Thứ Hai, 15 tháng 2, 2010

Năm mới bàn chuyện phong thủy: Tính sổ ngày tàn chế độ Cộng Sản Việt Nam

Năm mới bàn chuyện phong thủy: Tính sổ ngày tàn chế độ Cộng Sản Việt Nam (Phần 1/3)
Thiên Ðức
Lời giới thiệu vào bài của tác giả:
Bài viết này được phổ biến rộng rãi, công khai như một lời cảnh báo nghiêm khắc đến thế hệ trong chiến tranh Việt Nam, trước khi từ giã chính trường, phải giải quyết vấn đề “hòa giải hòa hợp dân tộc”, và hậu quả của những sai lầm do chính thế hệ đã gây ra để tránh đi những đổ vỡ tang thương không cần thiết một khi đất nước chuyển mình.
Tác giả tuyên bố không giữ bản quyền loạt bài nghiên cứu này. Kính mong quí bạn đọc có duyên tiếp cận được bài viết này, nên tiếp tay phổ biến rộng rãi đến các bạn đọc khác , để mỗi người hiểu biết và ý thức trách nhiệm thích hợp trong giai đoạn lịch sử sang trang.
Thiên Ðức kính báo.
***

Hằng năm, vào dịp đầu xuân, người viết thường khai bút một đề tài xa gần với “Phong thủy”. Năm nay cũng không ngoài thông lệ đó, lấy đề tài cũ, trả lời những câu hỏi của bạn đọc, nhằm hoàn chỉnh một bài nghiên cứu nghiêm túc về phong thủy, cũng là một điều hữu ích lại mang tính thời sự vậy.
Trong bài “Phong thủy lăng Hồ Chí Minh” trước đây, tôi đã đưa ra lời cảnh báo: “Ðảng csvn sẽ không tồn tại qua hết thế hệ thứ nhất thừa kế di sản của ông Hồ Chí Minh“
Nhiều bạn đọc yêu cầu giải thích chính xác thế nào là thế hệ thứ nhất, thứ hai. Bao lâu nữa bài viết đi vào hiện thực?
Người viết xin được giải thích rõ ràng rằng: Thế hệ thứ nhất là thế hệ trong chiến tranh và thế hệ thứ hai là sau chiến tranh. Muốn biết rõ thời gian nào không gì hơn hãy nhìn vào kết quả bầu cử quốc hội khóa XII năm 2007
CƠ CẤU KẾT HỢP THEO ÐỘ TUỔI CỦA NHỮNG NGƯỜI TRÚNG CỬ ÐẠI BIỂU QUỐC HỘI KHÓA XII
STT ĐỘ TUỔI CÁC ĐẠI BIỂU TỔNG
SỐ
ĐB
TS
ĐB
NỮ
TS
ĐB
DÂN
TỘC
TS ĐB
NGOÀI
ĐẢNG
HỌC VẤN
DƯỚI
ĐH
ĐẠI
HỌC
TRÊN
ĐH
1 Dưới 41 tuổi 68 49 31 21 6 47 15
2 Từ 41 đến 50 158 56 22 9 4 92 62
3 Từ 51 đến 60 238 22 31 4 7 155 76
4 Từ 61 đến 65 15

3 9 6
5 Từ 66 trở lên 14
3 6 3 6 5
Tổng cộng: 493 127 87 43 20 309 164

Tỷ lệ %: 100 25.8 17.6 8.7 4.1 62.7 33.3
Bảng thống kê này có thể viết lại như sau:
Ðộ tuổi các đại biểu Tổng số ÐB Thế hệ Ghi chú
Dưới 50 68+ 158= 226 Sau chiến tranh Vào thời điểm 1975, số đại biểu già nhất mới 18 tuổi.
Từ 51 – 60 238 Trong chiến tranh Ðây là lớp tuổi tham gia vào thời điểm tàn cuộc chiến, không có nhiều công trạng.
Trên 61 15 + 14 = 29 Trong chiến tranh Lớp người gắn bó nhiều với cuộc chiến.
Tổng cộng 493

* Giai đoạn từ 2011 đến 2016:
Theo tiến trình đào thải về tuổi tác, giả như không có sự tác động chính trị nào để làm đổi thay cơ cấu thành phần tuổi tác này thì dự kiến số đại biểu quốc hội như sau:
Tổng số đại biểu dưới 55 tuổi, thế hệ thứ hai sau chiến tranh tối thiểu là: 226 + 29 ( là số người trên 61 tuổi được thay thế bởi lớp người trẻ tuổi hơn) = 255
Số đại biểu thế hệ thứ nhất trong chiến tranh còn lại tối đa là 238.
Với giả thiết lạc quan rằng số đại biểu trong chiến tranh này vẫn tồn tại, không rơi rụng bởi sức khỏe, tư cách hay khả năng làm việc để thay thế bằng lớp người trẻ hơn.
Thời điểm này sẽ rất thuận lợi cho một giai đoạn chuyển tiếp để thế hệ chiến tranh bàn giao sản nghiệp chính trị lại cho thế hệ sau chiến tranh. Những vấn đề đã nảy sinh, thế hệ chiến tranh phải có trách nhiệm giải quyết, trước khi chuẩn bị đi vào quá khứ.
* Giai đoạn 2016 đến 2021:
Với giả thiết đảng csvn vẫn ngoan cố bám víu quyền lực, thành phần đại biểu ở vào giai đoạn này sẽ là:
Thế hệ chiến tranh : từ 238 sẽ giảm đi 1/2 vì quá 65 tuổi (tính trung bình) số còn lại là 119.
Thế hệ sau chiến tranh sẽ là 255 + 119 = 374
Con số 119 (thực tế sẽ ít hơn) sẽ là tổng số lu mờ. Tiếng nói của thế hệ sau chiến tranh ở giai đoạn này sẽ là đa số áp đảo.
Như vậy, dù muốn hay không, cho dù quyền lực của đảng csvn có mạnh đến đâu chăng nữa, lãnh đạo đất nước theo con đường nào độc tài toàn trị hay mở rộng dân chủ đa nguyên. Chế độ hiện tại là cộng sản hay tư bản (trá hình?). Ðảng csvn lệ thuộc Trung Quốc hay không? Thập niên tới sẽ phải là thời gian để thế hệ trong chiến tranh chấm dứt vai trò lãnh đạo đất nước. Thế hệ sau chiến tranh phải đảm nhận trọng trách này. Não trạng công thần hay nói một cách khác là sự ăn mày quá khứ của lớp người trong chiến tranh không còn được đưa ra làm cơ sở chứng lý để duy trì sự lãnh đạo trên đầu dân tộc Việt. Tất yếu, thế hệ sau này phải có sự tổng kết lại toàn bộ gia sản của thế hệ đi trước, “ôn cố để tri tân” là điều không tránh khỏi trong việc hoạch định đường hướng phát triển Việt Nam trong tương lai.
Ðây là một hiện thực khách quan phải xảy ra, không một quyền lực nào, tập đoàn nào hay một cá nhân nào có thể cản trở được bước chuyển mình của lịch sử.
Bài viết này không có tham vọng nghiên cứu thái độ bàn giao chuyển tiếp của thế hệ trong chiến tranh, hay là nghiên cứu tâm tư tình cảm tiếp nhận bàn giao của thế hệ sau chiến tranh.
Hai đề tài này còn bỏ ngỏ để người trong cuộc tiếp tục nghiên cứu và tranh luận. Ðây là hai đề tài nằm trong phạm trù chính trị tùy thuộc vào yếu tố chủ quan của mỗi người tại chỗ đứng của mình.
Bài viết này chỉ giới hạn trong phạm vi tính sổ những nội dung sự nghiệp chính trị, mang yếu tố khách quan mà thế hệ chiến tranh phải bàn giao lại cho thế hệ sau chiến tranh.
Bài viết sẽ lần lượt trình bày qua ba phần:
1)- Gia sản Hồ chí Minh
2)- Sản nghiệp nội tại của đảng csvn
3)- Những khoản nợ cần thanh toán
I/- Gia sản Hồ Chí Minh:
Hồ Chí Minh là một trong những người sáng lập và lãnh đạo đảng Cộng Sản Việt Nam qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ. Ông Hồ chết từ năm 1969, lý ra vai trò lịch sử của ông Hồ Chí Minh phải chấm dứt, trả về cho lịch sử phán xét. Thực tế ngược lại, đảng csvn cố tình đánh bóng hình tượng Hồ Chí Minh nhằm duy trì sự lãnh đạo đất nước từ thế hệ này qua thế hệ khác bằng hai hình thức như sau:
1)- Xác thân:
Với chủ trương của đảng csvn “Chủ tịch Hồ Chí Minh sống mãi trong sự nghiệp của chúng ta”.
Ông Hồ Chí Minh đã ra đi với nguyện vọng hỏa táng, thế nhưng vì mưu đồ chính trị đảng csvn đã cho ướp xác theo kỹ thuật Liên Xô.
Mục đích ướp xác chính thức theo Bộ Chính Trị công bố: “giữ gìn lâu dài thi hài của Bác để sau này đồng bào cả nước, nhất là đồng bào miền Nam và hải ngoại, bè bạn quốc tế, có điều kiện tới viếng Bác, thể hiện tình cảm sâu đậm đối với Bác”.
Giờ đây, những người cuối cùng trong cuộc chiến lần lượt xuôi tay, nhu cầu thăm viếng không còn nữa, thế hệ sau chiến tranh có cần thiết để tiếp tục duy trì xác ướp này hay không?
Xác ông Hồ Chí Minh là bản sao xác ướp Lenin, theo tiết lộ của một nghị viên Nga đã phát biểu trước viện Duma của nước này là “Xác Lê- nin chỉ còn lại 10%”.
Ðiều này có nghĩa là xác Hồ Chí Minh cũng nằm trong quá trình phân hủy. Xác Lenin ướp từ năm 1924 đến năm 2009 (được 85 năm) đã bị hủy hoại 90% nếu tính tròn là mỗi năm bị hủy hoại 1%.
Như vậy xác ướp Hồ Chí Minh từ năm 1969 đến năm 2009 (được 40 năm) đã bị hủy hoại gần phân nữa trên dưới 40%. Vào năm 2010 xác Lenin được đưa đi an táng, kỹ thuật ướp xác không còn được nghiên cứu, cải thiện, như vậy xác ướp Hồ Chí Minh dù có muốn duy trì cũng khó cứu vãn được tình trạng hủy hoại được. Nói một cách bình dân là xác Hồ Chí Minh phải chịu cảnh bị hư thúi dần dần.
Một bằng chứng rõ nét nhất là: “Năm 1976, các chuyên viên của Trung Quốc (Li Zhisui, 1994) khi qua Việt Nam quan sát, và học hỏi cách ướp xác Hồ Chí Minh, để sau đó ướp cho Mao Trạch Ðông đã cho biết là một bên tai trái xác của Hồ đã bị long, rụng ra, và được dán lại bằng một loại keo đặc biệt. Ngoài ra, phần sống mũi, sụn mũi bị hủy hoại, teo co lại và sụp xuống (không được căng cứng như bình thường), được đắp vá, và tái tạo bằng sáp nhân tạo, và râu cằm đã bi rơi rụng ra. Phần ngực bụng trở xuống đến ngón chân được che đậy kín bằng y phục, quần áo, và khăn đắp ngực”.
Hiện nay đảng csvn vẫn cố tình tiếp tục duy trì xác ướp Hồ Chí Minh, theo báo Việt Nam net:
Xét đề nghị của Ban Quản lý Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh, Phó Thủ tướng thường trực Nguyễn Sinh Hùng đã đồng ý nội dung Ðề án “Giữ gìn lâu dài, bảo vệ tuyệt đối an toàn thi hài Chủ tịch Hồ Chí Minh và phát huy ý nghĩa chính trị, văn hóa của Công trình Lăng trong giai đoạn mới”.
Về mặt phong thủy, lăng Hồ Chí Minh trong tình trạng bị động mả liên tục đã là một điều không may, giờ đây xác thân lại bị xì thúi chắc chắn sẽ ảnh hưởng không ít đến sự sinh tồn của đảng csvn.
2)- Ðạo đức và tư tưởng Hồ Chí Minh:
Ðảng csvn bày ra cái gọi là “ Ðạo đức và tư tưởng Hồ Chí Minh” như một lý tưởng nhằm duy trì sự tồn tại của đảng. Thế nhưng thời gian qua đã lộ ra nhiều nghịch lý giữa tư tưởng HCM và thực tế xã hội như là:
Ông Hồ chủ trương đấu tranh cho vô sản chuyên chính, đảng csvn lại chấp nhận cho đảng viên kinh doanh bóc lột không giới hạn.
Ông Hồ nói: “Quân đội phải trung với nước, hiếu với dân”, thì đảng đổi lại “trung với đảng hiếu với dân”…
Người xưa từng nói “Tư tưởng con người luôn luôn gắn liền với chính thời đại của nó”. Vậy tư tưởng Hồ Chí Minh (nếu có?) thuộc vào thế hệ “Răng đen mã tấu, với cây đèn dầu “mù u” chập chờn soi sáng ý tưởng Mác Lênin” có thể nào áp đặt mãi mãi lên đầu thế hệ “không gian điện tử, luôn luôn đổi thay phát triển nhanh chóng, không giới hạn” chăng?
Ðảng csvn tôn thờ Hồ Chí Minh vị sáng lập đảng là chuyện nội bộ đảng. Bài viết này không cần phải tốn thời gian để tranh luận tư tưởng và đạo đức Hồ Chí Minh “đúng hay sai”, có lợi ích gì khi áp dụng vào thực tiễn đời sống xã hội Việt Nam.
Ðảng csvn duy ý chí độc tài, bắt ép cả dân tộc Việt Nam nói chung, và thế hệ sau chiến tranh nói riêng phải “mù, câm và điếc” phục tùng trước một người từng tuyên bố công khai: “Tôi không có tư tưởng gì cả” (1) thật là một điều nghịch lý không thể chấp nhận được!
Dân tộc Việt Nam có thể nào mãi mãi là một dân tộc “lùn trí tuệ”chăng?
Không! nhất định là không!
Dân tộc Việt Nam từng tự hào có 4.000 ngàn năm văn hiến, với ý chí bất khuất tự cường đã được minh chứng suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước.
  • Một nghìn năm nô lệ giặc Tàu” dân tộc Việt Nam cũng không hề bị nô lệ bất cứ tư tưởng nào của Tàu.
  • Một trăm năm đô hộ giặc Tây” dân tộc Việt Nam chưa bao giờ khuất phục dưới bất cứ hệ tư tưởng nào của người mắt xanh mũi lõ. (2)
  • Tại sao chỉ mới 35 năm dưới sự toàn trị của đảng csvn, dân tộc Việt Nam phải chịu cảnh “tù nhân trí tuệ” của một xác thúi cũng chính là một kẻ “mất gốc, vọng ngoại”, khi chết đã để lại di chúc, chỉ mơ ước đi gặp Mác, Lenin quên cả tổ tiên, ông bà, cha mẹ, thậm chí quên cả anh chị em ruột thịt?
Thế hệ trong chiến tranh đã tạo dựng những sai lầm lịch sử này, nhưng lại không đủ can đảm dẹp bỏ nó.
Thế hệ sau chiến tranh khi nhận lãnh trọng trách của lớp người đi trước liệu có đầy đủ chính danh, tư cách và quyền lực để ép buộc toàn dân tộc Việt Nam mãi mãi cúi đầu trước một bi kịch vong bổn này không?
(Còn tiếp)
Chú thích:
1)- Nguyễn Văn Trấn, “Viết cho Mẹ & Quốc hội“, Nxb. Văn Nghệ [tái bản], California, 1995, tt. 150-152. Theo đoạn văn nầy, trong một cuộc đối thoại ngắn, Hồ Chí Minh hai lần xác nhận mình chẳng có tư tưởng gì ngoài chủ nghĩa Marx-Lenin.
2)- Chữ in nghiêng là mượn lời của bản nhạc “Gia tài của mẹ” Trịnh Công Sơn
Nguồn: Bài nhận được từ tác giả




Phong thủy: Tính sổ ngày tàn chế độ Cộng Sản Việt Nam (Phần 2/3)
Thiên Ðức

II/- Sản nghiệp nội tại của đảng csvn
Sản nghiệp chính trị phải bàn giao kế tiếp đó chính là bản thân nội tại của đảng cng sản Việt Nam với nhiều khuyết tật trầm trọng như sau:
1)- Phá sản về lý tưởng và ý thức hệ
Thật vậy, đảng csvn hình thành từ năm 1930 dựa trên quan điểm Marx-Lenin. Năm 1989 bức tường Berlin sụp đổ, sau đó tượng Lenin bị kéo đổ tại ngay chính quê hương của khối XHCN, đã kết thúc lý tưởng cộng sản. Học thuyết Marx-Lenin chỉ là hoang tưởng, đã thật sự đi vào thùng rác lịch sử nhân loại.
Ðiểm kế tiếp, kể từ ông Hồ Chí Minh cho đến những người kế nhiệm đều luôn luôn đấu tranh cho ý thức hệ “giai cấp vô sản toàn thế giới đoàn kết lại”. Sau đại hội X, đảng csvn chấp thuận cho đảng viên làm kinh tế không giới hạn qui mô bóc lột. Nói một cách chính xác hơn đây là một cuộc đảo chính không tiếng súng , giai cấp vô sản thật sự đã thoái trào nhường quyền lãnh đạo lại cho giai cấp tư bản đỏ. Lý tưởng cộng sản hoàn toàn bị bội phản.
Danh hiệu đảng csvn vẫn còn được duy trì như là cái bình phong để nắm giữ quyền lãnh đạo theo định hướng XHCN thật sự chỉ là một kiểu “treo đầu dê bán thịt chó”.
Hiện nay đảng csvn không thể tìm ra được một lý tưởng nào hay một ý thức hệ nào thích hợp để thay thế khoảng trống này. Ðảng cố tình bịa ra cái gọi là “tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh” nhằm mua thời gian trong quá trình chuyển hóa, lột xác mà thôi.
2)- Tụt hậu đường lối hoạt động
Ðảng csvn hình thành trong chiến tranh đã hoạt động theo hai phương cách:
a)- Bí mật và im lặng: Ðây là một phương cách hữu hiệu và cần thiết trong giai đoạn chiến tranh, mang nặng yếu tố sinh tử của cá nhân và tập thể. Trong giai đoạn này mọi thông tin đều có thể che dấu, sàng lọc, chế biến, thậm chí là dối trá khó mà kiểm chứng. Tất cả mọi sự đòi hỏi về đối chứng hay đối thoại đều rơi vào im lặng.
Nay đất nước đã hòa bình, đảng csvn từng tuyên bố có chính nghĩa và nhất là Việt Nam đã chính thức gia nhập tổ chức WTO, long trọng cam kết hội nhập vào xã hội văn minh loài người trên căn bản luật pháp quốc tế. Như vậy những phương cách hoạt động trong thời chiến đã không còn thích hợp ở một thời đại thông tin điện tử đòi hỏi sự công khai minh bạch và đối thoại.
Thực tế, đảng csvn không đủ khả năng thực hiện những điều cam kết trên để đổi thay phương cách hoạt động của thời chiến. Ðảng csvn vẫn hoạt động theo đường lối cũ, nghĩa là không chấp nhận đối thoại trên tất cả mọi vấn đề như là lịch sử Việt Nam hay hồ sơ dân chủ nhân quyền theo phong tục tập quán quốc tế. Có nghĩa là đảng đang đi vào con đường tụt hậu so với xã hội văn minh hiện đại.
Một ví dụ điển hình: những người dấn thân của thế hệ trẻ sau chiến tranh, được đào tạo dưới mái trường XHCN như luật sư Nguyễn Văn Ðài, luật sư Lê Thị Công Nhân, Phạm Thanh Nghiên, Trần Huỳnh Duy Thức, Lê Thăng Long, luật sư Lê Công Ðịnh và Nguyễn Tiến Trung… Tất cả họ là những người đòi hỏi đối thoại ôn hòa, bất bạo động nhằm tìm kiếm con đường xây dựng phát triển đất nước. Tại sao thế hệ trong chiến tranh không đủ can đảm đối diện thực tế để chấp nhận đối thoại mà lại dùng những công cụ bạo lực trấn áp tiếng nói của họ?
b)- Cứu cánh biện minh cho phương tiện (?)
Nhằm vào mục tiêu cướp chính quyền trên đầu nòng súng, đảng csvn đã bất chấp thủ đoạn cũng như hậu quả của việc làm miễn là đạt được mục đích. Vì thế chúng ta không lạ gì khi Hồ Chí Minh thông đồng với Pháp để bán ông Phan Bội Châu cho địch trước mắt là có tiền tiêu xài sau là loại đi một đối thủ chính trị.
Hoặc là lời tuyên bố của Hồ Chí Minh chấp nhận đốt cả dãy Trường Sơn để dành độc lập cho tổ quốc. Câu hỏi đặt ra là một khi tổ quốc tiêu vong, hoàn toàn bị tàn phá dưới bàn tay cộng sản thì độc lập còn có ý nghĩa gì không?
Nay đảng csvn mang danh là đảng cầm quyền vẫn không thay đổi phương cách hành động, nghĩa là bất chấp thủ đoạn, bất chấp hậu quả để đạt mục đích. Như là dùng cứt đái để bịt miệng ông Hoàng Minh Chính, Trần Khải Thanh Thủy, giáo dân Thái Hà, dùng côn đồ lưu manh để đánh đuổi tăng sinh Làng Mai, đàn áp giáo dân Thái Hà, Ðồng Chiêm, lại còn bỉ ổi hơn nữa dùng tin tặc để bịt miệng tiếng nói của những người trí thức trên các trang mạng Bauxite, Talawas, Đối Thoại, Vietland, Dòng Chúa Cứu Thế, Cao Trào Nhân Bản…
Với phương cách lỗi thời này cho thấy nhà nước Việt Nam đã tự hạ thấp chính mình để biến thành một tập đoàn côn đồ chăng?
3)- Thành phần đảng viên
Phải công bình mà nói, trong thời gian chiến tranh đảng csvn đã thành công trong công việc mê hoặc nhiều tầng lớp thanh niên yêu nước đứng dưới cờ đảng để đấu tranh giải phóng đất nước, thực hiện một xã hội không có “người bóc lột người”, “Làm theo khả năng, hưởng theo nhu cầu”. Tình đồng chí vô sản như là một chất keo gắn bó với nhau, không tiếc mạng sống để đạt mục đích cuối cùng. Những hình ảnh hạt muối cắn làm đôi, hạt gạo chia làm bốn là một niềm kiêu hãnh của người cộng sản. Thế nhưng khi đã nắm chính quyền, và nhận ra rằng thiên đường XHCN chỉ là một ảo ảnh hư vô, sau nhiều kiếp người vẫn không đạt được. Kết quả đại hội X là tiếng chuông báo tử của giai cấp vô sản ngay trong lòng chế độ. Như vậy, khối đảng viên cộng sản không còn thuần nhất lớp người vô sản, đại diện cho giai cấp công nhân mà còn có lớp người chủ nhân ông, làm giàu nhờ vào vị trí béo bở của mình. Từ đó nảy sinh ra tham nhũng, sự việc bán chức, mua ghế là điều không tránh khỏi. Ðảng viên cộng sản giờ đây gắn kết với nhau không phải vì lý tưởng mà vì quyền lợi tương sinh đan xen lẫn nhau. Nội bộ phân hóa, khoảng cách giàu nghèo ngày càng chênh lệch. Ðây chính là sự bất ổn nghiêm trọng, tiềm ẩn sự đối kháng nội tại trong nội bộ đảng.
Xuất phát từ hiện trạng nội bộ đảng cộng sản như trên, vấn đề tồn tại hay không tồn tại đã đặt ra thẳng thừng với đảng csvn. Ðiều 4 Hiến Pháp thật sự lỗi thời cần thay đổi. Thế nhưng để duy trì quyền lực, chủ tịch Nguyễn Minh Triết tuyên bố: “Bỏ điều 4 hiến pháp là tự sát”. Lời tuyên bố này hoàn toàn sai lầm dựa trên những điều cơ bản sau đây:
- Trước năm 1992, hiến pháp 1946, và 1959 không có điều 4, đảng csvn vẫn sống còn, sống mạnh, không hề có sự tự sát. Tại sao sau năm 1992 đảng csvn lại phải dựa vào điều 4 để tồn tại, như vậy hóa ra đảng csvn là chỉ một loại ký sinh trùng sống bám vào sự lạc hậu của điều 4 Hiến Pháp chăng?
- Thực tế hiện nay đảng csvn biến đổi bản chất, không còn hội đủ điều kiện, để làm người đại diện cho giai cấp công nhân theo tinh thần Hiến Pháp, luôn luôn có sự xung đột bản chất về quyền lợi công nhân và tầng lớp đảng viên làm kinh tế không giới hạn qui mô. Thì sự dựa dẫm vào điều 4 Hiến Pháp để tồn tại là một nghịch lý. Cần phải giải quyết.
Một ví dụ thực tiễn để cho thấy sự xung đột quyền lợi nói trên đó là quyền biểu tình, là vũ khí hữu hiệu của lực lượng công nhân lao động trong thời gian chiến tranh để cướp chính quyền, để bảo vệ quyền lợi của người công nhân. Vũ khí này đang có nguy cơ bị tước đoạt khỏi tầm tay giai cấp công nhân qua dự thảo luật lao động “cấm công nhân đình công về quyền”. Hiện đang thảo luận tại quốc hội dưới sự lãnh đạo của đảng cũng là sự lãnh đạo của giai cấp kinh doanh không giới hạn?
Tất cả những điều này chứng tỏ rằng, hiện nay đảng csvn thật sự đã phản bội lại lực lượng công nhân lao động, hoàn toàn đi ngược lại chủ nghĩa Marx- Lenin và cả tư tưởng Hồ Chí Minh (nếu có). Như vậy có còn đủ tư cách để giữ vai trò lãnh đạo hiện nay theo tinh thần của điều 4 Hiến Pháp hay không?
Ðiều 4
Ðảng cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, theo chủ nghĩa Mác – Lê Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội.
Mọi tổ chức của Ðảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.
Nếu nhân cách hóa đảng cs như là một sinh vật sống, thì với hiện trạng đảng csvn như trình bày trên cho thấy đây là một sinh vật không có linh hồn (không lý tưởng), què quặt (phương cách hoạt động tụt hậu lỗi thời), nội tạng thối nát (tham nhũng, cấu kết nhau theo lợi ích và quyền lực).
Vai trò lịch sử của đảng csvn đã qua rồi, có cần thiết để bàn giao lại cho thế hệ sau chiến tranh hay không?
Tại sao thế hệ trong chiến tranh không có đủ can đảm khai tử nó? Vậy ai là người đậy nắp quan tài đảng csvn? nếu không phải là thế hệ sau chiến tranh.
(còn tiếp)
Nguồn: Bài nhận được từ tác giả
Phong thủy: Tính sổ ngày tàn chế độ Cộng Sản Việt Nam (Phần kết)
Thiên Ðức

III/- Những khoản nợ
Tính sổ bàn giao, mà chỉ nói đến những tích sản bao gồm tài sản hữu hình và vô hình như trên đã trình bày, không đề cập đến những tiêu sản của thế hệ chiến tranh để lại là một điều thiếu sót không thể tha thứ được. Ðó chính là những khoản nợ cần phải thanh toán.
1)- Những món nợ oan sai: Phải hòa giải hòa hợp dân tộc
Từ khi nắm chính quyền tại miền Bắc năm 1954 và toàn Việt nam sau 1975, đảng csvn thực thi “chuyên chính vô sản” cũng có nghĩa là đảng csvn chính thức phân chia dân tộc Việt Nam thành hai giai cấp: “VÔ SẢN và KHÔNG VÔ SẢN”.
Những ai không thuộc thành phần vô sản như trí, phú, địa, hào, công, thương và kể cả những tiếng nói khác với tần số của đảng đều là kẻ thù cần phải tiêu diệt tận gốc. Những hồ sơ tồn đọng về cải cách ruộng đất, vụ án nhân văn giải phẩm, vụ án xét lại, cải tạo công thương nghiệp, cải tạo quân cán chính miền Nam, cải tạo Hoa kiều, xua đuổi người dân ra biển Ðông, kể cả hồ sơ tết Mậu Thân là những minh chứng hùng hồn cho sự sai lầm đó. Máu và nước mắt của hằng triệu nạn nhân đã đổ xuống vì sự chia rẽ dân tộc này.
Giờ đây tình thế đã đổi thay, đất nước muốn phát triển bền vững không thể nào dựa trên nền tảng lòng dân ly tán như hiện nay. Trách nhiệm phải “hòa hợp hòa giải dân tộc” là trách nhiệm của thế hệ trong chiến tranh bởi những lý do sau đây:
  • Hận thù dân tộc xảy ra do chính thế hệ trong chiến tranh gây nên qua những chính sách sai lầm như đã nói trên.
  • Hận thù dân tộc xảy ra trong thời gian hòa bình dưới sự cai trị của đảng csvn, hoàn toàn không có yếu tố ngoại nhập.
  • Ðảng csvn nói chung và thế hệ trong chiến tranh nói riêng là người hưởng lợi lộc trực tiếp những chiến lợi phẩm thu được qua các chính sách tàn ác nói trên.
Ðiều chú ý ở đây, người viết không đặt vấn đề hận thù “Quốc Cộng” của những người lính trực tiếp cầm súng nơi chiến trường. Người quốc gia chỉ là một bộ phận của dân tộc, chứ không phải là toàn dân tộc. Những ai nêu vấn đề hận thù Quốc Cộng để tránh né giải quyết vấn đề hòa giải hòa hợp dân tộc Việt Nam là một luận điệu bịp bợm dối trá, trốn tránh trách nhiệm, cố tình đánh tráo lịch sử.
(Vấn đề này người viết đã từng đưa ra lời cảnh báo rõ ràng trong loạt bài “Ðối thoại với ông Võ Văn Kiệt và đảng csvn”).
Có thể nào để cho thế hệ sau chiến tranh phải đổ vỏ khi người ăn ốc là thế hệ chiến tranh phủi tay, vô trách nhiệm ra đi. Thế hệ sau chiến tranh là những người vô tội có cần thiết phải nhận lấy hậu quả hận thù xương máu do thế hệ trước để lại hay không khi tiếp nhận bàn giao? Những người mang danh là cộng sản còn có lương tri để nhận thức ra sự nghiêm trọng của vấn đề tội lỗi này hay không?
2)- Những khoản nợ trong chiến tranh
Những khoản nợ này không được công bố một cách chính thức, đảng csvn đã vay nợ trong chiến tranh từ các nước của khối XHCN, giờ đây hòa bình vãn hồi, dân tộc Việt Nam phải hoàn trả lại những khoản nợ đó là lẽ tất nhiên không có gì để nói. Thế nhưng điều đáng nói ở đây là những phương thức để trả các khoản nợ đó như sau:
a)- Liên Xô:
Sau khi chiến tranh, đảng csvn đã trả nợ cho Liên xô qua những hình thức như sau:
* Cho Liên Xô độc quyền sử dụng cảng Cam Ranh dài hạn, ngang nhiên đưa tàu chiến trú đóng và ra vào cảng mà không cần qua sự kiểm soát của Việt Nam. Ðến năm 1986 Liên Xô sụp đổ, không còn khả năng khai thác cảng này, cảng bị bỏ không, vẫn không trả lại cho Việt Nam.
* Trả nợ bằng xương máu qua danh nghĩa “làm nghĩa vụ quốc tế trong sáng” bằng cách đưa thế hệ thứ tư (là thế hệ trưởng thành sau chiến tranh) vào cuộc chiến tranh giải phóng Campuchia. Một dân tộc sau chiến tranh đói đến độ ăn bo bo đỏ (là thức ăn của ngựa), lại có thể mang quân chiếm đóng một đất nước láng giềng với danh nghĩa giải phóng. Luận điều này không thể nào thuyết phục được công luận trong và ngoài nước được.
* Sau chiến tranh Việt Nam phải chịu lệ thuộc nền kinh tế của mình dưới cái bóng Liên Xô bằng hình thức là không được giao dịch với các nước khác ngoài khối XHCN, trong các sự giao dịch phải thông qua Liên Xô dưới sự bảo trợ của đồng Rúp. Ngoài ra phải trả nợ bằng nông – lâm – hải sản xuất khẩu qua Liên Xô. Xuất khẩu lao động qua những nông trường hoang dã, khắc nghiệt như là siberia, Trung Á cũng là hình thức trả nợ.
b)- Trung Quốc:
Ðiểm nổi bật trong việc trả nợ cho Trung Quốc đó là chính ông Phạm Văn Ðồng đã ký công hàm bán Hoàng Trường Sa cho Trung Quốc dưới triều đại Hồ Chí Minh, ngay trong thời gian chiến tranh.
Từ sau năm 1989 Liên Xô sụp đổ, đảng csvn đã quay lại với Trung Quốc để được tồn tại, phải mất đất biên giới như ải Nam Quan, thác Bản Dốc… Chủ trương cho Trung Quốc khai thác Bauxite ở Tây Nguyên bất kể đến sự xâm hại an ninh quốc gia, môi trường… .
Mới đây hai tướng Ðồng Sĩ Nguyên và Nguyễn Trọng Vĩnh cảnh báo sự việc đảng csvn cho Trung Hoa, Hồng Kông, Ðài Loan, Ðại Hàn thuê những rừng đầu nguồn biên giới trong dài hạn. Phải chăng đây là một hình thức trả nợ chiến tranh bằng đất đai của tổ quốc cho người Tàu?
Cái giá phải trả cho sự việc trả nợ này có thể ảnh hưởng đến tương lai dân tộc và nhiều thế hệ con cháu sau này.
3)- Những khoản nợ trong hòa bình:
Hiện nay các khoản nợ trong xây dựng hòa bình do thế hệ chiến tranh gây ra đã đến mức báo động. “Việt Nam sắp vỡ nợ quốc gia” đó chính là lời cánh báo của các cơ quan tài chánh quốc tế.
Trong một báo cáo được công bố vào ngày 8 tháng 12 vừa qua, tập đoàn đầu tư Nomura đã đưa ra những nhận định u ám về triển vọng kinh tế ở Việt Nam. Bloomberg trích lại nguồn này cho biết “ Việt Nam đang có những đặc điểm kinh điển của khủng hoảng ở thị trường mới nổi và các nhà đầu tư phải mua bảo hiểm chống lại một cuộc vỡ nợ quốc gia.”
Nomura cũng nhận định Việt Nam đang đứng trước rủi ro bị hạ thấp hạng đối với các khoản nợ quốc gia. Hiện nay các khoản nợ quốc gia của Việt Nam được Moody xếp hạng Ba và Standard & Poor’s xếp hạng BB. Hồi giữa năm 2008 vừa qua, Standard & Poor’s đã hạ thấp mức xếp hạng chỉ số tín dụng quốc gia của Việt Nam từ “ổn định” (stable) xuống “tiêu cực” (negative).Gần đây hơn, hồi cuối tháng 6 năm 2009, Fitch Ratings đã đánh tụt một bậc xếp hạng định mức tín nhiệm nợ dài hạn bằng đồng nội tệ của Việt Nam xuống mức BB-. Theo VNeconomy, với mức xếp hạng BB-, Việt Nam đang có chung định mức tín nhiệm nợ đồng nội tệ với Kenya và Serbia. Trong số 18 nền kinh tế châu Á mà Fitch theo dõi, Việt Nam có mức xếp hạng tín nhiệm nợ nội tệ đứng thứ 4 từ dưới lên, cao hơn so với Sri Lanka, Papua New Guinea và Mông Cổ. (3)
Và theo báo chí trong nước:
Báo cáo công tác quản lý nợ công của Bộ Tài chính phát đi ngày 30/11 tại hội nghị ngành tài chính cho hay, nợ công (bao gồm nợ Chính phủ, nợ được Chính phủ bảo lãnh và nợ chính quyền địa phương), dự kiến đến cuối năm 2009 khoảng 44,7% GDP.
Trong con số này, nợ Chính phủ chiếm 35,4% GDP; nợ được Chính phủ bảo lãnh chiếm 7,9% GDP; và nợ chính quyền địa phương chiếm 1,4% GDP.
Nếu tính thêm 146 nghìn tỷ đồng và 1 tỷ USD trái phiếu Chính phủ, cùng với số vốn ODA tài trợ mới trong năm tới, đến hết năm 2010, tỷ lệ nợ công sẽ cao hơn nữa, có thể sẽ đạt mức 50% GDP.
Liệu nợ công có đảm bảo trong ngưỡng an toàn? Phó chủ nhiệm Ủy ban Tài chính Ngân sách của Quốc hội, ông Trịnh Huy Quách cho biết, quan điểm về ngưỡng an toàn trong tỷ lệ nợ công so với GDP cũng khác nhau.

Theo thông tin do Thứ trưởng bộ tài chính Trần Xuân Hà đưa ra vào ngày 02/02/2010 là nợ Việt Nam vượt quá 30%. Sự chênh lệch từ 30% đến 50% trong cách đánh giá công nợ của Việt Nam hiện nay vẫn còn nhiều tranh cãi.
Thế hệ đi trước làm ăn thất bại, thế hệ đi sau phải gánh chịu sự bất hạnh này, thế nhưng trong công nợ này có hai khoản chi tiêu để đổ nợ mà thế hệ sau chiến tranh sẽ không cam lòng chịu đựng đó là:
  • Khoản ngân sách khổng lồ nuôi đảng csvn như là một hệ thống song trùng nhà nước Việt Nam kém hiệu quả. Thực chất đây là một xác chết chưa chôn là vật cản trên đà phát triển Việt nam
  • Khoản ngân sách nuôi dưỡng bảo trì một xác ướp đang từng bước bị hủy hoại, cũng chính là cái gông cùm dân trí Việt Nam.
Một câu hỏi đầy nghịch lý, tại sao những khoản chi tiêu này vẫn tồn tại? trong lúc đất nước nghèo mạt, sắp vỡ nợ, từ nhà nước tới dân đói phải đi “ăn mày” khắp thế giới, một phần dân tộc phải đi bán cái “ cái lá đa” cho nước ngoài để nuôi đảng và nhà nước qua các khoản thuế “xuất khẩu lao động” hay “cô dâu vượt biên giới”.
Thế hệ sau chiến tranh có thể vô cảm, và tiếp tục chịu đựng sự nhục nhã này không?
Trên đây chỉ là những nét chính khái quát trong việc tính sổ ngày tàn chế độ csvn.Thế nhưng sẽ là thiếu sót nếu không đề cập đến các hồ sơ khác như sau: – lịch sử dối trá trên quan điểm “duy vật” hiện nay, tên gọi nào cho cuộc chiến? Hồ sơ giáo dục, hồ sơ dân oan, hồ sơ tôn giáo, hồ sơ biên giới Việt Trung và biển đảo… Rất tiếc trong phạm vi một bài nghiên cứu hạn hẹp phổ biến trên báo chí không thể giải đáp tất cả vấn đề của những hồ sơ nói trên. Rất mong bạn đọc nào có khả năng triển khai và nối tiếp công việc này bằng một trang web “Chuyển giao thế hệ” thật đầy đủ, hầu giúp đỡ cho thế hệ sau chiến tranh sớm chuẩn bị tâm lý và sáng suốt nhận lãnh trách nhiệm một khi lịch sử sang trang.
Theo dịch lý đông phương có câu “Vạn vật biến đổi không ngừng” có nghĩa là tất cả mọi sự vật đều biến đổi, không hề có ngoại lệ. Hiện nay thế giới đang đổi thay mạnh mẽ và nhanh chóng. Hai yếu tố cơ bản hình thành chế độ cs là: – Ðảng csvn đã lột xác từ bản chất vô sản sang tư bản đỏ. – Giới lãnh đạo cũng đang chuyển mình từ lớp người trong chiến tranh, vô học sang lớp người sau chiến tranh, có ăn học hơn, lại không hận thù. Vậy phải chăng đất nước Việt Nam là một ngoại lệ không thể đổi thay? để thoát ra khỏi trong giấc mơ hoang tưởng XHCN xuất phát từ một xác ướp.
Dưới cái nhìn phong thủy, xác ướp Lenin luôn luôn bị “động” ở chừng mực vừa phải, do đó chế độ của ông ta đã chuyển giao chỉ tới đời thứ hai sau chiến tranh, đưa đến hậu quả XHCN Liên Xô chết bất đắc kỳ tử, gây bàng hoàng cùng với nuối tiếc của nhiều người.
Xác Hồ Chí Minh bản sao kỹ thuật của xác Lenin bị “động” liên tục và mạnh mẽ hơn, đã được cảnh báo là chế độ sẽ tồn tại không quá đời thứ nhất sau chiến tranh. Giờ đây cái xác lại bị thúi trầm trọng do những yếu tố nội tại.
Nếu xác thúi Hồ Chí Minh vẫn còn lưu giữ trong thời gian tới ắt rằng ảnh hưởng nghiêm trọng đến phong thủy Việt Nam, khó tránh được cái chết của chế độ csvn, không phải là đột tử mà là một cái chết được báo trước trong ô nhục do chính những người đã từng một thời theo đảng, không một lời nuối tiếc.
Ðến đây bạn đọc đặt câu hỏi là: “có thể nào cứu vãn tình hình hay giảm nhẹ đi hậu quả chuyển giao thế hệ được không?”
Câu trả lời: CÓ
Thế hệ trong chiến tranh phải tỉnh táo, can đảm nhìn rõ sự thật để thực hiện hai điều:
1)- Xác ướp Hồ Chí Minh đã và đang bị hủy hoại hơn 40%, năm 2010 Liên Xô chấm dứt chương trình nghiên cứu và phát triển công nghệ ướp xác Lênin. Thì xác Hồ Chí Minh không thể vãn hồi được nguyên trạng. Xác ướp Hồ Chí Minh đã hoàn tất vai trò lịch sử của nó. Trước tình thế đổi thay hiện nay, không gì hơn là thực hiện đúng di chúc Hồ Chí Minh là hỏa thiêu xác ướp. Không thể duy trì xác ướp dưới bất kỳ một kỹ thuật ngoại lai nào khác, đó chính là nguồn gốc của sự nô lệ dân tộc. Vấn đề này người viết đã từng phân giải đầy đủ qua bài viết “Từ xác ướp Ai Cập đến Hồ Chí Minh”.
Trong lịch sử khoa phong thủy, cũng như lịch sử phát triển nhân loại, không một quốc gia nào hay một thành phố nào có thể phát triển và ổn định với một xác thúi ngay trong lòng xã hội cả.
2)- Ðầu năm Canh Dần (2010) chủ tịch Nguyễn Minh Triết đã làm một hành vi rất nhân bản đó là phóng sinh con cá chép trả về vùng trời tự do của nó.
Nước Việt Nam tự hào độc lập và toàn vẹn lãnh thổ, vậy tại sao dân tộc Việt lại thua con cá chép? không được hưởng quyền làm người đúng theo công pháp quốc tế và hiến pháp Việt Nam?
Ông Nguyễn Minh Triết nên làm thêm một hành vi nữa để đi vào lịch sử đó là ra lệnh trong thẩm quyền của mình: ÐẠI XÁ CHO TOÀN CẢ DÂN TỘC.
Phải quan niệm rằng hành vi đại xá này là một bước đầu tất yếu thể hiện sự nghiêm túc trong quá trình hòa giải hòa hợp dân tộc của lớp người trong chiến tranh. Một hành vi chuộc lại lỗi lầm trong quá khứ, chứ không phải là một ân huệ. Hoàn toàn khác hẳn với sự van xin ân xá một bộ phận dân tộc qua đề nghị của thiền sư Nhất Hạnh.
5. Ân xá cho những người bị lưu đày và tù tội, trong đó có tội góp ý cho chính quyền, kêu gọi đa nguyên, đa đảng, đa giáo hội, kêu gọi tự do tôn giáo, tự do ngôn luận. Cho phép một số phạm nhân được chuộc tội bằng công tác xã hội dưới sự che chở, giám sát và bảo lãnh của các vị xuất gia thuộc các tôn giáo.
Ðây là hành vi hèn nhát van xin sự bố thí của lớp người trong chiến tranh không thể hiện được tinh thần hòa giải hòa hợp dân tộc, do đó sẽ không giải quyết được toàn bộ vấn đề bàn giao thế hệ hiện nay. Tại sao lại đặt điều kiện ân xá “tội nhân yêu nước?” dưới sự bảo trợ của một tổ chức tôn giáo? Nếu họ không đồng ý dưới sự bảo trợ tôn giáo thì không được ân xá hay sao?
Cầu mong cho đất nước an bình, lịch sử sang trang, hướng đến chân trời rộng mở hơn.
Nguồn: Bài nhận được từ tác giả

Tổng số lượt xem trang