Ngày 2/2, Viện nghiên cứu Heritage Foundation của Mỹ công bố báo cáo tựa đề: “Submarine Arms Race in the Pacific: The Chinese Challenge to U.S. Undersea Supremacy”, đánh giá về tương quan lực lượng tàu ngầm của các nước ở Thái Bình Dương và sự cạnh tranh giữa Mỹ và Trung Quốc. Sau đây là nội dung chính của báo cáo:
- Đánh giá về tương quan lực lượng tàu ngầm các nước ở Thái Bình Dương
- Lực lượng tàu ngầm của Mỹ:
Số lượng tàu ngầm tấn công của Mỹ đã giảm từ 102 chiếc năm 1987 xuống chỉ còn 53 trong năm 2009. Việc sụt giảm này bắt nguồn từ một số lần điều chỉnh cơ cấu lực lượng của Hải quân Mỹ kể từ thời Tổng thống Reagan kêu gọi sản xuất 100 tàu ngầm tấn công chạy bằng năng lượng hạt nhân (SSN). Kế hoạch năm 1991 của Tổng thống Bush cha kêu gọi duy trì 80 SSN. Báo cáo Quốc phòng bốn năm một lần (QDR) năm 1997 giảm mục tiêu này xuống chỉ còn 50 chiếc SSN. QDR 2001 nhắc lại mục tiêu duy trì 50 SSN. Trong khi đó, QDR 2006 đưa ra mục tiêu tăng việc sản xuất thêm 2 tàu ngầm mỗi năm vào năm 2012 và triển khai 60% lực lượng tàu ngầm tới khu vực Thái Bình Dương nhằm bảo vệ các lợi ích của Mỹ tại đây. Nghiên cứu cơ cấu lực lượng tàu ngầm của Hội đồng tham mưu trưởng liên quân (JCS) năm 1999 kết luận rằng số lượng tối ưu các tàu ngầm tấn công nhằm đáp ứng tất cả các yêu cầu thu thập tin tức và tác chiến của cộng đồng tình báo và quân sự của Mỹ sẽ là 68 chiếc SSN vào năm 2015 và 76 chiếc SSN vào năm 2025. Một lực lượng bao gồm 55 chiếc SSN vào năm 2015 và 62 chiếc vào năm 2025 sẽ tạo ra nguy cơ tương đối về an ninh. Hiện nay, hạm đội tàu ngầm của Mỹ đang bị dàn trải. Trong khi đó, theo kế hoạch mua sắm dài hạn của Hải quân Mỹ, số lượng SSN sẽ giảm xuống chỉ còn 48 chiếc trong giai đoạn 2022 và 2033 và xuống mức thấp nhất chỉ còn 41 chiếc vào những năm 2028-2029.
Để giải quyết “lỗ hổng” này, Hải quân Mỹ đang cân nhắc giảm thời gian sản xuất tàu ngầm lớp Virginia xuống chỉ còn 60 tháng, và kéo dài việc triển khai một số tàu ngầm từ 6-7 tháng. Nếu như thành công, tất cả những biện pháp này sẽ giúp Hải quân Mỹ duy trì tối đa 44-45 chiếc SSN. Việc giảm sút lực lượng SSN không chỉ tạo ra thách thức đối với việc duy trì khả năng răn đe dưới nước của Hải quân Mỹ mà còn ảnh hưởng tới các nỗ lực tác chiến chống tàu ngầm (ASW). Hiện nay, Hải quân Mỹ có 173 máy bay tuần tiễu P-3C đã cũ kỹ và loại máy bay thay thế P-8A dự kiến sẽ chưa thể đưa vào hoạt động cho đến năm 2013. Hải quân Mỹ cũng đang cho “nghỉ hưu” loại máy bay săn tàu ngầm S-3B Viking và vẫn chưa có kế hoạch thay thế. Ngoài ra, Hải quân Mỹ cũng đang thiếu một hệ thống hiện đại giống như hệ thống định vị bằng âm thanh (SOSUS) để phát hiện các tàu ngầm đối phương. Nhiều hệ thống tương tự triển khai từ thời Chiến tranh Lạnh đã lỗi thời và không có tác dụng trong môi trường tác chiến hiện nay. Hơn nữa, nhiều quốc gia đang triển khai các loại tàu ngầm hiện đại có thể đe doạ các tàu sân bay của Mỹ.
- Lực lượng tàu ngầm của Trung Quốc:
Kể từ khi kết thúc Chiến tranh Lạnh, Hải quân Trung Quốc đã mở rộng và nâng cấp nhanh chóng, đặc biệt là hạm đội tàu ngầm. Theo Lầu Năm Góc, Trung Quốc có lực lượng hải quân lớn nhất châu Á, bao gồm 6 chiếc SSN và 54 chiếc tàu ngầm tấn công chạy bằng điêzen (SS). Hơn một nửa các tàu ngầm chạy bằng điêzen là các loại tàu ngầm hiện đại lớp Kilo, lớp Tống và lớp Nguyên. Trung Quốc đang trên đường thực hiện mục tiêu xây dựng một lực lượng hải quân nước sâu, có thể tác chiến ngoài khơi xa nước này. Trong giai đoạn từ năm 1995-2005, Trung Quốc đã trang bị cho hải quân nước này 31 tàu ngầm mới. Ước tính hạm đội tàu ngầm tấn công của Trung Quốc trong tương lai sẽ có khoảng từ 58-88 chiếc, phụ thuộc vào việc các loại tàu ngầm cũ ngừng hoạt động sớm hay muộn. Trong những năm gần đây, Trung Quốc đã cho ra mắt bốn loại tàu ngầm mới được thiết kế và sản xuất trong nước là tàu ngầm lớp Tấn (tàu ngầm trang bị tên lửa đạn đạo – SSBN), lớp Thương (SSN), lớp Nguyên (SSP), và lớp Tống (tàu ngầm tấn công chạy bằng điện – SSK). Thế hệ tiếp theo của tàu ngầm lớp Thương cũng đang được chế tạo.
Hạm đội tàu ngầm tấn công của Trung Quốc đã tăng một cách đáng kể số lượng tàu tuần tiễu từ 2 chiếc năm 2006 lên 6 chiếc năm 2007 và 12 chiếc năm 2008. Điều này cho thấy Bắc Kinh đang có sự tập trung mới vào việc huấn luyện và chứng tỏ với các nước khác là Trung Quốc là một cường quốc hàng hải ở Thái Bình Dương. Một số vụ đụng độ với tàu của hải quân Mỹ trên vùng biển Thái Bình Dương trong những năm vừa qua cho thấy tầm hoạt động của tàu ngầm Trung Quốc đã vươn xa hơn và hoạt động có phần hiếu chiến hơn so với trước đây. Giới phân tích cho rằng sở dĩ Trung Quốc mở rộng nhanh chóng lực lượng tàu ngầm tấn công là do một số nguyên nhân như: nhằm đáp ứng nhu câuc phòng thủ, hạn chế khả năng can thiệp của Mỹ vào xung đột hai bờ giữa Đài Loan và Trung Quốc Đại lục, thách thức sự thống trị của Mỹ tại khu vực Thái Bình Dương, bẩo đảm khả năng đánh chặn hạt nhân cũng như tạo cho Trung Quốc vị thế lớn hơn trong giải quyết các vấn đề quốc tế. Như là một phần của khả năng răn đe hạt nhân, Trung Quốc dự kiến sẽ chế tạo khoảng 5 chiếc tàu ngầm SSBN lớp Tấn, mỗi chiếc được trang bị 12 tên lửa đạn đạo được phóng từ tàu ngầm (SLBM) có khả năng vươn tới lãnh thổ Mỹ từ vị trí bắn ngoài khơi Trung Quốc. Bắc Kinh cũng muốn sử dụng một số tàu SSN để hộ tống việc tuần tra răn đe của SSBN. Rõ ràng Trung Quốc không hề e ngại bộc lộ ý định trở thành một cường quốc toàn cầu và một hạm đội tàu ngầm tấn công mạnh sẽ giúp bảo vệ việc vận chuyển đường biển của Trung Quốc trên toàn thế giới.
- Lực lượng tàu ngầm của các quốc gia khác trong khu vực:
+ Ôxtraylia: có 6 tàu ngầm chạy bằng điện và điêzen (SSK và SS) và đã có kế hoạch thay thế những chiếc tàu ngầm này bằng 12 tàu hiện đại thông thường được trang bị tên lửa tuần tiễu. Động thái này của Ôxtraylia rõ ràng là do sự trỗi dậy của Trung Quốc như một cường quốc hải quân và sự suy yếu uy thế hải quân của Mỹ, mà Ôxtraylia vốn cho rằng đóng một vai trò bình ổn ở trên toàn thế giới, đặc biệt ở khu vực châu Á- Thái Bình Dương.
+ Ấn Độ: Mặc dù về mặt địa lý không phải là quốc gia thuộc khu vực Thái Bình Dương, nhưng Ấn Độ cũng đang tăng cường ảnh hưởng ở Đông Nam Á và Tây Thái Bình Dương. Ấn Độ có 16 tàu ngầm tấn công chạy bằng điêzen và gần đây đã hạ thuỷ chiếc SSN đầu tiên. Ấn Độ cũng đang chế tạo 6 tàu ngầm điêzen lớp Scorpene. Việc mở rộng và nâng cấp hạm đội tàu ngầm của Ấn Độ là một phần trong nỗ lực nhằm tăng thêm 100 tàu chiến cho hải quân nước này trong vòng 10 năm tới. Ấn Độ cho rằng chương trình chế tạo tàu chiến là một “nhu cầu chiến lược” của phòng thủ quốc gia, chủ yếu là nhằm đối chọi với việc Trung Quốc tăng cường lực lượng hải quân. Ấn Độ cũng có tham vọng trở thành một nước lớn và lực lượng tàu ngầm là một công cụ quan trọng để thực hiện tham vọng đó.
+ Nga: hạm đội tàu ngầm của Nga đã giảm khoảng 2/3 sau sự sụp đổ của Liên Xô cũ. Trong những năm gần đây, hải quân Nga đã từng bước phục hồi, nhưng vẫn cần thải hàng chục chiếc tàu ngầm hạt nhân tồn tại từ thời Chiến tranh Lạnh. Năm 2009, Nga có 17 chiếc SSN và 20 chiếc SS, trong đó 5 chiếc SSN và 9 chiếc SS thuộc biên chế hạm đội Thái Bình Dương. Tuy nhiên, khó khăn về ngân sách đã hạn chế khả năng của Nga trong việc đại tu thường xuyên các tàu ngầm tác chiến, thậm chí duy trì chúng ở trạng thái sẵn sàng chiến đấu.
+ Hàn Quốc: có 12 tàu ngầm tấn công và có kế hoạch tăng lên 27 chiếc vào năm 2020.
+ Bắc Triều Tiên: có 22 tàu ngầm tấn công thông thường đã cũ (số lượng tàu còn hoạt động được chưa biết) và nhiều tàu ngầm mini. Về mặt lý thuyết, các tàu ngầm của Bắc Triều Tiên có thể đe doạ các tàu buôn hoặc các tàu chiến bình thường, nhưng không được coi là đối thủ nghiêm trọng trong các hoạt động kiểm soát trên biển.
+ Đài Loan: hiện có 2 chiếc tàu ngầm tấn công và đang có kế hoạch mở rộng và nâng cấp lực lượng này, bao gồm cả tàu chế tạo trong nước.
+ Các nước Đông Nam Á: trong bối cảnh Trung Quốc và Ấn Độ đang triển khai các loại SSN, hầu hết các nước ở Đông Nam Á đã mở rộng và nâng cấp hạm đội tàu ngầm hiện có của họ. Inđônêxia có 2 tàu ngầm và thông báo kế hoạch chế tạo 12 chiếc vào năm 2024. Việt Nam đặt mua 6 tàu ngầm lớp Kilo của Nga. Xinhgapo gần đây đã mua 2 tàu ngầm trang bị hệ thống AIP lớp Archer nhằm thay thế hai chiếc tàu trong tổng số 4 chiếc cũ kỹ. Tháng 10/2007, Malaixia đã nhận được chiếc tàu lớp Scorpene đầu tiên của Pháp và dự kiến sẽ nhận chiếc thứ hai vào năm 2010. Thái Lan chưa có tàu ngầm nhưng cũng bày tỏ tham vọng có một vài chiếc.
2. Một số khuyến nghị nhằm duy trì ưu thế vượt trội dưới biển của Hải quân Mỹ
- Trong vòng 16 năm qua, Trung Quốc đã mở rộng nhanh chóng hạm đội tàu ngầm của họ, trong khi đó, Mỹ lại giảm bớt lực lượng này. Các nước bạn bè và đồng minh của Mỹ đã bày tỏ lo ngại về môi trường an ninh chuyển đổi ở Thái Bình Dương. Mỹ đã thừa nhận thực tế cán cân thăng bằng đang chuyển đổi này và đã bắt đầu tìm cách giải quyết. Nhằm bảo vệ lợi ích của Mỹ tại khu vực Đông Á, Thái Bình Dương và hỗ trợ việc trấn an các nước đồng minh trong khu vực, Mỹ cần đảo ngược xu thế giảm bớt đội tàu ngầm hiện nay và cần tăng khả năng chống tàu ngầm của họ. Cụ thể:- Nhanh chóng đóng thêm các tàu ngầm tấn công. Quốc hội cần thông qua việc tăng mua các tàu ngầm lớp Virginia thêm ít nhất 2 chiếc mỗi năm nhằm mục đích nâng tổng số tàu ngầm tấn công nhanh lên 60 chiếc.
- Rà soát đại tu và hiện đại hoá các tàu ngầm lớp Los Angeles có lựa chọn để kéo dài thời gian phục vụ. Việc đại tu và hiện đại hoá các tàu ngầm sẽ đòi hỏi thêm ngân sách, vì vậy việc kéo dài thời gian phục vụ của các tàu ngầm cũ mà vẫn trong điều kiện hoạt động tốt, thay vì thải đi như kế hoạch đề ra, sẽ giúp thu hẹp “lỗ hổng tàu ngầm” về ngắn hạn với chi phí ít hơn thay vì chế tạo mới.
- Tăng cường thêm các căn cứ tàu ngầm. Bố trí thêm tàu ngầm ở các căn cứ Guam, Hawaii và có thể Nhật Bản – ngoài 3 chiếc SSN hiện có ở Guam – sẽ giúp hạm đội này tiếp cận gần hơn với khu vực Đông Á nơi có thể cần đến chúng nhiều nhất, đồng thời cho phép tối đa hoá thời gian neo đậu và giảm tối thiểu thời gian khởi hành. Hải quân Mỹ cũng cần phải xem xét mua thêm các tàu tiếp liệu cho tàu ngầm.
- Đánh giá lại việc sử dụng các tàu ngầm điêzen. Về ngắn hạn, khi năng lực sản xuất trong nước phát triển, Mỹ có thể mua các tàu ngầm của đồng minh. Phát triển năng lực tàu ngầm thông thường sẽ giúp thúc đẩy việc huấn luyện tác chiến chồng ngầm mạnh mẽ hơn và cho phép Mỹ có thể bán các tàu ngầm chạy điêzen tiên tiếng cho Đài Loan.
- Nghiên cứu, phát triển và triển khai các phương tiện đa chức năng hoạt động dưới biển. Trang bị các thiết bị không người điều khiển dưới biển (UUV) có thể giúp tăng cường phạm vi, năng lực và khả năng sát thương của các loại vũ khí dưới biển hiện nay. Tuy nhiên, không nên coi các UUV như một sự thay thế các loại tàu ngầm tấn công. Trong tương lai gần, Mỹ cần tiếp tục triển khai các tùa ngầm có người điều khiển, đồng thời nâng cấp và tăng cường năng lực nhằm đối phó với các mối đe doạ tiềm tàng.
- Tăng cường các năng lực tác chiến chống ngầm. Quốc hội cần phân bổ ngân sách đủ và ổn định để tăng cường các năng lực ASW cả về số lượng và chất lượng. Cụ thể có thể mở rộng và đẩy nhanh chương trình P-8 và chế tạo thêm các tàu chiến có khả năng ASW.
- Hợp tác với quân đội của các nước bạn bè và đồng minh nhằm cải thiện năng lực tàu ngầm và ASW của họ. Những nỗ lực này bao gồm tiến hành thường xuyên và mạnh mẽ các cuộc tập trận đa phương, chia sẻ công nghệ và lập kế hoạch chung. Tăng cường năng lực hải quân của các nước bạn bè và đồng minh sẽ cho phép Mỹ hạn chế triển khai các nguồn lực của họ trong các tình huống khẩn cấp và sứ mệnh nhất định nhằm đáp ứng các nhu cầu cấp bách hơn.
- Khuyến khích Trung Quốc minh bạch hơn trong các vấn đề an ninh thông qua các kênh quân sự. Sự minh bạch lớn hơn về quân sự của Trung Quốc sẽ giúp giải quyết hoặc xa dịu những quan ngại về việc tăng cường sức mạnh hải quân của nước này. Sự hiểu biết lẫn nhau rõ hơn cũng có thể giúp ngăn chặn hoặc tránh các cuộc đụng độ trong tương lai giữa quân đội Mỹ và Trung Quốc.
- PGS-TS Vũ Cao Đàm: Ôn cố tri tân với hai điều giả định.
anhbasam giúp boxitvn về tác giả bài nầy: + Lý lịch và công trình khoa học; + “Đừng nghe những gì Trung Quốc nói, hãy nhìn những gì Trung Quốc làm”; + Đòn Xâm Lược Bẩn Thỉu của Tàu Cộng (blog BaSG)
- Cù Huy Hà Vũ: Đàn Âm hồn – Đài liệt sĩ chống ngoại xâm đầu tiên của nước Việt mà nay ta còn biết (boxitvn.net)
Lê Xuân Khoa – Người Việt hải ngoại làm được gì trước hiểm hoạ Trung Quốc?
Cho nước ngoài thuê đất rừng là rất nguy hiểm
TP - “Đất rừng ở ta không phải là nhiều, trong khi có nơi còn lấy đất rừng của dân để cho nước ngoài thuê là rất nguy hiểm”, Trung tướng Đồng Sỹ Nguyên khẳng định, khi trả lời phỏng vấn Tiền Phong.
Cần Thơ: Công bố sai phạm của những đối tượng lợi dụng Phật giáo Hòa Hảo (ND 27-2-10)
Hatoyama gives lift to N-plant bid (Yomiuri Shimbun 28-2-10)
Dự báo kinh tế Việt Nam: Country Forecast: Vietnam (Economist Intelligence Unit 2-2010) -- Lạm phát năm 2010 sẽ là 10,3%, v.v. ◄◄
Chống nhập siêu: Được 37 nghìn tỉ, mất 44 nghìn tỉ đồng (SGTT)
- Nhập vàng: Sao chỉ một đầu mối? (PLTP)
- Mặt bằng giá mới sẽ tăng đồng loạt đến 15%? (TTX). – Giá sữa tăng bất hợp lý (NLĐộng). – Giá gas, giá thép đều tăng.
– Ninh Thuận: muối rớt giá 73% (TBKTSG).
Đắk Nông tự tin vào kinh nghiệm quản lý người nước ngoài (TTrẻ)
- Đánh thức tiềm năng bauxite Đắk Nông – Tây Nguyên (VOV News).
– Có hiệu quả kinh tế nhưng chưa cao (TNiên).
Giàu lên nhờ cà phê chồn (TP 28-2-10)
Lê Lựu, một tấm lòng với doanh nhân đất Việt (ĐV 28-2-10)
With a Free Enterprise Vietnam, Who Really Won the War? (History News Network 1-3-10)
- Quốc hội chuyên nghiệp và tổ chức một kỳ họp chuyên nghiệp (Phần I) (NCLP).“Một Quốc hội chuyên nghiệp là Quốc hội thực sự đại diện cho ông chủ của quyền lực, tức là người dân. Thế nhưng, như ông Võ Văn Kiệt nhận xét, cả động lực và năng lực để đại diện cho dân đều đang có vấn đề. Theo ông Kiệt, “động lực phải tận tuỵ với Đảng bao giờ cũng áp đảo”, nên khó xác lập trách nhiệm trước dân.”
Ngay sau phiên chất vấn Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tại kỳ họp thứ sáu vừa qua, ông Lê Văn Cuông đã nhận được điện thoại của Chủ tịch Hà Giang "trách" việc ông đưa chuyện Hà Giang lên diễn đàn Quốc hội. Đoàn ĐBQH Hà Giang cũng gửi công văn "chất vấn ngược" ông Cuông.
Cấm đào tạo: Xin thưa là có!
Người viết bài này rất ngạc nhiên khi trả lời báo chí mới đây, Vụ trưởng Vụ Đại học (Bộ GD và ĐT) Trần Thị Hà nói: "Còn quy định trường ngoài công lập không được mở các ngành sư phạm, luật và báo chí không phải là "cấm". Thực tế, từ trước đến nay, chưa có trường ngoài công lập nào mở ba ngành đào tạo này".
Nói vậy, không phải vậy
Khi trao đổi về một chủ trương mới, nhất là trên công luận, thiết nghĩ, các cán bộ quản lý có trách nhiệm của ngành giáo dục và đào tạo cần nắm vững vấn đề và có cách diễn đạt chính xác. Nếu chẳng may, do tư duy xơ cứng, bảo thủ, hoặc do chưa nắm được bản chất của chủ trương mà phát biểu, rất có thể người có trách nhiệm nói sai lệch đi, những trao đổi của đại diện với công luận sẽ chẳng còn ý nghĩa gì nữa.
Việc Bộ GD và ĐT có ý định cấm các trường ngoài công lập đào tạo ngành luật, báo chí và sư phạm, có hay không? Xin thưa là có, không phải chỉ bây giờ, mà chủ trương này đã xảy ra hàng chục năm trước.
Vì vậy, người viết bài này rất ngạc nhiên khi trả lời báo chí mới đây, Vụ trưởng Vụ Đại học (Bộ GD và ĐT) Trần Thị Hà nói: "Còn quy định trường ngoài công lập không được mở các ngành sư phạm, luật và báo chí không phải là "cấm". Thực tế, từ trước đến nay, chưa có trường ngoài công lập nào mở ba ngành đào tạo này".
Có vẻ như cách tư duy "cấm" có nguồn gốc sâu xa và có tính hệ thống. Hơn nữa, thái độ và những lý do người ta đưa ra lại không trung thực.
Thực tế không phải như vậy, mà ngược lại thì đúng hơn. Cách đây khá lâu, vào giữa những năm chín mươi của thế kỷ trước, khi những trường đại học dân lập đầu tiên xin được mở và đi vào hoạt động, trường nào cũng "nhăm nhăm" xin mở ngành luật và báo chí. Đơn giản, đây là hai ngành "thời thượng" nhất lúc bấy giờ.
Hơn nữa, theo quy luật, những trường đại học dân lập mới mở, cơ sở vật chất còn nghèo nàn, họ chỉ né những ngành khoa học cơ bản và những ngành yêu cầu những phòng thí nghiệm phức tạp.
Khi cấp giấy phép, người ta rất hạn chế cho các trường dân lập mở ngành luật và báo chí. Nhưng trên thực tế, cũng đã có những trường xin phép mở được ngành báo chí. Đó là Trường đại học dân lập Đông Đô (được thành lập năm 1994). Trường đã mời PGS-TS Đỗ Xuân Hà về phụ trách chuyên ngành này và đã tuyển hàng trăm sinh viên.
Người viết bài này cũng đã giảng dạy hàng trăm tiết môn Lý thuyết truyền thông cho sinh viên báo chí của nhà trường. Chỉ có điều, sau đó có chủ trương của cấp trên (vào lúc bấy giờ, có thể là chỉ truyền đạt bằng miệng) là không cho các trường ngoài công lập đào tạo ngành báo chí.
Tôi nhớ hàng trăm sinh viên đã thất vọng như thế nào. Trường phải "chữa cháy" bằng cách chuyển họ sang học ngành thư viện- tư liệu, thông tin đối ngoại, quan hệ quốc tế...
Nói lại như vậy để thấy Vụ trưởng Trần Thị Hà đã phản ánh không đúng thực tế, đồng thời khẳng định tư tưởng cấm các ngoài công lập đào tạo báo chí, luật, sư phạm đã có từ lâu.
Tư duy lạc hậu đi ngược lại xu thế phát triển
Đành rằng các trường đại học ngoài công lập của chúng ta hiện nay chưa chiếm được niềm tin của xã hội. Nhưng với việc không tiêu tiền ngân sách nhà nước, mà đã đào tạo được hàng trăm ngàn người tốt nghiệp đại học, đấy là điều cần đáng ghi nhận.
Và điều quan trọng là sự xuất hiện của các trường ngoài công lập, trong tương lai, nhất định sẽ tạo ra sự cạnh tranh, sự đối trọng mà muốn hay không, các trường đại học công lập phải tự vươn lên khẳng định vị thế của mình, tự tìm nhiều giải pháp để phát triển tốt và trở thành những cơ sở đào tạo có chất lượng.
Xin đừng quên rằng, đó cũng là quy luật cuộc sống, quy luật của sự phát triển. Trên thế giới hoặc ngay ở Mỹ, nhiều trường đại học nổi tiếng lại là trường tư thục. Đại học Harvard của Mỹ là một ví dụ.
Việc Bộ GD và ĐT không cho phép các trường ngoài công lập mở các ngành báo chí, luật, sư phạm; không chỉ trái luật, tạo tiếp tiền lệ phân biệt đối xử, mà đó nó còn là biểu hiện của thái độ cửa quyền, tư duy lạc hậu và đi ngược lại xu thế phát triển.
Về nguyên tắc, bất cứ trường nào có đủ điều kiện để đào tạo ngành nào (chủ yếu là số giảng viên cơ hữu có học hàm, học vị) thì đều được phép tuyển sinh và đào tạo. Đấy là biểu hiện bình thường của một xã hội dân chủ, bình đẳng và tiến bộ.
Nếu thực hiện nghiêm chỉnh các quy định, hiện nay ở nước ta cũng không có nhiều trường đại học ngoài công lập có thể mở ngành báo chí. Nhưng các trường không đủ điều kiện mở là một chuyện, còn cấm các trường mở lại là chuyện khác!
Trong quản lý, chúng ta thường có tâm lý ảo tưởng "cấm" là thể hiện của sư quyền lực, của uy quyền. Nhưng thực ra đó lại là một trong những biểu hiện của sự bất lực. Nhiều văn bản trước đây, kiểu như "cấm học thêm, cấm luyện thi" cho thấy rõ bản chất của vấn đề này. Không quản được thì cấm, mà muốn độc quyền ban phát cơ chế xin- cho với cơ sở, cũng có thể "cấm".
Nghiên cứu các nền giáo dục đại học phát triển trên thế giới, các trường ngoài công lập khi nào cũng sử dụng ngân sách có hiệu quả hơn; nhanh nhạy hơn trong việc cập nhật tri thức mới. Vì vậy, không cấp quản lý GD nào ngăn cấm các trường này hoạt động đào tạo và nghiên cứu khoa học trong bất cứ lãnh vực gì, trừ những lĩnh vực đặc thù liên quan đến an ninh, quốc phòng thực thụ, mà chỉ các trường công lập của nhà nước mới có tiềm lực đầu tư các thiết bị kỹ thuật tốn kém và đủ năng lực đào tạo.
Không trung thực thì không khá lên được! (blog Hồ Bất Khuất)
- Giáo viên tránh né thực hành, vì sao? (SGGP).
“Chấm dứt tình trạng không kiểm soát được chất lượng đào tạo” (DTrí).
Vấn đề "nhạy cảm" hay là sự né tránh trách nhiệm?
Tại sao bài báo khoa học bị từ chối?
- In-đô-nê-xi-a có kế hoạch điều chỉnh ngân sách năm 2010 và đối phó với hàng hoá giá rẻ từ Trung Quốc (ĐCS)
Nói vậy, không phải vậy
Khi trao đổi về một chủ trương mới, nhất là trên công luận, thiết nghĩ, các cán bộ quản lý có trách nhiệm của ngành giáo dục và đào tạo cần nắm vững vấn đề và có cách diễn đạt chính xác. Nếu chẳng may, do tư duy xơ cứng, bảo thủ, hoặc do chưa nắm được bản chất của chủ trương mà phát biểu, rất có thể người có trách nhiệm nói sai lệch đi, những trao đổi của đại diện với công luận sẽ chẳng còn ý nghĩa gì nữa.
Việc Bộ GD và ĐT có ý định cấm các trường ngoài công lập đào tạo ngành luật, báo chí và sư phạm, có hay không? Xin thưa là có, không phải chỉ bây giờ, mà chủ trương này đã xảy ra hàng chục năm trước.
Vì vậy, người viết bài này rất ngạc nhiên khi trả lời báo chí mới đây, Vụ trưởng Vụ Đại học (Bộ GD và ĐT) Trần Thị Hà nói: "Còn quy định trường ngoài công lập không được mở các ngành sư phạm, luật và báo chí không phải là "cấm". Thực tế, từ trước đến nay, chưa có trường ngoài công lập nào mở ba ngành đào tạo này".
Có vẻ như cách tư duy "cấm" có nguồn gốc sâu xa và có tính hệ thống. Hơn nữa, thái độ và những lý do người ta đưa ra lại không trung thực.
Thực tế không phải như vậy, mà ngược lại thì đúng hơn. Cách đây khá lâu, vào giữa những năm chín mươi của thế kỷ trước, khi những trường đại học dân lập đầu tiên xin được mở và đi vào hoạt động, trường nào cũng "nhăm nhăm" xin mở ngành luật và báo chí. Đơn giản, đây là hai ngành "thời thượng" nhất lúc bấy giờ.
Hơn nữa, theo quy luật, những trường đại học dân lập mới mở, cơ sở vật chất còn nghèo nàn, họ chỉ né những ngành khoa học cơ bản và những ngành yêu cầu những phòng thí nghiệm phức tạp.
Khi cấp giấy phép, người ta rất hạn chế cho các trường dân lập mở ngành luật và báo chí. Nhưng trên thực tế, cũng đã có những trường xin phép mở được ngành báo chí. Đó là Trường đại học dân lập Đông Đô (được thành lập năm 1994). Trường đã mời PGS-TS Đỗ Xuân Hà về phụ trách chuyên ngành này và đã tuyển hàng trăm sinh viên.
Người viết bài này cũng đã giảng dạy hàng trăm tiết môn Lý thuyết truyền thông cho sinh viên báo chí của nhà trường. Chỉ có điều, sau đó có chủ trương của cấp trên (vào lúc bấy giờ, có thể là chỉ truyền đạt bằng miệng) là không cho các trường ngoài công lập đào tạo ngành báo chí.
Tôi nhớ hàng trăm sinh viên đã thất vọng như thế nào. Trường phải "chữa cháy" bằng cách chuyển họ sang học ngành thư viện- tư liệu, thông tin đối ngoại, quan hệ quốc tế...
Nói lại như vậy để thấy Vụ trưởng Trần Thị Hà đã phản ánh không đúng thực tế, đồng thời khẳng định tư tưởng cấm các ngoài công lập đào tạo báo chí, luật, sư phạm đã có từ lâu.
Tư duy lạc hậu đi ngược lại xu thế phát triển
Đành rằng các trường đại học ngoài công lập của chúng ta hiện nay chưa chiếm được niềm tin của xã hội. Nhưng với việc không tiêu tiền ngân sách nhà nước, mà đã đào tạo được hàng trăm ngàn người tốt nghiệp đại học, đấy là điều cần đáng ghi nhận.
Và điều quan trọng là sự xuất hiện của các trường ngoài công lập, trong tương lai, nhất định sẽ tạo ra sự cạnh tranh, sự đối trọng mà muốn hay không, các trường đại học công lập phải tự vươn lên khẳng định vị thế của mình, tự tìm nhiều giải pháp để phát triển tốt và trở thành những cơ sở đào tạo có chất lượng.
Xin đừng quên rằng, đó cũng là quy luật cuộc sống, quy luật của sự phát triển. Trên thế giới hoặc ngay ở Mỹ, nhiều trường đại học nổi tiếng lại là trường tư thục. Đại học Harvard của Mỹ là một ví dụ.
Việc Bộ GD và ĐT không cho phép các trường ngoài công lập mở các ngành báo chí, luật, sư phạm; không chỉ trái luật, tạo tiếp tiền lệ phân biệt đối xử, mà đó nó còn là biểu hiện của thái độ cửa quyền, tư duy lạc hậu và đi ngược lại xu thế phát triển.
Về nguyên tắc, bất cứ trường nào có đủ điều kiện để đào tạo ngành nào (chủ yếu là số giảng viên cơ hữu có học hàm, học vị) thì đều được phép tuyển sinh và đào tạo. Đấy là biểu hiện bình thường của một xã hội dân chủ, bình đẳng và tiến bộ.
Nếu thực hiện nghiêm chỉnh các quy định, hiện nay ở nước ta cũng không có nhiều trường đại học ngoài công lập có thể mở ngành báo chí. Nhưng các trường không đủ điều kiện mở là một chuyện, còn cấm các trường mở lại là chuyện khác!
Trong quản lý, chúng ta thường có tâm lý ảo tưởng "cấm" là thể hiện của sư quyền lực, của uy quyền. Nhưng thực ra đó lại là một trong những biểu hiện của sự bất lực. Nhiều văn bản trước đây, kiểu như "cấm học thêm, cấm luyện thi" cho thấy rõ bản chất của vấn đề này. Không quản được thì cấm, mà muốn độc quyền ban phát cơ chế xin- cho với cơ sở, cũng có thể "cấm".
Nghiên cứu các nền giáo dục đại học phát triển trên thế giới, các trường ngoài công lập khi nào cũng sử dụng ngân sách có hiệu quả hơn; nhanh nhạy hơn trong việc cập nhật tri thức mới. Vì vậy, không cấp quản lý GD nào ngăn cấm các trường này hoạt động đào tạo và nghiên cứu khoa học trong bất cứ lãnh vực gì, trừ những lĩnh vực đặc thù liên quan đến an ninh, quốc phòng thực thụ, mà chỉ các trường công lập của nhà nước mới có tiềm lực đầu tư các thiết bị kỹ thuật tốn kém và đủ năng lực đào tạo.
Không trung thực thì không khá lên được! (blog Hồ Bất Khuất)
- Giáo viên tránh né thực hành, vì sao? (SGGP).
“Chấm dứt tình trạng không kiểm soát được chất lượng đào tạo” (DTrí).
Vấn đề "nhạy cảm" hay là sự né tránh trách nhiệm?
"Đừng lạm dụng từ "nhạy cảm" để né tránh những trọng trách đất nước đang đặt lên vai của Đảng" - ý kiến TS. Mai Liêm Trực.
Đảng phải là Đảng của dân tộc
LTS: Bàn về việc chuẩn bị cho Đại hội Đảng XI sắp tới, TS. Mai Liêm Trực, nguyên Thứ trưởng thường trực Bộ Bưu chính Viễn thông nói điều băn khoăn lớn nhất là làm thế nào để các văn kiện Đại hội sắp tới có thể thực sự tiếp nhận được trí tuệ của mọi tầng lớp xã hội chứ không phải làm chiếu lệ, hình thức. Đừng lạm dụng từ "nhạy cảm" hay để lại vấn đề bức xúc cho nhiệm kỳ sau để né tránh những trọng trách đất nước đang đặt lên vai Đảng.
Hỏi dân một cách hình thức là vô trách nhiệm với dân tộc
Vốn xã hội của chúng ta còn thấp
Giá thuê cột điện: Doanh nghiệp "nhường" các bộ?-- CafeF
Dự lễ hội: khiếp!
- Lao động Việt Nam ra nước ngoài: “Ngọc thô” và rào cản (HNM). Một rào cản rất lớn mà bài nầy chưa bàn tới là những tiêu cực hành doanh nghiệp và người lao động, từ làng xã cho tới trung ương, trong suốt quá trình làm thủ tục đi lao động.
Đảng phải là Đảng của dân tộc
LTS: Bàn về việc chuẩn bị cho Đại hội Đảng XI sắp tới, TS. Mai Liêm Trực, nguyên Thứ trưởng thường trực Bộ Bưu chính Viễn thông nói điều băn khoăn lớn nhất là làm thế nào để các văn kiện Đại hội sắp tới có thể thực sự tiếp nhận được trí tuệ của mọi tầng lớp xã hội chứ không phải làm chiếu lệ, hình thức. Đừng lạm dụng từ "nhạy cảm" hay để lại vấn đề bức xúc cho nhiệm kỳ sau để né tránh những trọng trách đất nước đang đặt lên vai Đảng.
Hỏi dân một cách hình thức là vô trách nhiệm với dân tộc
Vốn xã hội của chúng ta còn thấp
Vốn xã hội thấp thể hiện một sự khủng hoảng về lòng tin của cá nhân trong cuộc sống hàng ngày, người ta sẵn sàng làm điều xấu và khi ấy cái xấu trở thành chuyện bình thường.
Giá thuê cột điện: Doanh nghiệp "nhường" các bộ?-- CafeF
Như vậy, “chuyện giá thuê cột điện” vẫn dùng dằng, và rất có thể sẽ cần 3 bộ phải vào cuộc để tính toán.
- Macroeconomic indicators – Vietnam GDP may exceed target (StellGuru).
VIỆT NAM - Cổ vật hiếm thấy của Việt Nam thu hút người hâm mộ tại New York
- Macroeconomic indicators – Vietnam GDP may exceed target (StellGuru).
VIỆT NAM - Cổ vật hiếm thấy của Việt Nam thu hút người hâm mộ tại New York
Vén bức màn bí ẩn bao phủ hàng thế kỷ nghệ thuật tại Việt Nam. Dưới tựa đề này, tờ International Herald Tribune xuất bản tại Pháp đã đăng lại một bài phê bình trên báo New York Times, trầm trồ khen ngợi cuộc Triển lãm cổ vật Việt Nam đang diễn ra tại New York cho đến đầu tháng năm.
TT - Từ tết đến nay, mỗi ngày có đến vài ba lễ hội khai mạc. Lễ hội nào cũng có ý nghĩa văn hóa, lịch sử. Nhưng có đi dự các lễ hội thì mới thấy kinh khiếp về ý thức của phần lớn người dân, về sự cẩu thả trong khâu tổ chức. Tuổi Trẻ ghi lại những hình ảnh phản cảm từ các lễ hội năm nay.
>> Giẫm đạp lên nhau xin ấn đền Trần
Mê Kông suy kiệt (TN 28-2-10)
- Lao động Việt Nam ra nước ngoài: “Ngọc thô” và rào cản (HNM). Một rào cản rất lớn mà bài nầy chưa bàn tới là những tiêu cực hành doanh nghiệp và người lao động, từ làng xã cho tới trung ương, trong suốt quá trình làm thủ tục đi lao động.
Tự do mậu dịch với Trung Quốc: Làm sao để cùng thắng? (TVN 28-2-10)
- In-đô-nê-xi-a có kế hoạch điều chỉnh ngân sách năm 2010 và đối phó với hàng hoá giá rẻ từ Trung Quốc (ĐCS)