Thứ Năm, 25 tháng 2, 2010

Luật Biểu tình vẫn đang ‘vấp’

Luật Biểu tình vẫn đang ‘vấp’
Luật biểu tình, ông Anh cho phóng viên mạng VietnamNet hay trong cuộc phỏng vấn, là “Quốc hội đã giao cho Bộ Công an soạn thảo, nhưng cũng đang vấp.”
Nhiều nước coi tự do hội họp, biểu tình là một trong các quyền cơ bản của người dân.
Chủ tịch Hội Luật gia Việt Nam giải thích về một số khó khăn trong quá trình soạn thảo luật biểu tình.
“Ta chưa có luật nhưng hiện vẫn có những biến tướng không chính thức, có những cuộc người kéo đến rất đông.”
Dù luật biểu tình được nói đến có tác động thúc đẩy dân chủ, ông Phạm Quốc Anh muốn bộ luật tăng thêm kiểm soát xã hội.
Dân chủ trong kỷ cương chứ không phải tự do muốn nói gì thì nói, muốn làm gì thì làm…Luật phải phù hợp với đặc điểm của Việt Nam.”

Trưng cầu cũng 'vướng'
Cách đây bốn năm Việt Nam bắt tay vào soạn luật trưng cầu dân ý. Bản dự thảo đầu của bộ luật mang tính mở rộng dân chủ cho người dân nghe nói hoàn tất vào ngày 25/2/2006.
Và ông nói thêm chắc chắn bộ luật mang tính nhạy cảm cao này sẽ cần nhiều thời gian để giới chức “tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện, nhằm đưa ra những biện pháp khả thi.”
Ông Anh tỏ ý lo ngại về “ổn định xã hội” một khi Việt Nam có bộ luật trưng cầu dân ý.
“Trưng cầu dân ý phát huy dân chủ nhưng phải giữ được ổn định xã hội, không để phần tử xấu lợi dụng để xuyên tạc bản chất dân chủ của nhà nước.”
Luật sư Trần Lâm, trong khi đó, nhấn mạnh đến tính khó xử của chính quyền khi ban hành hai bộ luật này.
“Thế giới người ta làm như là chuyện hàng ngày thì việc gì phải bàn soạn nhiều như thế. Thí dụ có cái luật không có nước nào làm cả mà bây giờ mình làm thì mới phải bàn soạn, mới phải thế này thế nọ.”
Giữa lời nói của nhà nước là đảm bảo quyền tự do cá nhân với việc luật hóa để bảo vệ thứ quyền này, theo luật sư Trần Lâm, là một khoảng cách khó vượt qua.
“Thực chất đây là chế độ toàn trị. Kiểu cai trị này bị thế giới phương Tây người ta phản ứng.
“Họ cũng bị phong trào tiến bộ trong nhân dân gây sức ép. Nhiều người không đồng ý với lối cai trị như vậy.
“Trước hai cái phản đối ấy, nếu theo phương Tây và theo những người tiến bộ ở trong nước mà hướng tới dân chủ thì họ sợ chuyện trong nước rơi vào cảnh ‘dấy âm binh’.
“Tức là gián tiếp cổ động cho chuyện chuyển hóa hòa bình. Thế thì chẳng khác mang vạ vào thây.
“Cho nên mọi thứ cứ lôi thôi như thế đấy.”

Người Việt thiếu sâu sắc
Liên quan đến nhan đề bài viết này, có hai điều tôi xin được nói ngay: một, đó không phải là phát hiện của tôi; hai, bất kể ai là người đầu tiên phát hiện, nhận định ấy cũng đã trở thành một ý kiến khá phổ biến. Phổ biến đến bình thường, thậm chí, tầm thường, có lẽ chẳng còn làm cho người nào ngạc nhiên hay khó chịu nữa cả. Hầu như ai trong chúng ta cũng biết vậy. Và chấp nhận vậy.

Người đề cập đến vấn đề này gần đây nhất là Vương Trí Nhàn. Trong bài “Cái mà chúng ta thiếu nhất là sự sâu sắc” vào đầu năm nay, Vương Trí Nhàn nhận định là hầu hết các cuộc tranh luận tại Việt Nam đều khá nhếch nhác và hời hợt. Nhếch nhác vì thiếu văn hoá tranh luận, vì xuất phát từ động cơ cá nhân, vì nhắm đến việc hạ nhục người khác hơn là cố làm sáng tỏ vấn đề. Nhưng theo Vương Trí Nhàn, điều đáng nói nhất là sự hời hợt: “người viết thường không đặt được vấn đề đúng với tầm vóc nó có thể có, lại càng không tìm được cách lý giải có sức thuyết phục”.

Vương Trí Nhàn cũng thừa nhận cái bệnh hời hợt ấy đã có từ lâu. Ông dẫn lời của Thạch Lam, trong cuốn Theo dòng, từ đầu thập niên 1940: “… ở nước ta, bất cứ phong trào gì đều có một tính chung là nông nổi, chỉ hời hợt bề ngoài. Cái mà chúng ta thiếu nhất là sự sâu sắc. Bởi ta không chịu phân tích và suy xét kỹ nên bất cứ vấn đề gì chúng ta cũng không biết được rõ ràng và chu đáo, biết một cách thấu suốt.”

Rồi Vương Trí Nhàn kết luận: “Ở lĩnh vực nào không biết, chứ riêng đối với những cuộc tranh luận hôm nay thì nhận xét đó giống như một sự tiên tri, không ai cãi lại nổi.”

Thú thực, tôi cũng không cãi lại nổi.

Tuy nhiên, tôi muốn đặt vấn đề: Tại sao người Việt chúng ta lại thiếu sâu sắc trầm trọng và triền miên như vậy?

Trước hết, thế nào là “sâu sắc” trong tranh luận hay nhận định? Theo tôi, một ý kiến sâu sắc phải bao gồm ít nhất hai đặc điểm chính: một, có tính phân tích cao và hai, có độ khái quát hoá lớn.

Một ý kiến có tính phân tích cũng giống như một hiện trường khảo cổ, ở đó, đất đai được đào xới hết lớp này đến lớp khác; mỗi địa tầng tiết lộ một hiểu biết mới. Nhìn cây mà chỉ thấy cây thì không phải là phân tích. Nhìn cây mà thấy cả đám rễ chằng chịt phía dưới mới là phân tích; thấy được cả cấu tạo của thổ nhưỡng đối với rễ cây ấy mới là phân tích sâu; thấy được cả ảnh hưởng của khí hậu đối với thổ nhưỡng, và ảnh hưởng của các yếu tố khác đối với khí hậu, sự phân tích lại càng sâu sắc hơn nữa. Nói cách khác, phân tích là nỗ lực phát hiện các quan hệ. Quan hệ càng xa và càng vượt ra ngoài những kiến thức thông thường và càng vượt ra ngoài những gì mọi người có thể quan sát bằng mắt, tính phân tích càng sâu.

Nhìn cây mà chỉ thấy cây, không phải là khái quát. Nhìn cây mà thấy hoặc gợi cho người khác thấy cả rừng mới là khái quát. Tính khái quát hoá giúp người ta vượt ra ngoài những hiện hữu cụ thể, gắn liền với trực quan.

Khả năng phân tích là điều có thể được đào luyện. Một trong những mục đích chính của nền giáo dục hiện đại là nhằm rèn luyện khả năng phân tích, từ việc phân tích một từ, một câu nói, một tác phẩm đến một hiện tượng xã hội, chính trị hay văn hoá. Việc người Việt Nam thiếu khả năng phân tích, do đó, chủ yếu, gắn liền với giáo dục. Ở đây có hai vấn đề: Thứ nhất, truyền thống giáo dục Việt Nam ngày xưa, kéo dài cả hàng ngàn năm, không hề đề cao sự phân tích. Cứ mở miệng ra nói “Tử viết” (thầy Khổng nói rằng...; thầy Mạnh nói rằng...; Lão tử nói rằng...), v.v.. là vấn đề coi như đã giải quyết xong. Hết chuyện. Sau này, mang tiếng là đã ít nhiều hiện đại hoá, nhưng nền giáo dục Việt Nam vẫn không thoát khỏi ảnh hưởng của quyền lực, của sự mê tín và cuồng tín, không nhằm phát huy năng lực phân tích của học sinh và sinh viên.

Dù vậy, vì gắn liền với giáo dục, việc thiếu khả năng phân tích không phải là một khuyết điểm đáng để tuyệt vọng. Chỉ cần, một lúc nào đó, thay đổi được giáo dục, khả năng phân tích sẽ được đào luyện và phát triển. Vấn đề là thời gian.

Đáng quan tâm hơn là khả năng khái quát hoá. Một phần, năng lực khái quát gần với năng khiếu hơn là giáo dục: nhiều người, ngay từ thời cổ đại, đã chứng tỏ một năng lực khái quát hoá phi thường, nhờ đó, xây dựng được những hệ thống triết học lớn, có sức bao trùm hầu như toàn bộ các vấn đề mà nhân loại phải đối diện, do đó, ảnh hưởng kéo dài cả hàng ngàn năm. Phần khác, tính khái quát hoá dường như còn gắn liền với ngôn ngữ mà chúng ta sử dụng.

Điều này đã được nhà văn Võ Phiến phân tích một cách sâu sắc trong bài “Đố ky cái trừu tượng” viết nhân ngày tưởng niệm Phạm Quỳnh vào năm 1999 (sau, in lại trong cuốn Tuyển Tập do Người Việt xuất bản tại California, 2006, tr. 343-351). Theo Võ Phiến, ngay từ những thập niên đầu tiên của thế kỷ 20, Nguyễn Văn Vĩnh và Phạm Quỳnh đã nhận ra khuyết điểm của tiếng Việt: nó giàu về phần “hình nhi hạ” mà nghèo về phần “hình như thượng”; nó có tính cách cụ thể hơn là trừu tượng; nó hợp với loại văn nghệ thuật hơn loại văn luận thuyết.

Võ Phiến cũng nhấn mạnh: Nguyễn Văn Vĩnh và Phạm Quỳnh, thật ra, không phải là người đầu tiên phát hiện ra những điều ấy. Ông trích một nhận xét của giáo sĩ F.X. Marette trong tập “Biên niên truyền giáo” (Annales de la propagation de la foi) xuất bản tại Paris năm 1833: “Việt ngữ phong phú về tiếng để diễn tả những cái thông thường và có thể cảm nhận được, nhưng nghèo về loại tiếng dùng vào các kỹ thuật cơ khí và các ngành mỹ thuật; Việt ngữ tuyệt đối không có tiếng để diễn tả các ý tưởng trừu tượng.” (tr. 345).

Ý thức được khuyết điểm ấy, Phạm Quỳnh phát động phong trào “đào luyện” và “bồi bổ” quốc văn bằng cách sáng chế và/hoặc du nhập thật nhiều các từ trừu tượng để hy vọng, đến một lúc nào đó, tiếng Việt phong phú và đa dạng đủ để diễn tả không những hết các cung bậc cảm xúc mà còn hết các vấn đề triết lý sâu xa.

Gần một thế kỷ trôi qua, những nỗ lực ấy có đâm hoa kết quả gì chưa? Võ Phiến bi quan: Hình như chưa! Độ trừu tượng của tiếng Việt vẫn chưa cao, khả năng biện luận của người Việt vẫn chưa giỏi; cái gọi là một nền quốc học Việt Nam với những tư tưởng riêng vẫn là một ước mơ thấp thoáng (tr. 348).

Võ Phiến dường như hơi hơi tuyệt vọng. Ông cho những khuyết điểm ấy gần như gắn liền với “bẩm chất” của người Việt. Nói một cách nôm na: “Trời sinh ra dân ta vốn không thoải mái đối với những gì là tư tưởng, là lý luận, những gì trừu tượng” (tr. 347). Tự nhiên nhớ lời than thở quen thuộc lâu nay, nghe nói xuất phát đầu tiên từ Hoàng Ngọc Hiến: “Cái nước mình nó thế!”

Tôi đồng ý với những sự phân tích của Võ Phiến nhưng tôi không tuyệt vọng như ông.

Theo tôi, một thế kỷ chưa phải là nhiều để bù đắp những khuyết điểm vốn đã kéo dài từ hàng ngàn năm trước. Nhất là trong thế kỷ vừa qua, không phải lúc nào chúng ta cũng thanh thản và tập trung theo đuổi con đường “bồi bổ quốc văn” mà Phạm Quỳnh khởi xướng. Gần một phần ba thời gian ấy, chúng ta chạy bổ vào con đường “đại chúng hoá” với những lời ăn tiếng nói nôm na, dân dã và hết sức cụ thể. Tính trừu tượng và cùng với nó, độ khái quát hoá của ngôn ngữ, vốn đã yếu, do đó, lại càng què quặt hơn nữa.

Một công việc như Phạm Quỳnh từng hô hào vào đầu thế kỷ 20 không chừng vẫn là một nhiệm vụ khẩn thiết của chúng ta hôm nay. Để thoát khỏi số phận “thiếu sâu sắc” triền miên của dân tộc.

Có phải vậy không?



Khởi công dự án bô xít thứ hai tại Tây Nguyên--- VOV News
Dự án sẽ áp dụng công nghệ Bayer để sản xuất alumina và áp dụng các tiêu chuẩn tiên tiến trong bảo vệ môi trường. <<<:: i="" l="" n="" ng="" ti="">>.



Một giáo viên Việt Nam đoạt giải “Giáo viên thế giới”
TTO - Văn phòng Viện Bell International của Vương quốc Anh tại TP.HCM vừa thông báo: cô Lê Xuân Hằng, giáo viên tiếng Anh của trường THCS Tân Hào (xã Tân Hào, huyện Giồng Trôm, Bến Tre) đoạt giải nhất “giáo viên thế giới” do Hội đồng khảo thí tiếng Anh ...
Cô giáo người Việt lọt top 5 “Giáo viên thế giới” xuất sắcXãLuận.com tin tức việt nam 24h cập nhật
Một giáo viên Việt Nam đoạt giải đặc biệt về giải trình nghiệp vụ ...Báo Đất Việt
Cô giáo xứ dừa đoạt giải đặc biệt "Giáo viên thế giới"Thanh Niên



Giá điện sinh hoạt cao nhất là 1.890 đồng/kWh
Kể từ 1/3/2010, nếu dùng điện quá 50 kWh/tháng, người dân mới phải chịu tác động tăng giá điện. Mức giá cao nhất là 1.890 đồng/kWh, cho kWh thứ 401 trở đi.



Phát hiện thêm nhiều gia vị có chứa chất gây ung thư
(TNO) Chiều nay (25.2), Thanh tra Sở Y tế TP.HCM đã công bố kết quả xét nghiệm các mẫu sản phẩm gia vị được lấy từ nhiều chợ trên địa bàn TP.HCM. Có đến 6 loại gia vị của 3 cơ sở sản xuất có chứa loại phẩm màu dùng trong công nghiệp dệt Rhodamine B, ...
Phát hiện nhiều cơ sở kinh doanh bột gia vị chứa Rhodamine BĐài Tiếng Nói Việt Nam
TPHCM: Phát hiện nhiều gia vị có chứa chất Rhodamine BSài gòn Giải Phóng


Thương mại thế giới năm 2009 đi xuống mạnh nhất trong hơn nửa thế kỷ-- CafeF
Thị trường không khỏi lo lắng khi cho biết hiện nay có quá nhiều lỗ hổng và bất ổn trong việc hối thúc các bộ trưởng đến tham gia vòng đàm phán vào cuối tháng 3/2010.



Trần Du Lịch

TCCS - Nếu tính từ Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta (năm 1991) đến nay, có thể thấy các nghị quyết của Đảng đều quán xuyến quan điểm: Gắn các vấn đề kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội. Trong các kế hoạch 5 năm phát triển kinh tế - xã hội qua từng thời kỳ, đặc biệt trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001 - 2010 và Chiến lược toàn diện về tăng trưởng và xóa đói, giảm nghèo (được Thủ tướng Chính phủ ban hành tháng 5-2002), đều thể hiện rất rõ quan điểm gắn mục tiêu tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội trong bài toán phát triển. Tuy nhiên, trên thực tế vẫn còn khoảng cách giữa mục tiêu và chính sách cụ thể; cũng như đang tồn tại và nảy sinh nhiều vấn đề cần được tiếp tục giải quyết.
<<<::: ...="" ai="" bi="" c="" ch="" con="" h="" i="" kh="" l="" m="" mu="" n="" ng="" nh="" s="" t="" th="" u="" v="" y="">>

Tổng số lượt xem trang