LẲNG LẶNG MÀ NGHE NÓ CHÚC NHAU
Đinh Từ Thức – Đả Đảng mừng xuân
Theo kể lại của những người tận mắt chứng kiến cảnh Tết ở Việt Nam, từ lâu rồi, vẫn có lệ, nhiều biểu ngữ được chăng khắp nơi vào dịp Tết, với bốn chữ: “Mừng Đảng Mừng Xuân”. Mừng Đảng trước, mừng Xuân sau. Đảng quan trọng hơn Xuân. Chẳng hiểu lệ này còn không. Nhưng theo dõi Tết trên Net năm nay, có một hiện tượng khá đặc biệt, là nhiều người, cả đảng viên cao cấp, cựu đảng viên và người ngoài đảng, đã đả kích Đảng khá nặng nề vào dịp mừng Xuân. Khiến cho Mừng Đảng Mừng Xuân thành Đả Đảng Mừng Xuân.
Mười ngày trước Tết, là kỷ niệm 80 năm thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (3 tháng 2). Nhân dịp này, Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh đã lên tiếng ca tụng thành tích của Đảng, và đồng thời khẳng định rằng Đảng sẽ ngăn chặn không cho các thế lực thù địch lợi dụng dân chủ và nhân quyền phá hoại cách mạng của dân tộc.
Nhưng, theo hãng AFP, những người phê phán hiện nay đã cho rằng chính các lãnh đạo Việt Nam là tác nhân bóp méo di sản của cách mạng khi sử dụng quyền lực phục vụ lợi ích cá nhân và làm tổn thương nền độc lập của đất nước bằng việc kết thân với Trung Quốc.
Theo Earth Times India Online ngày 4 tháng 2, cựu Tổng bí thư Đảng Cộng sản Lê Khả Phiêu đã viết một bài trên báo quốc doanh hôm 4 tháng 2, phê bình Đảng “tham nhũng, quan liêu và có ý thức hệ cá nhân”. Ông viết “Đảng không nhận ra là lòng tin của dân vào đảng và nhà nước đang xuống dốc trầm trọng vì các viên chức nhà nước và đảng viên không thể làm gương về đạo lý và trí tuệ.”
Một nhân vật quan trọng khác là Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh, nguyên đại sứ Việt Nam tại Trung Quốc từ năm 1974 đến năm 1989, hiện vẫn còn sinh hoạt đảng, đã nói với AFP rằng: ”Ngày nay, Đảng Cộng sản Việt Nam có khoảng ba triệu đảng viên, nhưng họ không còn sức mạnh, uy lực và lòng tin như trong quá khứ”. Theo ông Vĩnh, trong cuộc kháng chiến chống Pháp, Đảng Cộng sản không có bao nhiêu người nhưng đã đủ sức lãnh đạo cuộc nổi dậy và giành lại được độc lập. Cùng với một số người khác, tướng Nguyễn Trọng Vĩnh cho rằng người dân đã mất đi nhiều sự tin tưởng đối với Đảng vì cho rằng giới lãnh đạo hiện nay quá mềm mỏng trước Bắc Kinh.
Trong khi ấy, cựu Đại tá Bùi Tín từ Paris đã trả lời Aude Genet, trưởng phòng AFP tại Hà Nội về vai trò và vị trí của Ðảng CSVN trong lịch sử Việt Nam, rằng:
Đảng CSVN có vai trò lãnh đạo cuộc đấu tranh giành độc lập, lãnh đạo thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, đã thực hiện thống nhất đất nước, nhưng mặt khác – mặt này ít được chú ý vì bị họ che giấu kỹ – là đã buộc nhân dân phải trả bằng cái giá quá cao bằng sinh mạng, hàng triệu người chết (phần lớn là thanh niên cường tráng tuổi hoa niên), và hàng vạn đồng bào người Việt yêu nước trong các đảng phái chính trị khác bị họ thủ tiêu.
Đã vậy, sau hoà bình và thống nhất, Ðảng CS đã bỏ qua cơ hội hoà hợp hoà giải dân tộc để xây dựng đất nước phồn vinh. Đây là thất bại nặng nề nhất, bi thảm nhất, tệ hại lâu dài nhất. Họ đã nhân danh các “trại cải tạo”, trả thù, bỏ tù đày đoạ 20 vạn sỹ quan viên chức chế độ cũ, phân biệt đối xử theo tư duy hận thù, tạo nên bi kịch hàng triệu thuyền nhân, với không biết bao nhiêu người chết thê thảm trong biển cả.
Họ còn diệt trừ tư sản công thương nghiệp, diệt trừ nông dân cá thể, cưỡng bức tập thể hoá, tàn phá tận gốc nền sản xuất xã hội, rồi mới buộc phải đổi mới.
Trong khi ấy, nhạc sĩ Tô Hải, cựu đảng viên đang sống ở Sài Gòn, viết trên blog của mình:
“Chúng tôi, những người nay đã ở tuổi ngoài 80 là phải sống hèn suốt gần 20 năm, thấy Đảng sai, thậm chí có tội với lịch sử nhưng vẫn cứ phải răm rắp làm theo, viết theo để lo cho “nồi cơm của vợ con” (Nguyễn Khải), lo cho số phận chẳng biết vào tù hoặc đi cải tạo bất cứ lúc nào, nên suốt cả cuộc đời toàn là viết ra một đống “táp nham chẳng có một xu giá trị văn chương nghệ thuật” (trích Nguyễn Khải trong Đi tìm cái tôi đã mất, nghĩa là viết trái ngược với bộ óc và trái tim mình để tồn tại, thậm chí ca ngợi cả những kẻ đã giết bố mình là “đã cho mình một mùa xuân” là đã làm mình “sáng mắt sáng lòng!” Tình trạng nghĩ một đằng viết một nẻo hiện nay vẫn còn, còn nhiều, nhiều lắm…”
Rồi đến nhà văn Phạm Đình Trọng, trong thông báo quyết định bỏ đảng, viết:
“Nhưng giành hết chiến thắng của dân tộc về đảng, những người Cộng sản trở nên kiêu ngạo, tự mãn, lại càng tự tin vào tín điều Cộng sản! Lại say sưa đấu tranh giai cấp! Lại cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh! Lại hủy hoại khối lượng lớn của cải, làm tan hoang những cơ sở vật chất của một nền sản xuất công nghiệp tương đối phát triển! Lại hận thù dân tộc, đẩy hàng vạn người đã tham gia chính quyền cũ vào những trại cải tạo, gây chia rẽ, li tán trong lòng dân tộc! Thời cơ mất đi! Tiềm lực vô cùng quí giá để phát triển đất nước cũng mất đi! Đất nước bị đẩy đến tận cùng quẫn bách. Kinh tế kiệt quệ! Lòng người li tán! Thế giới cấm vận! Năm 1975, kinh tế Việt Nam ngang ngửa với các nước Đông Nam Á thì nay tụt lại sau vài chục năm!”
Dưới tựa đề “Đảng Cộng sản còn nợ đất nước một lời xin lỗi”, và sau khi ghi nhận hai công lao của Đảng trong việc lãnh đạo cuộc chiến giành độc lập và thống nhất đất nước, nhà phê bình văn học Nguyễn Hưng Quốc viết qua blog trên VOA:
“Nhưng bên cạnh đó, đảng Cộng sản đã vấp phải vô số sai lầm. Nhiều sai lầm đã trở thành tội ác. Trước hết là tội giết chết hàng chục ngàn người và đày đoạ hàng trăm ngàn người khác một cách thảm khốc và oan ức trong vụ cải cách ruộng đất trong nửa đầu thập niên 1950. Sau đó, tội trấn áp văn nghệ và trí thức trong vụ Nhân Văn – Giai Phẩm trong nửa sau thập niên 1950. Rồi tội tước đoạt tài sản của dân chúng miền Nam trong cái gọi là chiến dịch đánh tư sản mại bản; tội bắt bớ cả hàng trăm ngàn cựu quân nhân và công chức miền Nam đày vào các trại học tập cải tạo có khi kéo dài cả chục năm; tội ban bố các chính sách bao cấp độc đoán làm kiệt quệ nền kinh tế vốn đã què quặt sau chiến tranh. Cuối cùng, như là hậu quả của tất cả các tội ác vừa kể, đảng Cộng sản đã đẩy hàng triệu người phải bỏ nước ra đi, trong đó, có cả hàng trăm ngàn người phải bỏ xác trên đường vượt biển.”
Sự khốn cùng và lạc hậu kéo dài của đất nước sau 1975 là tội của đảng lãnh đạo. Thảm cảnh vượt biên của dân chúng cũng là tội của đảng lãnh đạo.
Trước đó, dưới tựa đề “Ngày đầu năm nhớ lại chuyện 50 năm”, nhà thơ Hoàng Hưng viết trên BBC:
“Chúng tôi là con em những gia đình 36 phố phường chấp nhận chia nhà sẻ cửa cho cán bộ kháng chiến về, miền Nam tập kết ra, những gia đình bị quy “tư sản” chấp nhận lui vào tít sâu bên trong những ngôi “nhà ống” nhường mặt tiền (mặt hái ra tiền) cho hợp tác xã, công ty hợp doanh, cửa hàng quốc doanh các kiểu (để rồi về sau sẽ biến thành nhà riêng của các cán bộ lãnh đạo những cơ sở ấy).
Trong số chúng tôi, không ít người đã “đấu tranh” với cha mẹ mình để các cụ “khai báo thành thật” tài sản với “đội cải tạo”, thậm chí có người “mách” với “đội” số vàng mà cha mẹ mình chôn giấu…
Đêm ấy là một đêm khó quên. Cả hội trường im phăng phắc chờ đợi. Từ cuối hội trường, có tiếng giày đinh dận từng bước oai vệ từ từ tiến lên.
Ngàn con mắt đổ về: ông D. trong bộ quân phục, ngực đỏ huân chương, đang làm cuộc “diễu binh một người” lên sân khấu: ông chính là bí thư Chi bộ Đảng Lao Động.
Và tôi đã run rẩy vì cái vinh dự được cầm cuốn tập san của lớp lên kính dâng Đảng, qua ông.
Ngày trọng đại qua chưa lâu thì chúng tôi nhận được một cái tin rụng rời: ông D. là đảng viên giả hiệu!
Thì ra, chính trong cái đêm “Đảng ra công khai” ấy, có một nhà báo của báo Quân đội Nhân dân đến dự đã phát hiện bộ mặt thật của ông D.
Ông đã lấy cắp thẻ Đảng của một thương binh nằm giường bên khi người này qua đời trong quân y viện!
Ít lâu sau, chúng tôi đi dự phiên toà xử ông D. tội giả danh, lừa đảo, tiếm quyền.
Con tim trong trắng của chúng tôi đã bị hằn một vết đen như thế.
Đó là một trong những lý do khiến suốt đời tận tụy phục vụ “công nông binh” nhưng tôi không bao giờ vào Đảng!
Và hôm nay, ngày đầu năm của thập kỷ mới, tôi hy vọng và cũng hết sức tin tưởng rằng mọi sự giả danh, lừa đảo, tiếm quyền sẽ bị phơi trần trước tòa án dân tộc.”
Chính chúng là tội phạm đánh cắp lý tưởng sống của chúng tôi, những con người tử tế.
Trước đây cả hai thập niên, trước khi các ông Lê Khả Phiêu, Nguyễn Trọng Vĩnh, Bùi Tín, Tô Hải, Phạm Đình Trọng, Nguyễn Hưng Quốc và Hoàng Hưng viết như trên, khi Đảng mới ở tuổi 60, một bậc thầy là luật sư Nguyễn Mạnh Tường, sau khi cung hiến cả tài sản và cuộc đời cho Đảng, nhưng từ chối vào đảng, đã viết trong phần cuối cuốn Một người bị rút phép Thông công (Un Excommunié):
“Nhân dân có quyền đặt cho Đảng vài câu hỏi: trước thủy triều dân chủ và tự do đang lên, tại sao các ông vẫn cứng đầu chối bỏ thực tế và cứ bấu víu một cách tuyệt vọng vào niềm tin lạc hậu không còn cứu vãn được nữa? Giữa chủ thuyết của các ông và quyền lợi của Tổ Quốc và nhân dân, các ông nghiêng về phía nào? Những đoá hoa các ông nhập cảng đang cắm trong bình đã héo tàn. Cho đến bao giờ các ông mới hết bướng bỉnh kính mến cái xác ướp không thể hồi sinh được nữa? Và, nhất là hãy giải thích cho dân cái lý do đích thực tại sao các ông căm ghét chế độ đa nguyên!…”
Những lời tuyên bố rỗng tuếch và những hứa hẹn làm bực mình vô tận, khiến người ta tự hỏi tại sao Đảng không áp dụng cho chính mình điều mà họ từng dạy rằng “Thú tội là đã được tha một nửa”. Làm thế nào những người cộng sản Việt có thể giải quyết xung đột quyền lợi giữa Đảng với Tổ Quốc và nhân dân? Quyết định của các ông về xung khắc này sẽ là cơ sở để nhân dân và Lịch Sử phán xét các ông và Đảng của các ông.
Dư luận thấy các ông có những bước đầu trên con đường “đổi mới”. Như thế các ông đã bắt đầu thú nhận thất bại của mình. Nhưng các ông, cũng như phía nhân dân, có bằng lòng về giải pháp nửa vời chỉ có tác động chữa trị trên một vài lãnh vực được định sẵn, trong khi căn bệnh tấn công khắp cơ thể quốc gia và các cấu trúc của nó? Các ông thích kiêu hãnh về những hy sinh lớn lao ngay cả đời mình để vinh danh Đảng. Chủ nghĩa anh hùng của các ông có làm các ông lùi bước trước sự hy sinh của Đảng trên bàn thờ Tổ Quốc và nhân dân? Nước Việt Nam và lịch sử Việt Nam đang chờ câu trả lời của các ông.
© 2010 Đinh Từ Thức
© 2010 talawas
Thông tin về việc hai tỉnh Lạng Sơn và Quảng Ninh đã cùng với nhiều tỉnh khác âm thầm cho 10 doanh nghiệp nước ngoài thuê đất rừng đầu nguồn dài hạn (50 năm) để trồng rừng nguyên liệu với tổng diện tích hơn 305 nghìn ha, trong đó Hồng Kông, Đài Loan, Trung Quốc chiếm trên 264 nghìn ha, ở các tỉnh miền biên giới.
- GS Cao Huy Thuần: Tình thư (Tuần VN).
- GS Cao Huy Thuần: Tình thư (Tuần VN).
Tấn công từ chối dịch vụ DoS và DDoS

MẸ TÔI CHỬI THỀ--- vo dac danh
Mẹ tôi vốn nổi tiếng hiền lành, phúc hậu, ăn nói nhẹ nhàng, từ tốn, chưa bao giờ biết lớn tiếng hay nặng lời dù là với đàn gia súc gia cầm mất nết. Nhưng nay, tuổi 85, bỗng dưng bà chửi thề vì cảm thấy mình bị xúc phạm.
Số là, gần Tết, bà nhận được thông báo ngày mai lãnh đạo tới thăm Mẹ Việt Nam Anh Hùng. Sáng, bà lui cui chuẩn bị trà nước để đón khách. Lại được thông báo: Lãnh đạo bận việc nên dời lại chiều mai, cho lãnh đạo xin lỗi. Ừ, lỗi phải gì, các con cuối năm tất bật mà, mẹ chẳng trách đâu. Hôm sau lãnh đạo tới, lễ phép kính thưa, thăm hỏi và trân trọng tặng Mẹ năm trăm ngàn xài Tết.
Chuyện cũng bình thường như cái lẽ tất nhiên của lãnh đạo đối với bà trong mấy chục cái Tết đã qua, từ khi bà còn ở Cà Mau cho đến khi lên Sài Gòn. Nhưng cái khác thường của năm nay là khi bà đi lãnh tiền trợ cấp BMVNAH thì bị trừ năm trăm ngàn vì "lãnh đạo đã trao trực tiếp tận nhà rồi".
Bà chửi thề một câu rồi nói: "Thì ra nó lấy tiền của tao để tặng tao".
Lão nông “liều mạng”-- NLĐO
Mỹ Trung Quốc hục hặc nhau có tạo cơ hội cho Việt Nam không? (Phong Uyên)
Để phát huy sức mạnh mềm Việt Nam
Thống đốc Nguyễn Văn Giàu: Mọi người lo một thì chúng tôi lo mười! (CPhủ).
Người buôn tiền thời mở cửa--- CafeF
Nguyễn Trường Tộ và khát vọng canh tân
Tương lai của các quyết sách: Bớt trực giác, thêm bằng chứng
Số phận con cọp trong thế kỉ 21Doing business in Vietnam (The Hindu)
- Việt Nam ngày nay: kẻ ăn không hết, người lần không ra (RFA).
- Chùm ảnh: Tết của những người lang bạt (VNN).
- Trung Quốc tiếp tục tăng lượng tiền dự trữ bắt buộc (TTXVN). – Trung Quốc xây nhiều nhà giá rẻ để ngăn “bong bóng” nhà đất (PLTP)
China Alarmed by Security Threat From Internet (NYT 12-2-10)
Kinh tế học, vì sao nên nỗi? (1)--- CafeF
Việt Nam là quân cờ domino đầu tiên của châu Á
Shawn W Crispin
Ngày 10-2-2010
BANGKOK – Trong khi thị trường thế giới lo ngại về các khoản nợ bảo đảm bởi chính phủ châu Âu, liệu Việt Nam có thể là quân cờ domino kinh tế đầu tiên ở châu Á bị kích thích quá mức hay không? Với [chính sách] tiền tệ không vững chắc, việc cho vay dễ dàng và nhanh chóng của ngân hàng, cùng với thái độ thiếu tin tưởng trong nước đối với sự quản lý kinh tế của chính phủ, Việt Nam nổi lên như là ứng viên hàng đầu trong khu vực về việc bất ngờ định giá lại thị trường đối với tác động tài chính của các nguồn chi tiêu của chính phủ, thường do phân bổ không hợp lý cũng như chi tiêu quá nhiều trong thời gian gần đây.
Đằng sau các khoản kích thích kinh tế rất lớn của chính phủ, năm ngoái Việt Nam đã [tăng trưởng] tốt hơn một số nước trong khu vực với mức tăng trưởng tổng sản phẩm quốc nội GDP là 5,5%. Để chống lại tình trạng suy thoái kinh tế toàn cầu, chính phủ đã cam kết những gói kích thích kinh tế ở mức độ khác thường, lên tới 8% GDP. Mặc dù chưa tới một nửa số tiền đó đã thực sự được chi tiêu, song mức chi tiêu trong ngân sách và số cho vay của ngân hàng nhà nước ngoài ngân sách đã giúp nền kinh tế tránh được cuộc khủng hoảng toàn cầu.
Với dấu hiệu [kinh tế] toàn cầu đang hồi phục, chính phủ do đảng CS lãnh đạo đã phát đi tín hiệu về ý định muốn kềm chế các khoản kích thích và đưa nền kinh tế trở lại mức tăng trưởng bằng định hướng xuất khẩu. Thế nhưng, tình trạng thiếu phối hợp về chính sách khắp các doanh nghiệp và các cơ quan nhà nước đã làm xói mòn hơn nữa niềm tin trong nước đối với chính phủ về khả năng kiểm soát lạm phát trong tương lai, và ở một mức độ đáng kể, nó đã phá hủy các nỗ lực quan trọng trong việc kiềm chế sức ép lên đồng nội tệ và thị trường bất động sản quá nóng.
Tình trạng phân cách giữa mệnh lệnh của trung ương với phản ứng không tuân phục từ bên dưới đã thể hiện rõ vào năm ngoái, khi nhiều ngành công nghiệp xuất khẩu đã bị từ chối đổi ra tiền mặt số tiền đô mà họ thu về từ hoạt đông xuất khẩu để lấy tiền đồng theo tỉ giá hối đoái chính thức. Tính đến tháng mười, chênh lệch giữa tỉ giá chợ đen và tỉ giá chính thức lên tới 9%, và sự chênh lệch đó đã buộc chính phủ phải quyết định hạ giá tiền đồng 5% vào tháng mười một bằng cách nới rộng biên độ trao đổi ở mức chấp nhận được. Thậm chí với việc giảm giá tiền đồng như vậy, các nhà phân tích tài chính chuyên theo dõi tình hình đã nhận xét là vẫn còn có một khoảng cách 5% giữa tỉ giá chính thức và tỉ giá chợ đen.
Một yếu tố gây nên tình trạng méo mó này là các khoản hỗ trợ lãi suất của chính phủ, biện pháp được thực hiện vào năm ngoái như là một phần của gói kích thích nhằm khuyến khích thêm các khoản vay trong nước. Chính sách này đã giảm bớt một cách hiệu quả lãi suất cho vay từ 10% xuống còn 6,5% và sinh ra các khoản cho vay mới, rất lớn, trị giá khoảng 24 tỉ đô la, tức là gần 23% GDP. Theo Standard & Poor’s, một tổ chức đánh giá mức độ tín nhiệm, mức tăng trưởng tín dụng cho vay của Việt Nam đã tăng 37% so với năm trước.
Các nhà phân tích tài chính cho rằng, do gần như không có nhu cầu sử dụng vốn luân chuyển giữa các doanh nghiệp nhà nước (DNNN) và những công ty xuất khẩu tư nhân mà đã nhận được những khoản tín dụng mới với giá trị rất lớn, nên phần lớn lượng tiền đó đã được xoay vòng ở thị trường chứng khoán trong nước. Khả năng thanh toán bằng tiền mặt tự do không được kiểm soát, đã góp phần làm cho thị trường chứng khoán Việt Nam trở thành một trong những nơi hoạt động sôi nổi nhất thế giới trong suốt nửa đầu năm 2009; và rồi sau đó nó đột ngột suy giảm vào nửa sau của năm.
Có điều không rõ ràng đối với các nhà phân tích tài chính và các nhà phân tích của chính phủ là, có bao nhiêu trong tổng số 24 tỉ đô la vừa được cho vay trong năm ngoái đã bị thua lỗ trong việc đầu tư ở thị trường chứng khoán. Kim Eng Tan, một nhà phân tích tài chính công và thuộc Standard & Poor’s, đã bày tỏ những mối quan ngại ban đầu của mình về tốc độ gia tăng 37% các khoản tiền cho vay năm ngoái. Ông nói rằng các bảng cân đối thu chi của các ngân hàng lớn ở Việt Nam nằm ở mức “hợp lý” vào cuối năm 2008, song điều mà “chúng ta cần là thấy nó thay đổi như thế nào sau làn sóng cho vay mới”.
Từ quan điểm của chính phủ, đợt cho vay tiền dễ dãi đó là nhằm để ngăn ngừa trước một đợt thất nghiệp tăng cao vào ngay thời điểm những ngành công nghiệp xuất khẩu có sử dụng lượng lớn nhân công đang phải đối mặt với tình trạng gần như sụp đổ trong trao đổi mậu dịch toàn cầu. Ban lãnh đạo Đảng Cộng sản rõ ràng là muốn tránh lặp lại tình trạng bất ổn xã hội mà họ đã từng chứng kiến hồi năm 2008, khi lạm phát lên tới đỉnh điểm, vượt khỏi mức 25% và thất nghiệp lan rộng cả nước, ở các xí nghiệp trong nước lẫn nước ngoài làm chủ.
Lạm phát phi mã cũng đã góp phần vào tình trạng thiếu hụt rất lớn lượng tiền mặt thanh toán, vì hàng hóa nhập khẩu của các công ty để đầu cơ, nằm trong kho ngày càng nhiều, dẫn đến tình trạng giá cả và nhu cầu tăng cao.
(đoạn này có nghĩa là: lạm phát phi mã làm cho các công ty mua hàng với giá thấp để sẵn trong kho sau này bán giá thật cao do lạm phát – gọi là đầu cơ tích trữ, hay arbitrage – việc này gây ra: 1- giá tăng cao; 2-thiếu tiền mặt thanh toán, vì tiền chôn trong số hàng nằm trong kho-người hiệu đính). Việc mất kiểm soát kinh tế được biết đến là đã làm suy yếu vị thế của vị Thủ tướng có khuynh hướng tự do Nguyễn Tấn Dũng, người mà một số nhà phân tích dự đoán rằng ông cố gắng tránh tình trạng lạm phát nghiêm trọng do suy thoái kinh tế toàn cầu dẫn tới sự sụp đổ giá cả hàng hóa. Một số nhà phân tích tin rằng những người bảo thủ trong đảng có thể trở lại nắm quyền trong Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 11 dự kiến khai mạc vào tháng 1-2011.
Ông Carlyle Thayer, một chuyên gia về Việt Nam thuộc Học viện Quốc phòng Australia, đã nêu rõ trong các bản báo cáo rằng giới bảo thủ trong đảng đã yêu cầu ông Dũng từ chức tại một cuộc họp ban chấp hành trung ương năm 2008 khi người ta thấy cung cách quản lý kinh tế yếu kém của ông. Sự chia rẽ trong chính sách giữa giới bảo thủ và phái tự do trong đảng liên quan tới tốc độ phát triển và phạm vi hội nhập của Việt Nam vào nền kinh tế toàn cầu và ảnh hưởng của nó đối với sự ổn định trong nước và khả năng quản lý của nhà nước đối với nền kinh tế, theo nhận xét của ông Thayer.
“Giới bảo thủ theo đuổi việc duy trì nguyên tắc một đảng [cầm quyền], giữ trật tự và ổn định, với sự kiểm soát của nhà nước đối với các thành phần kinh tế mà họ coi như là ‘những con bò sữa’ của mình”, ông Thayer đã viết như vậy trong một bức thư điện tử gửi cho Asia Times Online. “Chẳng hạn như, rõ ràng là tiến trình cải cách các doanh nghiệp nhà nước đã bị chựng lại. Những người [như ông Dũng] thúc đẩy việc gia tăng hội nhập toàn cầu muốn nhìn thấy những tác động của thị trường đóng vai trò lớn hơn”.
Trong khi chương trình tự do hóa kinh tế và tài chính rộng lớn của ông Dũng vẫn đang đi đúng hướng, thì có những dấu hiệu cho thấy rằng các thành phần bảo thủ đang khẳng định uy thế nhiều hơn trong quản lý kinh tế. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNNVN) đã quy định rằng, các ngân hàng nhỏ, từng góp phần vào cuộc khủng hoảng thông qua việc cho vay tràn lan vào năm 2008, phải tăng gấp ba lần số vốn cơ bản của mình vào cuối năm nay hoặc phải đối mặt với việc đóng cửa. Chính phủ cũng đã ra lệnh đóng cửa các sàn giao dịch vàng trên khắp cả nước – một hạn chế sẽ tạo nên ảnh hưởng đầy đủ vào tháng ba này trong một nỗ lực nhằm chặn đứng tình trạng đô xô đi mua vàng, làm giảm giá trị đồng nội tệ.
Áp lực và biến dạng
Những thử nghiệm mang tính kỹ trị mới đang nổi lên với những dấu hiệu lạm phát, tình trạng thâm thủng mậu dịch và sức ép liên tục theo chiều đi xuống làm giảm giá trị đồng nội tệ so với đồng đô la vốn đã yếu trên toàn cầu. Thậm chí với việc giảm giá trị đồng nội tệ xuống 5% vào tháng mười một năm ngoái và quyết định tăng đột ngột mức lãi suất cơ bản từ 10% lên 12%, các doanh nghiệp nhà nước và các công ty tư nhân tiếp tục tích trữ đô la thay vì tiền đồng, cho thấy tình trạng thiếu tin tưởng ở trong nước đối với sự ổn định của Ngân hàng NNVN hoặc thái độ sẵn sàng kiểm soát tình trạng lạm phát của cơ quan này.
“Ngân hàng trung ương cần gửi đi một tín hiệu kiên quyết tới thị trường rằng họ sẵn sàng bảo vệ biên độ dao động của đồng tiên, có lẽ bằng việc nâng cao lãi suất hơn nữa”, theo ý kiến của ông Sriyan Pieterz, trưởng bộ phận nghiên cứu của JP Morgan tại Bangkok. “Nếu không làm được điều đó, thì rủi ro mà họ sẽ chịu là để mất đi các nguồn đầu tư nước ngoài trực tiếp FDI trong tương lai, do tiền tệ không ổn định”.
Một tỉ đô trái phiếu phát hành đã được các nhà đầu tư nước ngoài mua hết hồi tháng một, nhưng các nhà phân tích cho rằng vẫn chưa đủ để làm giảm bớt sức ép vây quanh đồng tiền nội tệ. Đồng tiền cần phải nhận được một biện pháp ứng cứu ngắn hạn từ những dòng tiền gửi tiết kiệm liên quan tới kỳ nghỉ Tết trong tháng này, song nhiều nhà phân tích tin là NHNNVN cần nâng lãi suất ít nhất thêm 3% nữa để đánh thuế mạnh vào những người muốn đổi từ tiền đồng sang đô la.
Trong lúc NHNNVN chỉ là một nguồn chính thức duy nhất để chuyển đổi ngoại hối trong nước, thì chính phủ duy trì biện pháp kiểm soát vốn chặt chẽ để bảo vệ đồng tiền nội tệ. Theo quy định của luật pháp, các công ty và doanh nghiệp chỉ được phép giữ đủ số ngoại tệ để trả nợ và giải quyết các hoạt động mua bán kinh doanh hiện tại của mình. Tuy nhiên trong quý ba năm ngoái, 27% trong số toàn bộ khả năng thanh toán bằng tiền mặt của hệ thống tài chính trong nước đã chạy từ tiền đồng sang đô la, theo JP Morgan.
Bất chấp những kiểm soát tiền tệ, các DNNN theo ước tính vẫn cầm giữ lượng ngoại tệ chủ yếu được cho là bằng đô la vào khoảng 10 tỉ. Đáng chú ý, mới đây họ đã coi thường một thông tư do chính phủ ban hành đặc biệt nhắm vào 10 DNNN lớn phải gửi tiền đô la của mình vào ngân hành, bao gồm Tập đoàn Dầu khí VN, Tập đoàn Than và Khoáng sản VN và Tổng công ty Hóa chất Quốc gia VN.
Theo bản thông tư này, các DNNN đã chuyển hơn 3 tỉ đô la trong số ngoại hối mà họ nắm giữ cho NHNNVN vào cuối năm ngoái; kể từ đầu tháng hai, họ chỉ đưa ra 300 triệu đô la, theo như các nhà phân tích theo dõi tình hình cho biết. Thái độ thách thức, theo như các nhà phân tích nói, đã góp phần cho hành động miễn cưỡng của NHNN phải bơm thêm tiền mặt lưu thông vào thị trường nhằm bảo vệ đồng bạc nội tệ. Theo các thống kê chính thức thì NHNN hiện nắm giữ lượng dự trữ ngoại tệ trị giá vào khoảng 16 tỉ đô la.
Trong khi Việt Nam rõ ràng là rập khuôn theo lề lối chi tiêu tài khóa khác thường của Trung Quốc trong chính sách ứng phó đối với cuộc suy thoái kinh tế toàn cầu, Hà Nội so với Bắc Kinh tỏ ra thiếu khả năng kiểm soát từ thượng tầng xuống, điều đã cho phép Bắc Kinh có nhiều thẩm quyền kiểm soát hãm đà hơn đối với những chương trình kích thích kinh tế của họ. Khi cuộc chiến giành giật đồng ngoại hối hiện tại cho thấy rõ, thì các DNNN lớn của Việt Nam vẫn thường được điều hành như những lãnh địa riêng của các thành viên Đảng Cộng sản đầy quyền lực với đầy đủ sức mạnh ảnh hưởng, coi thường những chỉ thị của trung ương.
Một số nhà phân tích tin chắc rằng các DNNN của VN lâu nay luôn làm ăn thua lỗ, rốt cuộc đang giành được những điều kiện thuận lợi từ chính sách của nhà nước. Đối với các doanh nghiệp khác, rõ ràng là luôn thiếu sự minh bạch và trách nhiệm giải trình từ các DNNN lớn và dấy lên những lo ngại mới về số lượng bao nhiêu tỉ đô la từ các khoản vay của ngân hàng mà họ đã nhận được vào năm ngoái đã được đưa vào sử dụng. Việc thúc đẩy cho vay của chính phủ hồi năm ngoái giống như cái phễu hút nguồn tiền vào các hoạt động đầu cơ trên thị trường chứng khoán, giờ đây có vẻ như [số tiền đó] đang đẩy giá nhà đất tăng cao, đặc biệt ở Thành phố Hồ Chí minh.
Điều rõ ràng hơn là Việt Nam vẫn thiếu sự kết hợp chính sách có hiệu quả trong khắp các cơ quan và doanh nghiệp vào thời điểm mà các giới chức kinh tế cần cho thị trường thấy một cam kết được làm mới nhằm duy trì sự ổn định giá cả và kinh tế vĩ mô. Việc thiếu kiểm soát cũng gợi lên những dấu hỏi về các giải pháp chắp vá của ngân hàng trung ương trước làn sóng lạm phát năm 2008 và năng lực kỹ trị của cơ quan này trong việc ngăn chặn những sức ép lạm phát mới đang nổi lên, trong đó có thị trường bất động sản.
Ông Pietersz của JP Morgan cho biết, các giới chức liên quan đều “rất lanh lẹ và tận tụy”, song vẫn “đang học hỏi qua việc thực hành” trong lĩnh vực quản lý kinh tế. Các nhà phân tích khác thì nói rằng không rõ là chính phủ bị chia rẽ về chính trị từ bên trong liệu có giảm bớt những giải pháp kích thích của năm ngoái do sự chính trị hóa thời gian sắp diễn ra Đại hội Đảng toàn quốc vào năm tới.
Rút cục thì chính phủ không thể đóng cửa toàn bộ nền kinh tế … song những khả năng lạm phát mà người ta trông đợi sẽ phải được níu chặt lại bằng cách nào đó”, ông Tan thuộc Standard & Poor’s nhận xét. “Nếu như lạm phát diễn ra ở mức cao trong một thời gian dài, thì sẽ nguy hiểm trầm trọng”.
Một nhà phân tích với một ngân hàng đầu tư Âu châu đánh giá rằng “cái ngày kết toán” của Việt Nam là “không thể tránh khỏi do sự bất lực của chính phủ trong việc nâng mức dự trữ quốc gia” và rằng đất nước này sẽ phải đối mặt với “những cú phá giá đồng bạc gây chấn động” cho tới khi ngân hàng trung ương được độc lập hơn trước những nhân vật bảo thủ trong đảng.
Bất chấp những sức ép gần đây lên đồng nội tệ, ông Tan cho là Việt Nam không bộc lộ những dấu hiệu của một “cuộc khủng hoảng tiền tệ cổ điển” do “mức vay bên ngoài phần lớn vẫn nằm trong sự kiểm soát” và “FDI duy trì tốt”. Không giống như các quốc gia mắc nợ do các đòn giáng xuống từ cuộc khủng hoảng tài chính ở châu Á năm 1997-1998, ông lưu ý, gánh nặng nợ nần của Việt Nam thì vừa phải do phần lớn nó nằm trong nguy cơ thấp, với những khoản vay ưu đãi dài hạn.
Nhưng khi việc giám sát chặt chẽ thị trường đối với khu vực tài chính công gia tăng mạnh ở châu Âu, mức độ rủi ro từng quốc gia riêng rẽ ở châu Á sẽ ngày càng được lượng định bởi quan niệm của nhà đầu tư về cách thức chính quyền quản lý và chi tiêu ra sao qua các giải pháp chi tiêu tài khóa mạnh mẽ được thực hiện mới đây. Các địa phương ở Việt Nam đã cho thấy rõ sự hồ nghi của họ trước sự quản lý của chính phủ và lịch sử cho thấy các ý kiến từ nước ngoài thường đi chậm song rốt cục lại đi theo những người bản xứ hướng tới những thị trường ngày càng có độ rủi ro cao.
Khi những nỗi lo sợ về căn bệnh truyền nhiễm trong chi tiêu tài chính nhà nước dấy lên ở Âu châu, Việt Nam có vẻ như là ứng viên hàng đầu cho một cơn khủng hoảng lòng tin tương tự tại châu Á.
Hiệu đính: Ngọc Mai Bản tiếng Việt © Ba Sàm 2010
Từ cuối tháng 12-2009 cho tới nay, nhiều trang mạng như Bauxite Việt Nam, talawas, X-cafevn, Dân Luận… vẫn thường xuyên bị tấn công từ chối dịch vụ.
Trang Dân Luận giới thiệu vài dòng về hình thức tấn công này tới độc giả. Trong một bài viết khác, Dương Ngọc Thái, một trong những hacker hàng đầu của Việt Nam và cũng là người phát hiện kỹ thuật hack được đưa vào “top ten” của năm 2009, giới thiệu với độc giả cách phòng chống kỹ thuật tấn công từ chối dịch vụ với bài “Giám sát an ninh mạng – hay là làm thế nào để ngăn chặn một cuộc tấn công DDoS trong 20′.“
Underestimating China (Washington Times 12-2-10)
Thái Lan phản ứng vụ phá giá tiền đồng (BBC 12-2-10) -- Báo Thái: Manufacturers, exporters lament loss of competitive edge from new dong devaluation (The Nation (Bangkok) 12-2-10) -- Dong devaluation 'will hit exports' (Bangkok Post 12-2-10), Dong impact limited (Bangkok Post 12-2-10) -- Thais unfazed by Dong devaluation (The Nation (Bangkok) 12-2-10)
Xe khách lao vào nhà dân khiến hai người chết VNExpress
2h sáng 13/2, trên tuyến Quốc lộ 1A, tại thị trấn La Hà, huyện Tư Nghĩa (Quảng Ngãi), một chiếc xe khách sau khi tông gãy một trụ điện đã tiếp tục làm sập, gây hư hỏng ba nhà dân, khiến hai người chết tại chỗ. Theo biên bản làm việc của công an huyện ...
Buồn ngủ, lái xe khách lao vào nhà dân, 2 người chếtNgười Lao Động
Quảng Ngãi: xe khách lao vào nhà dân, hai người chếtTuổi Trẻ
Quảng Ngãi: Tai nạn giao thông, 1 người chết, 3 người bị thương nặngĐài Tiếng Nói Việt Nam
XãLuận.com tin tức việt nam 24h cập nhật
2h sáng 13/2, trên tuyến Quốc lộ 1A, tại thị trấn La Hà, huyện Tư Nghĩa (Quảng Ngãi), một chiếc xe khách sau khi tông gãy một trụ điện đã tiếp tục làm sập, gây hư hỏng ba nhà dân, khiến hai người chết tại chỗ. Theo biên bản làm việc của công an huyện ...
Buồn ngủ, lái xe khách lao vào nhà dân, 2 người chếtNgười Lao Động
Quảng Ngãi: xe khách lao vào nhà dân, hai người chếtTuổi Trẻ
Quảng Ngãi: Tai nạn giao thông, 1 người chết, 3 người bị thương nặngĐài Tiếng Nói Việt Nam
XãLuận.com tin tức việt nam 24h cập nhật
MẸ TÔI CHỬI THỀ--- vo dac danh
Mẹ tôi vốn nổi tiếng hiền lành, phúc hậu, ăn nói nhẹ nhàng, từ tốn, chưa bao giờ biết lớn tiếng hay nặng lời dù là với đàn gia súc gia cầm mất nết. Nhưng nay, tuổi 85, bỗng dưng bà chửi thề vì cảm thấy mình bị xúc phạm.Số là, gần Tết, bà nhận được thông báo ngày mai lãnh đạo tới thăm Mẹ Việt Nam Anh Hùng. Sáng, bà lui cui chuẩn bị trà nước để đón khách. Lại được thông báo: Lãnh đạo bận việc nên dời lại chiều mai, cho lãnh đạo xin lỗi. Ừ, lỗi phải gì, các con cuối năm tất bật mà, mẹ chẳng trách đâu. Hôm sau lãnh đạo tới, lễ phép kính thưa, thăm hỏi và trân trọng tặng Mẹ năm trăm ngàn xài Tết.
Chuyện cũng bình thường như cái lẽ tất nhiên của lãnh đạo đối với bà trong mấy chục cái Tết đã qua, từ khi bà còn ở Cà Mau cho đến khi lên Sài Gòn. Nhưng cái khác thường của năm nay là khi bà đi lãnh tiền trợ cấp BMVNAH thì bị trừ năm trăm ngàn vì "lãnh đạo đã trao trực tiếp tận nhà rồi".
Bà chửi thề một câu rồi nói: "Thì ra nó lấy tiền của tao để tặng tao".
Lão nông “liều mạng”-- NLĐO
Không thể kìm lòng trước nỗi khốn khó của bà con nông dân, ông đã viết một bức tâm thư gửi Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng
Càng trò chuyện với ông Út Lam, tôi càng ngỡ ngàng vì không thể ngờ một lão nông ở miệt vườn lại rành rẽ nhiều vấn đề quốc kế dân sinh đến thế, nhất là chuyện liên quan đến nông dân.
Mở bản sao bức tâm thư gửi Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng trước kỳ họp thứ ba Quốc hội khóa XII của mình, ông Út Lam trăn trở: “Nhiều người bảo tôi “liều mạng”, “làm chuyện tày đình” khi viết thư cho Thủ tướng. Tuy nhiên, tôi không thể kìm lòng trước nỗi khốn khó của bà con nông dân.
Những vấn đề tôi nêu trong thư không mới nhưng cũng không bao giờ cũ. Tôi quyết định viết thư này khi chứng kiến thêm một nghịch lý: Cơn sốt gạo đang diễn ra ngay giữa vựa lúa của cả nước”.
Thưa Thủ tướng, việc trồng lúa nói riêng và sản xuất nông nghiệp nói chung của nông dân bao đời nay luôn phải đối mặt với bao khó khăn vất vả. Thời tiết là một khó khăn điển hình mà nông dân luôn phải đối mặt và lo sợ.
Khi cây lúa bệnh ví như những đứa con chúng tôi bị bệnh; khi sạ lúa hay thu hoạch gặp mưa thì chúng tôi đứng ngồi không yên. Khó khăn thứ hai là giá cả vật tư nông nghiệp luôn tăng cao. Chi phí sản xuất tăng là thêm một gánh nặng trên vai nông dân...
Trong thư, với lời lẽ rất mộc mạc, ông Út Lam kể nhiều nỗi khó khăn, bức xúc của nông dân. Ông thổ lộ: “Cuối năm 2008, giá gạo thế giới tăng đến gần 1.000 USD/tấn nhưng Hiệp hội Lương thực VN (VFA) lại đề nghị ngưng xuất khẩu khiến lúa tồn đọng, nông dân khốn đốn. Nông dân lúc đó như những đứa trẻ đứng trước mâm cỗ mà không được ăn”.
Rất sôi nổi, ông Út Lam chỉ ra nhiều nghịch lý: “Giá lúa gạo được Nhà nước can thiệp sâu nhưng phân bón, vật tư nông nghiệp lại thả nổi. Mới đây, Thủ tướng chỉ đạo phải thu mua lúa với giá 3.800 đồng/kg, bảo đảm nông dân lãi 30%. Khổ nỗi, nhiều doanh nghiệp chỉ mua gạo chứ không mua lúa! Nông dân rất ít khi lãi được 30%, mà lãi vậy cũng không khá nổi”.
Theo ông Út Lam, lâu nay ai cũng đổ tội cho thương lái ép giá nông dân nhưng thực tế không hẳn vậy. Lão nông này nhìn nhận: “ĐBSCL có hàng chục ngàn thương lái nên sự cạnh tranh rất gay gắt, họ giao dịch với nông dân luôn thuận mua vừa bán.
Vấn đề là chỉ mỗi VFA độc quyền xuất khẩu gạo. Khi có hợp đồng, VFA đặt hàng doanh nghiệp cung ứng gạo với giá cố định.
Vừa gặp tôi, ông Lê Văn Lam (Út Lam, 60 tuổi, ngụ tại xã Tân Phước, huyện Tân Hồng - Đồng Tháp) đã sôi nổi: “Festival Lúa gạo lần thứ nhất ở Hậu Giang vừa rồi còn hình thức quá. Sáng kiến, ý tưởng rất nhiều nhưng liệu có bắt tay thực hiện được không, hay chỉ hô hào trên các diễn đàn, hội thảo?”.
Càng trò chuyện với ông Út Lam, tôi càng ngỡ ngàng vì không thể ngờ một lão nông ở miệt vườn lại rành rẽ nhiều vấn đề quốc kế dân sinh đến thế, nhất là chuyện liên quan đến nông dân.
Mở bản sao bức tâm thư gửi Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng trước kỳ họp thứ ba Quốc hội khóa XII của mình, ông Út Lam trăn trở: “Nhiều người bảo tôi “liều mạng”, “làm chuyện tày đình” khi viết thư cho Thủ tướng. Tuy nhiên, tôi không thể kìm lòng trước nỗi khốn khó của bà con nông dân.
Những vấn đề tôi nêu trong thư không mới nhưng cũng không bao giờ cũ. Tôi quyết định viết thư này khi chứng kiến thêm một nghịch lý: Cơn sốt gạo đang diễn ra ngay giữa vựa lúa của cả nước”.
Thưa Thủ tướng, việc trồng lúa nói riêng và sản xuất nông nghiệp nói chung của nông dân bao đời nay luôn phải đối mặt với bao khó khăn vất vả. Thời tiết là một khó khăn điển hình mà nông dân luôn phải đối mặt và lo sợ.
Khi cây lúa bệnh ví như những đứa con chúng tôi bị bệnh; khi sạ lúa hay thu hoạch gặp mưa thì chúng tôi đứng ngồi không yên. Khó khăn thứ hai là giá cả vật tư nông nghiệp luôn tăng cao. Chi phí sản xuất tăng là thêm một gánh nặng trên vai nông dân...
Trong thư, với lời lẽ rất mộc mạc, ông Út Lam kể nhiều nỗi khó khăn, bức xúc của nông dân. Ông thổ lộ: “Cuối năm 2008, giá gạo thế giới tăng đến gần 1.000 USD/tấn nhưng Hiệp hội Lương thực VN (VFA) lại đề nghị ngưng xuất khẩu khiến lúa tồn đọng, nông dân khốn đốn. Nông dân lúc đó như những đứa trẻ đứng trước mâm cỗ mà không được ăn”.
Rất sôi nổi, ông Út Lam chỉ ra nhiều nghịch lý: “Giá lúa gạo được Nhà nước can thiệp sâu nhưng phân bón, vật tư nông nghiệp lại thả nổi. Mới đây, Thủ tướng chỉ đạo phải thu mua lúa với giá 3.800 đồng/kg, bảo đảm nông dân lãi 30%. Khổ nỗi, nhiều doanh nghiệp chỉ mua gạo chứ không mua lúa! Nông dân rất ít khi lãi được 30%, mà lãi vậy cũng không khá nổi”.
Theo ông Út Lam, lâu nay ai cũng đổ tội cho thương lái ép giá nông dân nhưng thực tế không hẳn vậy. Lão nông này nhìn nhận: “ĐBSCL có hàng chục ngàn thương lái nên sự cạnh tranh rất gay gắt, họ giao dịch với nông dân luôn thuận mua vừa bán.
Vấn đề là chỉ mỗi VFA độc quyền xuất khẩu gạo. Khi có hợp đồng, VFA đặt hàng doanh nghiệp cung ứng gạo với giá cố định.
Mỹ Trung Quốc hục hặc nhau có tạo cơ hội cho Việt Nam không? (Phong Uyên)
Để phát huy sức mạnh mềm Việt Nam
Sức mạnh mềm giúp một quốc gia nhận được nhiều cảm tình và sự hợp tác từ bên ngoài. Khi cần sự hỗ trợ, họ cũng dễ dàng hơn trong việc tiếp cận với những quốc gia khác.
– Giá đắt cho tăng trưởng “nóng” ở Trung Quốc, mà phiên bản chính là VN (TTX)
‘Giới hạn tự do ngôn luận ảnh hưởng tới quyền lực mềm của VN’ (VOA).
- Thời để đổi thay (TBKTSG).
– Giá đắt cho tăng trưởng “nóng” ở Trung Quốc, mà phiên bản chính là VN (TTX)
‘Giới hạn tự do ngôn luận ảnh hưởng tới quyền lực mềm của VN’ (VOA).
- Thời để đổi thay (TBKTSG).
Thống đốc Nguyễn Văn Giàu: Mọi người lo một thì chúng tôi lo mười! (CPhủ).
Người buôn tiền thời mở cửa--- CafeF
“Cái khó của tỷ giá hối đoái là nghiên cứu rất sâu về lý thuyết, lại phải nghiên cứu rất sâu lý thuyết đó có phù hợp với tiến trình một nền kinh tế đặc thù hay không”.
- Vietnam’s Dong Devaluation Unlikely to Ease Trade Gap, ANZ Says (BusinessWeek)
- Vietnam, RI competing to attract foreign investment (Jakarta Post)
- Vietnam says proposal on prices adheres to WTO (AFP)
- Vietnam ups 2010 money supply growth target to 28 pct (Reuters)
- Thái Lan phản ứng vụ phá giá tiền đồng của VN (BBC)
- Bất động sản đang “bắt cóc” kinh tế Trung Quốc? (TTXVN).
- Vietnam’s Dong Devaluation Unlikely to Ease Trade Gap, ANZ Says (BusinessWeek)
- Vietnam, RI competing to attract foreign investment (Jakarta Post)
- Vietnam says proposal on prices adheres to WTO (AFP)
- Vietnam ups 2010 money supply growth target to 28 pct (Reuters)
- Thái Lan phản ứng vụ phá giá tiền đồng của VN (BBC)
- Bất động sản đang “bắt cóc” kinh tế Trung Quốc? (TTXVN).
Nguyễn Trường Tộ và khát vọng canh tân
Nguyễn Trường Tộ viết: "Mấy chục năm nay tôi bôn ba trong thiên hạ, thu thập những tình thế biến đổi xưa nay, đem những điều đã học trong sách nghiệm ra việc đời. Đã trao đổi với ai một lời nói, một câu chuyện thì thâm tâm tôi cũng có ý muốn thu lấy sự hiểu biết của người làm của mình".
Tương lai của các quyết sách: Bớt trực giác, thêm bằng chứng
Theo thời gian, sẽ có nhiều cơ sở dữ liệu, nhiều máy tính hiệu quả hơn và những thuật toán dự đoán tốt hơn. Chúng ta cũng có cơ hội trợ giúp tốt hơn cho các cấp trong nhóm mỗi khi cần đưa ra quyết định.
Số phận con cọp trong thế kỉ 21Doing business in Vietnam (The Hindu)
- Việt Nam ngày nay: kẻ ăn không hết, người lần không ra (RFA). - Chùm ảnh: Tết của những người lang bạt (VNN).
- Trung Quốc tiếp tục tăng lượng tiền dự trữ bắt buộc (TTXVN). – Trung Quốc xây nhiều nhà giá rẻ để ngăn “bong bóng” nhà đất (PLTP)
China Alarmed by Security Threat From Internet (NYT 12-2-10)
Kinh tế học, vì sao nên nỗi? (1)--- CafeF
Chủ quan khi bão manh nha hình thành. Hoảng loạn khi bão ập đến. Chia rẽ về cách khắc phục hậu quả cơn bão. Đó là kết quả gần ba thập kỷ lạc lối của kinh tế học.
Trung Quốc yêu cầu các ngân hàng tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc--- CafeF
Trung Quốc yêu cầu các ngân hàng tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc--- CafeF
Quyết định trên của Ngân hàng Trung ương Trung Quốc không hề thay đổi quan điểm của Ngân hàng Trung ương trong duy trì nới lỏng chính sách tiền tệ.
Việt Nam là quân cờ domino đầu tiên của châu Á
Shawn W Crispin
Ngày 10-2-2010
BANGKOK – Trong khi thị trường thế giới lo ngại về các khoản nợ bảo đảm bởi chính phủ châu Âu, liệu Việt Nam có thể là quân cờ domino kinh tế đầu tiên ở châu Á bị kích thích quá mức hay không? Với [chính sách] tiền tệ không vững chắc, việc cho vay dễ dàng và nhanh chóng của ngân hàng, cùng với thái độ thiếu tin tưởng trong nước đối với sự quản lý kinh tế của chính phủ, Việt Nam nổi lên như là ứng viên hàng đầu trong khu vực về việc bất ngờ định giá lại thị trường đối với tác động tài chính của các nguồn chi tiêu của chính phủ, thường do phân bổ không hợp lý cũng như chi tiêu quá nhiều trong thời gian gần đây.
Đằng sau các khoản kích thích kinh tế rất lớn của chính phủ, năm ngoái Việt Nam đã [tăng trưởng] tốt hơn một số nước trong khu vực với mức tăng trưởng tổng sản phẩm quốc nội GDP là 5,5%. Để chống lại tình trạng suy thoái kinh tế toàn cầu, chính phủ đã cam kết những gói kích thích kinh tế ở mức độ khác thường, lên tới 8% GDP. Mặc dù chưa tới một nửa số tiền đó đã thực sự được chi tiêu, song mức chi tiêu trong ngân sách và số cho vay của ngân hàng nhà nước ngoài ngân sách đã giúp nền kinh tế tránh được cuộc khủng hoảng toàn cầu.
Với dấu hiệu [kinh tế] toàn cầu đang hồi phục, chính phủ do đảng CS lãnh đạo đã phát đi tín hiệu về ý định muốn kềm chế các khoản kích thích và đưa nền kinh tế trở lại mức tăng trưởng bằng định hướng xuất khẩu. Thế nhưng, tình trạng thiếu phối hợp về chính sách khắp các doanh nghiệp và các cơ quan nhà nước đã làm xói mòn hơn nữa niềm tin trong nước đối với chính phủ về khả năng kiểm soát lạm phát trong tương lai, và ở một mức độ đáng kể, nó đã phá hủy các nỗ lực quan trọng trong việc kiềm chế sức ép lên đồng nội tệ và thị trường bất động sản quá nóng.
Tình trạng phân cách giữa mệnh lệnh của trung ương với phản ứng không tuân phục từ bên dưới đã thể hiện rõ vào năm ngoái, khi nhiều ngành công nghiệp xuất khẩu đã bị từ chối đổi ra tiền mặt số tiền đô mà họ thu về từ hoạt đông xuất khẩu để lấy tiền đồng theo tỉ giá hối đoái chính thức. Tính đến tháng mười, chênh lệch giữa tỉ giá chợ đen và tỉ giá chính thức lên tới 9%, và sự chênh lệch đó đã buộc chính phủ phải quyết định hạ giá tiền đồng 5% vào tháng mười một bằng cách nới rộng biên độ trao đổi ở mức chấp nhận được. Thậm chí với việc giảm giá tiền đồng như vậy, các nhà phân tích tài chính chuyên theo dõi tình hình đã nhận xét là vẫn còn có một khoảng cách 5% giữa tỉ giá chính thức và tỉ giá chợ đen.
Một yếu tố gây nên tình trạng méo mó này là các khoản hỗ trợ lãi suất của chính phủ, biện pháp được thực hiện vào năm ngoái như là một phần của gói kích thích nhằm khuyến khích thêm các khoản vay trong nước. Chính sách này đã giảm bớt một cách hiệu quả lãi suất cho vay từ 10% xuống còn 6,5% và sinh ra các khoản cho vay mới, rất lớn, trị giá khoảng 24 tỉ đô la, tức là gần 23% GDP. Theo Standard & Poor’s, một tổ chức đánh giá mức độ tín nhiệm, mức tăng trưởng tín dụng cho vay của Việt Nam đã tăng 37% so với năm trước.
Các nhà phân tích tài chính cho rằng, do gần như không có nhu cầu sử dụng vốn luân chuyển giữa các doanh nghiệp nhà nước (DNNN) và những công ty xuất khẩu tư nhân mà đã nhận được những khoản tín dụng mới với giá trị rất lớn, nên phần lớn lượng tiền đó đã được xoay vòng ở thị trường chứng khoán trong nước. Khả năng thanh toán bằng tiền mặt tự do không được kiểm soát, đã góp phần làm cho thị trường chứng khoán Việt Nam trở thành một trong những nơi hoạt động sôi nổi nhất thế giới trong suốt nửa đầu năm 2009; và rồi sau đó nó đột ngột suy giảm vào nửa sau của năm.
Có điều không rõ ràng đối với các nhà phân tích tài chính và các nhà phân tích của chính phủ là, có bao nhiêu trong tổng số 24 tỉ đô la vừa được cho vay trong năm ngoái đã bị thua lỗ trong việc đầu tư ở thị trường chứng khoán. Kim Eng Tan, một nhà phân tích tài chính công và thuộc Standard & Poor’s, đã bày tỏ những mối quan ngại ban đầu của mình về tốc độ gia tăng 37% các khoản tiền cho vay năm ngoái. Ông nói rằng các bảng cân đối thu chi của các ngân hàng lớn ở Việt Nam nằm ở mức “hợp lý” vào cuối năm 2008, song điều mà “chúng ta cần là thấy nó thay đổi như thế nào sau làn sóng cho vay mới”.
Từ quan điểm của chính phủ, đợt cho vay tiền dễ dãi đó là nhằm để ngăn ngừa trước một đợt thất nghiệp tăng cao vào ngay thời điểm những ngành công nghiệp xuất khẩu có sử dụng lượng lớn nhân công đang phải đối mặt với tình trạng gần như sụp đổ trong trao đổi mậu dịch toàn cầu. Ban lãnh đạo Đảng Cộng sản rõ ràng là muốn tránh lặp lại tình trạng bất ổn xã hội mà họ đã từng chứng kiến hồi năm 2008, khi lạm phát lên tới đỉnh điểm, vượt khỏi mức 25% và thất nghiệp lan rộng cả nước, ở các xí nghiệp trong nước lẫn nước ngoài làm chủ.
Lạm phát phi mã cũng đã góp phần vào tình trạng thiếu hụt rất lớn lượng tiền mặt thanh toán, vì hàng hóa nhập khẩu của các công ty để đầu cơ, nằm trong kho ngày càng nhiều, dẫn đến tình trạng giá cả và nhu cầu tăng cao.
(đoạn này có nghĩa là: lạm phát phi mã làm cho các công ty mua hàng với giá thấp để sẵn trong kho sau này bán giá thật cao do lạm phát – gọi là đầu cơ tích trữ, hay arbitrage – việc này gây ra: 1- giá tăng cao; 2-thiếu tiền mặt thanh toán, vì tiền chôn trong số hàng nằm trong kho-người hiệu đính). Việc mất kiểm soát kinh tế được biết đến là đã làm suy yếu vị thế của vị Thủ tướng có khuynh hướng tự do Nguyễn Tấn Dũng, người mà một số nhà phân tích dự đoán rằng ông cố gắng tránh tình trạng lạm phát nghiêm trọng do suy thoái kinh tế toàn cầu dẫn tới sự sụp đổ giá cả hàng hóa. Một số nhà phân tích tin rằng những người bảo thủ trong đảng có thể trở lại nắm quyền trong Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 11 dự kiến khai mạc vào tháng 1-2011.
Ông Carlyle Thayer, một chuyên gia về Việt Nam thuộc Học viện Quốc phòng Australia, đã nêu rõ trong các bản báo cáo rằng giới bảo thủ trong đảng đã yêu cầu ông Dũng từ chức tại một cuộc họp ban chấp hành trung ương năm 2008 khi người ta thấy cung cách quản lý kinh tế yếu kém của ông. Sự chia rẽ trong chính sách giữa giới bảo thủ và phái tự do trong đảng liên quan tới tốc độ phát triển và phạm vi hội nhập của Việt Nam vào nền kinh tế toàn cầu và ảnh hưởng của nó đối với sự ổn định trong nước và khả năng quản lý của nhà nước đối với nền kinh tế, theo nhận xét của ông Thayer.
“Giới bảo thủ theo đuổi việc duy trì nguyên tắc một đảng [cầm quyền], giữ trật tự và ổn định, với sự kiểm soát của nhà nước đối với các thành phần kinh tế mà họ coi như là ‘những con bò sữa’ của mình”, ông Thayer đã viết như vậy trong một bức thư điện tử gửi cho Asia Times Online. “Chẳng hạn như, rõ ràng là tiến trình cải cách các doanh nghiệp nhà nước đã bị chựng lại. Những người [như ông Dũng] thúc đẩy việc gia tăng hội nhập toàn cầu muốn nhìn thấy những tác động của thị trường đóng vai trò lớn hơn”.
Trong khi chương trình tự do hóa kinh tế và tài chính rộng lớn của ông Dũng vẫn đang đi đúng hướng, thì có những dấu hiệu cho thấy rằng các thành phần bảo thủ đang khẳng định uy thế nhiều hơn trong quản lý kinh tế. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNNVN) đã quy định rằng, các ngân hàng nhỏ, từng góp phần vào cuộc khủng hoảng thông qua việc cho vay tràn lan vào năm 2008, phải tăng gấp ba lần số vốn cơ bản của mình vào cuối năm nay hoặc phải đối mặt với việc đóng cửa. Chính phủ cũng đã ra lệnh đóng cửa các sàn giao dịch vàng trên khắp cả nước – một hạn chế sẽ tạo nên ảnh hưởng đầy đủ vào tháng ba này trong một nỗ lực nhằm chặn đứng tình trạng đô xô đi mua vàng, làm giảm giá trị đồng nội tệ.
Áp lực và biến dạng
Những thử nghiệm mang tính kỹ trị mới đang nổi lên với những dấu hiệu lạm phát, tình trạng thâm thủng mậu dịch và sức ép liên tục theo chiều đi xuống làm giảm giá trị đồng nội tệ so với đồng đô la vốn đã yếu trên toàn cầu. Thậm chí với việc giảm giá trị đồng nội tệ xuống 5% vào tháng mười một năm ngoái và quyết định tăng đột ngột mức lãi suất cơ bản từ 10% lên 12%, các doanh nghiệp nhà nước và các công ty tư nhân tiếp tục tích trữ đô la thay vì tiền đồng, cho thấy tình trạng thiếu tin tưởng ở trong nước đối với sự ổn định của Ngân hàng NNVN hoặc thái độ sẵn sàng kiểm soát tình trạng lạm phát của cơ quan này.
“Ngân hàng trung ương cần gửi đi một tín hiệu kiên quyết tới thị trường rằng họ sẵn sàng bảo vệ biên độ dao động của đồng tiên, có lẽ bằng việc nâng cao lãi suất hơn nữa”, theo ý kiến của ông Sriyan Pieterz, trưởng bộ phận nghiên cứu của JP Morgan tại Bangkok. “Nếu không làm được điều đó, thì rủi ro mà họ sẽ chịu là để mất đi các nguồn đầu tư nước ngoài trực tiếp FDI trong tương lai, do tiền tệ không ổn định”.
Một tỉ đô trái phiếu phát hành đã được các nhà đầu tư nước ngoài mua hết hồi tháng một, nhưng các nhà phân tích cho rằng vẫn chưa đủ để làm giảm bớt sức ép vây quanh đồng tiền nội tệ. Đồng tiền cần phải nhận được một biện pháp ứng cứu ngắn hạn từ những dòng tiền gửi tiết kiệm liên quan tới kỳ nghỉ Tết trong tháng này, song nhiều nhà phân tích tin là NHNNVN cần nâng lãi suất ít nhất thêm 3% nữa để đánh thuế mạnh vào những người muốn đổi từ tiền đồng sang đô la.
Trong lúc NHNNVN chỉ là một nguồn chính thức duy nhất để chuyển đổi ngoại hối trong nước, thì chính phủ duy trì biện pháp kiểm soát vốn chặt chẽ để bảo vệ đồng tiền nội tệ. Theo quy định của luật pháp, các công ty và doanh nghiệp chỉ được phép giữ đủ số ngoại tệ để trả nợ và giải quyết các hoạt động mua bán kinh doanh hiện tại của mình. Tuy nhiên trong quý ba năm ngoái, 27% trong số toàn bộ khả năng thanh toán bằng tiền mặt của hệ thống tài chính trong nước đã chạy từ tiền đồng sang đô la, theo JP Morgan.
Bất chấp những kiểm soát tiền tệ, các DNNN theo ước tính vẫn cầm giữ lượng ngoại tệ chủ yếu được cho là bằng đô la vào khoảng 10 tỉ. Đáng chú ý, mới đây họ đã coi thường một thông tư do chính phủ ban hành đặc biệt nhắm vào 10 DNNN lớn phải gửi tiền đô la của mình vào ngân hành, bao gồm Tập đoàn Dầu khí VN, Tập đoàn Than và Khoáng sản VN và Tổng công ty Hóa chất Quốc gia VN.
Theo bản thông tư này, các DNNN đã chuyển hơn 3 tỉ đô la trong số ngoại hối mà họ nắm giữ cho NHNNVN vào cuối năm ngoái; kể từ đầu tháng hai, họ chỉ đưa ra 300 triệu đô la, theo như các nhà phân tích theo dõi tình hình cho biết. Thái độ thách thức, theo như các nhà phân tích nói, đã góp phần cho hành động miễn cưỡng của NHNN phải bơm thêm tiền mặt lưu thông vào thị trường nhằm bảo vệ đồng bạc nội tệ. Theo các thống kê chính thức thì NHNN hiện nắm giữ lượng dự trữ ngoại tệ trị giá vào khoảng 16 tỉ đô la.
Trong khi Việt Nam rõ ràng là rập khuôn theo lề lối chi tiêu tài khóa khác thường của Trung Quốc trong chính sách ứng phó đối với cuộc suy thoái kinh tế toàn cầu, Hà Nội so với Bắc Kinh tỏ ra thiếu khả năng kiểm soát từ thượng tầng xuống, điều đã cho phép Bắc Kinh có nhiều thẩm quyền kiểm soát hãm đà hơn đối với những chương trình kích thích kinh tế của họ. Khi cuộc chiến giành giật đồng ngoại hối hiện tại cho thấy rõ, thì các DNNN lớn của Việt Nam vẫn thường được điều hành như những lãnh địa riêng của các thành viên Đảng Cộng sản đầy quyền lực với đầy đủ sức mạnh ảnh hưởng, coi thường những chỉ thị của trung ương.
Một số nhà phân tích tin chắc rằng các DNNN của VN lâu nay luôn làm ăn thua lỗ, rốt cuộc đang giành được những điều kiện thuận lợi từ chính sách của nhà nước. Đối với các doanh nghiệp khác, rõ ràng là luôn thiếu sự minh bạch và trách nhiệm giải trình từ các DNNN lớn và dấy lên những lo ngại mới về số lượng bao nhiêu tỉ đô la từ các khoản vay của ngân hàng mà họ đã nhận được vào năm ngoái đã được đưa vào sử dụng. Việc thúc đẩy cho vay của chính phủ hồi năm ngoái giống như cái phễu hút nguồn tiền vào các hoạt động đầu cơ trên thị trường chứng khoán, giờ đây có vẻ như [số tiền đó] đang đẩy giá nhà đất tăng cao, đặc biệt ở Thành phố Hồ Chí minh.
Điều rõ ràng hơn là Việt Nam vẫn thiếu sự kết hợp chính sách có hiệu quả trong khắp các cơ quan và doanh nghiệp vào thời điểm mà các giới chức kinh tế cần cho thị trường thấy một cam kết được làm mới nhằm duy trì sự ổn định giá cả và kinh tế vĩ mô. Việc thiếu kiểm soát cũng gợi lên những dấu hỏi về các giải pháp chắp vá của ngân hàng trung ương trước làn sóng lạm phát năm 2008 và năng lực kỹ trị của cơ quan này trong việc ngăn chặn những sức ép lạm phát mới đang nổi lên, trong đó có thị trường bất động sản.
Ông Pietersz của JP Morgan cho biết, các giới chức liên quan đều “rất lanh lẹ và tận tụy”, song vẫn “đang học hỏi qua việc thực hành” trong lĩnh vực quản lý kinh tế. Các nhà phân tích khác thì nói rằng không rõ là chính phủ bị chia rẽ về chính trị từ bên trong liệu có giảm bớt những giải pháp kích thích của năm ngoái do sự chính trị hóa thời gian sắp diễn ra Đại hội Đảng toàn quốc vào năm tới.
Rút cục thì chính phủ không thể đóng cửa toàn bộ nền kinh tế … song những khả năng lạm phát mà người ta trông đợi sẽ phải được níu chặt lại bằng cách nào đó”, ông Tan thuộc Standard & Poor’s nhận xét. “Nếu như lạm phát diễn ra ở mức cao trong một thời gian dài, thì sẽ nguy hiểm trầm trọng”.
Một nhà phân tích với một ngân hàng đầu tư Âu châu đánh giá rằng “cái ngày kết toán” của Việt Nam là “không thể tránh khỏi do sự bất lực của chính phủ trong việc nâng mức dự trữ quốc gia” và rằng đất nước này sẽ phải đối mặt với “những cú phá giá đồng bạc gây chấn động” cho tới khi ngân hàng trung ương được độc lập hơn trước những nhân vật bảo thủ trong đảng.
Bất chấp những sức ép gần đây lên đồng nội tệ, ông Tan cho là Việt Nam không bộc lộ những dấu hiệu của một “cuộc khủng hoảng tiền tệ cổ điển” do “mức vay bên ngoài phần lớn vẫn nằm trong sự kiểm soát” và “FDI duy trì tốt”. Không giống như các quốc gia mắc nợ do các đòn giáng xuống từ cuộc khủng hoảng tài chính ở châu Á năm 1997-1998, ông lưu ý, gánh nặng nợ nần của Việt Nam thì vừa phải do phần lớn nó nằm trong nguy cơ thấp, với những khoản vay ưu đãi dài hạn.
Nhưng khi việc giám sát chặt chẽ thị trường đối với khu vực tài chính công gia tăng mạnh ở châu Âu, mức độ rủi ro từng quốc gia riêng rẽ ở châu Á sẽ ngày càng được lượng định bởi quan niệm của nhà đầu tư về cách thức chính quyền quản lý và chi tiêu ra sao qua các giải pháp chi tiêu tài khóa mạnh mẽ được thực hiện mới đây. Các địa phương ở Việt Nam đã cho thấy rõ sự hồ nghi của họ trước sự quản lý của chính phủ và lịch sử cho thấy các ý kiến từ nước ngoài thường đi chậm song rốt cục lại đi theo những người bản xứ hướng tới những thị trường ngày càng có độ rủi ro cao.
Khi những nỗi lo sợ về căn bệnh truyền nhiễm trong chi tiêu tài chính nhà nước dấy lên ở Âu châu, Việt Nam có vẻ như là ứng viên hàng đầu cho một cơn khủng hoảng lòng tin tương tự tại châu Á.
Hiệu đính: Ngọc Mai Bản tiếng Việt © Ba Sàm 2010


