Chủ Nhật, 31 tháng 1, 2010

Điểm tin 31/1

- NỒNG NÀN YÊN BÁI II (web Trần Nhương).

- Chú Tễu Đà Nẵng ra đảo Lý Sơn (boxitvn)
-Tàu sân bay và “chiến lược biển xanh” của Trung Quốc
VIT - Để đạt được tham vọng trở thành một cường quốc quân sự, vươn lên vị trí ngang hàng với các quốc gia sở hữu các tàu sân bay, từ năm 1998 Trung Quốc đã mua lại chiếc tàu sân bay Varyag cũ của Ucraina, với hy vọng sẽ đạt được những thành tựu nhất định dựa trên công nghệ của chiếc tàu cũ này.




Từ ba chuyển đổi làm nên gương mặt của cái thời chúng ta đang sống… (SH). Kỳ 1; Kỳ 2. Một bài công phu của Giáo sư Phong Lê. Ông tên thật là Lê Phong Sừ, sinh ngày 10 tháng 11 năm 1938 ở Sơn Trà, huyện Hương Sơn, Hà Tĩnh, là một nhà nghiên cứu, phê bình văn học Việt Nam hiện đại, nguyên Viện trưởng Viện Văn học thuộc Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia (nay là Viện Khoa học Xã hội Việt Nam); hội viên Hội nhà văn Việt Nam. Ông được phong học hàm Phó giáo sư năm 1984 và Giáo sư năm 1991 (Wikipedia).

Việt Nam tìm cách ‘cải tạo’ các du học sinh?
Việt Nam mới đây đã kết án tù một số người bất đồng chính kiến, trong đó có hai nhà hoạt động từng tu nghiệp ở các nước có nền dân chủ phát triển trên thế giới. Bản án đã khiến một số nước và tổ chức lên tiếng phản đối, cũng như khiến các nhà quan sát đặt dấu hỏi quanh vấn đề tận dụng chất xám của những người từng đi du học ở nước ngoài. Trong chuyên mục ‘Câu chuyện Việt Nam’ tuần này, mời quý vị theo dõi cuộc trao đổi của Nguyễn Trung với tiến sĩ Lê Sĩ Long, Giám đốc Sáng kiến Quốc tế về Chương trình nghiên cứu Toàn cầu của Đại học Houston, người cho rằng Việt Nam đang tìm cách ‘cải tạo’ các du học sinh.

Chủ tịch Nước Nguyễn Minh Triết: Không những tin mà tôi còn tự hào về doanh nhân Việt Nam (SGTT Xuân)
- Phát hành thành công trái phiếu quốc tế (LĐCN)





Cơ sở pháp lý để kiện quyết định 458/QĐ-Ttg của Thủ tướng CP
1. Thủ tướng có thể bị kiện hay không?
Hiến pháp Việt Nam minh định: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt NamNhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân…..”. Sự khẳng định này xác tín với mọi công dân rằng quyền lực nhà nước là quyền lực dựa trên các quy định của luật pháp.
Điều 52 của Hiến pháp cũng khẳng định rõ: ”Mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật”. Điều này có nghĩa là không một ai bị phân biệt đối xử trước pháp luật. Cho dù người đó đang là một trong các công chức đang nắm giữ quyền hành cao nhất nước như ông Thủ tướng chính phủ hay một người dân bình thường như anh nông dân.
Mặt khác, trong hệ thống pháp luật hiện hành ở Việt Nam, không một điều luật nào cho phép miễn tố đối với bất cứ cá nhân, cơ quan nhà nước hay tổ chức nào.
Như vậy có thể kết luận rằng: Ở Việt Nam hiện nay, Thủ tướng chính phủ cũng có thể bị kiện như bất kỳ một công dân hay công chức bình thường. Điều này cũng có nghĩa là Tòa án có quyền xét xử Thủ tướng nếu Thủ tướng bị kiện.
2. Có thể kiện quyết định loại nào của Thủ tướng?
Thẩm quyền ra quyết định của Thủ tướng có thể ban hành hai loại quyết định sau đây:
A. Văn bản quy phạm pháp luật: theo điều 2 của “Luật ban hành các văn bản quy phạm pháp luật” thì hệ thống văn bản quy phạm pháp luật bao gồm nhiều loại văn bản, trong đó có thể là quyết định của Thủ tướng chính phủ ( quy định tại khoản 5 điều này).
B. Văn bản áp dụng luật: Mặt khác, Thủ tướng chính phủ là người đứng đầu một cơ quan hành chính nhà nước nên có thể ban hành một “ quyết định hành chính”. Một loại văn bản áp dụng luật, áp dụng điều hành thực thi các công việc cụ thể. “Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính” đã định nghĩa quyết định hành chính như sau: “Quyết định hành chính là quyết định bằng văn bản của cơ quan hành chính nhà nước hoặc của người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước được áp dụng một lần đối với một hoặc một số đối tượng cụ thể về một vấn đề cụ thể trong hoạt động quản lý hành chính ” ( khoản 1, điều 4). Định nghĩa này cũng được khẳng định tại khoản 10 điều 2 của Luật khiếu nại tố cáo năm 1998 ( được sữa đổi, bổ sung năm 2004 và 2005).
Ở Việt Nam hiện nay, hệ thống luật pháp chưa có các định chế để một công dân có thể kiện được một quyết định thuộc dạng “Văn bản quy phạm pháp luật” một khi quyết định đó xâm hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của họ. Cho dù là văn bản đó ban hành bởi một ông chủ tịch UBND cấp huyện, cấp tỉnh hay một ông Thủ tướng.
Trong trường hợp quyết định của Thủ tướng là một “quyết định hành chính” áp dụng luật, ban hành nhằm chấp hành, điều hành, quản lý các công việc cụ thể trong công tác quản lý nhà nước thì quyết định hành chính đó có thể bị khởi kiện ra tòa án hành chính. Bởi đặc trưng cơ bản của quyết định quản lý hành chính là tính dưới luật. Tính dưới luật được thể hiện ở chổ bản chất của hoạt động quản lý nhà nước là hoạt động chấp hành pháp luật và điều hành trên cơ sở pháp luật. Và người bị kiện trong trường hợp này sẽ là Thủ tướng, bởi “Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính” đã định nghĩa: Người bị kiện là cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyết định hành chính, hành vi hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc bị khiếu kiện.” ( khoản 6, điều 4).
3. Ai có quyền khởi kiện quyết định hành chính của Thủ tướng?
Bất kỳ một công dân nào có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến một quyết định hành chính điều có thể khởi kiện quyết định hành chính đó nếu cho rằng quyết định hành chính đó xâm hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của mình. “Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính” đã định nghĩa: Người khởi kiện là cá nhân, cơ quan, tổ chức cho rằng quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm bởi quyết định hành chính, hành vi hành chính hoặc cán bộ, công chức cho rằng quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm bởi quyết định kỷ luật buộc thôi việc, nên đã khởi kiện vụ án hành chính tại Toà án có thẩm quyền ” (khoản 5 điều 4).
“Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính” cũng như các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đều không có bất kỳ quy định nào đối xử riêng biệt đối với quyết định hành chính do Thủ tướng ban hành. Điều này khẳng định rằng công dân có quyền khởi kiện một quyết định hành chính do bất kỳ ai ban hành nếu như cho rằng quyết định đó xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Trên thực tế người dân đã kiện và tòa án đã thụ lý các vụ án hành chính liên quan đến quyết định hành chính của các cấp thấp hơn Thủ tướng là Chủ tịch UBND thành phố, chủ tịch UBND quận huyện. Tòa chưa xử vụ án hành chính nào liên quan đến quyết định của Thủ tướng là do tiền lệ ở Việt Nam chưa có người dân nào kiện quyết định hành chính của Thủ tướng, không phải do luật không cho phép kiện Thủ tướng.
4. Quyết định 458/QĐ-Ttg là “Văn bản quy phạm pháp luật” hay “Văn bản áp dụng luật”?
“Luật ban hành các văn bản quy phạm pháp luật” tại điều 57 cũng quy định rất rõ nội dung văn bản quy phạm pháp luật mà Thủ tướng chính phủ có thể ban hành là:
1- Quyết định của Thủ tướng Chính phủ được ban hành để quyết định các chủ trương, biện pháp lãnh đạo, điều hành hoạt động của Chính phủ và hệ thống hành chính nhà nước từ trung ương đến cơ sở; quy định chế độ làm việc với các thành viên Chính phủ, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và các vấn đề khác thuộc thẩm quyền của Thủ tướng Chính phủ.
2- Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ quy định các biện pháp chỉ đạo, phối hợp hoạt động của các thành viên Chính phủ; đôn đốc và kiểm tra hoạt động của các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Uỷ ban nhân dân các cấp trong việc thực hiện các chủ trương, chính sách, pháp luật của Nhà nước, các quyết định của Chính phủ.
Điều này cho thấy một quyết định của Thủ tướng chính phủ chỉ được xem là một văn bản quy phạm pháp luật khi nào quyết định đó có đặc trưng phổ quát, xuyên suốt từ trung ương đến địa phương.
Quyết định 458/QĐ-Ttg do Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng ký ngày 18/04/2007 mang những đặc trưng của một quyết định hành chính cá biệt, chỉ có tác động đến một số người và cơ quan chức năng cụ thể. Đây là một quyết định mang thuộc tính của một “văn bản áp dụng luật”.
Thật vậy, quyết định 458/QĐ-Ttg ban hành với nội dung chính là “ điều chỉnh, bổ sung quy hoạch tổng thể khu CNC tp HCM”. Nội dung thể hiện rất rõ “một vấn đề cụ thể”, và chỉ được áp dụng đối với “một số đối tượng cụ thể” như UBND tp HCM, ban quản lý khu CNC tp HCM, Bộ kế Hoạch đầu tư, Bộ tài chính, Bộ khoa học và công nghệ,.. cùng với những người dân sống trọng khu vực bị ảnh hưỡng bởi quy hoạch khu CNC tp HCM. Đó là những đối tượng có trách nhiệm thi hành quyết định 458/QĐ-Ttg; những ai không thuộc các đối tượng trên không chịu tác động bởi quyết định này. Đồng thời quyết định này cũng thể hiện rõ tính chất “áp dụng một lần” đối với “một vấn đề cụ thể”, ở đây “điều chỉnh, bổ sung quy hoạch tổng thể khu CNC tp HCM”. Như vậy tính cá biệt thể hiện rất rõ, cho thấy đây là một quyết định hành chính cá biệt, không phải là một văn bản quy phạm pháp luật. Bởi nội dung của quyết định này rõ ràng là không có giá trị với những khu công nghệ cao ở những nơi khác như khu CNC Hòa Lạc ở Hà Nội chẳng hạn. Tóm lại, quyết định này hội đủ các yếu tố là một đối tượng xét xử của tòa án hành chính: một quyết định hành chính cá biệt.
5. Cách trả lời của Tòa án tối cao có đúng không ?
Ngày 21/09/2009, đại diện Tòa án tối cao tại cơ quan thường trực phía nam là ông Ngô Anh Dũng đã mời những người dân kiện quyết định 458/QD-Ttg của Thủ tướng chính phủ đến chỉ để giải thích Luật cho người dân hiểu là không thể kiện Thủ tướng.
Ông Dũng cho rằng đối chiếu theo các quy định của pháp luật hiện hành thì Tòa án Tối cao không có thẩm quyền xét xử quyết định hành chính của Thủ tướng chính phủ.
Thực ra, thẩm quyền xét xử của Tòa án trong vụ người dân kiện quyết định 458/QĐ-Ttg có quy định rõ tại khoản 17 điều 11 của “Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính”, đó là: ” Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính về quản lý đất đai trong trường hợp giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất, trưng dụng đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất; bồi thường, hỗ trợ, giải phóng mặt bằng, tái định cư; cấp hoặc thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; gia hạn thời hạn sử dụng đất ”.
Sau đó, ngày 22/10/2009, ông Ngô Anh Dũng ra văn bản trả lời với nội dung chính như sau:
“….
Sau khi xem xét đơn khởi kiện của ông (bà) và các tài liệu kèm theo, Tòa án nhân dân tối cao xét thấy quyết định số 458/QĐ-Ttg ngày 18/04/2007 của Thủ tướng chính phủ là văn bản quy phạm pháp luật theo quy định tại điểm b khoản 2 điều 1 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật ( được sửa đổi bổ sung năm 2002), nay tương ứng với quy định tại khỏan 5 điều 2 của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2008. Quyết định hành chính mà cá nhân, cơ quan nhà nước, tổ chức có quyền khiếu nại và khởi kiện vụ án hành chính phải là quyết định hành chính cá biệt được quy định tại khoản 10 điều 2 của Luật khiếu nại tố cáo năm 1998 ( được sữa đổi, bổ sung năm 2004 và 2005) và điểm a khoản 2 điều 2, khoản 1 điều 4 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính (đã được sữa đổi bổ sung năm 1998 và năm 2006). Do đó, theo quy định tại điều 12 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính thì ông không có quyền khởi kiện vụ án hành hành chính đối với quyết định số 458/QĐ-Ttg ngày 18/04/2007 của Thủ tướng chính phủ.
…”.
Văn bản trả lời trên của ông Ngô Anh Dũng hoàn toàn trái với các quy định của luật pháp.
Thứ nhất, như đã phân tích và chứng minh bằng các quy định của luật pháp ở phần trên, chúng ta thấy rõ quyết định 458/QĐ-Ttg là một quyết định hành chánh cá biệt, không phải là văn bản quy phạm pháp luật.
Thứ hai, nội dung của điều 12, “Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính” quy định thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án cấp huyện và cấp tỉnh thành, không khoản nào quy định người dân không có quyền kiện quyết định hành chính của Thủ tướng chính phủ.
Ông Ngô Anh Dũng là thẩm phán Tòa án tối cao thì khó có thể tin rằng ông ta không đủ trình độ xác định đâu là một văn bản quy phạm pháp luật, đâu là một quyết định hành chính cá biệt.
Việc vận dụng điều 12 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính là một cách tránh né trách nhiệm giải quyết khiếu kiện của dân. Bởi Tòa án Tối cao là cơ quan tư pháp có thẩm quyền bảo vệ luật pháp cao nhất. Chánh án tòa án Tối cao là người có quyền phân xử tranh chấp thẩm quyền xét xử các vụ án phức tạp.
Việc giải thích luật mập mờ như ông Ngô Anh Dũng cho thấy việc Tòa án tối cao xem thường nhận thức luật pháp của người dân khiếu kiện, không tận tâm xem xét thụ lý đơn kiện của người dân. Phải chăng chỉ vì người bị kiện là Thủ tướng chính phủ?
Trên thực tế, người dân bị ảnh hưởng bởi quy hoạch khu CNC tp HCM đã từng khởi kiện các quyết định hành chính tương tự quyết định 458/QĐ-Ttg của Thủ tướng chính phủ. Đó là các quyết định 2666/QĐ-UB và 2193/QĐ-UB do chủ tịch UBND tp HCM ban hành. Tòa án sơ thẩm Tp HCM và Tòa án Tối cao đã thụ lý và xét xử hàng trăm phiên công khai. Chứng minh rằng các quyết định 2666/QĐ-UB và 2193/QĐ-UB là những quyết định hành chính cá biệt.
Lẽ nào đối với quyết định của Thủ tướng Chính Phủ thì lại giải thích không xử được vì cho rằng quyết định 458/QĐ-Ttg là văn bản quy phạm pháp luật? Như vậy hóa ra Tòa án tối cao tự mâu thuẩn và thiên vị trong cách xem xét và thụ lý đơn kiện?
Tòa án Tối cao là cơ quan tư pháp tối cao mà không bảo vệ được sự trong sáng của luật pháp thì liệu rằng ở Việt Nam quyền lực có thực sự thuộc về luật pháp hay không?
Quận 9-Sài Gòn-Việt Nam Bút Thép

“Những yêu sách của nhân dân An Nam”
Ngày 30/1/1919, Sở An ninh Pháp cho biết: Nguyễn Ái Quốc dùng tiền riêng của mình thuê in 6000 bản “Những yêu sách của nhân dân An Nam".




Tòa tuyên chung thân, bị cáo “đòi” tử hình
TAND tỉnh Quảng Bình đã tuyên phạt Hoan mức án chung thân nhưng khi được nói lời cuối cùng, bị cáo nhất mực... xin được tử hình.


Đâm người khác chết tại chỗ lúc tắc đường
Chỉ vì va quệt xe nhẹ trong lúc đường bị ùn tắc giao thông nghiêm trọng, người thanh niên đi trên xe máy Attila chở sau người bạn gái



"Doanh nghiệp không phải lo lót quan chức"
Doanh nghiệp (DN) chỉ có nghĩa vụ đóng thuế cho nhà nước chứ không phải lo lót các quan chức các bộ ngành TƯ, địa phương và quan chức phải coi hỗ trợ DN là nghĩa vụ của mình, Thứ trưởng Lê Danh Vĩnh nói.



“Hội chứng trẻ xanh” vì ăn rau nhiễm độc
(Dân trí) - “Các loại rau mỡ màng, xanh mướt quá mức bình thường rất có nguy cơ chứa hàm lượng NO3 cao hơn mức cho phép. Việc ăn phải các loại rau có hàm lượng chất này cao trẻ sẽ mắc “hội chứng trẻ xanh” và NO3 cũng là tác nhân gây ung thư”.



Tàu trở thành một ngân hàng thế giới mới
Theo Tàu trở thành một ngân hàng thế giới mới

Á Căn Đình, Belorus, Nam Dương, và Nam Hàn, danh sách các nước, mà Peking cho mượn tiền phát triển hoặc để kinh tế khỏi kiệt quệ, thì rất dài. Và càng ngày nó càng dài hơn. Bởi vì Tàu bây giờ trên phương diện tiền tệ đã trở thành một siêu cường.
Christiane von Hardenberg, Berlin

Các chính phủ gặp khó khăn tài chánh càng ngày càng liên lạc với Tàu, để mà mượn tiền. Cách đây một thời gian không lâu. Pakistan đã gõ cửa Peking hỏi mượn tiền. Á Căn Đình, Belorus, Hongkong, Nam Dương, Mã Lai Á và Nam Hàn cũng đã được Tàu giúp đỡ qua hiệp ước bảo toàn tiền tệ.
Bộ tài chánh Hi Lạp và hãng Goldman Sachs mặc dù đã cho là, những bài viết đưa tin ngân hàng đầu tư này đã được Athen ủy quyền để bán trái phiếu của chính phủ tại Tàu, là không đúng sự thật. Cùng lúc đó bộ tài chánh Hi Lạp lại tổ chức một roadshow tại Tàu vào tháng tới, để quảng cáo cho trái phiếu họ với giá trị khoảng 25 tỷ Euro.
Peking với số tiền dự trữ ngoại tệ trên 2400 tỷ dollar là một địa chỉ tốt cho những nước gặp khó khăn về tiền bạc, đặc biệt là những nước có giao thiệp đang căng thẳng đối với USA và quỹ tiền tệ quốc tế (IWF), như chẳng hạn Á Căn Đình và Nam Dương. Trong cuộc khủng hoảng kinh tế quốc tế hiện tại Tàu càng lúc càng đóng vai trò nghĩa hiệp cho các nước gặp khó khăn. Trước đây một vài năm Buenos Aires còn thường hay gọi điện thoại đến IWF, ngày nay họ gọi tới Peking một cách đầy tin tưởng. "Tàu qua cuộc khủng hoảng kinh tế đã đóng vai trò quan trọng", giáo sư Harvard Ricardo Hausmann nói. Bởi vì sự tin cậy vào phương Tây, đặc biệt là vào USA, và các tổ chức phương Tây, của các nước phát triển đã không còn nữa.
Tàu đã dùng thời cơ này để mà phát triển liên tục ảnh hưởng của một thế lực kinh tế quốc tế. Hiện bây giờ Tàu có phần hùn vào các ngân hàng phát triển địa phương, từ châu Mỹ Latin sang Phi châu cho tới Á châu. Gần đây Tàu đã tăng phần IWF của mình lên đến 50 tỷ $.
Cùng với Hongkong Peking đã bơm 38 tỷ vào sáng kiến Chiang-Mai, một kiểu IWF của Á châu. Cái sáng kiến này được thành lập theo nỗ lực của Nhật bản, để mà vượt qua những thiếu hụt tạm thời về tiền tệ tại vùng này. Trong trường hợp khủng hoảng về tiền tệ các thành viên, bao gồm 10 nước Nam Á và Tàu, Nam Hàn, Nhật có thể đổi ngoại tệ (Devisenswaps), để mà nâng đỡ tiền tệ của mình. Lúc đầu họ chỉ thỏa hiệp đổi tiền giữa 2 nước với nhau, và lúc đó số tiền cung cấp cũng còn ít ỏi.

Cạnh tranh với IWF
Với sự giúp đỡ về tài chánh của Tàu quỹ này đã được đánh giá cao hơn nhiều. Vào mùa xuân 2009 các thành viên đã tăng quỹ từ 80 lên 120 tỷ $, Tàu đứng chịu 1/3 số tiền này. Ngoài ra có thể đổi tiền giữa nhiều nước (multilaterale Swaps). Và một bộ phận kinh tế, thuộc về nhà băng phát triển Á châu (ADB) ở Manila, kiểm soát việc phân phối tiền, cũng như tình trạng kinh tế và chính trị của các nước thành viên, chẳng khác gì hơn IWF. Tháng ba tới họ sẽ cạnh tranh với IWF.

Các vấn đề linh tinh khác
Chúng ta không thể bảo là, người Tàu chỉ quan tâm tới nguyên liệu và nhà băng. Quỹ quốc gia CIC có cổ phần tại General Motors cũng như tại Diageo PLC, một hãng sản xuất nước uống, mà cũng sản xuất rượu Whiskey Johnny Walker. Họ cũng có cổ phần bất động sản tại Úc.

Nước Tàu giàu có
Quỹ tiền tệ dự trữ Peking nhờ những thương mại xuất cảng bây giờ lên tới 2400 tỷ $. 2/3 số dự trữ này là tiền dollar, một phần nhỏ là tiền euro, yen và vàng. Số tiền dự trữ dollar khổng lồ này vừa là phúc lành mà cũng là tại họa. Nếu tiền dollar bị mất giá thì số tiền này cũng mất đi giá trị. Peking cố gắng, giảm bớt nguy cơ này bằng cách mua euro hay yen, hoặc đổi ngoại tệ. Cho dù Peking có làm gì, thì cũng không thể giải quyết hết những vấn đề của họ. Chỉ trong quý thứ tư năm 2009 số tiền dự trữ đã tăng thêm 140 tỷ $.
Ở Á châu người ta cố gắng nói khéo là sáng kiến Chiang-Mai không phải để cạnh tranh với IWF mà chỉ hỗ trợ thêm thôi. Tuy nhiên những nước có cổ phần trong ADB đã nói rõ là sự phát triển sẽ theo chiều của quỹ tiền tệ Á châu này. Không có khủng hoảng tài chánh và không có tiền thêm vào của Tàu thì chiều hướng phát triển này đã không đi nhanh như vậy, các nhà quan sát nghĩ như thế. Tàu càng ngày càng đóng một vai trò quan trọng trong cộng đồng quốc tế.

Những mục tiêu của Tàu ngoài những quyền lợi về kinh tế
Ở Á châu thì người ta chào mừng việc Tàu trở thành siêu cường tài chánh. "Rất khó mà mượn tiền trên thị trường", phó bộ trưởng tài chánh Nam Dương nói. Các thủ lãnh chính phủ Á châu không thích hỏi mượn IWF. Quỹ này đã làm cho cuộc khủng hoảng Á châu 97/98 trở nên trầm trọng hơn với những đòi hỏi họ phải tiết kiệm. Bất kể là ở Jakarta, Seoul hay Kuala Lumpur, người ta chưa quên những kinh nghiệm không tốt đó. Ngược lại người ta thích nhận sự giúp đỡ của Tàu. Vào đỉnh cao của cuộc khủng hoảng Subprime, Peking đã trao đổi ngoại tệ với Nam Hàn, Nam Dương, Mã Lai Á, Hongkong, Belorus và Á Căn Đình tổng cộng là 67,7 tỷ euro. Với sự trao đổi ngoại tệ này các nhà nhập cảng ở các nước đó có thể trả tiền cho hàng hóa Tàu trực tiếp bằng đồng Yuan.
Ngoài những quan hệ về kinh tế người ta chưa rõ Tàu có những mục đích gì. Một nhân viên IWF nói, người ta chưa thấy được rõ ràng chiến lược của Tàu. Bởi vì khi Pakistan xin mượn tiền vào mùa thu 2008, thì họ đã từ chối.


thd:
Hai kịch bản đang chờ đón Trung Quốc và Việt Nam: Thay đổi hoặc sụp đổ (RFI 30-1-10) -- Nguyên văn bài báo của Ngụy Kinh Sinh: China and Vietnam, economic giants on the brink of change or collapse (AsiaNews 29-1-10)
Phát biểu của Ngụy Kim Sinh tại Hội nghị chuyên đề về quyền con người ...
Trung Quốc và Việt Nam, hai chàng khổng lồ kinh tế bên vực thẳm của đổi thay hoặc sụp đổ

Nhân vật bất đồng chính kiến Trung Quốc nổi tiếng đã so sánh hai con hổ của nền Phát triển Châu Á và cảnh báo: phe đối lập trong nước đang gia tăng, và ngày càng kiên quyết hơn. Ngay cả phương Tây cũng đang thất vọng: chính sách dễ dàng của họ đối với các vi phạm nhân quyền đã không đi đến đâu, ngay cả cũng chẳng làm cho kinh tế khá hơn được...

Asia News, ngày 30/1/2010

Los Angeles - Ông Ngụy Kim Sinh, "cha đẻ của nền dân chủ" tại Trung Quốc, mạnh mẽ công kích những kẻi nghĩ rằng họ có thể đạt được sự phát triển kinh tế mà không cần đến các quyền con người. Trong một bài phát biểu tại một hội nghị chuyên đề về quyền con người và sự phát triển dân chủ ở Trung Quốc và Việt Nam, ông đã phác họa một tương đồng thú vị giữa hai nước. Cùng bị thống trị bởi một chế độ độc đảng, cùng sôi nổi phát triển, nhưng sự thiếu vắng những tiếng nói đối ngịch đã mang họ đến một cuộc cách mạng xã hội không thể tránh khỏi. Cùng lúc đó, thế giới tư bản, vốn đã cố gắng để hòa hợp với cả hai nước trong dây chuyền sản xuất, đã nhắm mắt lại trước các vi phạm nhân quyền, cũng tự nhìn ra chính mình trong cuộc khủng hoảng kinh tế hiện tại. Đây là văn bản đầy đủ của sự công kích, đã được trình bày tại Los Angeles cuối tuần qua.


Để hiểu được về nền dân chủ tương lai của Trung Quốc và Việt Nam, chúng ta cần làm một cuộc phân tích của cả hai nước, cũng như hiểu được môi trường quốc tế của cả hai. Kế đó để có thể hiểu được cả hai điều kiện thuận lợi và khó khăn cho chúng ta, và qua đó hướng dẫn các hành động của chúng ta.

Đặc tính xã hội hiện nay của cả Việt Nam và Trung Quốc là mặc dù cả hai nước đã chuyển thành loại quốc gia tư bản độc quyền quan liêu, bằng cách này cách khác họ còn khác với Nga và Đông Âu. Khác biệt lớn nhất là họ vẫn còn ở dưới chế độ độc tài độc đảng của Đảng Cộng sản. Không có sự cạnh tranh của một hệ thống đa đảng, cả hai nước đang thiếu một môi trường thoải mái hơn cho ngôn luận và các ấn phẩm mà cả Nga và Đông Âu đang có. Ở Việt Nam và Trung Quốc, rất là khó khăn cho phe đối lập tồn tại được ở trong nước, và phe đối lập ở nước ngoài đã gặp rất nhiều khó khăn để tham gia vào nền chính trị trong nước. Do đó, đã tạo nên một tình trạng rất khó khăn cho chúng ta.

Các cơ quan đặc biệt của Đảng Cộng sản đã trở nên rất hiệu quả. Với sự phân ly giữa bên trong và bên ngoài, họ đã cấy được các tác nhân của mình, đánh lạc phương hướng của chúng ta, nuôi dưỡng các mối bất đồng và thậm chí đưa đẩy phe đối lập vào các bẫy sập của họ. Điều này khiến cho một cuộc chuyển biến hay một cuộc cách mạng thúc đẩy bởi phe đối lập đoàn kết , có tổ chức và trù liệu hữu hiệu rất khó khăn. Ở giai đoạn hiện tại, hình thức đối lập chính yếu là do người dân tự lực sức mình bằng hành động tản mạn không tập trung để chống lại bạo ngược và sự bóc lột siêu đẳng về kinh tế. Các phương tiện truyền thông công cộng là những công cụ chính để huy động nhân dân. Các tổ chức bí mật theo lối cũ chỉ có thể hoạt động trong một quy mô nhỏ. Huy động toàn thể dân chúng chỉ có thể trông cậy vào các công cụ truyền thông đại chúng. Đây là lý do tại sao chế độ Cộng sản Trung Quốc rất chú ý đến việc ngăn chặn thông tin của cả báo chí và Internet.

Mặt khác, do việc khiếm khuyết các quyền cơ bản của con người, sự bóc lột, đàn áp bởi các nỗ lực kết hợp từ các quan chức chính phủ và giới doanh nghiệp còn trở nên thô bạo hơn do đó dẫn đến chống đối còn mạnh mẽ hơn. Do đó, lực lượng chuyển biến ở các nước như Trung Quốc, Việt Nam và Bắc Triều Tiên chủ yếu là từ thành phần trung lưu và thấp hơn. Các phương cách chuyển đổi không chỉ giới hạn ở những phương thức hòa bình. Chống đối bằng bạo lực thường trở thành sức mạnh chính để thúc đẩy xã hội thay đổi. Ngoài ra do mối quan hệ mật thiết giữa các quan chức chính phủ và giới doanh nghiệp, chính phủ đã đánh mất vai trò của họ trong các tranh chấp về kinh doanh. Những mâu thuẫn nội bộ trong chính phủ đã trở nên táo tợn hơn nhiều so với bất kỳ thời điểm và hoàn cảnh nào khác. Bề mặt của thế giới tội phạm cặn bã xã hội và quân đội riêng đã trở thành một thông lệ mới để hỗ trợ cho cuộc đấu tranh chính trị, do đó lại khiến xã hội càng kém ổn định phức tạp hơn.

Trong một vài thập kỷ qua, môi trường quốc tế đã rất bất lợi cho các lực lượng đối lập của các nước như Trung Quốc và Việt Nam. "Mô hình Trung Quốc" phát minh bởi Đặng Tiều Bình đã có thể mua chuộc được giới tư bản phương Tây qua cách chia sẻ lao động rẻ, do đó đã gián tiếp kiểm soát được chính trị và các viện nghiên cứu của phương Tây. Không thể nào thúc ép lực lượng xã hội chủ đạo phương Tây tự đầu hàng vì các quyền lợi của Đảng Cộng sản và từ bỏ các hệ thống giá trị của họ. Điều này đã dẫn đến kết quả là Phương Tây đã tiếp tục tiếp máu kinh tế của mình cho các nước cộng sản và xử dụng những chính sách nhân nhượng khoan dung đối với các nhà tư bản quan liêu kiểu mới của các Đảng Cộng sản. Trong suốt 16 năm của Tổng thống Mỹ Bill Clinton và George W. Bush, chính sách này nhân nhượng này đã đạt đến đỉnh cao của nó. Mối quan hệ giữa nền dân chủ phương Tây và chế độ độc tài châu Á chuyển từ đối đầu, đến khoan dung, và mở ra sự hợp tác. Các lực lượng đối lập ở nước ngoài của Trung Quốc và Việt Nam trở thành gai trong mắt các chính trị gia các nước dân chủ này. Sử dụng ngôn từ của một học giả cánh tả Mỹ nổi tiếng (để diễn tả là) : "những người hoạt động ủng hộ dân chủ chống cộng sản không thỏa mãn được dòng tư tưởng chính của Mỹ".

Tuy nhiên, hiện nay tình hình đang thay đổi. Mặc dù chính sách nhân nhượng vẫn chiếm chủ đạo nhưng nền kinh tế Phương Tây đang ở trong sự suy thoái chính từ cuộc tiếp máu của họ cho các nước cộng sản trong hơn một thập kỷ. Cái được gọi là lý thuyết về "kinh tế thị trường tư do" đã thua trận chiến của nó cho một nền kinh tế thị trường không tự do. Trong khi những người kinh doanh của cả hai phía Tây và Đông tạo được các siêu lợi nhuận thì giới ăn lương và tiền công không hề nhận được lợi ích của sự phát triển kinh tế. Do đó, thay vì mở rộng, thị trường teo lại, đó chính là nguyên nhân gốc rễ của sự suy thoái kinh tế toàn cầu. Vì vậy, các nước phương Tây bắt đầu nhận ra sai lầm lịch sử này và tự nhiên sẽ có biện pháp để sửa chữa. Họ phải từ bỏ chính sách nhân nhượng của mình với chính quyền Cộng sản, và khởi động lại một cuộc đối đầu và cạnh tranh mới. Họ nên bắt đầu cuộc đối đầu của mình từ việc bảo vệ thị trường trước.

Sự thay đổi này là điều kiện bên ngoài khiến có thể áp lực lên hệ thống quan liêu tư bản mới của Đảng Cộng sản hoặc là phải cải cách hoặc bị sụp đổ. Phe đối lập ở nước ngoài có một nhiệm vụ chính ngoài sự xử dụng liên tục các phương tiện truyền thông để tích cực huy động nền dân chủ và tự do. Nhiệm vụ mới này là, bằng sự hợp tác với một chính sách bảo vệ thị trường của các nước dân chủ, tự nhiên sẽ chống lại được chủ nghĩa yêu nước vốn sẽ được Đảng Công Sản huy động. Bằng cách vay mượn sức mạnh từ xã hội quốc tế, chúng ta có thể thúc đẩy những cải cách của hệ thống tái phân phối, hay cuộc cách mạng chính trị tại các quốc gia của chúng ta. Trận chiến thương mại này sẽ không làm lợi cho giới tư bản quan liêu; và sẽ chỉ có lợi cho người lao động ăn lương và đồng vốn tư nhân của đất nước chúng ta, và đó là biện pháp tốt nhất để thúc đẩy cuộc cách mạng dân chủ và để tránh khỏi các cuộc nổi dậy bị rối loạn.

Cuối cùng, tôi xin nói rõ, dưới một môi trường không có tự do ngôn luận cơ bản và tự do truyền thông, nhưng với một hệ thống kinh tế trưởng thành của chủ nghĩa tư bản quan liêu, cái gọi là " cách mạng tô vẽ của hòa bình, hợp lý và phi bạo lực" có thể chỉ là một trò phỉnh của sự lừa dối; nói đúng nhất đó là một sự hoang tưởng đẹp đẽ không thể nào hiện thực được.

nguồn: http://www.speroforum.com/a/26451/Ch...ge-or-collapse

thd:
Trung Quốc: After protests, China restricts seizure of land for redevelopment (WP 30-1-10) -- Trí thức TQ đứng lên phản kháng nhà cầm quyền chiếm đất của nông dân. Còn "trí thức" Việt Nam thì đang làm gì cho nông dân? Cho dân lao động?
Đại sứ Trung Quốc tại Anh: Madam Fu Ying (FT 29-1-30) -- Ăn trưa với bà đại sứ (Fu Ying = Phó Oánh). Bài hấp dẫn không ngờ! Liên hệ: China's new man in Washington (Foreign Policy 29-1-10) -- Zhang Yesui = Trương Nghiệp Toại
Trung Quốc - Anh - Tin tặc: China bugs and burgles Britain (London Times 31-1-10)
Nhật - Ẩm thực: One Noodle at a Time in Tokyo (NYT 31-1-10) -- Ăn mì ở Tokyo. Đọc bài này thiệt là "đã"!

Chính trị thế giới: End of the Rogue (Newsweek 29-1-10) -- The world that created 'rogue states' is gone, and the sooner Washington recognizes it, the better.

Vụ mất tích kỳ bí ở Trung Quốc
Nhiều tổ chức lo ngại cho sức khỏe và an toàn của một luật sư Trung Quốc.

Tổng số lượt xem trang