Cổ-Lũy
Năm nay Trung Hoa tưng bừng làm lễ kỷ niệm 60 năm của Cộng Hòa Nhân Dân và đảng Cộng Sản Trung Hoa. Hơn một phần tư thế kỷ gần đây phát triển kinh tế theo đường lối “thị trường” đưa Trung Hoa lên hàng siêu cường toàn cầu. Khoảng mười ngày một năm sau đắc cử năm ngoái, Tổng Thống Hoa Kỳ Barack Obama làm chuyến xuất dương sang Châu Á, trong đó Trung Hoa là “điểm tới” vô cùng quan trọng trong liên hệ giữa hai nước, nếu không nói là toàn cầu. Tầm quan trọng này xứng đáng một cái nhìn nghiêm chỉnh và độc lập.
Bài sau đây trình bày những nét chính từ nghiên cứu của ông Kenneth Lieberthal, giáo sư chính trị học và quản trị doanh nghiệp viện Ðại Học Michigan, và thành viên cao cấp viện nghiên cứu độc lập (không tả hay hữu) Brookings Institution. Người viết thêm những giải thích cần thiết và ý kiến của người học hỏi về bang giao quốc tế.
Liên hệ giữa Hoa Kỳ và Trung Hoa sẽ như thế nào dưới thời chính quyền Barack Obama, với hy vọng cầm quyền cho đến giữa thập niên 2010 nhìn theo tình hình đảng phái hiện nay? Ôn lại quá khứ, thử nhìn về liên hệ bên ngoài có vẻ suôn sẻ dưới tám năm vị Tổng Thống tiền nhiệm George W. Bush. Thời gian này liên hệ Mỹ-Hoa có thể mô tả như sau: thứ nhất là “trưởng thành;” đây có nghĩa giới lãnh đạo đôi bên hiểu rõ nhau, biết những mục tiêu, cung cách hành xử, mối âu lo, và nhìn thấu nhu cầu gìn giữ liên hệ tốt ngay cả khi “gay cấn” xảy ra. Thứ hai, “lớn rộng,” bao gồm những đi lại gặp gỡ đều đặn liên quan đến nhiều vấn đề, từ ngoại giao, kinh tế, an ninh cho tới y tế công cộng, môi sinh, khoa học, kỹ thuật và giáo dục. Thứ ba, “xây dựng” có nghĩa hai nước đều cố mở rộng quan hệ và tìm cách giảm bớt những căng thẳng, tìm hiểu khác biệt và giải quyết mâu thuẫn. Thứ tư, “thẳng thắn” về các ưu tư ở mức cao cấp nhất, như cái nhìn khác biệt về “nhân quyền” chẳng hạn.
A. Không dễ tin tưởng nhau
Nhưng thực tế lại phức tạp hơn những gì nói trên, vì hai lý do chính: thứ nhất, các vấn đề toàn cầu quan trọng và khá mới mẻ như kinh tế đi xuống và thay đổi thời tiết sẽ ảnh hưởng đến liên hệ đôi bên với nhiều cơ hội cũng như hiểm nguy. Thứ hai, qua ba thập niên đi lại Washington và Bắc Kinh vẫn nghi ngờ ý định lâu dài của nhau. Nhiều người ở Bắc Kinh vẫn tin Washington rất ngoan cố và giữ chặt ý định đồng hóa toàn cầu (global hegemony) - đến độ không để cho Trung Hoa đạt đến mức giầu mạnh khả dĩ cạnh tranh với Hoa Kỳ. Nhiều giới quyết định chính sách ở Washington tin rằng một khi Trung Hoa đạt đến mức giầu mạnh khả dĩ, Bắc Kinh sẽ gạt ảnh hưởng và quyền lợi Hoa Kỳ ra khỏi Châu Á. Nhiều người Mỹ lo sợ mức gia tăng đáng quan ngại hàng năm về ngân sách và khả năng quân sự của Bắc Kinh. Nghi ngại hai chiều không những rút từ các nguyên nhân sâu xa mà còn đặt nặng trên ý định đôi bên cả thập niên tới; do đó nó rất khó thay đổi được và dẫn đến lo toan “tỉnh táo cảnh giác” nhằm bảo vệ quyền lợi quốc gia.
Trong những thập niên tới, một câu hỏi căn bản là làm thế nào hai bên có thể thuyết phục nhau rằng điều mình mong muốn là liên hệ bình thường giữa đại siêu cường với nhau: hợp tác khi có thể và nỗ lực giảm thiểu khác biệt khi quyền lợi va chạm. Ðây không phải chuyện dễ - nhưng lại vô cùng cấp thiết.
B. Những vấn đề nóng hổi
Hoa Kỳ và Trung Hoa phải liên tục đương đầu với nhiều vấn đề lớn lao và khó khăn. Thứ nhất, ngăn chặn kế hoạch vũ khí hạch nhân của Bắc Hàn mà Bắc Kinh đóng vai trò chính yếu và khéo léo trong điều đình sáu bên, tuy chưa đi đến mức khả quan. Vì những khó khăn chính trị trong nước hiện nay, thủ đô Bình Nhưỡng không dễ đồng ý và rồi thi hành những thỏa nhượng nhằm chấm dứt kế hoạch vũ khí: mùa Xuân 2009 Bình Nhưỡng đưa ra nhiều trở lực làm chậm lại đàm phán. Ðài Loan dĩ nhiên vẫn là chuyện chưa giải quyết được, dù năm qua tình hình có ổn định hơn (xin xem Ðài Loan: Ảnh Hưởng Tốt Vào Trung Hoa? Hai kỳ trong Tháng Tám qua, cùng cột báo và người viết). Trên nguyên tắc, Ðài Bắc và Bắc Kinh nói chuyện về tình trạng quân sự và an ninh trên eo biển ngăn cách đôi bên; thực tế chưa cho thấy tiến bộ đáng kể. Khả năng đe dọa Ðài Loan của Quân Ðội Nhân Dân/PLA tiếp tục gia tăng, và Washington tiếp tục bảo đảm cho Ðài Bắc khả năng đối phó với đe dọa quân sự qua eo biển. Cả ba thủ đô không bao giờ muốn thấy tranh chấp quân sự trong vùng, nhưng tình hình tại chỗ thỉnh thoảng vẫn căng thẳng.
Thứ ba, liên hệ giữa quân lực Mỹ và PLA cũng phát triển phần nào, nhưng cần nhiều thời gian để đạt tới mức hiểu biết và tin tưởng lẫn nhau. PLA hiện đại hóa và bành trướng khả năng liên tục làm quân lực Mỹ e ngại. Việc Hoa Kỳ không ngừng phát triển vũ khí và điều động lực lượng ở Châu Á, nhất là khi hải lực lớn lao đôi bên hoạt động trên cùng biển Thái Bình, cũng làm PLA bận tâm. Thứ tư, cấu trúc đa phương ở vùng biển Thái Bình bên bờ Châu Á đang trải qua nhiều phát triển và thay đổi nhanh chóng. Những diễn đàn đa phương và tập hợp quốc gia mới trong vùng với trao đổi rộng rãi mọc lên như măng sau mưa Xuân. Hoa Kỳ và Trung Hoa cần khuyến khích nhau tham dự với những tập hợp và diễn đàn này để gia tăng tín nhiệm chung.
Trong quá khứ, đôi khi Hoa Kỳ và Trung Hoa đề cập đến các vấn đề tổng quát và xa cõi bờ Trung Hoa hơn, như hạn chế vũ khí hạch nhân và tình hình “Trung Ðông.” Với sức mạnh gia tăng và tầm vóc toàn cầu ngày nay của Trung Hoa, đây thành dịp cho hai nước hợp tác trong các vấn đề “Trung Ðông” - từ Pakistan và Afghanistan tới Iran, và liên hệ giữa người Ả-Rập và Do Thái, cho tới an ninh về nhiên liệu dầu khí. Quan trọng hơn nữa, những vấn đề cấp bách toàn cầu bắt đầu chiếm vị trí trọng tâm trong liên hệ Mỹ-Hoa. Kinh tế đi xuống và nhiên liệu “sạch” là những vấn đề tương đối mới mẻ, chỉ mới được chú ý vài tháng trước khi Tổng Thống Bush mãn nhiệm; thay đổi thời tiết nằm ngoài liên hệ đôi bên cho tới khi ông Bush rời tòa Nhà Trắng đầu năm 2009.
(Còn tiếp theo báo ngày 30 Tháng Mười Một)
Phần tiếp:
Cổ-Lũy
Năm nay Trung Hoa tưng bừng làm lễ kỷ niệm 60 năm của Cộng Hòa Nhân Dân và đảng Cộng Sản Trung Hoa. Hơn một phần tư thế kỷ gần đây phát triển kinh tế theo đường lối “thị trường” đưa Trung Hoa lên hàng siêu cường toàn cầu. Khoảng mười ngày một năm sau đắc cử năm ngoái, Tổng Thống Hoa Kỳ Barack Obama làm chuyến xuất dương sang Châu Á, trong đó Trung Hoa là “điểm tới” vô cùng quan trọng trong liên hệ giữa hai nước, nếu không nói là toàn cầu. Tầm quan trọng này xứng đáng một cái nhìn nghiêm chỉnh và độc lập.
Bài sau đây trình bày những nét chính từ nghiên cứu của ông Kenneth Lieberthal, giáo sư Chính Trị Học và Quản Trị Doanh Nghiệp Viện Ðại Học Michigan, và thành viên cao cấp viện nghiên cứu độc lập (không tả hay hữu) Brookings Institution. Người viết thêm những giải thích cần thiết và ý kiến của người học hỏi về bang giao quốc tế.
Liên hệ giữa Trung Hoa và Hoa Kỳ sẽ đi tới một giai đoạn mới nếu Bắc Kinh và Washington có thể gắn bó hữu hiệu với nhau trong các vấn đề “nóng hổi” đưa ra tuần trước: ngăn chặn bành trướng vũ khí hạch nhân, eo biển Ðài Loan, liên hệ quân sự giữa hai nước, liên hệ với các nước trên bờ biển Thái Bình phía châu Á. Thêm vào đây phải kể “Trung Ðông,” nhiên liệu “sạch,” hâm nóng địa cầu, và khó khăn kinh tế toàn cầu.
C. Liên hệ hai chiều: trong “cái bẫy đô-la”
Những khó khăn kinh tế toàn cầu hiện nay bắt đầu với khủng hoảng tài chính vì trong tám năm trước đây chính quyền bảo thủ George W. Bush đã dễ dãi và thả lỏng việc chế tài và quản trị hệ thống tài chính Mỹ. Khó khăn kinh tế trực tiếp ảnh hưởng vào Hoa Kỳ và Trung Hoa ở mức hai chiều lẫn nhiều chiều khác. Kinh tế hai nước dựa vào nhau rất nhiều: ngoài chuyện mua bán gần như một chiều (Trung Hoa bán gấp bội nhưng chẳng mua mấy từ Hoa Kỳ) Bắc Kinh giữ hầu hết quĩ dự trữ tiền nước ngoài của mình bằng đồng đô-la Mỹ (2,270 tỉ tính đến cuối Tháng Chín 2009; một gia tăng hơn 19% so với cùng thời gian năm ngoái) qua các món nợ của nước và tư nhân Mỹ. Những kế hoạch phục hồi kinh tế của Washington gồm vay mượn nhiều hơn, và Trung Hoa sẽ là chủ nợ lớn nhất. Bắc Kinh cũng cần Hoa Kỳ phục hồi kinh tế nhanh để mua hàng Hoa nhiều hơn - và tài trợ cho mức phát triển kinh tế Trung Hoa xấp xỉ 10% hàng năm. Hoa Kỳ cần liên hệ chặt chẽ và hợp tác với Trung Hoa nhằm đối phó với các vấn đề song phương về phục hồi kinh tế và đa phương về những gì phải làm để điều chỉnh hệ thống tài chính toàn cầu, nhất là khi không ai biết rõ tình hình kinh tế sẽ đi xuống tới mức nào và còn bao lâu nữa.
Bắc Kinh rất âu lo vì số tiền nợ lớn lao từ Hoa Kỳ và lo sợ
Thật khó có thể giải quyết hoàn toàn những mâu thuẫn và căng thẳng trong vấn đề tài chính, nhưng ít nhất Hoa Kỳ và Trung Hoa cần giữ đối thoại sâu rộng, đều đặn và rõ ràng hơn trước để đáp ứng đòi hỏi cũng như hiểu rõ chiến lược và ưu tư đôi bên.
D. Khó khăn vì tiêu thụ
Căn bản là Trung Hoa hiểu cần phải gia tăng việc tiêu thụ cá nhân như một yếu tố quan trọng trong tổng sản lượng nội địa của mình (GDP); hiện nay mức tiêu thụ cá nhân ở Trung Hoa nằm ở gần mức phần trăm của GDP thấp nhất thế giới. Bắc Kinh nhận thức được nhu cầu thay đổi này: với kinh tế dựa vào xuất cảng nhưng mức xuất cảng lại đi xuống thấy rõ, nhu cầu gia tăng tiêu thụ nội địa quan trọng hơn bao giờ hết. Vào thời điểm này năm ngoái Bắc Kinh đưa ra chương trình gần sáu trăm tỉ “kích thích” kinh tế qua phát triển hạ tầng cơ sở. Món tiền lớn này sẽ gia tăng nhu cầu tiêu thụ nội địa - và cả năng suất - và có thể đưa đến sản xuất quá mức nếu xuất cảng không hồi phục khả quan trong vòng hai năm tới. Hoa Kỳ lại ngược hẳn: mức tiêu thụ cá nhân Mỹ lên quá cao đến nỗi đại đa số dân chúng không dành dụm gì cả, và Hoa Kỳ cần phải khuyến khích dân chúng bớt tiêu thụ để gia tăng tiết kiệm. Khủng hoảng tài chính và khó khăn kinh tế khiến dân Mỹ như mở mắt và tiết kiệm nhanh chóng (nhẩy vội tới 5 phần trăm).
Vấn đề hơi oái oăm là mức độ tiêu thụ bất kể của người Mỹ liên hệ trực tiếp với mức độ tiết kiệm của người Hoa; có thể nói đây là liên hệ nhân quả “giúp đỡ” lẫn nhau: Hoa Kỳ vay mượn tiền tiết kiệm Hoa để tài trợ tiêu thụ cá nhân Mỹ. Trung Hoa thu thập đô-la để duy trì mức tiết kiệm cao và cho Hoa Kỳ vay nợ nữa qua việc sản xuất hàng hóa mà người Mỹ mua với đồng đô-la tiêu thụ. Rối rắm không ngừng ở đây: Hoa Kỳ muốn gia tăng tiết kiệm cá nhân về lâu dài, nhưng cũng muốn khuyến khích tiêu xài cá nhân để thoát khỏi khủng hoảng kinh tế ngắn hạn; Trung Hoa muốn gia tăng tiêu thụ cá nhân vì nhu cầu nội địa (ngắn hạn), nước này cũng phải xây dựng các định chế và khả năng củng cố an sinh xã hội (đầu tư lâu dài); nếu không có an sinh, người Hoa vẫn dành dụm cho bất ngờ tương lai và không chịu tiêu pha! Những điều chỉnh xã hội toàn diện cần từ ba tới năm năm mới bắt đầu nhìn thấy kết quả được. Ðiều chỉnh xã hội ở cả hai nơi rõ ràng cần liên hệ chặt chẽ giữa hai nước về chính sách và kế hoạch, nhất là hiểu biết thông cảm lẫn nhau. Tổng Thống Barack Obama chú trọng vào đây trong sáng kiến “Ðối thoại Chiến lược và Kinh tế” với hai sứ giả đặc nhiệm, Ngoại Trưởng Hillary Clinton và Tổng Trưởng Tài Chính Timothy Geithner.
E. Ngoại thương và khó khăn
Một vấn đề khác dễ thành nghiêm trọng: Trung Hoa xuất cảng hàng hóa và tư bản; Bắc Kinh nay muốn gia tăng xuất cảng để tăng gia số công ăn việc làm qua nhiều hình thức giúp đỡ giới xuất cảng. Hoa Kỳ với tỉ số người thất nghiệp ở mức hàng chục rất khó chịu và tiêu cực về chuyện này - nhất là nếu Bắc Kinh dựng lên những rào cản quan thuế đối với hàng hóa Mỹ. Công ty Hoa đồng thời có thể tìm mua cơ sở sản xuất trên lãnh thổ Mỹ bị sụt giá hoặc đóng cửa, nhưng phải phát triển, gia tăng công ăn việc làm, và giúp cả người bán kẻ mua (như các công ty xe hơi và điện tử Nhật đã làm), để tránh phản ứng mạnh vì đầu tư trục lợi “kiểu kên kên” (“vulture” investing: lấy tiền chẹt người để chụp giựt tên tuổi và kỹ thuật, thu thập tài nguyên và làm mất công việc). Nếu mức tiết kiệm Mỹ gia tăng từ 5 đến 8%, việc tiêu thụ hàng hóa Mỹ phải cậy vào tăng gia xuất cảng; nhu cầu này đi ngược lại chủ trương xuất cảng của Bắc Kinh. Triển vọng mâu thuẫn giao thương thật rõ ràng!
Về mặt đa chiều, Hoa Kỳ và Trung Hoa là hai thành viên chính trong nỗ lực điều chỉnh lại hệ thống chế tài tài chính toàn cầu. Cuối 2008 Bắc Kinh chưa cho thấy dấu hiệu tích cực đưa ra những ý kiến và kế hoạch mới; mãi gần thượng đỉnh Nhóm 20 Tháng Tư 2009 Bắc Kinh mới nẩy ra sáng kiến dự trữ tiền tệ đứng trên mức quốc gia. Quyền lợi hai nước không giống nhau như hệt được: về lâu dài Trung Hoa muốn giảm thiểu vai trò của đồng đô-la như chỉ tệ dự trữ quốc tế; Hoa Kỳ dĩ nhiên không hồ hởi với viễn tượng này.
Các vấn đề xoay quanh những bất ổn về tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu mang tầm quan trọng cấp quốc gia ở hai nước. Cơ hội cho hợp tác rất nhiều - nhưng cơ nguy cho bất đồng ý kiến và hiểu lầm nhau cũng lắm. Nếu cơ nguy ló rạng, chủ trương bảo hộ mậu dịch (protectionism) tác hại cả đôi bên sẽ nổi lên, và toàn thế giới sẽ rất khó thoát khỏi đà đi xuống hiện nay. Ðối thoại, trao đổi đôi bên có thể đưa đến các biện pháp giảm bớt khó khăn cùng những tác dụng tiêu cực trên lòng tin và ước vọng lẫn nhau, và đi tới hệ quả tốt đẹp.
Phần cuối:
Cổ-Lũy
Năm nay Trung Hoa tưng bừng làm lễ kỷ niệm 60 năm của Cộng Hòa Nhân Dân và đảng Cộng Sản Trung Hoa. Hơn một phần tư thế kỷ gần đây phát triển kinh tế theo đường lối “thị trường” đưa Trung Hoa lên hàng siêu cường toàn cầu. Khoảng mười ngày một năm sau đắc cử năm ngoái, Tổng Thống Hoa Kỳ Barack Obama xuất dương sang Châu Á, trong đó Trung Hoa là “điểm tới” vô cùng quan trọng trong liên hệ giữa hai nước, nếu không nói là toàn cầu. Tầm quan trọng này xứng đáng một cái nhìn nghiêm chỉnh và độc lập.
Bài sau đây trình bày những nét chính từ nghiên cứu của ông Kenneth Lieberthal, giáo sư chính trị học và quản trị doanh nghiệp viện Ðại Học Michigan, và thành viên cao cấp viện nghiên cứu độc lập (không tả hay hữu) Brookings Institution. Người viết thêm những giải thích cần thiết và ý kiến của người học hỏi về bang giao quốc tế.
Liên hệ giữa Trung Hoa và Hoa Kỳ sẽ đi tới một giai đoạn mới nếu Bắc Kinh và Washington có thể gắn bó hữu hiệu với nhau trong các vấn đề “nóng hổi” đưa ra hai tuần vừa qua: ngăn chặn bành trướng vũ khí hạch nhân; eo biển Ðài Loan; liên hệ quân sự giữa hai nước; liên hệ với các nước trên bờ biển Thái Bình phía Châu Á; “Trung Ðông;” nhiên liệu “sạch;” hâm nóng địa cầu; và, khó khăn kinh tế toàn cầu. Thêm vào đây phải kể những “Trung Ðông,” nhiên liệu “sạch,” hâm nóng địa cầu, và khó khăn kinh tế toàn cầu.
Bên cạnh kinh tế toàn cầu, vấn đề nóng bỏng toàn cầu là thay đổi thời tiết, khó khăn không kém những vấn đề khác trong nghị trình liên hệ giữa hai đại siêu cường. Thay đổi thời tiết toàn cầu đóng vai trò tương đối khiêm nhường trong liên hệ Mỹ-Hoa cho tới cuối nhiệm kỳ của Tổng Thống George W. Bush, vì chính Tổng Thống Bush không tin rằng chính quyền cần đóng vai trò chính yếu trong việc đối phó với những đe dọa về thay đổi thời tiết. Ngay cả hiện nay giới bảo thủ như ông Bush vẫn xem chuyện này như không có thật, thậm chí toàn là bịa đặt. Nhưng ngược hẳn lại, Tổng Trưởng Ngân Khố Henry Paulson trong nội các Bush tin tưởng sâu xa hiện tượng hâm nóng địa cầu là một mối đe dọa cho tương lai văn minh nhân loại, và ông tìm cách hợp tác với Trung Hoa để đương đầu với đe dọa này. Kết quả: nửa năm trước khi ông Bush hết nhiệm kỳ cuối năm 2008 Trung Hoa và Hoa Kỳ ký một thỏa thuận căn bản về môi sinh và nhiên liệu sạch. Thỏa thuận này đưa ra căn bản cho những hợp tác trong tương lai, nhưng cho tới khi ông Bush rời tòa Nhà Trắng kết quả không có gì đáng kể.
Tính cách quan trọng của thay đổi thời tiết toàn cầu cũng thay đổi nhanh chóng liên hệ Mỹ-Hoa vì bốn lý do chính. Thứ nhất, cái nhìn về vấn đề của Tổng Thống Obama ngược hẳn cái nhìn của Tổng Thống Bush. Ông Obama xem thay đổi sang một nền kinh tế bớt thải khí độc hại - cả trong lẫn ngoài nước - phải là một mục tiêu vô cùng quan trọng của Hoa Kỳ, và chính quyền phải đóng vai trò tích cực trong dự án chuyển đổi này. Ðúng ra việc phát triển nhiên liệu sạch được xếp cùng hàng với các ưu tiên cao nhất - giải quyết khủng hoảng kinh tế, y tế cho mọi người, và giáo dục - của chính quyền Obama. Thứ hai, chính quyền Trung Hoa đã gia tăng chú ý rất nhiều vào thay đổi thời tiết trong vòng hai năm qua. Như trình bày trên Bạch Thư Tháng Tám, 2008 của nhà nước, Trung Hoa nay xem mình như một trong những nước có thể bị đe dọa ghê gớm nhất bởi thay đổi thời tiết toàn cầu, và đây đòi hỏi những nỗ lực thích nghi và giảm thiểu khí độc lớn lao từ Bắc Kinh.
Thứ ba, hiểu biết của giới khoa học về vận tốc, tầm vóc và hậu quả của thay đổi thời tiết không những có thực mà còn gia tăng vô cùng nhanh chóng. Hầu như mọi nghiên cứu khoa học mới về hiện tượng này chứng minh rõ rệt những nghiên cứu đi trước đều đánh giá quá thấp mức nguy hại của hâm nóng địa cầu, và ước lượng quá cao thời gian còn lại để thi hành những biện pháp cứu chữa mạnh mẽ. Thứ tư, một gặp gỡ quan trọng nhằm thỏa thuận một căn bản mới về thời tiết (thay thế cho Qui Ước
Hơn nữa, cung cách Hoa Kỳ và Trung Hoa đương đầu với vấn đề nhiên liệu sạch trong phạm vi quốc gia mình ảnh hưởng vào chính khả năng giới lãnh đạo các nước khác chấp nhận những biện pháp sửa đổi hữu hiệu. Giới lãnh đạo Hoa muốn dùng những biện pháp cứu vãn mạnh mẽ sẽ gập khó khăn vô cùng nếu Hoa Kỳ - một nước giầu và tiến bộ hơn về kỹ thuật, và cũng là một “lò sản xuất” thán khí chính - không chịu hay không thể đóng vai trò lãnh đạo. Ðồng thời, “danh tiếng” Trung Hoa về mức độ thải khí độc vào môi sinh cũng dễ thành đề tài bàn cãi, dè bỉu ở Hoa Kỳ. Tổng Thống Obama muốn Quốc Hội Mỹ thông qua luật lệ với hiệu lực ấn định mức thải thán khí tối đa có thể chấp nhận được (“cap”) nói chung, và cái giá và phương cách phải trả cho “chuyển nhượng/trao đổi” mức thán khí giữa các nguồn thải thán khí (“trade”: nói tổng quát, nguồn A thải thán khí quá mức hạn định có thể “mua” bù “tín chỉ thán khí” từ nguồn B được phép thải thán khí nhưng không dùng hết).
Nhưng đối thủ chống luật lệ về “cap-and-trade” lấy Trung Hoa làm cái cớ để lý luận phản đối: bắt công nghệ Mỹ phải trả giá thải thán khí cao chỉ giúp công nghệ Hoa (và giới đầu tư vào Trung Hoa) một lợi điểm cạnh tranh, vì Trung Hoa sẽ không bắt công nghệ trong nước phải trả giá thải thán khí tương đương với Hoa Kỳ. Qua con mắt người chống đối luật lệ “cap-and-trade” kết quả dễ nhìn thấy được: công nhân Mỹ sẽ mất việc và thán khí vẫn tràn ngập địa cầu. Do đó mỗi bên đều muốn bên kia phải làm nhiều hơn - một phần nhằm vào việc tạo ra môi trường thuận tiện hơn để đẩy mạnh nỗ lực giảm thiểu thán khí. Với mẫu số chung tự nhiên này hai bên dễ hợp tác với nhau, nhưng đây cũng dễ tạo ra một “đấu trường” khác ở đó thất bại trong việc hợp tác có thể gia tăng nghi ngờ và căng thẳng giữa đôi bên.
Cuối tuần lễ Lễ Tạ Ơn vừa qua, Bắc Kinh hứa sẽ giảm mức độ khí thải độc gần một nửa tuần tự mười năm tới; những nhà bảo vệ môi sinh và Tổng Thống Obama ca ngợi đây là một tiến triển rất quan trọng và có lẽ quyết định trong việc đi đến thỏa nghị rộng lớn về thời tiết. Ðáng chú ý hơn nữa, hứa hẹn này xẩy ra ngay một ngày sau khi Tổng Thống Obama công bố chỉ tiêu giảm thán khí ở Hoa Kỳ và việc ông sẽ đích thân tham dự hội nghị dài ở Copenhagen bắt đầu Thứ Hai này. Với dấu hiệu tốt từ hai nước thải khí độc nhiều nhất (Ấn Ðộ trên đường phát triển cũng sắp “lên” danh sách này), giám đốc về chính sách thời tiết toàn cầu của tổ chức bảo vệ môi sinh Hội Ðồng Tài Nguyên Thiên Nhiên, ông Jake Schmidt ghi nhận tuyên bố từ hai nước đưa ra “một thúc đẩy mạnh cực kỳ cần thiết trước khi bước vào hội nghị Copenhagen... Trung Hoa đưa ra dấu hiệu mạnh mẽ nước này sẵn sàng đương đầu với nhiên liệu sạch và hâm nóng địa cầu.” Các nước Châu Âu và Liên Hiệp Quốc cũng nồng nhiệt đón nhận dấu hiệu tốt từ Bắc Kinh và Washington như một “mở cửa rộng rãi” đi vào thỏa nghị.
F. “Xin ngài đi trước”
Chính quyền Obama muốn tránh vết xe đổ của chính quyền Bill Clinton đi trước về Qui Ước Kyoto - chính quyền Clinton ký vào qui ước nhưng không đạt đủ ủng hộ trong nước để thực thi điều đã ký. Ông Obama hy vọng nắm đủ ủng hộ trong nước nhằm trấn an ngoài nước Hoa Kỳ sẽ thực hiện những gì ký nhận trong thỏa nghị mới: nếu ông có thể thẳng thắn với Quốc Hội rằng Trung Hoa rất quan tâm về thay đổi thời tiết, đang làm những gì cần thiết, và sẵn sàng hợp tác với Hoa Kỳ cùng các nước khác giảm thiểu hâm nóng địa cầu - triển vọng thành công về phương diện lập pháp (làm luật lệ môi sinh mới) của ông rất lớn.
Trong quá khứ viên chức Mỹ và Hoa, các chuyên viên kỹ thuật, công ty và tổ chức ngoài chính quyền (NGO) từng liên hệ khá chặt chẽ về các vấn đề liên quan tới hâm nóng địa cầu. Nhưng những liên hệ này thiếu cái đà, hướng và ủng hộ khả dĩ đưa đến hợp tác giảm thiểu thán khí - dù hai bên có thể thấy quyền lợi hỗ tương. Vấn đề nhiên liệu sạch nằm ngay trọng tâm nền kinh tế hai nước, và là một vấn đề dài hạn. Hợp tác rộng lớn về nhiên liệu sạch sẽ làm dễ dàng đi lại hai chiều; hợp tác lâu dài cũng vun xới tin cẩn lẫn nhau hơn. Vấn đề thải khí độc đưa ra nhiều khác biệt về nguyên tắc đi liền với khác biệt giữa nước đã từng (Hoa Kỳ) và mới phát triển (Trung Hoa): Bắc Kinh bận tâm nhiều về số lượng thải khí độc qua chiều dài lịch sử, mức thải khí độc tính theo từng người dân; Washington chú ý tới mức thải khí độc hiện nay và trong tương lai, tổng số khí độc từng nước thải ra, và lề thói sống ảnh hưởng vào mức độ thải.
Thực tế hiển nhiên là mực nước biển dâng lên vì hâm nóng địa cầu sẽ nhận chìm thành phố Los Angeles và Thượng Hải hai bờ biển Thái Bình, và hợp tác không thể chờ đợi hai bên đồng ý về nỗi bận tâm bên nào là “đúng.” Trung Hoa và những nước đang phát triển đưa ra nhiều vấn nạn chính xác và hợp lý - các nước đã kỹ nghệ hóa cũng có cái lý của mình. Sẽ không có tiến triển về mặt hợp tác nếu bên này buộc bên kia phải nhìn y hệt như mình; mỗi bên sẽ phải tìm những mẫu số chung nhằm đi đến hợp tác thực tiễn về các đe dọa chung và sẽ không chờ ai làm trước.