Thứ Ba, 16 tháng 2, 2010

Châu Á đầu năm: Giữa hợp nhất và cô lập (Cổ Lũy)

Châu Á đầu năm: Giữa hợp nhất và cô lập (Cổ Lũy)

Năm 2009 người viết đã nhiều lần hướng cái nhìn về Châu Á theo tầm mắt của những giới học giả, giáo sư đại học, nhà chiến lược và chuyên viên uy tín với xu hướng khác nhau - nói chung, đây là những người đã bỏ cả sự nghiệp, nếu không nói là đời mình để nghiên cứu, suy nghĩ và viết lách về một vùng địa dư chính trị, nhiều khi rất là thu hẹp và tưởng như không mấy quan trọng. Những bài viết nhìn vào đề tài như bước tiến và thụt lùi của “dân chủ,” cộng tác và đổ vỡ chính trị, phát triển kinh tế. ngoại giao và quân sự, vân vân.

Người viết cũng đặc biệt chú ý tới vùng ở giữa, phía Ðông và Ðông Nam, cũng như Tây Nam Châu Á (mà người Tây phương quengọi bằng cái tên miệt thị “Trung Ðông/Middle East.” Nói chung đây gồm những khu vực địa dư chính trị có thể ảnh hưởng lớn lao, gần cũng như xa đến Việt Nam. Bài sau đây không đi ra ngoài khuôn khổ và mục tiêu trên, giới thiệu cái nhìn độc lập của học giả Joshua Kurlantzick. Tập sách nghiên cứu quan trọng mới nhất của ông về chính sách ngoại giao Trung Hoa là Charm Offensive: How China's Soft Power Is Transforming the World (nhà xuất bản Yale University Press, 2007).

Như thường lệ, người viết sẽ trình bày những nét chính từ nghiên cứu của ông Kurlantzick, một thành viên thuộc viện nghiên cứu bang giao quốc tế uy tín, Council on Foreign Relations với tầm ảnh hưởng lớn vào chính sách ngoại giao Mỹ. Cũng như thường lệ, người viết đưa thêm các giải thích cần thiết và ý kiến của người học hỏi chính trị với mức vô tư và độc lập có thể được.

Mùa Thu năm 2008, nhân vật chính trong những thương thảo giữa Trung Hoa và Ðài Loan, ông Chen Yulin làm một thăm viếng lịch sử đến hòn đảo mà Bắc Kinh vẫn xem như một tỉnh “nổi loạn” chống lại mình. Ở thủ đô Ðài Bắc, ông Chen ký nhiều thỏa thuận mở rộng giao thông đi lại nhằm gia tăng liên hệ thương mãi và văn hóa từng thắt chặt hai đô thị lớn Ðài Bắc và Thượng Hải (nơi có hơn 100 nghìn “người Hoa di tản” trở về để ở và làm ăn lớn).

Hai sự kiện thấy rõ trong thăm viếng này: thứ nhất, ông Chen nhận được những đón tiếp vô cùng nồng hậu từ những nhân vật quan trọng nhất trên đảo, kể cả Tổng Thống Mã Anh Cửu rất cởi mở về “hòa giải, hòa hợp” hai vùng thù nghịch đã hơn sáu thập niên. Thứ hai, bên lề những gặp gỡ nồng hậu, một số dân chúng cũng đón tiếp ông với phẫn nộ cực kỳ; nhiều người biểu tình thuộc đảng Dân Chủ Tiến Bộ (vẫn khăng khăng đòi độc lập cho Ðài Loan) bao vây, hò hét phản đối và nhổ nước bọt vào xe ông.

Hai sự kiện khác biệt hẳn nhau nói trên như tiêu biểu cho một chuyển hóa đang xảy ra hầu khắp Châu Á: nhiều nơi như vần vũ trong cơn “điên cuồng,” hay một loạt những thay đổi có tính cách chiến lược với mầu sắc khá mâu thuẫn và có thể gây tác hại ghê gớm. Một mặt, nhiều xu hướng văn hóa, kinh tế và chính trị như chứng minh rằng các nước Châu Á đang hợp nhất với nhau hơn, đến mức nỗ lực đi tới ý thức chung về vị trí địa dư của mình. Lần đầu tiên các giới lãnh đạo tư tưởng (giới ưu quyền chính trị, giới lãnh đạo kỹ thương và giới ngoại giao cao cấp) đều đồng ý chấp nhận tiến trình hợp nhất với các định chế vùng, và nhìn về hướng hợp tác mật thiết với nhau.

Mặt khác, một số xu hướng ngược hẳn lại như đẩy dân chúng tới tinh thần quốc gia cực đoan vì các lý do chính: (a) dân chúng nhiều nơi như quên bài học lịch sử và không còn nhớ những hiểm nguy cùng cái giá phải trả cho chuyện tranh chấp giữa các nước; (b) thế hệ lãnh đạo mới ở Trung Hoa, Nam Hàn, Nhật Bản và nhiều nước khác rất quen thuộc với thái độ hung hăng, hiếu chiến trong chính trị; và (c) việc ráo riết tranh giành tài nguyên thiên nhiên mỗi ngày một nghiêm trọng giữa nhiều nước để phát triển kinh tế trong thời đại toàn cầu hóa.

Cơn “điên cuồng” trên có thể đưa đến những hệ quả khác biệt, nếu không nói là mâu thuẫn nguy hiểm. Tuy nhiên, đây cũng lại là cơ hội cho mọi người quan sát, suy nghĩ tìm hiểu, và nếu có thể, đẩy mạnh chuyển hóa cơn “điên cuồng” đầy tác hại về hướng tích cực.

“Châu Á là một với nhau”

Những khu vực Châu Á (xin tạm không kể vùng Tây Nam Á/“Middle East” rất đặc biệt) có thể nói là khác biệt nhau, hơn cả giữa các nước thuộc Liên Ðoàn Châu Âu (European Union, EU); nhưng thật sự những khu vực này “hợp nhất” với nhau hơn người ta nghĩ. Thời thập niên 1980, nhiều nước Châu Á không có cả liên hệ ngoại giao với nhau; ngày nay, ai cũng chú trọng hơn vào trao đổi thương mãi. Trong vài năm qua Trung Hoa đã thay thế Hoa Kỳ để thành nước với quan hệ thương mãi chính với Nam Hàn, Nhật Bản thuộc Ðông Bắc Thái Bình Dương, và Úc ở Nam TBD. Ðây xảy ra sau khi Bắc Kinh đã lập đầu cầu dân số, kinh tế và chính trị ở Ðông Nam Á, Tây Bắc, và đồng thời ở Tây TBD cũng như Tây và Tây Nam TBD - tuần tự với khu vực San Francisco, Los Angeles, các “đầu cầu Bắc Mỹ” Toronto, Montreal và nhất là Vancouver thuộc Canada, rồi các nước Trung và Nam Mỹ, và Phi Châu.

Bắc Kinh chọn con đường “thực dân cổ điển”: các vùng được chọn đều là nguồn cung cấp tài nguyên thiên nhiên hoặc phó sản, và nhân lực cần thiết nhưng với giá rẻ cho Trung Hoa; đồng thời đây cũng là thị trường tiêu thụ sản phẩm từ “mẫu quốc.” Như thường lệ, Bắc Kinh “gài” người vào địa phương với đầy quyền uy và ảnh hưởng về kinh tế, chính trị và văn hóa mà không cần phải xâm lăng trắng trợn với vũ lực. Những đại công ty hàng đầu Châu Á trong đó Trung Hoa đóng vai nổi trội nhắm nhiều hơn vào việc sát nhập với nhau và thu hút các nhà quản trị có tài trong vùng hơn là chèo kéo giới quản trị được huấn luyện ở Tây phương trở về. Giới đầu tư Ðài Loan đã đổ hơn $150 tỉ tiền đầu tư vào lục địa (xin xem hai bài Ðài Loan: Ảnh Hưởng “Tốt” Vào Trung Hoa? Người Việt, tháng 8, 2009, cùng người viết), và như “người Hoa với nhau” đi cùng mục tiêu khắc phục và khống chế rộng lớn với “găng tay nhung” (“velvet gloves,” che giấu quả đấm nghìn cân).

Một số lý do giải thích việc trao đổi và đầu tư ngoài biên giới này: thứ nhất, phát triển kinh tế đã khuyến khích đà đầu tư và thương mãi; thứ hai, thay đổi trong cơ cấu gia đình, gia tăng lợi tức cùng chuyển hóa tài sản đã làm nẩy sinh giai cấp trung lưu mới hầu khắp Châu Á với cùng lối sống và kiểu cách tiêu thụ; thứ ba, những phương tiện truyền thông, liên lạc mới mẻ giúp nhiều cho việc củng cố các liên hệ này. Ví dụ: “mốt” uống rượu vang đỏ hay nhuộm tóc hung từ Ðông Kinh hay Hán Thành đã lan tràn khắp nơi; hay, việc “xâm lăng” của phim ảnh ướt át kiểu “cải lương” Nam Hàn, những “trang mạng” tin tức, nghệ thuật khắp vùng, cũng như đại hội âm nhạc, phim ảnh với nghệ sĩ địa phương.

Quan trọng hơn hết: ngoài Hoa Kỳ, Trung Hoa như nước lãnh đạo trong vùng đã từ bỏ tham vọng quân sự thời 1990 để xét lại an ninh toàn diện. Như mọi đế quốc Châu Âu từ thế kỷ 16 và Hoa Kỳ sau đó cả trăm năm, Bắc Kinh định nghĩa an ninh của Trung Hoa thật xa, quá hẳn vùng địa dư chính trị chính thức của mình. Nay Trung Hoa đã bắt đầu cư xử như một cường quốc vai vế rõ ràng để trấn an nguyên vùng về ý định của mình. Bắc Kinh đã sẵn sàng làm trung gian hòa giải các mâu thuẫn trong vùng, cũng như công khai hóa ngân sách và các mục tiêu quốc phòng của mình (tuy đây không nhất thiết là toàn thể sự thật). Bắc Kinh cũng tham gia thao diễn quân sự chung, chống khủng bố, và trao đổi đi lại về mặt quân sự. Thêm vào đây, Bắc Kinh đã cố giảm thiểu tranh chấp về biên giới lãnh thổ với láng giềng qua những điều đình và thỏa nhượng. Nhưng đây có thể là với Nhật Bản và Ðài Loan; trường hợp hung hăng ở biển Ðông Việt Nam lại khác.

Người vốn rất bi quan về đường lối của Bắc Kinh, cựu Thủ Tướng Singapore Lý Quang Diệu cũng phải lên tiếng khen, “Trung Hoa đã ve vãn các nước láng giềng, và dù người Hoa không phát minh ra cụm từ 'đường lối ngoại giao mềm dẻo' họ đã hăng say áp dụng đường lối này.” Bắc Kinh cũng hăng hái đảm nhiệm vai trò ngoài định nghĩa “an ninh” thông thường, như ngăn ngừa bệnh dịch, kiểm soát cần sa ma túy qua việc trao đổi tin tức và điều hợp hành động với các cơ quan chế tài và tình báo Á Châu và Mỹ. Kết quả: Bắc Kinh được lòng hầu hết giới kỹ thương Ðài Loan; giới này “đền đáp” bằng cách áp lực chính quyền Ðài Bắc bỏ ý định “độc lập” với Bắc Kinh. Dư luận người dân trung bình Nam Hàn nay xem Trung Hoa không đáng lo sợ như Hoa Kỳ, dù Hoa Thịnh Ðốn từng bảo vệ quân sự cho Nam Hàn từ thập niên 1950 tới nay.

Những dây liên hệ gắn bó

Nổi bật trong mấy năm gần đây, nhiều khuynh hướng khác cũng đóng góp vào tiến trình hợp tác và hợp nhất trong vùng. Lợi tức khác biệt giữa dân chúng Trung Hoa và các nước láng giềng nghèo hơn như Lào, Miên và Miến Ðiện khiến người Hoa di dân đến đây để đi tìm cơ hội làm ăn và tài nguyên thiên nhiên. Người các nước nghèo hơn cũng đổ vào Trung Hoa để tìm công ăn việc làm ngắn hạn. Toàn vùng cũng cải thiện nhanh chóng hạ tầng cơ sở, đưa đến những liên hệ gắn bó giữa Trung Hoa, Nga, Ấn Ðộ, và Trung Á như: kế hoạch đường dẫn khí đốt từ Nga tới Trung Hoa; đầu tư hơn một tỉ đô-la từ Trung Hoa vào hải cảng mới Gwadar ở Hồi Quốc (Pakistan); việc mở rộng cửa khu đèo biên giới Hoa-Ấn Nathu La, trong vùng núi cao ngất Himalaya.

Ngoài ra, cải thiện hạ tầng cơ sở cũng đưa đến thay đổi ngoạn mục về di dân và đầu tư thương mãi: mức di động (mobility) của dân chúng nhiều nơi lên cao, kể cả mặt mở rộng tầm địa dư cũng như thăng tiến lợi tức qua cơ hội công ăn việc làm. Thành phố, đô thị mọc lên như nấm dọc theo đường sá, trục lưu thông mới xây cất ở Lào và Thái. Những nơi này thu hút hàng nghìn di dân đến đầu tư vào các khu “chế xuất” kỹ nghệ, “cho hay nhắm vào các 'ông chủ' Hoa,” và dĩ nhiên lôi cuốn vô số công nhân từ khắp vùng như Kyrgyzstan, Kazakhstan và nhiều nước tương tự về điểm giầu nhân công nhưng thiếu việc làm.

Về mặt khác, những luồng gia tăng về truyền thông và tin học có tác dụng phát triển ý thức về tư thế của vùng, cũng như những liên kết làm ăn hay làm thiện nguyện. Các thế hệ người Á trẻ tuổi thoải mái với tài sản kiếm được, và muốn tìm ý nghĩa cuộc đời trên mức vật chất đang chuyển hướng về những lý tưởng và hoạt động nhân đạo. Những tổ chức thiện nguyện như iVolunteers, lúc đầu lôi kéo giới trẻ Ấn Ðộ muốn tình nguyện làm việc thiện nguyện đã phát triển rộng đến nhiều giới trẻ khá giả ở nước khác.

Những trào lưu hợp nhất đã ảnh hưởng rộng vào kinh tế và an ninh trong vùng: trao đổi thương mãi đa phương và khuôn mẫu chính trị đã chuyển biến nhanh chóng trong thập niên vừa qua. Ngoài điều đáng chú ý là việc hạ thấp những hàng rào cản giao thương trong vùng, triển vọng thị trường tự do mậu dịch khắp Ðông Á xem ra rất gần gũi. Một loạt thương thảo về sử dụng tiền tệ chung giữa nhiều nước Châu Á đã xảy ra ngay cuối khủng hoảng tài chính thập niên 1990; vào ngày nào đó, đây có thể diễn tiến thành một thứ Quĩ Tiền Tệ Á châu (Asian Monetary Market Fund) hay Hợp nhất Tiền tệ Liên Á (Asian Monetary Union). Hơn nữa, nhiều giới ưu quyền (elite) Châu Á càng ngày càng nhìn về hàng xóm mình, thay vì các thế lực từ xa, để thấy rõ đường hướng kinh tế, thương mãi và an ninh. Người ta cũng coi trọng ngoại giao cá nhân cấp cao nhằm giải quyết các vấn đề tiêu cực hay ngăn chặn những xung đột trước khi chúng xảy ra.

Tinh thần quốc gia cực đoan

Ðồng thời với những thay đổi tích cực về kinh tế, văn hóa và chính trị khiến các nước trong vùng sát lại gần nhau, nhiều khuynh hướng khác cũng chỉ về hướng không những tiêu cực mà còn cả nguy hiểm nữa, nhất là tinh thần quốc gia cực đoan (extreme nationalism, hay cả jingoism). Nhiều chính quyền Châu Á vẫn theo đuổi một đường lối quốc gia hướng nội thực tiễn (hơn là hướng ra ngoài) với mục tiêu làm mạnh tiến trình xây dựng đất nước mình và quyền lực nhà nước. Loại tinh thần quốc gia thông thường này thường được sử dụng để đoàn kết một dân tộc bao gồm nhiều sắc dân khác biệt như trường hợp Singapore, hoặc để xóa mờ những khác biệt địa phương. Trong cùng mô thức này, một số nước tìm cách giúp dân chúng hãnh diện lành mạnh về văn hóa, sản phẩm cũng như các giá trị của mình. Ở Trung Hoa dân trẻ tuổi ở đô thị càng ngày càng tránh thời trang Tây phương và chuộng quần áo đắt tiền làm bởi giới thời trang quốc nội với nét và nhãn hiệu Trung Hoa.

Tuy nhiên, tinh thần quốc gia thực tiễn này đã không ngăn chặn một hình thức tinh thần quốc gia khác nguy hiểm hơn - nguy hiểm hiểu theo nghĩa tinh thần quốc gia này đặt căn bản trên những oán hận, giận dữ nhắm vào người ngoại quốc, và thông thường hơn hết là quá khứ lịch sử méo mó, để có thể bùng nổ nhanh chóng thành các biểu tình đầy phẫn nộ, hoặc tệ hại hơn nữa. Khác với người Châu Á thượng lưu, người Á cấp trung lưu hay thấp hơn thường không có cơ hội tiếp xúc với người cùng giai cấp mình ở nước láng giềng; do đó họ không rõ mấy về cuộc Thế Chiến 2 và “Ðông Dương” với ảnh hưởng làm “tan hoang” nguyên cả vùng chẳng hạn.

Các lên xuống, thay đổi “chóng mặt” về kinh tế những năm gần đây cũng khiến dân chúng nhiều nước nghiêng về tinh thần quốc gia cực đoan, chống đối toàn cầu hóa kinh tế và khuynh hướng bảo vệ kinh tế quốc nội. Chứng cớ cho thấy rõ ràng mức độ giận dữ và phẫn nộ lên cao trong khuynh hướng tiêu cực này. Dù “mốt miếc Nhật” rất phổ thông ở Trung Hoa, nhiều người ở đây ghét bỏ Nhật Bản thậm tệ. Người Nhật thăm viếng Trung Hoa thật đông, nhưng lại đồng ý với khằng định “Dân chúng Nhật không phải là hoàn hảo, nhưng văn hóa chúng tôi thuộc loại siêu đẳng hơn hết.” Mới đây 80 phần trăm người Ấn Ðộ nghĩ rằng “không thể tin tưởng vào Trung Hoa như một láng giềng chút nào.” Năm 2008, người Hoa quốc gia chê bai Bắc Kinh “cộng sản” ký kết một thỏa thuận về nhiên liệu với Nhật Bản; trước đó bốn năm người Hoa chống Nhật biểu tình bạo động trong cuộc tranh giải túc cầu Á Châu.

Trong nhiều trường hợp công chúng Á Châu chỉ tiêu thụ vừa đủ tin tức để làm những kết luận nhanh chóng - nhưng cũng không đủ để có những phân tích đầy đủ và vô tư về vùng họ sống và những gì chung quanh. Những phương tiện truyền thông mới như Internet, blogging, text messaging, tuy có thể đưa mọi người lại gần nhau nhưng cũng đưa những tiếng nói độc địa đến khắp nơi và thổi phồng lên những oán hận vô căn cứ.

(Còn tiếp)

Tổng số lượt xem trang