okinawa đã trả một giá đắt để Nhật có được an ninh, nhưng sẽ không dễ tìm ra đáp số trong việc tái định cư các căn cứ quân sự Mỹ tại một nước Nhật phát triển và dân chủ. Giới chức trách đã rà soát bản đồ để tìm ra giải pháp, dựa trên “Tu chính-1996” và trên thoả thuận “Tái tổ chức cơ bản-2006”, để di chuyển đội trực thăng TQLC Mỹ đến vùng đất hoang tại Camp Schwab và đưa một số đông quân nhân và gia đình đến đảo Guam. Giải quyết vấn đề này sẽ đem lại những kế hoạch, những đánh giá tình hình, những cuộc thao dược và hành quân mang tính cách hỗn hợp.
Cuối cùng, ông Obama và ông Hatoyama cũng cần theo sát tình hình. Hai người đều có lý khi chủ trương một “chính sách mềm dẻo” để tạo ảnh hưởng thay vì tạo áp lực. Tuy nhiên, cả hai không nên quên vai trò quan trọng của một “chính sách mạnh” trong một liên minh. Chưa chắc gì chiến lược “làm yên lòng” Trung Quốc của ông Obama sẽ khiến Quân Đội Nhân Dân Trung Quốc hãm tốc độ tân trang. Song song đó, việc ông Hatoyama đã từ chối tuyên dương sự hiện diện quân sự của Mỹ và quyết định hạ giảm vai trò bảo toàn an ninh của Nhật tại Ấn Độ Dương là một vấn đề lớn. Nó pha loãng “chính sách mạnh” cần có trên thế giới. Thay vào đó, Nhật đang gia tăng các chương trình tài trợ phát triển cho Afghanistan (5 tỉ USD trong vòng 5 năm) và Pakistan (2 tỉ USD trong vòng 5 năm). Ở đâu đó, thái độ này đang kéo liên minh Mỹ-Nhật về quá khứ, vào thời điểm của cuộc chiến vùng Vịnh lần thứ nhất. Vào lúc đó, vai trò của Nhật chỉ là một trạm rút tiền của thế giới.
Chúng ta có một chút thời gian. Cả hai, chúng ta đều có những chức trách đầy khả năng để dẫn dắt cuộc đối thoại chiến lược này đến một kết cuộc tốt đẹp từ đây cho đến Tháng 09.2010, nhân dịp kỷ niệm 50 năm Hiệp ước An ninh Hỗ tương.
Mây mù đang quy tụ trên bầu trời liên minh Mỹ-Nhật không là cơn khủng hoảng ngắn hạn xuất phát từ khi hai chính phủ tự do vừa lên cầm quyền. Trong trường kỳ, nguy cơ chính vẫn là quỹ đạo chính trị sẽ được chọn lựa bởi Mỹ và Nhật, hai quốc gia phồn vinh và dân chủ nhưng có lẽ đã quên mất đi những bí quyết đã giúp họ có được địa vị hôm nay.
Patrick M. Cronin
Nguồn: Far Eastern Economic Review, ngày 13/11/2009
Nguyễn Huy Đức chuyển ngữ
Nguồn: Far Eastern Economic Review, ngày 13/11/2009
Nguyễn Huy Đức chuyển ngữ
Patrick M. Cronin là cố vấn cao cấp và giám đốc của Chương Trình Á Châu-Thái Bình Dương tại Trung Tâm vì nền an ninh mới cho Hoa Kỳ.