Thứ Năm, 30 tháng 9, 2010

Geoff Wade – Minh Thực lục, một nguồn sử liệu Đông Nam Á

Phạm Hoàng Quân – “Minh Thực lục” và sách “Minh Thực lục: Quan hệ Trung Hoa –Việt Nam thế kỷ XIV-XVII” (1)

Lời mở

Khoa học nào cũng coi trọng tư liệu, với khoa học lịch sử thì tư liệu lại là vấn đề tiên quyết, mọi tác phẩm lịch sử đều hình thành trên nền tảng sử liệu và nhà làm sử nào cũng muốn tiếp cận những nguồn tư liệu gốc. Trong các sách sử Việt Nam cổ đại, sử liệu thành văn là thành phần chính, thành phần này từ khởi thủy đã không ngại tiếp thu những di sản trong kho tàng văn hiến Trung Hoa. Sự lưu thông tự nhiên bởi hoàn cảnh địa lý và yếu tố đồng văn khiến các nguồn sử liệu trở thành những giá trị chung. Ngày nay việc khai thác sử liệu từ nguồn sử Trung Quốc vẫn là việc đáng phải làm, vừa để tạo sự phong phú trong nhu cầu tư liệu cho sử Việt, vừa góp phần làm cơ sở khảo cứu một nền văn hóa lớn của nhân loại. Sử ghi chép của Trung Quốc vừa lâu đời vừa liên tục, đó là một đặc điểm ít có trong tổng thể lịch sử thế giới. Sự phát triển về sau để hình thành các thể tài hoặc khuynh hướng sử học đều từ cơ sở hoàn bị của sử liệu; Minh Thực lục mà chúng ta tiếp cận là một đại diện tiêu biểu cho nhiều loại sử liệu thành văn xuất hiện vào giai đoạn thịnh đạt của nền sử học Trung Hoa.

Thực lục là một thể tài sử thư, chuyên ghi chép những sự kiện lớn nhỏ trong suốt thời gian trị vì của một hoàng đế, đồng thời cũng ghi chép tiểu truyện của các văn thần võ tướng trong triều vua ấy. Thực lục sớm nhất xuất hiện thời nhà Lương (Nam Triều), với bộ Lương Hoàng đế Thực lục 梁 皇 帝 實 錄do Chu Hưng Tự 周 興 嗣soạn, chép về sự việc triều Lương Võ Đế (501-520), sau đó là bộ Lương Hoàng đế Thực lục chép sự việc triều Lương Nguyên Đế (552-555) do Tạ Hạo 謝 昊soạn. Từ đầu đời Đường về sau, sau khi hoàng đế mất, vua kế vị lập Thực lục quán và bổ nhiệm các chức vụ cho sử quan để biên soạn Thực lục về đời vua trước. Các thời Ngũ đại, Tống, Liêu, Kim, Nguyên, Minh, Thanh đều theo phép ấy mà soạn Thực lục, đến triều Quang Tự cuối đời Thanh thì dừng. Thực lục các loại, các đời kể trên cộng hơn 110 bộ, tuyệt đại đa số đã mất. Nhà Đường chỉ còn Thuận Tông Thực lục 順 宗 實 錄 (805) do Hàn Dũ 韓 愈soạn, nhà Tống chỉ còn một bản bị thiếu (20 quyển) Thái Tông Thực lục 太 宗 實 錄 (976-983) do Tiền Nhược Thủy 錢 若 水và Dương Ất 楊 亿 soạn. Đến ngày nay chỉ có Thực lục hai triều Minh, Thanh là khá toàn vẹn.

I. Tổng quan về Minh Thực lục

Minh Thực lục – về thể loại – được giới sử học Trung Quốc hiện đại định tính là “biên niên”, được biên soạn trong suốt 13 triều vua nhà Minh, từ Thái Tổ đến Hy Tông, cộng được 3.053 quyển và phụ thêm Hoài Tông Thực lục gồm 17 quyển chép việc triều Sùng Trinh (1628-1644) được biên soạn sau này. Minh Thực lục là tên gọi chung của 13 bộ, năm biên soạn và người chủ trì biên soạn tóm lược như sau:

1. Thái Tổ Thực lục 太 祖 實 錄, 257 quyển, chép sự việc triều Hồng Vũ và Kiến Văn (1368–1402). Minh Thái Tổ họ Chu, tên Nguyên Chương sinh năm 1328, lên ngôi năm 1368, đặt quốc hiệu là Minh, niên hiệu Hồng Vũ, ở ngôi 31 năm, mất năm 1398. Minh Huệ đế tên Doãn Văn, cháu nội của Nguyên Chương, sinh năm 1377, lên ngôi năm 1398, năm 1399 đổi niên hiệu Kiến Văn, mất năm 1402 trong cuộc chính biến gây ra bởi người chú. Thái tổ Thực lục biên soạn trong khoảng niên hiệu Kiến Văn (1399-1402) do Vương Cảnh 王 景làm tổng tài [chủ biên]. Đầu niên hiệu Vĩnh Lạc sửa chữa lần thứ nhất do Giải Tấn 解 縉làm Tổng tài, năm Vĩnh Lạc thứ chín (1411) sửa chữa lần thứ hai, do Dương Sĩ Kỳ 楊 士 奇làm Tổng tài, đến năm 1418 hoàn thành. Bản Thái Tổ Thực lục lưu hành hiện nay là bản do Dương Sĩ Kỳ sửa chữa lần hai. Dương Sĩ Kỳ (1365-1444) hiệu Đông Lý, người huyện Thái Hòa tỉnh Giang Tây, làm quan đến chức Thị lang bộ Lễ, Đại học sĩ điện Hoa Cái.

2. Thái Tông Thực lục 太 宗 實 錄, 274 quyển, chép sự việc triều Vĩnh Lạc (1403-1424). Thái Tông tên Đệ (Lệ), sinh năm 1360, con thứ tư của Nguyên Chương, lên ngôi năm 1403, đổi niên hiệu là Vĩnh Lạc, ở ngôi 22 năm, mất năm 1424. Năm Gia Tĩnh thứ 17 (1358) đổi miếu hiệu là Thành tổ, sử gọi Minh Thành tổ, Thực lục vẫn giữ miếu hiệu cũ là Thái tông. Thái Tông Thực lục làm xong năm Tuyên Đức thứ năm (1430), do Dương Sĩ Kỳ làm Tổng tài.

3. Nhân Tông Thực lục 仁 宗 實 錄, 10 quyển, chép sự việc triều Hồng Hi (1424-1425). Nhân tông tên Cao Sí, sinh năm 1378, con trưởng của Đệ, lên ngôi năm 1424, năm 1425 đổi niên hiệu là Hồng Hi, ở ngôi không đầy năm. Nhân Tông Thực lục làm xong năm 1430, do Dương Sĩ Kỳ làm Tổng tài.

4. Tuyên Tông Thực lục 宣 宗 實 錄, 115 quyển, chép sự việc triều Tuyên Đức (1426-1435). Tuyên Tông tên Chiêm Cơ, sinh năm 1398, con trưởng của Cao Sí, lên ngôi năm 1425, năm 1426 đổi niên hiệu là Tuyên Đức, ở ngôi 10 năm, mất năm 1435. Tuyên Tông Thực lục làm xong năm 1438, do Dương Sĩ Kỳ làm Tổng tài.

5. Anh Tông Thực lục 英 宗 實 錄, 361 quyển, chép sự việc triều Chính Thống (1436-1449), Cảnh Thái (1450-1456), Thiên Thuận (1457-1464). Anh Tông tên Kỳ Trấn, sinh năm 1427, con trưởng của Chiêm Cơ, lên ngôi năm 1435, năm 1436 đổi niên hiệu là Chính Thống. Năm 1449 cử binh đánh Ngõa Lạt, bị bắt, em là Kỳ Ngọc [Minh Đại Tông] lên thay. Năm 1450, Kỳ Ngọc đổi niên hiệu là Cảnh Thái. Tháng 8 năm 1450 Kỳ Trấn được thả về, làm Thái thượng hoàng. Năm 1457 Kỳ Trấn lấy lại ngôi, đổi niên hiệu là Thiên Thuận, lại ở ngôi đến năm 1464. Anh Tông Thực lục do Lý Hiền 李 賢làm Tổng tài, làm xong năm Thành Hóa thứ ba (1467). Lý Hiền (1408-1466) người Trịnh Châu, Hà Nam, làm quan đến Thượng thư bộ Lại, Đại học sĩ điện Hoa Cái.

6. Hiến Tông Thực lục 憲 宗 實 錄, 293 quyển, chép sự việc triều Thành Hóa (1465-1487). Hiến Tông tên Kiến Thâm, sinh năm 1447, con trưởng của Kỳ Trấn, lên ngôi năm 1464, năm 1465 đổi niên hiệu là Thành Hóa, ở ngôi 23 năm, mất năm 1487. Hiến Tông Thực lục do Lưu Cát 劉 吉làm Tổng tài, làm xong năm Hoằng Trị thứ tư (1491). Lưu Cát (1427-1493) tự Hựu Chi, hiệu Ước Am, người huyện Bác Dã, Bắc Trực Lệ, làm quan đến Thượng thư bộ Hộ, Đại học sĩ điện Cẩn Thân.

7. Hiếu Tông Thực lục 孝 宗 實 錄, 224 quyển, chép sự việc triều Hoằng Trị (1488-1505). Hiếu Tông tên Hựu Đường, sinh năm 1470, con thứ ba của Kiến Thâm, lên ngôi năm 1487, năm 1488 đổi niên hiệu là Hoằng Trị, ở ngôi 18 năm, mất năm 1505. Hiếu Tông Thực lục do Lưu Kiện 劉 健, Tiêu Phương 焦 芳làm Tổng tài, làm xong năm Chính Đức thứ tư (1509). Tiêu Phương người huyện Bá Dương tỉnh Hà Nam, làm quan đến Thượng thư bộ Lại, Đại học sĩ điện Hoa Cái.

8.Võ Tông Thực lục 武 宗 實 錄, 197 quyển, chép sự việc triều Chính Đức (1506–1521). Võ Tông tên Hậu Chiếu, sinh năm 1491, con trưởng của Hựu Đường, lên ngôi năm 1505, năm 1506 đổi niên hiệu là Chính Đức, ở ngôi 16 năm, mất năm 1521. Võ Tông Thực lục do Phí Hoằng làm Tổng tài, làm xong năm Gia Tĩnh thứ tư (1525). Phí Hoằng 費 宏 (1468-1535), tự Tử Sung, người huyện Diên Sơn tỉnh Giang Tây, làm quan đến Thượng thư bộ Hộ, Thượng thư bộ Lại, Đại học sĩ điện Cẩn Thân.

9. Thế Tông Thực lục 世 宗 實 錄, 566 quyển, chép sự việc triều Gia Tĩnh (1522-1566). Thế Tông tên Hậu Thông, sinh năm 1507, cháu nội của Kiến Thâm [Hiến Tông], con trưởng của Hưng Hiến vương Hựu Nguyên, lên ngôi năm 1521, năm 1522 đổi niên hiệu là Gia Tĩnh, ở ngôi 45 năm, mất năm 1566. Thế Tông Thực lục do Trương Cư Chính 張 居 正 làm Tổng tài, làm xong năm Vạn Lịch thứ năm (1577). Trương Cư Chính (1525-1572) người huyện Giang Lăng tỉnh Hồ Bắc, tự Thúc Đại, hiệu Thái Nhạc, chính trị gia. Đầu niên hiệu Vạn Lịch, chấp chính 10 năm (1573-1582) thực hiện cải cách.

10. Mục Tông Thực lục 穆 宗 實 錄, 70 quyển, chép sự việc triều Long Khánh (1567-1572). Mục Tông tên Tải Hậu, sinh năm 1537, con thứ ba của Hậu Thông, lên ngôi năm 1566, năm 1567 đổi niên hiệu là Long Khánh, ở ngôi sáu năm, mất năm 1572. Mục Tông Thực lục làm xong năm Vạn Lịch thứ hai (1574), do Trương Cư Chính làm Tổng tài.

11. Thần Tông Thực lục 宗 實 錄, 594 quyển, chép sự việc triều Vạn Lịch (1573-1620). Thần Tông tên Dực Quân, sinh năm 1563, con thứ ba của Tải Hậu, lên ngôi năm 1572, năm 1753 đổi niên hiệu là Vạn Lịch, ở ngôi 48 năm, mất năm 1620. Thần Tông Thực lục do Cố Bỉnh Khiêm 顧 秉 謙làm Tổng tài, làm xong năm Sùng Trinh thứ ba (1630). Cố Bỉnh Khiêm người Côn Sơn phủ Tô Châu, Nam Trực Lệ, làm quan đến Thượng thư bộ Lễ, Đại học sĩ điện Trung Cực.

12. Quang Tông Thực lục 光 宗 實 錄, tám quyển, chép sự việc triều Thái Xương (1620). Quang Tông tên Thường Lạc, sinh năm 1582, con trưởng của Dực Quân, lên ngôi năm 1620, niên hiệu Thái Xương, ở ngôi hai tháng thì mất. Quang Tông Thực lục ban đầu do Diệp Hướng Cao 葉 向 高làm tổng tài, sau do Cù Duy Hoa 霍 維 華sửa lại, làm xong năm Thiên Khải thứ ba (1623).

13. Hy Tông Thực lục 熹 宗 實 錄, 84 quyển, chép sự việc triều Thiên Khải (1621-1627). Hy Tông tên Do Hiệu, sinh năm 1605, con trưởng của Dực Quân, lên ngôi năm 1620, năm 1621 đổi niên hiệu là Thiên Khải, ở ngôi 7 năm, mất năm 1627. Hy Tông Thực lục do Ôn Thể Nhân làm Tổng tài, làm xong khoảng cuối niên hiệu Sùng Trinh (1634, 1635). Ôn Thể Nhân 溫 體 仁người huyện Ô Trình tỉnh Triết Giang, làm quan đến Thượng thư bộ Lại, Đại học sĩ điện Trung Cực.

Trên đây là những thông tin thật cơ bản về những yếu tố hình thành Thực lục, trong đó gồm đối tượng chính được biên chép [các đời vua], thời gian biên chép và người chủ trì việc biên chép. Nên lưu ý là số Thực lục ít hơn số triều vua được chép trong sử, vì hai triều Kiến Văn và Cảnh Thái không có Thực lục riêng, và triều Sùng Trinh với Hoài Tông Thực lục không được xem là chính thức bởi chỉ thâu lượm những văn bản rời rạc của người đời sau. Theo quy chế đương thời, Thực lục một triều vua được biên soạn sau khi vua triều ấy mất, cử bậc danh thần giữ chức Giám tu [giám sát việc biên soạn], đại thần trong nội các giữ chức Tổng tài [chủ trì việc biên soạn], Học sĩ viện Hàn lâm giữ chức Phó Tổng tài, các thành viên tham gia biên soạn được lấy từ Nội các, viện Hàn lâm, phủ Thiêm sự, bộ Lễ và ty Kinh cục. Nguồn tư liệu để biên soạn Thực lục được lấy từ những chỉ dụ, tấu nghị lưu ở Nội phủ và Nội các, các văn bản Khởi cư chú, Nhật lịch của sử quán, hồ sơ ở các ty sở, nha môn, vương phủ, sự tích, mộ chí, dã sử… Sau đó tài liệu được phân loại chia ra sáu quán (loại) Lại, Hộ, Lệ, Binh, Hình, Công. Người biên soạn ở sáu quán cứ theo trình tự năm, tháng mà biên chép. Bản sơ cảo [tổng hợp lần đầu] giao cho Phó Tổng tài đọc và cắt, chữa, sau đó giao bản đã sửa chữa cho Tổng tài nhuận sắc, bản đã nhuận sắc gọi là bản định cảo. Bản định cảo của Tổng tài được sao thêm một bản [phó bản], hai bản này dâng lên vua còn bản sơ cảo thì đốt đi. Bản định cảo tức bản chính được giữ ở nội phủ, bản sao tức phó bản được giữ ở nội các, không khắc in.

Nội dung Thực lục ghi chép rất rộng, gồm: chính sách pháp lệnh, điển chương chế độ, việc sách lập hoàng thái hậu, hoàng phi, hoàng thái tử, sách phong quận vương, vương phi, công chúa; việc hoàng đế tuần thú biên cương hoặc thân chinh, cùng các loại lễ nghi, tế tự; đất đai của các thân vương, việc phong tước và thế tập, văn võ đại thần tước công, hầu, bá tật bệnh về hưu; việc phong chức cho hàng tam công, tam thiếu, hai kinh, năm phủ, sáu bộ, đô sát viện và quan chức cao cấp ở trung ương và địa phương; việc lập mới hoặc bãi bỏ, sáp nhập nha môn các cấp; sự lai vãng của các bộ tộc ở biên cương; việc triều cống, giao thiệp hoặc buôn bán của các nước lân cận; nguyên nhân và diễn biến các cuộc chiến tranh; tiểu truyện các nhân vật trọng yếu; thiên văn, địa lý, khí tượng, thủy lợi, thuế khóa, nhân khẩu, điền thổ, trồng trọt, chăn nuôi, vận chuyển, đồn điền, thương mại… Các lĩnh vực, sự kiện, hiện tượng trong mỗi điều mục được biên chép một cách có đối chiếu và hệ thống, vì thế Minh Thực lục được xem là nguồn tư liệu tối cơ bản trong việc nghiên cứu lịch sử nhà Minh.

Vì được biên soạn theo quan điểm của nhà cầm quyền, nên trong Minh Thực lục nhiều sự thật bị che đậy hoặc được ghi nhận sai. Tuy nhiên giới sử học vẫn xem đây là nguồn tư liệu gốc rất quý báu, nhất là về biên niên sự kiện, do việc tổ chức biên soạn có quy mô lớn, sự đối chiếu rộng khắp và đọc duyệt chu đáo nên sự kiện được đề cập có khi sai khác về chi tiết hoặc mâu thuẫn trong nội dung nhưng ngày tháng thì khá chính xác.

Minh Thực lục chưa từng được khắc in, nên chỉ lưu hành bản chép tay. Đương thời, bản chính được lưu trữ trong tòa Hoàng Sử Thinh[1], nơi này, ngoài Thực lục, còn cất chứa ngự bút của các vua tiền triều cùng tài liệu cơ mật. Phó bản được cất giữ ở nội các, dùng làm tài liệu tham khảo riêng cho các quan tham gia biên soạn Thực lục của các đời vua tiếp theo. Năm Vạn Lịch thứ 6 (1578), có chỉ dụ cho sao chép Thực lục cỡ nhỏ, nhân vụ này, Thực lục của 10 triều trước đó được sao chép rộng rãi. Các bản lưu hành đến nay đa số là những bản sao hoặc sao lại của đợt sao chép năm 1578, bản chính ở Hoàng Sử Thinh và phó bản ở nội các đều không còn nguyên vẹn, vì chuyển sao nhiều lần nên nội dung Minh Thực lục không ít chỗ sai biệt.

Ngoài ra, Thanh Sử cảo – Nghệ văn chí còn ghi nhận các bộ Thực lục do tư nhân biên soạn, chép việc cuối đời Minh và triều Vĩnh Lịch (1647-1661), là các bộ Minh Quý Thực lục 明 季 實 錄sáu quyển do Cố Viêm Võ 顧 炎 武soạn, Vĩnh Lịch Thực lục 永 歷 實 錄25 quyển do Hoàng Tông Hy 黃 宗 羲soạn, Vĩnh Lịch Thực lục 26 quyển do Vương Phu Chi 王 夫 之soạn[2]. Các Thực lục trên ứng với giai đoạn mà sử Trung Quốc gọi là thời kỳ Nam Minh (1644-1661), lúc này người Mãn đã làm chủ Trung Hoa, hậu duệ họ Chu chỉ còn giữ được vài vùng đất ở mấy tỉnh phía Nam.

II. Giá trị sử liệu Thực lụcMinh Thực lục

II. 1. Về việc xếp loại và xác định giá trị Thực lục

“Họ Triều nói: Đời sau làm Sử, về thể loại có ba: thể Biên niên tức lấy ngày tháng của sự kiện mà sắp xếp theo từng năm, gốc từ Tả Khâu Minh; thể Kỷ truyện, chép về hành trạng, sự tích trước sau của từng nhân vật vua, quan, gốc từ Tư Mã Thiên; thể Thực lục, tên gọi này bắt đầu từ nhà Lương, đến đời Đường thì thịnh hành, về cách thức, thể này gồm hai thể Biên niên và Kỷ truyện, do các sử quan muốn biên chép cho đầy đủ sự việc nên thâu thập làm vậy, chứ ban đầu không có ý gia công tạo tác, nên không đủ để xem là phương pháp [của sử gia]” [Nguyên. Mã Đoan Lâm. Văn hiến Thông khảo, Kinh tịch khảo, Sử bộ, tự].

Trích dẫn của Mã Đoan Lâm về ý của Triều Công Võ trong Quận Trai độc thư chí cho thấy thể Thực lục là một thể tài hỗn hợp giữa Biên niênKỷ truyện.

Thư mục qua các đời như Kinh tịch chí trong Tùy thư, Kinh tịch chí trong Cựu Đường thư, Nghệ văn chí trong Tân Đường thư, Nghệ văn chí trong Tống sử, Nghệ văn chí trong Minh sử, Tứ khố toàn thư tổng mục, Nghệ văn chí trong Thanh sử cảo… đều không xếp Thực lục thành một loại độc lập mà thảng hoặc được chép phụ theo loại tạp sử hoặc loại biên niên. Đến đầu thế kỷ XX, Lương Khải Siêu, trong một nghiên cứu về truyền thống sử học Trung Quốc, xếp Thực lục vào nhóm “biệt thể” loại Truyện ký[3].

Giữa thế kỷ XX, bằng nhãn quan khoa học trong việc phân loại và nhận định giá trị sử liệu, giá trị sử liệu trong Thực lục được giới sử học nhìn nhận một cách khách quan hơn. Trong Trung Quốc sử luận tập, Tiễn Bá Tán 翦 伯 贊xem Thực lục là một thể tài lịch sử độc lập, như các thể tài Chính sử (như 24 bộ sử), Biên niên (như Tư trị Thông giám), Kỷ sự bản mạt (như Thông giám kỷ sự bản mạt), Biệt sử (như Thông điển), Tạp sử (như Đại Thanh hội điển), Phương chí (như Thiên hạ quận quốc lợi bệnh thư), Phổ Diệp (các loại gia phả), Bút ký[4]. v.v…

Các từ điển chuyên ngành lịch sử hoặc văn hiến học hiện nay xác định tính chất Thực lục thuộc loại Biên niên tức là loại sử liệu dài hơi[5]. Khi bình luận về thể tài Thực lục, Uông Đan 汪 丹– một sử gia hiện đại chuyên khảo bình sử thư – nhận xét: “Thể loại Thực lục tuy chép việc không thẳng nhưng do sự phong phú về chi tiết, rõ ràng và thực tế nên có giá trị cao về mặt sử liệu, cung cấp nhiều tài liệu trọng yếu cho việc soạn sử các đời”[6].

Tóm lại, dần về sau này, giới sử học càng xem trọng sử liệu từ Thực lục, nếu cẩn thận kê cứu và loại bỏ các việc được biên chép sai sự thật do bị chi phối bởi quan điểm của nhà cầm quyền đương thời, thì Thực lục quả thật là một kho tư liệu cho nhiều ngành, ngoài chuyên ngành sử học.

II. 2. Giá trị Sử liệu của Minh Thực lục đối với việc soạn sử ở Trung Quốc

Như đã nói qua ở phần tổng quan, Thực lục được biên soạn dựa vào nguồn văn bản hành chính các loại, có thể phân thành hai nguồn chính yếu là các chỉ dụ từ trên xuống và các tấu sớ từ dưới lên, hai nguồn này phản ánh rõ nét sự hoạt động/tồn tại của một thể chế, chi phối mọi hoạt động của xã hội.

Ưu điểm nổi bật của Thực lục nằm ở những văn bản đã sao lục gần như toàn vẹn các chỉ dụ của nhà vua và các báo cáo, kiến nghị của các quan với ngày tháng cụ thể cho từng sự việc cụ thể, một số trong các văn bản này gần với hình thức công báo ngày nay. Các nhà làm sử thuộc mọi thể tài như thông sử, biên niên, kỷ sự v.v… đều có thể dựa vào nguồn tư liệu Thực lục để sắp xếp thành sách sử. Do nguồn tư liệu tối cơ bản về triều Minh là nguồn Đáng án (Hồ sơ lưu trữ) hiện đã thất tán hư hủy phần lớn trong những biến cố lịch sử, vì vậy Minh Thực lục hiện tồn là một tập hợp sử liệu cơ bản, hệ thống nhất về thời Minh, nơi bảo lưu chủ yếu các tư liệu đầu tiên.

Ngược dòng lịch sử học thuật, có thể thấy từ cuối thời Minh đầu Thanh, một số sử quan và sử gia có điều kiện tiếp cận với nguồn Thực lục đã sử dụng tư liệu này cho việc biên soạn của họ, như Cốc Ứng Thái trong Minh sử kỷ sự bản mạt (1658)[7], Đàm Thiên trong Quốc xác (1653)[8], Vạn Tư Đồng trong Minh sử cảo (1702).

Trong đó, Minh sử cảo là cơ sở để Vương Hồng Tự 王 鴻 緒 và Trương Đình Ngọc 張 廷 玉 đời Thanh cải bổ thành bộ Minh sử, bộ chính sử cuối cùng của chế độ phong kiến Trung Quốc do sử quan quản lý việc biên soạn[9].

Dùng Thực lục các triều đầu nhà Minh như Thái Tổ, Thái Tông, Nhân Tông làm đối tượng để nghiên cứu, tức bình luận, phân tích, so sánh với các nguồn sử liệu khác đã được một số học giả giữa thời Minh như Lang Anh 郎 瑛trong Thất tu loại cảo[10], Chúc Doãn Minh 祝 允 明trong Quốc triều điển cố[11] [Dã ký], Vương Thế Trinh 王 世 貞trong Sử Thừa khảo ngộ[12] v.v… Trong nhiều học giả thời Minh, Vương Thế Trinh được xem là xuất sắc hơn cả, bởi những ý kiến hoài nghi sự chân xác trong một số sự kiện, đồng thời, ở những điểm có thể lý giải bằng phép biện chứng hoặc căn cứ vào ưu thế trên xác suất tư liệu đồng đại, họ Vương tiến hành khảo đính, chứng minh sự sai lầm hoặc cố ý làm sai sự thực lịch sử của các sử quan.

Đầu đời Thanh, việc khảo chứng được tiếp tục bởi học giả Tiền Khiêm Ích 錢 謙 益với Thái Tổ Thực lục biện chứng [trong Mục trai sơ học tập][13], họ Tiền gần như cả đời nghiên cứu sử nhà Minh, rất chú trọng phép biện chứng, dùng từ tư liệu gốc cho đến dã sử, bút ký đương thời, tiếp cận cả văn bản từ các kho lưu trữ của tiền triều làm căn cứ khảo biện. Nối tiếp họ Tiền, những học giả tên tuổi trong suốt đời Thanh như Tiền Đại Hân 錢 大 昕, Cố Viêm Võ 顧 炎 武, Toàn Tổ Vọng 全 祖 望, Từ Càn Học 徐 乾 學v.v… đều gia công nghiên cứu Minh Thực lục và có những thành tựu nhất định góp vào lịch sử học thuật.

Như vậy, ngoài giá trị sử liệu, Minh Thực lục còn là một đối tượng khá hấp dẫn cho học giả khai thác để nghiên cứu, ngay cả trong giai đoạn lịch sử mà nó còn được xem như vùng cấm.

Từ thời [Trung Hoa] Dân quốc (1911) đến nay, việc ứng dụng sử liệu và nghiên cứu sử liệu Minh Thực lục ngày càng chuyên sâu và có hệ thống, học giả trong và ngoài Trung Quốc mỗi người mỗi cách tiếp cận, khai thác và hoàn thiện không ngừng, ở đây chúng tôi chỉ khái quát về ba lĩnh vực nổi bật và cần thiết đối với độc giả Việt Nam, đó là các vấn đề văn bản học (Trung Quốc gọi là Bản bản học版 本 學); dùng Minh Thực lục khảo đính Minh sử và nghiên cứu/hệ thống Minh Thực lục theo chuyên đề.

II. 2. a. Văn bản và văn bản học

Như đã nói sơ lược ở phần tổng quan, Minh Thực lục là tên gọi chung cho 13 Thực lục các triều vua Minh, toàn là văn bản viết tay, tổng cộng hơn 40.000 trang. Trước thời Vạn Lịch (1573–1615), mỗi triều chỉ có hai bộ Thực lục được chia ra cất kỹ ở Văn khố Nội các và Văn khố Hoàng cung. Năm 1578, do đợt sao chép nhân bản nên số lượng có tăng thêm, mặc dù trải qua nhiều biến cố, ngày nay vẫn còn nhiều bản để có thể bổ sung cho nhau thành một bộ hoàn chỉnh. Dưới đây là 4 bản khá tốt về chất lượng và khá nhiều về số trang:

1. Quán bản 館 本, hiện ở Thư viện Quốc hội Hoa Kỳ, là bản từng lưu trữ ở Quốc lập Bắc Bình đồ thư quán. Đây là bản sao từ bản Hồng cách[14] 紅 格 本, gồm các Thực lục từ Thái Tổ đến Hi Tông (13 bộ), nguyên sao lại từ bản ở Văn khố Nội các. Thời Dân quốc, khi chưa có quy ước của nhóm hiệu khám, các học giả cũng gọi bản này là bản Hồng cách, bản này rộng 17,3 cm, cao 22,2 cm, mỗi trang 12 hàng, mỗi hàng 24 chữ.

Quán bản tuy đủ 13 bộ, nhưng mất nhiều trang, là bản được thống nhất dùng làm bản nền trong công tác hiệu khám.

2. Quảng bản 廣 本, tức “Quảng phương ngôn quán bản 廣 方 言 館 本”, bản này viết trên giấy có kẻ hàng, kích thước 17,3 x 22,2cm, trang 13 hàng, hàng 22 chữ, gồm các Thực lục từ Thái Tổ đến Quang Tông (12 bộ).

3. Bão bản 抱 本, tức “Bão Kinh lâu bản 抱 經 樓 本”, kích thước 16,2 x 26,5 cm, trang 9 hàng, hàng 20 chữ. Đầu thời Dân quốc, Bão bản từng được cất giữ trong tàng thư tư gia họ Lưu ở Ngô Hưng, Thư viện tỉnh Giang Tô chép lại một bộ. Năm 1940, Lương Hồng Chí 梁 鴻 志lấy Bão bản bổ sung cho Gia bản (xem dưới) và in ảnh ấn Minh Thực lục. Bão bản gồm các Thực lục từ Thái Tổ đến Thần Tông (11 bộ).

4. Gia bản 嘉 本, tức “Gia Nghiệp đường bản 嘉 業 糖 本”. Bản này viết trên giấy viền chỉ tơ hồng, có kẻ hàng, kích thước 15,4 x 21,4cm, trang 10 hàng, hàng 22 chữ. Gia bản có đủ 13 bộ, thiếu một số quyển, cũng ở tàng thư nhà họ Lưu ở Ngô Hưng. Lương Hồng Chí lấy Bão bản bổ túc mấy quyển bị thiếu của Gia bản, in ảnh ấn năm 1942 (xem trên).

Ngoài bốn bản khá dày dặn nêu trên, còn có hơn 10 loại bản viết khác có thể bổ túc riêng cho Thực lục từng triều như: Trung bản/中 本[Quốc lập trung ương đồ thư quán bản], Lễ bản/禮 本[Quốc lập Bắc Bình đồ thư quán tàng Lễ Vương phủ bản] bổ túc thêm cho triều Thái Tổ; Thần bản/ 晨 本[Thần Phong Các bản] bổ túc triều Nhân Tông; các bản An Lạc đường, Bắc Đại [Bắc Kinh Đại học], Bắc Nhân [Sở nghiên cứu khoa học Nhân văn Bắc Kinh], bản viện Hàn lâm đời Minh bổ túc cho triều Anh Tông; Các bản/閣 本[Thiên Nhất Các bản, Triết Giang] bổ túc cho triều Thế Tông; bản Võ Hán đại học bổ túc cho triều Mục Tông; Chu bản/ 朱 本 [Nội các đại khố tàng Minh Nội các chu ti lan tinh tả bản/bản son – từ kho lớn Nội các (Thanh), nguyên từ Nội các đời Minh, viết trên giấy có viền chỉ tơ màu son, chữ viết cực đẹp] bổ túc triều Thần Tông…và Khố bản [Nội các đại khố bản] gồm những tờ rời rạc được thu gom lại sau những biến cố, bản này bổ túc cho Thực lục vài triều đại, tuy nhiên đã mất đầu mất đuôi không thành quyển được.

Tóm lại, tình trạng văn bản Minh Thực lục đã phải qua nhiều biến cố – lần nhà Minh mất vào tay nhà Thanh và những biến loạn đầu thời Dân quốc – tuy có nhiều bản mà nằm tản lạc, không nơi nào đủ. Một nỗ lực đầu tiên là của học giả Lương Hồng Chí, ông đã tập họp tương đối khá đầy đủ và cho ra đời bản in chụp vào năm 1940, bản này đã tạo thuận lợi rất nhiều cho phong trào nghiên cứu Minh Thực lục thời kỳ đầu.

Thành quả to lớn của ngành văn bản học riêng trong việc chỉnh lý Minh Thực lục thuộc về tập thể học giả, lần lượt trước sau có thể kể là Phó Tư Niên 傅 斯 年, Lý Tấn Hoa 李 晉 華, Na Liêm Quân那 廉 君, Lý Thi Hi李 詩 熙, Phan Xác 潘 悫, Lý Quang Đào李 光 濤, Vương Sùng Võ王 崇 武, Ngô Tương Tương 吳 相 湘, Diêu Gia Tích 姚 家 積, Hoàng Chương Kiện黃 彰 健, Dương Khánh Chương 楊 慶 章v.v…Họ đã miệt mài trong 30 năm, từ năm 1931 đến năm 1961, để làm công tác hiệu khám, các văn bản được tập họp lại để so sánh đối chiếu, đánh dấu từng chữ nhầm chữ sai, hoặc dư thiếu… của từng trang văn bản. Trên cơ sở lấy Quán bản làm nền, các bản khác giúp xác định những sai lầm, hoặc dựa vào xác suất hoặc dựa vào sự hợp lý, đồng thời tham khảo các nguồn sử khác. Các ghi chép về những chữ sai hoặc dị biệt được đánh số quyển, trang, hàng tương đương với văn bản gốc, rất tiện dụng trong tra cứu, về chi tiết của công việc có thể nêu ba thí dụ:

1/ Trong Thái Tổ Thực lục quyển 47, có một đoạn văn nói về việc Minh Thái Tổ sai sứ sang tế thần sông núi nước Nam, ở trang 5b hàng thứ 6, Quán bản có cụm từ “An Nam chi sơn/Núi ở An Nam” hiệu khám so với Quảng bản và nêu: “trên chữ An có chữ phàm 凡”, tức dòng này trong Quảng bản viết là “phàm An Nam chi sơn”.

2/ Cũng ở quyển 47, trang 5b, dòng thứ 7, địa danh “Tiên Du” (Quán bản), hiệu khám so thấy Quảng bản viết là “Du Tiên”[sai vẫn ghi nhận].

3/ Thái Tổ Thực lục quyển 128, trang 5a, hàng thứ 4 có câu “Nãi khiển tứ chiếu dụ Vĩ huynh tiền An Nam Trần Thúc Minh” (bèn ban chiếu dụ anh của Vĩ là Trần Thúc Minh [vua] trước của An Nam). Nhóm hiệu khám căn cứ vào 3 bản và nêu: “Quảng bản, Gia bản, Bảo bản viết chữ Tứ 賜 là Sứ 使, đúng, Gia bản chữ Huynh 兄 viết nhầm thành chữ Cập 及”[15].

Các trường hợp nêu trên để thấy việc làm cẩn thận, chi tiết, tinh tế của nhóm hiệu khám. Tuy nhiên việc làm của nhóm hiệu khám chỉ dừng ở sự sai lệch giữa các bản Minh Thực lục hiện có hoặc giữa Minh Thực lục với các sách sử Trung Quốc. Nếu mở rộng hiệu khám thêm nữa thì có thể thấy trong thí dụ thứ 3, cả bản nền (Quán bản) và ba bản đối chiếu đều sai ở điểm: Trần Vĩ (nhà Minh gọi Phế Đế Nghiễn là Trần Vĩ) là bác của Trần Thúc Minh (nhà Minh gọi Trần Nghệ Tông là Trần Thúc Minh), không phải là anh như các bản chép. Tuy nhiên vẫn phải thừa nhận việc hiệu khám của các vị này rất nghiêm túc, và toàn bộ Minh Thực lục hiệu khám ký [khoảng 12.500 trang in] ra đời cùng lúc với bản ảnh ấn Minh Thực lục năm 1962[16] quả là đã đem đến những lợi ích thiết thực cho giới học thuật.

II. 2. B. Dùng Minh Thực lục hiệu đính Minh sử

Minh sử, về thể tài, thuộc kỷ truyện thể đoạn đại sử, tức là sử một giai đoạn (nhà Minh) chép theo lối kỷ, truyện. Về phân loại sử thư, thuộc Chính sử. Chính sử Trung Hoa gồm tập hợp 24 bộ sử các triều đại do sử quan/sử gia đời sau biên soạn về triều đại đã qua. 24 bộ ấy gồm: 1. Sử Ký (Hán, Tư Mã Thiên), 2. Hán Thư (Đông Hán, Ban Cố), 3. Hậu Hán Thư (Tống, Phạm Diệp), 4. Tam Quốc Chí (Tấn, Trần Thọ), 5. Tấn Thư (Đường, Phòng Huyền Linh), 6. Tống Thư (Lương, Thẩm Ước), 7. Nam Tề Thư (Lương, Tiêu Tử Hiển), 8. Lương Thư (Đường, Diêu Tư Liêm), 9. Trần Thư (Đường, Diêu Tư Liêm), 10. Ngụy Thư (Bắc Tề, Ngụy Mục), 11. Bắc Tề Thư (Đường, Lý Bách Dược), 12. Chu Thư (Đường, Lệnh Hồ Đức Phần), 13. Nam Sử (Đường, Lý Diên Thọ), 14. Bắc Sử (Đường, Lý Diên Thọ), 15. Tùy Thư (Đường, Ngụy Trưng …), 16. Cựu Đường Thư (Hậu Tấn, Lưu Hú), 17. Tân Đường Thư (Tống, Âu Dương Tu – Tống Kỳ), 18. Cựu Ngũ Đại Sử (Tống, Tiết Cư Chính), 19. Tân Ngũ Đại Sử (Tống, Âu Dương Tu), 20. Tống Sử (Nguyên, Thoát Thoát), 21. Liêu Sử (Nguyên, Thoát Thoát), 22. Kim Sử (Nguyên, Thoát Thoát), 23. Nguyên Sử (Minh, Tống Liêm), 24. Minh Sử (Thanh, Trương Đình Ngọc)[17]. Trong 24 bộ sử nêu trên, Minh sử là bộ cuối cùng được biên soạn bởi sử quán của chế độ quân chủ (Thanh), thuận lợi của việc biên soạn Minh sử là tiếp nhận được nguồn tư liệu hoàn chỉnh nhất trong lịch sử sử học Trung Hoa, trong đó gồm văn khố quốc gia, Thực lục các đời vua Minh và cả bản thảo Minh sử cảo của Vạn Tư Đồng (một sử gia tư nhân, sống lúc giao thời Minh–Thanh), và các loại khác. Những thuận lợi đã nêu khiến cho Minh sử trở thành một công trình có nhiều ưu điểm hơn so với các bộ sử trước nó, chỉ riêng trong lĩnh vực quan hệ quốc tế, tức phần Ngoại quốc truyện, Minh sử đã ghi chép được 92 vương quốc/vùng/lãnh địa, đây là một tiến bộ vượt bậc so với Nguyên sử (ghi nhận 11 nơi) và Tống sử (ghi nhận 34 nơi). Những mảng sử lẻ các nơi được miêu thuật góp phần không nhỏ trong việc nhận diện một Đông Nam Á cuối thế kỷ XIV đến giữa thế kỷ XVII. Tuy nhiên, Minh sử vẫn bị hạn chế bởi thể lệ truyền thống trong việc soạn sử và nặng hơn nữa là quan điểm của nhà cầm quyền, việc tuyển chọn sử liệu và cắt xén không thể không xảy ra. Minh Thực lục sẽ giải quyết được nhiều vấn đề mà Minh sử vì nguyên tắc thể lệ và sự ước thúc, kiểm duyệt của Thanh đình mà buộc phải thông qua hoặc lờ đi không nhắc đến hoặc có chép mà không rõ ràng. Với tổng dung lượng lớn hơn hai lần Minh sử[18], Minh Thực lục hẳn nhiên là chi tiết cụ thể hơn và mặt khác, vì được viết ngay trong thời Minh nên nó còn có được tính thời sự, một ưu thế mà Minh sử không thể có. Tư liệu trong Minh Thực lục giúp cho các nhà nghiên cứu giai đoạn Minh có thêm cơ sở phân tích và có thể đi đến những kết luận gần với sự thật về nhà Minh hơn là chỉ dựa vào Minh sử vốn đã bị uốn nắn bởi các sử quan triều Thanh. Lý do này làm nảy sinh các công trình mang tính chất rà soát lại Minh sử. Tiêu biểu cho các công trình loại này có thể kể Minh bản kỷ hiệu chú của Vương Sùng Võ, Minh sử Nhật Bản truyện chính bổ (1981) của Trịnh Lương Sanh, và Minh sử khảo chứng (1979) của Hoàng Vân Mi黃 雲 眉,…Một điều hữu ích sẽ không khó nhận ra khi độc giả tiếp xúc hai bộ Minh Thực lụcMinh sử, đọc Minh sử để nắm rõ đầu đuôi sự việc và đọc Minh Thực lục để bổ sung tình tiết. Thí dụ như trong Minh sử mục viết về An Nam[19], trong sự kiện rút quân khỏi An Nam vào năm Tuyên Đức thứ 2 (1427) có đoạn: “Ban đầu, lúc Hoàng đế mới lên ngôi [1426], cùng Dương Sĩ Kỳ và Dương Vinh nói chuyện An Nam, [đế] có ý muốn bỏ. Đến nay [1427], đem ý ấy bảo với đám bầy tôi, muốn ra lệnh bãi binh cho dân được nghỉ ngơi. Sĩ Kỳ và Vinh hết sức tán trợ, duy có Kiển Nghĩa và Hạ Nguyên Cát cho là không nên. Nhưng ý đế đã quyết, các quan không cãi lại được” [初,帝 嗣 位,與 楊 士 奇,楊 榮 語 交 阯 事,卽 欲 棄 之。至 是,以 表 示 廷 臣,諭 以 罷 兵 息 民 意。士 奇,榮 力 贊 之,惟 蹇 義,夏 原 吉 不 可。然 帝 意 已 決,廷 臣 不 敢 爭。(quyển 321, tr. 8324) ]. Minh sử chỉ chép có vậy, nếu dừng ở đây để bình phẩm, người đọc sử cũng có thể kết luận rằng đây là màn diễn nhằm xoay hướng dư luận, che lấp sự thất bại. Đọc Thực lục, ta sẽ biết thêm sáu bảy văn bản là những tấu biểu của cả hai phe chủ hòa (Dương Sĩ Kỳ) và chủ chiến (Kiển Nghĩa), với những lời lẽ phân tích tình thế, nêu rõ khó khăn, thuận lợi và những lý do buộc phải hành động theo cách của hai phe. Khi liên kết những văn bản thuộc về sự kiện này lại, ta như biết thêm về kịch bản, về hậu trường của vở kịch mà sử quan đời Thanh diễn trong Minh sử, mặt khác có thể nhận định thêm về những hư cấu cao tay của sử quan đời Minh trong Minh Thực lục, và vấn đề này sẽ phân tích ở phần sau.

(Còn 2 kì)


[1] Thinh (宬): Nơi cất chứa sách. Đời Minh lập Hoàng Sử Thinh 皇 史 宬trong đại nội để lưu trữ ngự bút các vua tiền triều cùng với Thực lục và mật điển. [Khang Hi].

[2] Thanh Sử cảo, quyển 146, Nghệ Văn chí 2, Sử bộ, Tạp sử loại, Trung Hoa Thư cục, 2003, tr. 1476, 1477.

[3] Tân Sử học, chương 1, “Trung Quốc chi cựu sử học”, Tân Dân tùng báo, số 1, 1902; in lại trong “Trung Quốc hiện đại học thuật kinh điển”, Lương Khải Siêu quyển, Hà Bắc Giáo dục Xuất bản Xã (xbx), Thạch Gia Trang, 1996.

[4] Tiễn Bá Tán, Trung Quốc sử luận tập, “Lược luận Trung Quốc văn hiến học thượng đích sử liệu”., Quốc tế văn hóa phục vụ xã phát hành, Thượng Hải, 1947.

[5] Trịnh Thiên Đĩnh, Ngô Trạch, Dương Chí Cửu chủ biên, Trung Quốc lịch sử đại từ điển, Thượng Hải Từ thư xbx, 2000, tập Hạ, trang 1990; và Hoàng Trác Việt, Tang Tư Phấn chủ biên, Trung Quốc đại thư điển, Trung Quốc thư điếm xuất bản, Hà Bắc, 1994, tr. 201.

[6] Môn Khuy chủ biên, Trung Quốc lịch đại văn hiến tinh túy đại điển, Học Uyển xbx. Bắc Kinh 1991, tập Hạ, tr. 2135.

[7] Trung Hoa Thư cục, 1977.

[8] Quốc xác, Trung Hoa Thư cục, 1958.

[9] Minh Sử cảo khởi soạn năm Khang Hi thứ 17 (1678) do Vạn Tư Đồng trực tiếp biên soạn, đến năm 1702 thành sách, cũng năm này Vạn Tư Đồng mất. Các sử quan sau đó như Vương Hồng Tự, Trương Đình Ngọc chỉ gia giảm cải bổ thành bộ Minh sử. Lương Khải Siêu cho rằng Vương Hồng Tự vì ham danh mà trộm sách của Vạn Tư Đồng, rồi sau đó lại bị Trương Đình Ngọc dùng quyền lực đứng tên chủ biên.

[10] Đài Loan Thương vụ ấn thư quán, 1986. (in chụp bản Văn Uyên các, Tứ khố toàn thư).

[11] Bắc Kinh Đại học xbx, 1993.

[12] Xem chú thích 10.

[13] Thượng Hải Cổ tịch xbx, 1996 (quyển 100 – 105).

[14] Hồng cách là một loại giấy, bản này còn có đặc điểm là có dấu mực son của nhân viên văn phòng Nội các đánh dấu vào những quyển có sự đọc qua của Hoàng đế.

[15] Xem thêm v.b [51], tháng chạp năm Hồng Vũ thứ 12 (1-2/1380), Thái Tổ Thực lục, q. 128, tr. 5a-5b.

[16] Minh Thực lục bản mới có bổ khuyết (đầy đủ hơn bản của Lương Hồng Chí 1942), xuất bản cùng lúc với công trình Minh Thực lục hiệu khám ký tại Đài Bắc từ 1962 đến 1966. Lần lượt là, Thái Tổ Thực lục 1962, Thái Tông Thực lục, Nhân Tông Thực lục, Tuyên Tông Thực lục 1963, Anh Tông Thực lục, Hiến Tông Thực lục, Hiếu Tông Thực lục 1964, Võ Tông Thực lục, Thế Tông Thực lục 1965 Mục Tông Thực lục, Thần Tông Thực lục, Quang Tông Thực lục, Hy Tông Thực lục 1966.

[17] Cũng có một số học giả chủ trương nhập thêm Tân Nguyên sử của Kha Chiêu Vận vào tập hợp này và gọi là Nhị thập ngũ sử (25 bộ sử), lại nhập thêm Thanh sử cảo do Triệu Nhĩ Tốn chủ biên và gọi là Nhị thập lục sử (26 bộ sử). Tuy nhiên 2 bộ này được soạn thời Dân quốc, tức đã qua thời đại quân chủ, mặt khác phương pháp luận Tân sử học đã du nhập vào Trung Hoa, khái niệm/ quan điểm “Chính sử” không còn phù hợp. Hiện có 3 nhóm học giả Trung Quốc theo 3 cách xếp bộ số. Về quan điểm cá nhân, tôi thấy xếp 24 bộ là hợp lý.

[18] Minh sử hơn 8.600 trang in, ước 5 triệu chữ; Minh Thực lục ước 11.520.000 chữ.

[19] Minh sử quyển 321, Liệt truyện 209, Ngoại quốc 2, An Nam, bản Trung Hoa Thư cục, t. 27, tr. 8.309.

Phạm Hoàng Quân – “Minh Thực lục” và sách “Minh Thực lục: Quan hệ Trung Hoa –Việt Nam thế kỷ XIV-XVII” (2)

II. 2. c. Nghiên cứu Minh Thực lục và hệ thống Minh Thực lục theo chủ đề

Từ lúc phổ biến Minh Thực lục, học giả chuyên nghiên cứu sử nhà Minh tiến một bước thật xa so với trước đó. Một khuynh hướng dùng các sử liệu loại khác Minh Thực lục hoặc các sự kiện lịch sử có tính tương quan được chép ngắt quãng trong Minh Thực lục để nghiên cứu về sự chân xác của sự kiện. Công việc này có thể xếp vào loại nghiên cứu Minh Thực lục, gần giống với việc dùng Minh Thực lục để hiệu đính Minh sử. Tuy nhiên ở đây, đối tượng được khảo đính là Minh Thực lục. Vì khó có thể khảo đính toàn bộ Minh Thực lục, các học giả chỉ chọn chuyên đề hoặc một giai đoạn nào đó để nghiên cứu, như Trần Học Lâm陳 學 霖, chọn giai đoạn đầu nhà Minh với Minh Thực lục dữ Minh sơ sử sự nghiên cứu/ 明 實 錄 與 明 初 史 事 研 究(1995), Lê Bang Chính 黎 邦 正và Lê Minh 黎 明với Minh Thực lục đích tu soạn cập sử liệu giá trị bình hỗ/ 明 實 錄 的 修 撰 及 史 料 價 值 評 詁 (1992). Đối với khối tư liệu quá đồ sộ như Minh Thực lục, việc nghiên cứu chúng sẽ rất khó tiến hành nếu không có sự trích lục thành hệ thống chuyên đề. Vì vậy, lại nảy sinh khuynh hướng tập hợp sử liệu theo lĩnh vực, như dân tộc, kinh tế, quân sự, khoa học kỹ thuật…hoặc theo vùng địa lý v.v… Năm 1943, Haneda Toru [亨 羽 田] đã làm xong phần liên quan đến Mãn Châu và Mông Cổ trong Thái Tổ Thực lục Thái Tông Thực lục[1], và Tamura Jitsuzo [田 村 實 造] đã làm tiếp việc này trong Thực lục của các triều kế tiếp[2]. Rất nhiều những công trình loại này đã được xuất bản mà đỉnh cao là khoảng từ 1990 đến 1995 với 20 quyển Minh Thực lục loại toản. Trong đó từng tập là các trích lục thuộc lĩnh vực văn hóa, giáo dục, khoa học kỹ thuật, quan hệ ngoại giao, quân sự, luật pháp, tiểu sử và chuyên đề phân vùng địa lý [một số tỉnh thành] và chương trình này vẫn đang tiếp tục. Độc giả quan tâm các thông tin này nên lưu ý thêm phần “Sưu tập các trích dẫn Minh Thực lục” trong bài viết của Tiến sĩ Geoff Wade mà chúng tôi đã dịch toàn bộ và in trong sách này. Bảng thư mục ấy sẽ giúp chúng ta theo dõi tiến trình nghiên cứu và tổng hợp tài liệu của các học giả Trung Quốc và Nhật Bản một cách có hệ thống hơn. [Ngoài các công trình được biên soạn chỉ dựa trên Minh Thực lục, thư mục của Wade còn thu thập các nghiên cứu thuộc dạng có đề cập hoặc có trích dẫn Minh Thực lục cùng với nhiều tư liệu từ nguồn khác như Minh Thực lục phân loại chỉ dẫn/ 明 實 錄 分 類 指 引 (1983-1988) của giáo sư Từ Hoằng thuộc đại học Đài Loan, hay như công trình Minh Thực lục nghiên cứu/明 實 錄 研 究 (2003) của Tạ Quý An. Đây là các sách đáng tham khảo để có một cái nhìn khái quát về Minh Thực lục và những vấn đề liên quan đến Minh Thực lục.

III. Sử liệu Đông Nam Á trong Minh Thực lục

Những nhà chép sử Trung Hoa từ rất sớm đã lưu ý đến những nơi ngoài vương quốc của họ, những nơi này được ghi nhận hoặc với tính cách Man Di, hoặc thuộc quốc, hoặc ngoại Phiên v.v…Hãy gác qua một bên vấn đề nội hàm trong ngôn ngữ biểu đạt các danh xưng ấy, bởi vì khi diễn giải đương nhiên phải rơi vào phạm trù triết học lịch sử với các khái niệm Thiên mệnh sử quan, Thánh nhân sử quan hay tư tưởng Đại Nhất thống v.v…vốn đã thâm căn cố đế trong truyền thống thuộc về ý thức hệ của các quân chủ và một bộ phận trí thức Trung Hoa. Nhìn riêng ở góc độ sử liệu, phải thừa nhận rằng, các nước lân cận Trung Hoa đã tiếp nhận được không ít tư liệu quý giá. Riêng trong Chính sử, bắt đầu từ Sử ký và định hình ở Hán thư, các nơi ngoài Trung Hoa như Hung Nô, Triều Tiên, Tây Nam Di, Tây Vực…đều được ghi chép. Thể lệ Truyện ngoại quốc được duy trì liên tục trong các bộ sử từng triều đại Trung Hoa với nội dung ngày càng tăng, số nơi ngày càng nhiều. Trước nhà Minh tức từ Tần Hán đến Nguyên, nguồn tư liệu ngoài Trung Hoa chủ yếu trong các bộ sử, Thực lục các triều vua Minh được xem là một nguồn mới, chi tiết hơn và chính xác hơn về mặt thời gian so với Minh sử. Vì sự phong phú của nó, năm 1968, giáo sư La Hương Lâm thuộc Đại học Hongkong đã hướng dẫn bốn sinh viên Triệu Lệnh Dương, Trần Học Lâm, Trần Chương và La Văn biên soạn công trình Trích lục sử liệu về Đông Nam Á trong Minh Thực lục, công trình này hoàn thành vào năm 1976. Một số các sưu tập khác từ Minh Thực lục tiếp tục được xuất bản như Sưu tập sử liệu về nước Lào của Cảnh Chấn Quốc (1985), Sưu tập sử liệu về Campuchia của Trần Hiển Tứ (1985), Tâp hợp tư liệu về người Thái của Đao Vĩnh Minh(1989)…Những tập hợp sử liệu này một mặt góp thêm tư liệu cho việc nghiên cứu chung về lịch sử hàng hải, kinh tế, văn hóa trong khu vực Đông Nam Á, mặt khác, các quốc gia riêng lẻ hoặc nhóm sắc tộc, tôn giáo có thể thu thập các tư liệu ấy cho những trang sử của riêng mình. Năm 2001, Đại học Quốc gia Singapore (NUS) tổ chức dịch tất cả các sử liệu Đông Nam Á trong Minh Thực lục sang tiếng Anh. Tập hợp chọn dịch của NUS tuy với mục tiêu là các dữ liệu Đông Nam Á, nhưng hình như công trình này đã mở rộng cho mục đích nghiên cứu về tộc người Thái, tư liệu của hơn 30 lãnh địa của người Thái thời Minh mà nay vẫn thuộc Vân Nam cũng đã được chuyển ngữ chung trong chương trình này. Có hơn 40 quốc gia/nơi/địa phương thuộc Đông Nam Á xác định được qua đối chiếu cách phiên thiết địa danh và mô tả địa lý. Thí dụ như Calicut – Thực lục viết là 古 里 (Cổ Lý), Aden – Thực lục viết là 阿 丹 (A Đan), Pangasinan – Thực lục viết là 馮 家 施 蘭 (Phùng Gia Thi Lan)…có hơn 50 địa danh được ghi nhận trong Minh Thực lục không xác định nay là vùng đất nào, hoặc có nhiều giả thuyết phỏng định không đồng nhất về vị trí địa lý, thí dụ như các nơi có tên là Bách Hoa, Bất Lạt Oa, Đạm Ba… Đối với những nơi không hoặc chưa xác định được, NUS dừng lại bằng biện pháp trình bày các giả thuyết hoặc của Mills J. V. G người đã từng chú giải về các nơi Mã Hoan[3] ghi nhận trong Doanh nhai thắng lãm (1433), hoặc của Phùng Thừa Quân trong các chú giải Tinh sai thắng lãm (1436) của Phí Tín[4], hoặc công trình đối chiếu địa danh khá hoàn bị gần đây của Trần Giai Vinh, Tạ Phương và Lục Tuấn Linh: Chú thích tổng hợp về địa danh cổ đại ở Nam Hải (1986)… Cho dù có những trở ngại chưa giải quyết được đối với sử liệu Minh Thực lục, công trình của NUS vẫn đáng xem là nơi tập hợp tư liệu nguồn khá lý tưởng cho những ai có chủ trương tìm hiểu, nghiên cứu lịch sử và lịch sử địa lý Đông Nam Á.

Với ý đồ để độc giả Việt Nam tiếp cận tổng quan chương trình và mục tiêu mà NUS hướng đến, chúng tôi giới thiệu trong sách này bản dịch tiếng Việt từ nguyên tác tiếng Anh bài nghiên cứu Minh thục lục, một nguồn sử liệu Đông Nam Á[5] của tiến sĩ Geoff Wade, một thành viên của NUS, người đã qua quá trình tiếp cận, nghiên cứu về đề tài này từ những năm 80 của thế kỷ trước[6]. Trong vài chương đoạn, nghiên cứu của G. Wade có thể xem là luận đề Trung Quốc học, cũng có thể xem là luận đề Việt Nam học, tôi hy vọng độc giả sẽ tìm thấy ở đó những dấu vết và cung âm hấp dẫn của vài mảng khuất trong những thời điểm lịch sử mà Wade gợi lên.

IV. Sử liệu Việt Nam trong Minh Thực lục

IV. 1. Tiền đề

Trong dòng chính sử Trung Hoa thì Việt Nam, Triều Tiên và Nhật Bản là ba quốc gia được biên chép nhiều hơn các nơi khác, do có quan hệ sớm, do đồng văn, do tiếp cận địa lý và có lẽ đều là mục tiêu mà Trung Quốc muốn bị ảnh hưởng. Đời Minh mở rộng hơn sự giao thông về phía biển Nam, tức vùng Đông Nam Á ngày nay, khiến cho Việt Nam từ chỗ quan hệ đất liền với Trung Hoa lại thêm phần quan hệ trên biển. Do chồng chất bởi điều kiện lịch sử ấy nên đối với khu vực Đông Nam Á, Việt Nam lại chiếm một số lượng lớn sử liệu trong Minh Thực lục.

Bắt đầu từ năm 1368, là năm Chu Nguyên Chương lên ngôi Hoàng đế Trung Hoa, sự kiện có liên quan đến Đại Việt và Champa (Chiêm Thành) được ghi chép đến năm 1640 tức gần dứt triều Sùng Trinh (đến năm 1644). Thời gian ấy (1368–1640) Đại Việt trải qua Trần – Hồ, Lê – Mạc, Lê – Trịnh – Nguyễn, cụ thể từ 2 năm cuối triều vua Trần Dụ Tông (1341-1369) cho đến đời vua Lê Chân Tông (1634-1649). Trong khoảng thời gian 272 năm này, các vương triều Champa lui dần về Nam, khoảng những năm cuối cùng triều Sùng Trinh nhà Minh, vài văn bản cho thấy vẫn còn có sự giao thiệp với quốc vương Chiêm Thành, địa bàn của Champa trong giai đoạn này ở khoảng phía nam Đại Lãnh đến Phan Thiết. Như trên là tóm tắt về thời gian và không gian mà tập sử liệu biên dịch từ Minh Thực lục này đề cập đến.

IV. 2. Thời điểm sử dụng tư liệu Minh Thực lục

Tham khảo tư liệu từ Minh Thực lục vào việc biên soạn hoặc nghiên cứu sử Việt Nam, trên thực tế cho thấy khá muộn. Năm 1950, học giả Nhật Bản Yamamoto Tatsuro đã xuất bản An Nam sử nghiên cứu (quyển 1), công trình này thu thập khá nhiều văn bản Minh Thực lục với hình thức sao y nguyên bản. Đến khoảng những năm 1955, 1956, học giả Đào Duy Anh bắt đầu tham khảo An Nam sử nghiên cứu I để bổ sung cho quyển Lịch sử Việt Nam (1955), trong lời tựa cho lần tái bản 1958, Đào Duy Anh viết: “…Trong sự viết lại này, tôi đã nhờ được vài chuyên tác gần đây của các nhà sử học để bổ sung và sửa chữa, đặc biệt là sách Lý Thường Kiệt của ông Hoàng Xuân Hãn và sách Việt Nam lịch sử nghiên cứu I của nhà sử học Nhật Bản Sơn Bản Đạt Lang [Yamamoto Tatsuro]. Đối với tác phẩm sau viết bằng chữ Nhật, tôi rất tiếc chưa thể khai thác nó đầy đủ, song những tài liệu bằng chữ Hán, nhất là tài liệu Trung Quốc do tác giả dẫn dụng đã giúp tôi rất nhiều” (trang 5 – LSVN). Trong lần viết lại này, tư liệu Minh Thực lục đã giúp tác giả bổ sung nhiều sự kiện và tình tiết, số liệu quan trọng thời thuộc Minh và kháng chiến chống Minh. Khoảng mười năm sau, ở các chú thích trong Đại Việt sử ký toàn thư (1967) [Toàn thư] của Đào Duy Anh thỉnh thoảng ta thấy dẫn nguồn Hoàng Minh Thực lục, hoặc những khảo cứu địa lý, địa danh trong Đất nước Việt Nam qua các đời (1964) vẫn được tham khảo gián tiếp từ nguồn Yamamoto Tatsuro[7]. Tên sách Hoàng Minh Thực lục mà Đào Duy Anh nêu nguồn chính là Minh Thực lục. Vài học giả Nhật Bản giai đoạn sớm, sử dụng bản in 1942 của Lương Hồng Chí để tiến hành nghiên cứu thường gọi Minh Thực lụcHoàng Minh Thực lục, như ngoài Yamamoto Tatsuro còn thấy Mano Senryu với Hoàng Minh Thực lục tư khảo.

An Nam sử nghiên cứu I chủ yếu nghiên cứu về hai cuộc chiến tranh chống Nguyên và chống Minh của An Nam, các trích lục Minh Thực lục trong đó chỉ nhằm phục vụ cho chủ đề ấy. Vì vậy các học giả Việt Nam như Đào Duy Anh và cả sau này chỉ tham khảo được một số văn bản trong phạm vi của thời kỳ thuộc Minh và cuộc chiến chống Minh. Ngoài ra, do khảo cứu sâu về các địa danh liên quan đến chiến sự và vấn đề lịch sử địa lý An Nam thời thuộc Minh cũng được Yamamoto Tatsuro lưu ý, nên một số văn bản thời Vĩnh Lạc (Thái Tông Thực lục) về tình hình dựng đặt hành chính cũng được sao lục.

Năm 1976, trong công trình nghiên cứu Một số trận quyết chiến chiến lược trong lịch sử dân tộc[8], chương III và chương IV của sách này viết về chiến thắng Tốt Động – Chúc Động và chiến thắng Chi Lăng – Xương Giang, là hai trận đánh lớn mang ý nghĩa quyết định trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, nhóm tác giả đã sử dụng nhiều tư liệu Minh Thực lục trong An Nam sử nghiên cứu[9]. Những dữ liệu về quân số, về nhân vật tham chiến hoặc những tình tiết thuộc phạm vi nội tình quân Minh… rõ ràng đã làm sinh động hơn trong việc phục dựng lại các chiến trường cách nay đã gần 600 năm. Tuy nhiên nếu như được tham khảo trực tiếp tất cả các văn bản liên quan đến cuộc chiến chống Minh, nhiều chi tiết khá đắt giá khác hẳn đã được khai thác. Thí dụ như trong văn bản ngày 26/12 năm Tuyên Đức thứ nhất [23/1/1427], một sắc lệnh của hoàng đế Tuyên Đức điều động quân lực cả hai Kinh Nam, Bắc, các đô ty của 13 hành tỉnh trong toàn quốc, luôn cả Trung đô Lưu thủ ty [Lâm Hào, An Huy] vốn là đội quân bảo vệ lăng…tất cả gom được bảy vạn, giao cho Liễu Thăng và Mộc Thạnh[10]. Số phận của đạo quân này chúng ta đều đã biết, nhưng đằng sau thông tin của văn bản ấy và một vài văn bản liên quan đã bộc lộc sự mòn mỏi sức dân, sự kiệt quệ kinh tế và cũng cho thấy đó là niềm hy vọng cuối cùng của Minh triều nhằm duy trì sự đô hộ An Nam.

Nhìn chung, trong giai đoạn đầu tham khảo Minh Thực lục gián tiếp từ An Nam sử nghiên cứu, vài sử phẩm của giới sử học Việt Nam đã khai thác những gì có được một cách hữu hiệu. Điều này độc giả có thể thấy qua các trang viết về tài chính – kinh tế và hành chính thời thuộc Minh trong Lịch sử Việt Nam (1958) của Đào Duy Anh.

Sau An Nam sử nghiên cứu I, năm 1985, một nghiên cứu chuyên đề viết về triều đại Hồ Quý Ly ra đời. Chuyên đề này đã sử dụng khá nhiều tư liệu Minh Thực lục của hai triều Thái Tổ (Hồng Vũ) và Thái Tông (Vĩnh Lạc). Việt Nam, Hồ Quý Ly và triều Minh (1371-1421) của John. K. Whitmone[11] [Viện nghiên cứu Châu Á, Đại học Michigan, USA] là một cuốn sử khá hiếm về đề tài và thể loại này, và hình như công trình này được biết đến rất ít ở Việt Nam.

Việc khai thác trực tiếp sử liệu Việt Nam từ Minh Thực lục bắt đầu thấy qua bộ thông sử được biên soạn gần đây của Viện Sử học. Trước mắt, trong tập III – Lịch sử Việt Nam, thế kỷ XV-XVI[12], lời nói đầu của tập này viết: “Về nguồn sử liệu cổ của Trung Quốc, ngoài các bộ sách như “Minh sử”, “Minh sử kỷ sự bản mạt”…, đã khai thác trực tiếp nhiều tư liệu quý giá về quan hệ Việt Nam – Trung Quốc thế kỷ XV-XVI, trong bộ “Minh Thực lục” tàng trữ tại thư viện Trung Quốc học ở Matxkva mà Việt Nam không có (với các quyển Minh Thái Tông Thực lục,…, Minh Thần Tông Thực lục)”. Về xuất xứ, đây là bản in năm 1942 của Nam Kinh quốc học đồ thư quán (bản Lương Hồng Chí). Giới hạn niên đại của Lịch sử Việt Nam III ứng với 10/13 triều Minh Thực lục, các tư liệu được khai thác rất nhiều, theo ba hướng: một là, tóm tắt ý chính hoặc rút tỉa những số liệu cần thiết; hai là, chọn dịch nguyên văn những văn bản cần thiết và ba là dùng tư liệu từ Minh Thực lục để đối chiếu với các tài liệu khác. Nguồn tư liệu phong phú trong Minh Thực lục đã giúp nhóm tác giả Lịch sử Việt Nam III triển khai việc mở rộng nhiều vấn đề mà Toàn thư hoặc các nguồn tài liệu khác chỉ nhắc đến mà không nói rõ nội dung sự kiện hoặc thậm chí chưa từng đề cập đến. Thí dụ như phần viết về “Vấn đề biên giới Việt Nam – Trung Quốc ở thế kỷ XV” (chương V), ở đây ta sẽ thấy những sự kiện được Toàn thư ghi nhận rất nhạt như: “Năm 1442, tháng 10, sai Triệu Thái sang Minh tâu về việc địa phương châu Khâm”. Sự kiện được nhắc đến với cách ghi nhận như vậy khá nhiều trong Toàn thư, người đọc đời nay không tài nào hiểu nổi “việc địa phương châu Khâm” là việc gì, đầu đuôi ra sao, chỉ có thể đoán rằng đó là việc khá quan trọng, phải giải quyết ở cấp sứ bộ. Những văn bản tường thuật nội dung từ nguyên nhân đến hiện trạng việc này có trong Minh Thực lục phần nào giúp chúng ta hiểu rõ hơn vấn đề chỉ được ghi chép đại khái trong Toàn thư.

Nhóm tác giả Lịch sử Việt Nam III đã nỗ lực khá nhiều trong việc sử dụng các tư liệu mới và qua công trình này có thể thấy được giá trị thực dụng của sử liệu Minh Thực lục. Bên cạnh những thành công đáng kể, Lịch sử Việt Nam III cũng có vài sơ suất – thường khó tránh khỏi đối với loại công trình phải xử lý quá nhiều tư liệu – như trong sự kiện tấn công Lão Qua (Bắc Lào) của vua Lê Thánh Tông, từ chỗ hiểu nhầm Xa Lý[13] là 1 thôn dẫn đến lý luận không phù hợp (Lịch sử Việt Nam III, tr. 291,292), thật ra Xa Lý là một ty Tuyên ủy (gần như khu tự trị) thuộc loại diện tích rộng (tương đương một phủ) thống hạt nhiều lãnh địa của những tộc Thái khác, giáp và ở phía bắc Lão Qua. Rất nhiều văn bản trong Minh Thực lục đề cập đến những xung đột trong nội bộ Xa Lý, giữa Xa Lý và các ty Tuyên ủy khác.

Tóm lại, trong phạm vi khảo sát của phần này, với mục đích điểm qua quá trình sử dụng tư liệu Minh Thực lục trong sử Việt, những gì vừa trình bày cho thấy sự tiến triển khá chậm. Bắt đầu từ học giả Đào Duy Anh khoảng năm 1956 đến năm 2007 trong Lịch sử Việt Nam III, lượng tư liệu có quan hệ đến sử Việt trong Minh Thực lục ước chừng chỉ mới sử dụng gần phân nửa.

IV. 3. Về sách “Minh Thực lục: Quan hệ Trung Quốc – Việt Nam thế kỷ XIV-XVII” hay “Minh Thực lục, nguồn sử liệu Việt Nam”

IV. 3. a. Hình thức và cách tiếp cận

Sách “Minh Thực lục: Quan hệ Trung Quốc – Việt Nam thế kỷ XIV-XVII” mà độc giả đang cầm trên tay là bản dịch các đoạn văn có liên quan đến quan hệ Trung Quốc–Việt Nam thế kỷ XIV-XVII trong 13 bộ Thực lục nhà Minh. Qua văn bản gốc kèm theo bản dịch này, chúng ta thấy đó là bản viết có phân đoạn, không có dấu ngắt câu, mỗi đoạn cách nhau dấu khuyên tròn là một nội dung độc lập về một sự kiện. Các sự kiện này có khi cách nhau rất xa về địa lý, và vì chúng xảy ra cùng ngày hoặc cùng tháng nên được chép liền nhau đó là theo lối sử biên niên, thỉnh thoảng có dấu khuyên tròn cạnh bên phải của chữ, đó là dấu lưu ý có dị bản do nhóm hiệu khám điền vào sau này (xem phần ”văn bản và văn bản học, II. 2. a”). Tổng cộng những điều mục (sẽ gọi là văn bản, viết tắt v.b) là 1.237 văn bản.

Về thể loại, sách này là loại tập hợp sử liệu từ một nguồn, giống như những tập hợp trước đây về Đông Nam Á, về Lào, về người Thái… Đây có thể xem là bộ sưu tập riêng cho Việt Nam bằng tiếng Việt, tương tự như NUS dịch các tư liệu Đông Nam Á sang tiếng Anh. Ngoài bản dịch này độc giả có thể đọc thêm bản tiếng Anh của NUS (http://epress.nus.edu.sg/msl) vì sách này là một bộ phận của sưu tập sử liệu Đông Nam Á.

Trong khi chọn lọc những v.b có liên quan lịch sử Việt Nam, nội dung v.b liên đới đến các nơi khác thuộc Đông Nam Á hoặc các địa phương phía tây bắc Trung Quốc, thì một số v.b cũng dịch trọn nhằm để mở rộng không gian tham khảo. Có 45 quốc gia (hoặc địa phương) trong vùng Đông Nam Á được ghi nhận, trong đó 26 nơi xác định được vị trí hiện nay. Khoảng hơn 40 địa phương thuộc các tỉnh Vân Nam, Quảng Tây, Tứ Xuyên… được ghi nhận, những nơi này vào thời Minh phần lớn thuộc hệ thống Kimi (ràng buộc lỏng), nói cách khác là những lãnh địa tự trị.

Bởi đây là những văn bản được dịch thẳng từ sử liệu đời Minh nên độc giả cần lưu ý rằng, nội dung mà nó mang tải là nhãn quan của sử gia đời Minh nhìn vào sự kiện, nhìn vào một thuộc quốc lân cận, những ngôn từ khiếm nhã được sử dụng không chỉ riêng khi viết về An Nam, mà đối với Miến Điện, Nhật Bản, Thái Lan, Chiêm Thành…cũng đều chung một cách thức giọng điệu ấy. Với mục đích bảo tồn nguyên dạng dữ liệu, bản dịch này không bỏ hẳn một v.b nào có nội dung liên quan, nếu sau này phát hiện thêm v.b có liên quan thì đó là do lỗi trích lục chưa toàn vẹn. Cũng cần phải nói thêm rằng, để có một cách nhìn nhận khách quan về những sử liệu trong sưu tập này, độc giả nên lưu ý những trang viết về Thế giới quan Trung Hoa của G. Wade, đó là những trang viết đã đúc kết bởi công phu nghiên cứu thực tiễn và óc phân tích khoa học. Những bình luận, thẩm định và khuyến cáo của G. Wade sẽ giúp độc giả thong dong hơn trong tập sử liệu khô khan ngày tháng này, hoặc hơn nữa là đối với những loại sử liệu khác có cùng xuất xứ.

IV. 3. b. Đặc điểm sử liệu

Đối với Minh Thực lục, các học giả Trung Quốc hiện nay định tính là thể loại sử liệu Biên niên; khái niệm sử liệu được dùng trong bài viết này và bản dịch này một phần dựa vào cách nhận định của giới học thuật Trung Quốc đối với văn bản gốc. Đối với sử Việt, “Minh Thực lục: Quan hệ Trung Quốc-Việt Nam thế kỷ XIV-XVII” lại nổi bật tính chất sử liệu hơn là biên niên vì thật ra chỉ có giai đoạn Vĩnh Lạc, Tuyên Đức tức ứng với thời Đại Việt thuộc Minh và khởi nghĩa chống Minh là có nhiều văn bản ghi nhận, và kế đến là thời Gia Tĩnh ứng với thời Lê – Mạc. Những khoảng thời gian khác chỉ thỉnh thoảng có việc lấn cấn biên giới giữa các tù trưởng hai bên hoặc định kỳ cống sứ, việc báo tang hoặc lên ngôi vua của hai nước được ghi nhận. Nhìn chung, với đặc thù sự kiện không liên tục, có thể thông qua tính biên niên và chỉ xác định đây là một tập hợp sử liệu.

Về phân loại sử liệu, tập hợp này thuộc loại sử liệu viết (sử liệu thành văn) với hai dạng thức trực tiếp và gián tiếp. Dạng sử liệu viết trực tiếp có thể thấy được qua các mẩu văn bản hoặc một đoạn v.b mà trong đó sử quan chép lại toàn văn một chỉ dụ hay một báo cáo nào đó; còn dạng sử liệu viết gián tiếp là phần mà sử quan nghe được thông tin mà chép hoặc tóm lược lại từ một văn bản và gia thêm nhận định chủ quan.

Vài thí dụ cho sử liệu trực tiếp như sau:

Thí dụ 1: v.b ngày 1 tháng 6 năm Vĩnh Lạc 5 (1407) về việc thiết lập các cơ quan quản lý hành chính ở Giao Chỉ (trích đoạn): “lập các kho tàng, ty, cục thuế khóa: Lập kho Vĩnh Doanh tại ty Bố chính Giao Chỉ. Lập ty đặc trách về Y học và Tăng cang tại phủ Giao Châu. Làm trại nuôi ngựa trạm Phong Doanh và kho lúa Vĩnh Phong tại sông Lô… Dựng trường Nho học tại châu Gia Lâm. Lập ty Thuế khóa tại 4 phủ Giao Châu, Bắc Giang, Lạng Giang, Kiến Bình. Lập cục Thuế khóa tại 8 châu Phúc An, Tam Đái, Từ Liêm, Lợi Nhân, Gia Lâm, Vũ Ninh, Bắc Giang, Tuyên Hóa. Lập cục Thuế khóa tại 20 huyện…năm địa phương…” . V.b này và nhiều v.b tương tự mang hình thức chép lại nguyên văn các chỉ dụ hoặc quyết định của cơ quan hữu trách về việc bổ nhiệm quan chức và dựng đặt cơ quan, cải đổi địa danh hành chính trên đất Giao Chỉ/An Nam. Đối với dạng sử liệu này, trong hoàn cảnh các quyết định/công văn ở văn khố – nguồn mà Minh Thực lục dựa vào – không còn nữa thì ta phải xem đó là những v.b trực tiếp, tức là ở cấp độ cao nhất trong giá trị tham khảo. Nói thêm là, từ lâu nay sách Thiên hạ quận quốc lợi bệnh thư của Cố Viêm Võ biên soạn trong những năm 1639-1662 thường được xem là nguồn tư liệu rõ và nhiều hơn cả về lịch sử địa lý nước ta thời thuộc Minh, thật ra Cố Viêm Võ lấy nguồn từ Minh Thực lục.

Thí dụ 2: v.b ngày mùng 5 tháng 9 năm Vĩnh Lạc thứ 5 [5/10/1407] có một đoạn chép việc Liễu Thăng giải tù nhân Quý Ly, Hán Thương…về Kim Lăng. Việc này Toàn thư chép: “giải Quý Ly và con là Hán Thương, Trừng, Triệt [Thực lục viết Đôn], Uông, cháu là Nhuế, Lỗ, Phạm, cháu nhỏ là Ngũ Lang, em là Quý Tỳ, cháu gọi bằng bác là Nguyên Cữu, Tử Tuynh, Thúc Hoa, Bá Tuấn, Đình Việp [Thực lục viết Đạn], Đình Hoảng [Thực lục viết Quảng], tướng thần là Đông Sơn Hương hầu Hồ Đỗ, Hành khiển Nguyễn Ngạn Quang, Lê Cảnh Kỳ, tướng quân là Huyện bá Đoàn Bồng, Đình bá Trần Thang Mộng, Trung lang tướng là Phạm Lục Tài, cùng các ấn tín đến Kim Lăng để dâng”. (tập 2, tr. 231). So với văn bản Minh Thực lục thì tên các nhân vật đại thể tương đồng, tuy nhiên Minh Thực lục chép rất rõ về chức vụ, tước vị, huân công… của từng người. Như về Lê Trừng (Hồ Nguyên Trừng) v.b này chép: “con trai đầu sỏ giặc ngụy Suy thành thủ chính, Dực tán Hoằng Hóa công thần, Vân Đồn, Qui Hóa, Gia Hưng Trấn chư quân sự, Tiết độ đại sứ, Đàm Giang Doanh nội quan sát sứ [các xứ], Đặc Tiết [chế] Vân Đồn, Qui Hóa, Gia Hưng các Trấn, lãnh Đông Lộ, Thiên Trường phủ lộ Đại Đô đốc, Đặc tiến Khai phủ Nghị đồng Tam ty Nhập nội Kiểm hiệu Tả tướng quốc Bình Chương quân quốc sự, ban bao Kim Ngư, Thượng trụ quốc vệ quốc Đại vương Lê Trừng”. V.b này cho thấy nếu như sử quan nhà Minh không tham khảo trực tiếp tài liệu từ văn khố nhà Hồ thì không thể có được những chi tiết này. Nếu nghiên cứu về quan chế thì các v.b loại này ít ra cũng cho được một sưu tập chức tước khá dày dặn, để tiếp nối những khoảng trống mà Phan Huy Chú vì điều kiện tư liệu đã chép rất sơ lược hoặc phải bỏ ngỏ[14].

Trong trường hợp như trên hoặc tương tự, chúng ta có thể xem chúng là những sử liệu gốc từ Đại Việt, thuộc số đồ thư văn kiện Trần – Hồ mà Trương Phụ chuyển về Kim Lăng. Ngày nay chúng là những sử liệu thật hiếm về nhà Hồ (1400–1407), vốn được biên chép rất ít trong chính sử vì bị coi là “nhuận triều”.

Thí dụ 3: V.b ngày 23 tháng 9 năm Vĩnh Lạc 5 [23/10/1407] viết: “Quan Tổng binh Tân Thành hầu Trương Phụ sai người đưa các loại thợ gồm 7.700 (bảy ngàn bảy trăm) người đến Kinh. Hoàng thượng nghĩ bọn họ từ nơi xa xôi đến, không quen khí hậu lạnh, nên ra lệnh bộ Công cấp phát áo bông” (Thái Tông, quyển 71, tr. 6a). V.b ngày 7 tháng 10 năm Vĩnh Lạc thứ 5 [6/11/1407] chép lại báo cáo tiếp theo của Trương Phụ, rằng đã gom thêm được 9.000 (chín ngàn) người, đang trên đường đưa về Kinh, lần này gồm cả những người học rộng và giỏi tài nghệ các mặt. V.b ngày 26 tháng 5 năm Vĩnh Lạc thứ 11 [24/6/1413] chép: “thợ Giao Chỉ hơn 130 (một trăm ba mươi) người cùng vợ con đến Kinh đô. Mệnh ty sở quan cấp tiền, gạo, quần áo, chỗ ở, thuốc thang lúc bệnh” [Thái Tông, quyển 140, tr. 4a]. Trong sự kiện thứ nhất Toàn thư chỉ chép: “…thiến hoạn nhiều con trai trẻ tuổi và thu lấy tiền đồng ở các xứ cho trạm đưa về Kim Lăng” (tập 2, tr. 226); sự kiện thứ hai, Toàn thư chép việc nhà Minh cần người giỏi “đưa dần về Kim Lăng trao cho quan chức, rồi cho về nước làm các chức phủ châu huyện” (tập 2, tr. 232) [tức không nói việc tuyển thợ giỏi, là đa số trong 9 ngàn người]. Sự kiện thứ ba, Toàn thư chép: “Hoàng Phúc nhà Minh chọn lấy người thợ và vợ con của họ đưa về Yên Kinh để đóng thuyền” (tập 2, tr. 246). Rõ ràng là các sử quan nhà Lê/Đại Việt chỉ có thể nghe biết về các sự kiện trên và vì không đủ điều kiện để thu thập các số liệu cụ thể, nên chỉ nêu thông tin đại khái mà thôi.

Ngoài các thí dụ vừa nêu, loại sử liệu trực tiếp này còn cung cấp nhiều thông tin khác như số liệu về các lần trưng thuế bằng tiền bạc hoặc sản vật với bảng kê chi tiết. Thí dụ như v.b [477] tháng 12 năm Vĩnh Lạc 15, chép: “Giao Chỉ dâng lên 1.252 tấm [lụa] quyên, 3.000 lông chim thúy, 10.000 cái quạt, 2.400 cân sơn”. Loại v.b này khá nhiều và ngoài tình hình thuế khóa phải dâng nộp thời thuộc Minh, nó còn là tư liệu về kỹ nghệ chẳng hạn. Loại sử liệu về tị nạn chính trị với hơn 20 v.b chép về các nhân vật từng cộng tác với nhà Minh trong thời gian đô hộ, sau cuộc chiến đã dẫn bộ thuộc và gia quyến sang định cư hẳn ở Trung Quốc, đại để như: “Nha môn quan quân Giao Chỉ thuộc vệ Trấn Di, bọn chỉ huy đồng tri Vũ Hiếu Tiên 95 người tâu xin ở tại kinh đô [Bắc Kinh] cư trú. Hoàng thượng mệnh hành tại bộ Lễ lấy theo lệ người phương bắc đến hàng, ban cho các vật như y phục, lụa, tiền…”[15]. Loại sử liệu này có thể giúp thêm cho việc nghiên cứu lịch sử xã hội hoặc truy tìm, nghiên cứu về gia phả v.v…

Dạng sử liệu viết gián tiếp tiêu biểu có thể thấy ở v.b ngày 24 tháng 3 năm Gia Tĩnh thứ 2 (9/4/1523), như sau: “Trước đây Biên tu viện Hàn lâm Tôn Thừa Ân, Hữu Cấp sự trung khoa Lễ Du Đôn mang chiếu dụ cùng lụa là đến ban cho Quốc vương An Nam Lê Trừu [Uy Mục Đế]. Đến Long Châu nghe tin bề tôi nước này là Trần Cảo nổi loạn, Trừu bị giết, người trong nước lập con thứ của Trừu là Huệ [Lê Chiêu Tông] lên làm vua. Bầy tôi là Mạc Đăng Dung lại làm phản, đuổi Huệ. Đường sá không thông, sứ giả không vào [An Nam] được, trở về đến Ngô Châu thì Đôn bị bệnh gần chết, Thừa Ân dâng sớ trình bày sự việc. Tổng đốc Lưỡng Quảng, Đô Ngự sử Trương Đỉnh cũng dâng sớ, bộ Lễ bàn thêm. Hoàng thượng mệnh Thừa Ân trở về kinh; lệnh cho quan Trấn, Tuần điều tra thêm sự tình đất Di rồi trình lên”. (Thế Tông, quyển 24, tr. 10b). Văn bản này vừa lạc hậu so với thời điểm biên chép vừa thông tin sai, như việc Trần Cảo đã xảy ra từ năm 1516 (tức đã qua 7 năm), Lê Chiêu Tông (Huệ) không phải là con của Trừu (Uy Mục Đế) mà là con của Sùng (Cẩm Giang vương). Đối với chúng ta ngày nay, văn bản này cho biết rằng, ít nhất là trong khoảng thời gian 7 năm (1516–1523) việc giao thiệp giữa hai nước rất mờ nhạt. Loại sử liệu ở dạng gián tiếp như vừa nêu chiếm một tỉ lệ đáng kể thuộc nhiều loại sự kiện. Qua những đặc trưng này, độc giả có thể lưu ý phân tích trước khi có ý định sử dụng chúng với tính cách dữ kiện. Mặt khác, còn có nhiều văn bản vừa có đoạn là sử liệu trực tiếp, có đoạn sử liệu gián tiếp, việc này là do sử gia xâu chuỗi các thông tin về một sự kiện nào đó vào chung một văn bản.

(Còn 1 kì)


[1] Xem “Sưu tập các trích dẫn Minh Thực lục” trong bài nghiên cứu “Minh Thực lục, một nguồn sử liệu Đông Nam Á” của Geoff Wade.

[2] Như trên.

[3] J.V.G. Mills, Ma Huan Ying-yai Sheng-lan, the overall Survery of the Ocean’s Shores (1434), Cambridge University Press for the Hakluyt Society, 1970. [Mã Hoan là người trong đoàn hải hành với Trịnh Hòa].

[4] Tinh sai thắng lãm hiệu chú (Minh, Phí Tín), Phùng Thừa Quân hiệu chú, Thương vụ ấn thư quán, 1936 – Trung Hoa thư cục, 1954. [Phí Tín là người trong đoàn hải hành với Trịnh Hòa].

[5] The Ming shi-lu as a source for southeast Asian History.

[6] Tiểu biểu như: Po–luo and Borneo: A Re-examination, BMJ, vol.6 (1986); The Ming shi-lu As a Source for Thai History: 14th to 17th century. SOAS, London, 1993; Melaka in Ming Dynasty Texts, Jouranal of the Malaysian Brahch of the Royal Asiatic Society 70, pt-1 (1997).

[7] Chương XI: “Những thay đổi về địa lý Hành chính ở thời thuộc Minh” sách Đất nước Việt Nam qua các đời ta thấy 1 chú thích dẫn nguồn của cụ Đào viết: “sách Hoàng Minh Thực lục là sách do An Nam sử nghiên cứu I của Sơn Bản Đạt Lang dẫn” (xem bản in Thuận Hóa, 1994).

[8] Do nhóm tác giả Phan Huy Lê, Bùi Đăng Dũng, Phan Đại Doãn, Phạm Thị Tâm, Trần Bá Chí – nxb Quân đội nhân dân, H., 1976.

[9] Theo ghi nhận về nguồn tham khảo trong các chú thích ở tr. 195, 236 của nhóm tác giả.

[10] Xem thêm ở v.b [731], ngày 26/12 năm Tuyên Đức 1 (23/1/1427), Tuyên Tông Thực lục, q.23, tr.10a-10b, về số quân 7 vạn nêu trên là theo văn bản này.

[11] Whitmore. J. K. Vietnam, Ho Quy-ly and the Ming (1371–1421), New Haven, Yale Center for International and Area Studies, 1985.

[12] Tạ Ngọc Liễn (chủ biên), Nguyễn Thị Phương Chi, Nguyễn Đức Nhuệ, Nguyễn Minh Tường, Vũ Duy Mền. Lịch sử Việt Nam thế kỷ XV–XVI, nxb Khoa học xã hội, H., 2007 (sau này sẽ viết là LSVN III).

[13] Xa Lý 車 里, thổ ty vùng Vân Nam. Xưa gọi là Sản Lý 產 里, là đất của tộc Nụy Nê 倭 泥, Điêu Đảng 貂 黨. Năm Minh Hồng Vũ thứ 15, thủ lĩnh họ Đao thần phục, đổi tên gọi là Xa Lý, đặt phủ Quân dân Xa Lý, họ Đao nối đời làm tri phủ. Năm Vạn Lịch thứ 10 (1582) đổi làm ty Tuyên Úy Xa Lý (Tiểu truyện Xa Lý chép trong Minh Sử, quyển 315, Liệt truyện 203, Vân Nam Thổ ty 3, trang 8156). Vùng này nay một phần thuộc tỉnh Vân Nam, Trung Quốc.

[14] Đặng Xuân Bảng trong “Quan chế khảo” viết: Tôi đã xem chuông chùa Độ Long xã Kim Bài huyện Thanh Oai có khắc rằng “Năm Thiệu Phong thứ 6 [1346, Trần Dụ Tông], Suy thành hiệp mưu thủ chính Dực đới công thần, Ninh Vũ quân Tiết độ Hoan Châu quản nội quan sát sứ, trí đẳng xứ, sử trì tiết kiêm đại An Hải trấn chư quân sự hành Hoan Châu doãn, đặc tiến Khai phủ nghị đồng tam ty, kiêm hiệu Thái úy bình chương sự, Thượng trụ quốc Khai quốc Cung Tĩnh công chú (đúc)” [Sử học bị khảo, quyển 4, tr. 591]. Tư liệu trên cho thấy có nhiều điểm tương đồng về quan chức, tản giai, huân phẩm, tước phong giữa đời Trần và Hồ.

[15] V.b [793], ngày 20/5 năm Tuyên Đức 5 [2/7/1428] ,Tuyên Tông Thực lục, q.43, tr. 7b-8a . Xem thêm các v.b trong bản dịch theo số thứ tự 793, 799, 800, 801, 802, 805, 812, 848, 874, 876, 883, 895, 902, 908, 968, 969, 1029, 1051, 1145, 1190, 1249.

Phạm Hoàng Quân – “Minh Thực lục” và sách “Minh Thực lục: Quan hệ Trung Hoa –Việt Nam thế kỷ XIV-XVII” (3)

(Xem toàn bộ bài bằng bản PDF)

IV. 3. Sự ảnh hưởng của Sử quan và thời điểm biên chép đối với sử liệu

Thời điểm biên chép dữ liệu khác với thời điểm mà sử liệu đề cập. Thời điểm biên chép và người biên chép hoặc giám sát việc biên soạn đều có ảnh hưởng đến độ chân xác của các mẩu sử liệu trong Minh Thực lục. Tác động chính đối với việc lưu truyền sự kiện dĩ nhiên là của lãnh đạo tối cao [các hoàng đế nhà Minh] và ở cấp độ thấp hơn là ý đồ đại cương của Tổng tài, kế đến là thuộc về phạm vi nghiệp vụ của sử quan trực tiếp chấp bút biên soạn. Ba đối tượng ấy đều có khả năng đưa sự kiện đến chỗ thiếu chân xác.

Trong Minh Thực lục: Quan hệ Trung Quốc-Việt Nam thế kỷ XIV-XVII hơn một nửa sự kiện nằm ở giai đoạn nhà Hồ, thuộc Minh, khởi nghĩa Lam Sơn, và vua Lê Thái Tổ, tức ứng với triều Vĩnh Lạc và Tuyên Đức. Nói cụ thể hơn là sự kiện của 30 năm (1400–1430) chiếm đến 6/10 dung lượng, và các sự kiện của hơn 240 năm là trong 4/10 còn lại. Do đặc thù này, tôi đặc biệt lưu ý đến tác giả (Tổng tài) và thời điểm hình thành bốn bộ Thực lục đầu nhà Minh là Thái Tổ (Hồng Vũ) Thái Tông (Vĩnh Lạc), Nhân Tông (Hồng Hi) và Tuyên Tông (Tuyên Đức).

Thực lục của ba triều Vĩnh Lạc, Hồng Hi và Tuyên Đức đều do Dương Sĩ Kỳ làm Tổng tài, Thái TôngNhân Tông Thực lục hoàn thành năm 1430 dưới triều Tuyên Đức, ba năm sau thất bại ở nước ta; Tuyên Tông Thực lục hoàn thành năm 1438 dưới triều Anh Tông (niên hiệu Chính Thống 3). Dương Sĩ Kỳ lại là Tổng tài của lần biên soạn thứ 3 (tức sửa chữa lần 2) của Thái Tổ Thực lục, hoàn thành năm 1418[1]. Không khó để thấy ra vai trò đặc biệt quan trọng của Dương Sĩ Kỳ trong việc biên soạn Thực lục giai đoạn đầu và cả trong lịch sử biên soạn 13 Thực lục[2].

Những thông tin trên cho thấy Dương Sĩ Kỳ là người quán xuyến dữ liệu cho việc biên soạn Thực lục ba triều và rộng tay hơn nữa là có cả quyền điều chỉnh đối với Thái Tổ Thực lục cho phù hợp với giai đoạn sau. Giới sử học Trung Quốc thường phân tích các Thực lục giai đoạn đầu theo hướng giải tỏa sự cố “chính biến Tĩnh nạn”, do sự cố này là tiền đề của nhiều uẩn khúc trong thời hoàng đế Kiến Văn. Các biên chép thời Kiến Văn – vị vua thứ hai nhà Minh (1399 – 1402) cháu nội Chu Nguyên Chương – không thành Thực lục được vì bị Chu Đệ (Thái Tông) tách ra làm đôi, phần đầu nhập vào Thái Tổ Thực lục, phần sau nhập vào Thái Tông Thực lục, tức một nửa đầu nhập vào thời của ông nội, và nửa sau nhập vào thời của người chú cướp ngôi. Chỉ đạo việc cắt nhập, chỉnh lý này là do Chu Đệ (Thái Tông – Vĩnh Lạc) và việc trực tiếp cơ cấu sử liệu hẳn là Dương Sĩ Kỳ. Đối với sử Đại Việt, các ghi chép biến hóa linh động có thể thấy trong triều Hồ – Hậu Trần và kết thúc khởi nghĩa Lam Sơn.

Đạo quân Trương Phụ nhanh chóng đánh bại sự chống trả của quân đội nhà Hồ, nguyên nhân chính là nhờ vào chiêu bài khôi phục nhà Trần, hàng loạt quan binh các địa phương thuộc Đại Việt đã vội vã đầu hàng Trương Phụ vì tin vào lời rao “tìm con cháu họ Trần lập làm vương”. V.b ngày 14 tháng giêng năm Vĩnh Lạc thứ 5 (21/02/1407) cho biết: “lúc này người châu Nam Sách là Mạc Thúy, vốn giận giặc họ Lê [Quý Ly], bèn mang lính địa phương vạn người đến theo, nhiều lần gắng sức lập công”. Nửa tháng sau Mạc Thúy được Trương Phụ cử đứng ra “tuyên cáo lòng nhân đức của Thiên tử” và “Thăm hỏi tìm họ hàng nhà Trần, chọn một người hiền tài thuộc dòng đích đưa về kinh sư, để xin mệnh khôi phục tước vương”[3]. Một v.b sau 40 ngày cho biết, bọn Mạc Thúy và một số người quanh phủ Bắc Giang cùng các kỳ lão do Duẫn Bái dẫn đầu gồm hơn ngàn người đến doanh trại Trương Phụ thưa rằng: “…con cháu nhà Trần trước đây bị giặc họ Lê tru diệt hết, không còn sót ai, không thể kế thừa” và nêu nguyện vọng: “xin được duy trì trở lại quận huyện cũ, ngõ hầu sửa đổi tục Man Di, vĩnh viễn thấm nhuần thánh hóa” v.v…[4] Một báo cáo nhanh của Trương Phụ về kết quả cuộc tìm kiếm và nguyện vọng của dân Giao Chỉ qua tiếng nói của hơn ngàn kỳ lão đưa về kinh. Ngày 1 tháng 6 cùng năm, Trương Phụ nhận chỉ dụ thiết lập các phủ, châu, huyện thuộc Giao Chỉ[5]. Diễn biến của chuỗi sự kiện này có thể thấy then chốt trong 40 ngày tìm kiếm con cháu nhà Trần, cho dù có hơi cập rập nhưng cũng đủ để tỏ thiện chí của thiên triều và không gây trở ngại nhiều cho việc xếp đặt sử liệu. Những sự kiện sau này về sự xuất hiện của Giản Định đế Trần Ngỗi và Trùng Quang đế Trần Quý Khoáng được ghi nhận là “bọn nổi loạn” hoặc “xưng càn là cháu Vương trước”[6]. Chuỗi sự kiện nêu trên khiến người đọc không khỏi nghi ngờ về hành tung của Mạc Thúy qua việc sốt sắng với Trương Phụ, qua việc nhanh chóng thay đổi thái độ và ý hướng đối với nhà Trần…

Vấn đề cơ cấu dữ liệu thể hiện rõ hơn qua sự xuất hiện lẻ loi đột ngột của vài văn bản mang hình thức Khởi cư chú, những tường thuật về các cuộc trò chuyện thân mật của Hoàng đế Tuyên Đức với các cận thần là một điểm khá lạ trong mạch Thực lục. Lần đầu thấy qua văn bản ngày 27/11 năm Hồng Hi thứ nhất (5/1/1426), v.b này chép việc Tuyên Đức tiết lộ nỗi lòng với Dương Sĩ Kỳ và Dương Vinh, phân vân giữa rút quân hoặc tiếp tục cuộc chiến ở Giao Chỉ, ý thiên về hướng bãi binh[7]. Một ngày trước cuộc trò chuyện đó, Tuyên Đức đã ban sắc: “Trần Trí, Phương Chính chuyên trách tiến binh, cốt ở hòa hợp để thành công, không cho phép trì hoãn để lỡ việc. Nếu mùa xuân tới không có tin chiến thắng báo về, sẽ bị quy tội”[8] đồng thời cũng trách cứ “bọn Trần Trí, Lý An, Phương Chính không quyết đánh mà cứ mãi lo chiêu dụ [Lê Lợi] để dưỡng giặc mạnh lên”. Ngày hôm sau Tuyên Đức lại nảy ra ý muốn làm theo di huấn Thái Tổ “không nên đánh An Nam trừ khi họ xâm phạm Trung Quốc”. Kế đến là một v.b sau đó chưa đầy 5 tháng, “ban mệnh Tổng binh Vương Thông lãnh ấn Chinh Di tướng quân, đến Giao Chỉ chinh tiễu giặc”[9] lần đi này điều động quân binh Phúc Kiến, Quảng Đông, Vân Nam, Quý Châu, Tứ Xuyên, Hồ Quảng…cộng hai vạn[10], điều động bắt thêm lính trong dân Giao Chỉ ba vạn[11], Vương Thông đòi thêm hơn 500 quân thuộc doanh Thần cơ chuyên dụng hỏa khí, vốn chỉ để tùy tùng Hoàng đế khi thân chinh, Tuyên Đức cũng duyệt cho[12]. Nhìn vào quyết định sống mái ấy mới phải đáng ngờ khi một văn bản Khởi cư chú đầy kịch tính xuất hiện ngay ngày hôm sau, khi gặp riêng bốn cận thần Dương Sĩ Kỳ, Dương Vinh, Kiển Nghĩa, Hạ Nguyên Cát, Hoàng đế Tuyên Đức nói: “Hôm qua sai tướng xuất sư, Trẫm suốt đêm không yên lòng, không nỡ phạm đến sinh linh vô tội. Đào sâu suy nghĩ chỉ muốn như thời Hồng Vũ và những năm đầu Vĩnh Lạc, cho nơi này tự lập một nước, hàng năm triều cống, bảo toàn sinh mệnh dân một phương, mà cũng để người Trung Quốc được nghỉ ngơi nữa. Ý các ngươi thế nào?” Kiển Nghĩa và Nguyên Cát tâu: “…Hơn 20 năm cần lao, lại bỏ đi trong một buổi, há lại không nghĩ đến sự tổn thương uy vọng, xin suy nghĩ thêm nữa”. Dương Sĩ Kỳ đương nhiên là [được chép] đồng quan điểm với Tuyên Đức, với lời bàn nên rút quân[13]. Ở đây không có hai phe chủ hòa và chủ chiến, cũng không có vị hoàng đế ngày trước tế cờ cử soái ngày sau nghĩ muốn bãi binh, ở đây chỉ có ngòi bút của sử quan Dương Sĩ Kỳ với toan tính bảo toàn quốc sỉ, để việc thu cờ xếp giáo của Vương Thông vào năm sau (1427) ở tư thế đường hoàng, trong chủ trương đã định sẵn từ trước.

Thực lục triều Tuyên Đức hoàn thành năm 1438, tức Dương Sĩ Kỳ sắp xếp lại chuyện của 12 năm trước, có thể bổ sung loại hình Khởi cư chú cho những chỗ cần. Xét kỹ về thời điểm biên chép sử liệu chúng ta có thể phân tích một số văn bản chứa nội dung “lời nói của hoàng đế”[14] vì đây là loại sử liệu có nhiều khả năng bị biên tập lại.

IV. 4. Giá trị sử liệu của “Minh Thực lục: Quan hệ Trung Quốc-Việt Nam thế kỷ XIV-XVII

Đối chiếu Minh Thực lục: Quan hệ Trung Quốc-Việt Nam thế kỷ XIV-XVII với Toàn thư chúng ta thấy có nhiều nội dung sự kiện cùng được hai sách ghi chép, tuy nhiên trong các tình tiết có nhiều dị biệt. Có rất nhiều sự kiện Minh Thực lục chép rộng hơn Toàn thư, đây là điểm có thể lợi dụng để bổ sung cho thông sử.

Quá trình kê cứu sơ bộ cho thấy có nhiều v.b Minh Thực lục liên quan đến giai đoạn nhà Hồ, thời thuộc Minh thì hẳn nhiên là Minh Thực lục ghi chép tường tế hơn Toàn thư: những v.b liên quan đến sắc tộc Thái ở vùng tây bắc Đại Việt nơi giáp giới đất Miến Điện, Lão Qua, là những sử liệu phản ánh tình trạng lấn cấn đất đai phức tạp nhiều đời; Nhân vật thời Hậu Trần và các thủ lĩnh địa phương khởi nghĩa trước Lê Lợi vốn gây nhiều phiền phức cho bộ mấy cai trị/đô hộ nên được ghi nhận khá chi tiết, nhiều nhân vật và sự kiện không thấy chép trong Toàn thư v.v… Ngoài giá trị bổ sung, tập sử liệu này còn giúp ích nhiều cho việc khảo chứng cục bộ đối với thông sử. Độc giả có quan tâm đến vấn đề sử liệu hẳn sẽ thấy nhiều chú thích thiên về hướng khảo chứng trong bản dịch Toàn thư (1967–1973)[15], trong đó học giả Đào Duy Anh đã trích dịch nhiều đoạn từ Tống sử, Nguyên sử, Minh sử, Minh sử kỷ sự bản mạt… để đối chiếu, so sánh với cách ghi chép trong Toàn thư về một sự kiện nào đó, công việc này giúp cho độc giả chuyên sâu có cái nhìn từ nhiều phía đối với sự kiện.

Thí dụ v.b. [193], cho thấy việc lấn cấn biên giới mà Hồ Quý Ly phải cắt trả đất vào năm 1405 vốn có tiền sự từ năm 1397 mà trong vụ này Toàn thư chỉ chép việc năm 1405 trong khi Minh Thực lục chép cả hai niên điểm của sự kiện giúp chúng ta nắm rõ hơn quá trình diễn biến của sự kiện này[16]. Thời đó sử liệu Minh Thực lục chưa được học giả Đào Duy Anh khai thác triệt để, nên chỉ lấy Minh sử làm nguồn chính. Trong tương lai, có thể lấy thêm nguồn sử liệu Minh Thực lục vào việc khảo chứng Toàn thư.

Các chuyên đề lịch sử là nơi cần nhiều sử liệu ở dạng chi tiết về loại mục, cụ thể về số liệu hoặc khá hơn nữa là có tính liên tục, những yêu cầu này, sử liệu Minh Thực lục có thể đáp ứng được phần nào. Trước mắt, các chuyên đề về lịch sử địa lý, lịch sử bang giao Trung – Việt, về quan chế thời nhà Hồ, Hậu Lê, lịch sử quân sự, lịch sử các cuộc khởi nghĩa nông dân… có thể trích lục được nhiều chi tiết. Bên cạnh, đối với các công trình biên soạn về lịch sử từng thời kỳ thì sử liệu Minh Thực lục cũng là một nguồn tham khảo và ứng dụng đáng kể.

Trong nghiên cứu sử, ngoài việc dùng sử liệu Minh Thực lục vào việc khảo chứng[17] như đã nêu trên, có thể đặt làm cơ sở để tiến hành vài phương án, theo nhận định chủ quan, chúng tôi có một vài gợi ý như sau:

a. Nghiên cứu Trung Quốc.

Đối với số tư liệu Minh Thực lục hiện có, phối hợp thêm các nguồn khác ở bối cảnh thời Minh được viết trong thời Minh hoặc được viết sau thời Minh để nghiên cứu về quan điểm viết/chép sử (Lịch sử quan) đương thời , hoặc sự tác động và mức độ ảnh hưởng của loại sử liệu Minh Thực lục đối với các tác phẩm lịch sử sau này …

b. Nghiên cứu nguồn sử liệu Minh Thực lục

Dù sao, sử liệu Minh Thực lục vẫn là nguồn từ bên ngoài. Để việc ứng dụng ngày càng khoa học và gần với sự thực lịch sử dân tộc, cần phải đầu tư thời gian nghiên cứu, từng bước có thể phân định đúng/sai, chính xác/không chính xác, loại nào (hay cụ thể hơn là v.b nào) có thể sử dụng và sử dụng cho loại hình/trường hợp nào… Trong quá trình hiệu đính và chú thích, tôi nhận thấy rằng có nhiều trường hợp phải căn cứ vào Minh Thực lục để cải chính những nhầm lẫn sai sót trong sử Việt, như tên người Trung Hoa, địa danh Trung Hoa thì chúng ta phải thừa nhận Toàn thư hoặc Cương mục chép sai, nếu khác Minh Thực lục và ngược lại tên người Việt, địa danh Việt thì phải căn cứ nguồn sử liệu Việt để cải chính Minh Thực lục. Thí dụ như trong v.b [91], cách ghi chép thiếu trật tự về địa lý hành chính đối với các khu tự trị vùng biên giới tây nam Trung Hoa và lại đặt lẫn lộn với các quốc gia Triều Tiên, An Nam, Tiêm La, cho thấy kiến thức của các sử quan cũng có chỗ lơ mơ[18]. Tuy nhiên đó mới chỉ là những nhận biết ban đầu, nếu đào sâu phân tích về tính hợp lý (logic) của sự kiện và mạch sử liệu hẳn sẽ có thêm nhiều vấn đề khác tinh tế hơn.

Đối với chúng ta, nghiên cứu nguồn sử liệu Minh Thực lục hoặc các nguồn sử liệu khác có cùng xuất xứ lại là việc quan trọng và cần thiết, một mặt giúp cho số đông yên tâm hơn khi sử dụng nguồn tư liệu ấy, mặt khác có thể dự phần nghiên cứu Trung Quốc cùng với các nước trong khu vực Đông Nam Á hoặc trong vùng ảnh hưởng văn hóa Trung Quốc.

c. Nghiên cứu tương quan Đại Việt – Champa – Đông Nam Á trong sử liệu Minh Thực lục

Với số tư liệu Minh Thực lục hiện có, phối hợp với bản dịch bài nghiên cứu “Minh Thực lục, một nguồn sử liệu Đông Nam Á” (Geoff Wade), có thể nghiên cứu về sự tương quan giữa các nước trong khu vực vào thế kỷ XIV đến XVII, việc này có nhiều thuận lợi vì có thể tham khảo công trình của NUS. Mặt khác, vì cùng khai thác một nguồn với NUS, nên chúng ta sẽ rút được nhiều kinh nghiệm của họ hoặc có thể sẽ cải chính những sai lạc đối với phần sử liệu liên quan Việt Nam trong bản tiếng Anh.

IV.5. Một số khiếm khuyết của “Minh Thực lục: Quan hệ Trung Quốc-Việt Nam thế kỷ XIV-XVII

Minh Thực lục: Quan hệ Trung Quốc-Việt Nam thế kỷ XIV-XVII” là một sưu tập sử liệu, tự nó không là một tác phẩm lịch sử mà chỉ là chất liệu – phần nào mang tính cơ bản – nhằm phục vụ cho các sách sử và các công trình nghiên cứu sử. Vì mang tính chất ấy nên yêu cầu trên hết là phải trung thực và chính xác. Nhận thức được điều này, nhóm thực hiện (chúng tôi) đã cố hết sức với mong muốn có được một công trình tương đối khá về chất lượng nhằm trước là để phục vụ nhu cầu tư liệu của mình và sau là chia sẻ với độc giả.

Về bản dịch, tất nhiên khó tránh được sai lầm hoặc thiếu sót, là loại sử liệu tổng hợp, nội dung đề cập khá nhiều lĩnh vực, gồm chính trị, kinh tế, quân sự, giáo dục, nhân vật, địa lý, văn hóa, xã hội. Mỗi lĩnh vực lại có khi đề cập đến chuyên môn, nên bản dịch này, ngoài những sai lầm về văn nghĩa, chắc hẳn sẽ có những khiếm khuyết ở phần thuật ngữ chuyên ngành.

Về phần chú thích, các chú giải cho rõ nghĩa và kê cứu mở rộng thật sự chưa thỏa đáng, còn nhiều nơi đáng ra phải chú thích mà tôi đành bó tay. Thí dụ như v.b [314], xuất hiện một loại thuyền ở Đại Việt tên “Đằng Bộ 藤 步” [Đằng: dây mây; Bộ: bước chân/bãi ven nước] có thể hiểu mang máng rằng loại thuyền này dùng vật liệu dây mây cho một bộ phận nào đó (?), tuy nhiên hiểu như thế không thể cho vào chú giải được. Từ điển tổng hợp và chuyên ngành sử của Trung Quốc cũng không đến độ chi tiết để có thể tra cứu. Tư liệu Đại Việt thời Trần thì ghi chép rất sơ sài về công nghệ, đến mãi thời Lê Trung hưng thì thấy Phan Huy Chú chép về các đội thuyền ngoại binh có loại Đằng trung, Đằng tiểu, (Binh chế chí), tuy nhiên đó lại là hiệu thuyền [còn Đằng bộ thì là tên thuyền]. Tương tự như trên ta thấy trong v.b [794], v.b này nói về chuyện quân Lam Sơn tấn công thành Xương Giang đã dùng các loại chiến cụ như: Ô Quy Ba 烏 龜 芭, Lữ Công Xa 吕 公 車, Vân Thê 雲 梯. Trong mấy loại này chỉ có Vân Thê/thang mây là chiến cụ công thành phổ biến, từ điển Trung Quốc có cả hình vẽ, còn “Ô Quy Ba” thì dịch tạm là “hàng rào rùa đen”, tuy có hơi mô hồ, nhưng không có cơ sở để hiệu đính và giải thích nên cũng đành cho qua. Có thể các loại hình chiến cụ này có xuất xứ từ Trung Quốc, khi sang ta được gọi bằng tên khác nên khó tra cứu tài liệu Trung Quốc. Cũng có thể đó là những chiến cụ do người Việt chế tạo theo giải pháp tình thế rồi quên đi. Đối với những chi tiết tương tự như trên, chúng tôi vẫn lưu ý để tìm hiểu thêm, nhằm bổ sung cho lần tái bản. Phần mở rộng đối chiếu sử Việt, do điều kiện về thời gian nên cũng chưa được chu đáo.

Về lịch pháp, bởi “Lịch có quan hệ mật thiết với sử. Lịch và sử phải tương trợ kiểm soát nhau”[19], tôi lưu ý các quy đổi từ lịch can chi sang dương lịch trong các đầu mục mỗi v.b. Thời gian của bối cảnh sự kiện và kể cả thời gian sử quan biên chép về các sự kiện ấy đều nằm trong khoảng áp dụng lịch Đại Thống, vốn kế thừa phép tính của lịch Thụ Thời (chỉ đổi tên lịch từ Thụ Thời thành Đại Thống). Theo thời đại thì Nguyên (Thụ Thời) và Minh (Đại Thống) kế tục, sử liệu không sai lệch nhiều về ngày, tháng nếu sử gia biên chép cẩn thận. Những chỗ đáng ngờ chúng tôi đã kiểm tra lại theo bảng lập thành có uy tín là sách “Lưỡng thiên niên Trung – Tây lịch đối chiếu biểu[20]. Tuy nhiên, đó chỉ là phần đúng của lịch Trung Hoa với Dương lịch tức chỉ là phần ngọn. Gốc của vấn đề lại là lịch Trung Hoa đối với lịch Việt, rất ít sự kiện trùng khớp (ngày) tháng giữa Minh Thực lụcToàn thư [Toàn thư chỉ ghi tháng và năm, rất ít sự kiện được ghi ngày]. Có nhiều sự kiện trùng khớp mà chênh lệch vài tháng, có khi cả năm. Một chi tiết trong Toàn thư cho thấy nhà Trần – Hồ dùng lịch khác tên với lịch Trung Hoa: “Năm Tân Tỵ [1401] (Hồ Hán Thương Thiệu Thành thứ I; Minh Kiến Văn thứ 3). Mùa xuân, tháng 2…Hán Thương đổi lịch Hiệp Kỷ của nhà Trần dùng lịch Thuận Thiên” (Tập 2, tr. 210). Điều này cho thấy thời Trần – Hồ có khi hệ thống lịch pháp của ta khác Trung Quốc, tuy nhiên nếu sự sai lệch ngày, tháng theo một chu kỳ tương đối thì mới có thể kết luận về phép áp dụng lịch trong sử. Vấn đề chênh lệch ngày, tháng, năm giữa sử Việt và Minh Thực lục đành phải dừng lại ở các chú thích đối chiếu để lưu ý. Trong một văn bản, chúng tôi thấy sử quan Minh Thực lục chép sai ngày [can chi] trong tháng mà v.b nêu, tức là sự lập lại không hợp phép tính. Từ chi tiết này cũng có thể suy đoán về mức độ chính xác của ngày tháng có phần là do sử quan. Tuy nhiên, việc này phải nghiên cứu thêm mới có thể đi đến kết luận. Trong sách này, chúng tôi cho vấn đề lịch pháp quan trọng chưa khảo sát đến nơi là một khiếm khuyết.

Chúng tôi rất mong nhận được sự chỉ bảo và góp ý về các khuyết điểm nêu trên và những sai phạm khác mà độc giả nhận thấy.

Lời kết

Minh Thực lục là tập hợp sử liệu về nhà Minh, được viết bởi các sử quan đương thời, nội dung bao quát cả chế độ chính trị và những hoạt động xã hội một triều đại. Với một khối lượng đồ sộ, Minh Thực lục là một kho tư liệu cơ bản giúp ích rất nhiều cho việc biên soạn và nghiên cứu sử ở Trung Quốc. Trước đây, giới sử học Việt Nam đã từng biết đến nguồn tài liệu Minh Thực lục và đã trích dịch phần nào để ứng dụng vào việc biên soạn lịch sử nước nhà. Minh Thực lục: Quan hệ Trung Quốc-Việt Nam thế kỷ XIV-XVII là bản dịch tập hợp hầu hết các sử liệu Minh Thực lục có liên quan trực tiếp và gián tiếp đến lịch sử Việt Nam. Tập tư liệu này, ngoài mục đích bổ sung cho sử Việt, nó còn khơi gợi những nghiên cứu lâu dài về nhiều lĩnh vực, trong đó có cả việc phải nghiên cứu chính nó, tức nghiên cứu về nội hàm sử liệu Minh Thực lục.

Sử thần Cao Xuân Dục từng dẫn lời người xưa rằng: ”Việc cần bàn rất rộng mà không đặt gốc ở lý gọi là tiền tung tán không có dây xâu; bàn luận sâu xa mà không thiết thực với công việc thì chỉ là bàn suông, vồ trăng đáy nước; viết hết sức mà trống rỗng thường là chỗ lệch của người lập ngôn vậy”[21]. Chúng tôi muốn mượn hình tượng sợi dây xâu những đồng tiền tung tán trong lời nói trên để ví công việc của mình qua hình thức tập sử liệu này, và mong rằng, chính quý độc giả là những người sẽ đưa tập sử liệu này vào những mục tiêu phát triển học thuật với hiệu quả thật cao.

Sài Gòn, tháng 7/2009 – tháng 4/2010

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Tiền Mục, Trung Quốc lịch sử nghiên cứu pháp, Tam Liên thư điếm, Bắc Kinh, 2001.

2. Tiễn Bá Tán, Trung Quốc sử luận tập, Quốc tế văn hóa phục vụ xã, Thượng Hải, 1947.

3. Lương Khải Siêu, Trung Quốc lịch sử nghiên cứu pháp & Tân sử học, Trung Quốc hiện đại học thuật kinh điển, Hà Bắc Giáo dục Xuất bản Xã (xbx), Thạch Gia Trang, 1996.

4. Đặng Quảng Minh (chủ biên), Trung Quốc lịch sử nghiên cứu tri thức thủ sách, Hà Nam Nhân dân xbx, 1990.

5. Tạ Quý An, Minh Thực lục nghiên cứu, Hồ Bắc Nhân dân xbx, 2003.

6. Môn Khuy (chủ biên), Trung Quốc lịch đại văn hiến tinh túy đại điển, Học uyển xbx, Bắc Kinh, 1991.

7. Hoàng Trác Việt, Tang Tư Phấn (chủ biên), Trung Quốc đại thư điển, Trung Quốc Thư điếm xuất bản, Hà Bắc, 1994.

8. Trịnh Thiên Đĩnh, Ngô Trạch, Dương Chí Cửu (chủ biên), Trung Quốc lịch sử đại từ điển, Thượng Hải Từ thư xbx, 2000.

9. Trần Khánh Kỳ, Trung Quốc đại sự niên biểu, Thương vụ ấn thư quán, Hương Cảng, 1964.

10. Sử thần đời Lê, Đại Việt Sử ký toàn thư, Cao Huy Giu dịch, Đào Duy Anh hiệu đính, chú giải và khảo chứng, nxb KHXH, Hà Nội, 1967.

11. Đặng Thai Mai, Xã hội sử Trung quốc, nxb KHXH, Hà Nội, 1994.

12. Geoff Wade, Ming Shi-lu as a source for Southeast Asian History, http://epress.nus.edu.sg/msl.

13. Geoff Wade, Minh Thực lục, một nguồn sử liệu Đông Nam Á, Trần Công Khanh dịch – Phạm Hoàng Quân hiệu chú, Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, sở Khoa học và công nghệ Thừa Thiên Huế, số 1, 2, 3 (78, 79, 80) 2010.

© 2010 Phạm Hoàng Quân

© 2010 talawas


[1] Xem lại phần tổng quan về Minh Thực lục.

[2] Sau Dương Sĩ Kỳ chỉ có Trương Cư Chính làm Tổng tài của hai bộ Thế TôngMục Tông Thực lục.

[3] v.b [191], ngày 1/2 năm Vĩnh Lạc 5 (10/3/1407), Thái Tông Thực lục, q. 64, tr. 1a.

[4] v.b [194] ngày 10/3 năm Vĩnh Lạc 5 (17/4/1407), Thái Tông Thực lục, q. 65, tr. 1b-2a.

[5] v.b [203], ngày 1/6 năm Vĩnh Lạc 5 (5/7/1407), Thái Tông Thực lục, q. 68, tr. 1a-2b; v.b[204], ngày 1/6 năm Vĩnh Lạc 5 (5/7/1407), Thái Tông Thực lục, q. 68, tr. 2b-7a.

[6] v.b [272] ngày 7/8 năm Vĩnh Lạc 6 (31/8/1408), Thái Tông Thực lục, q. 82, tr. 5a-5b; v.b [275] ngày 19/8 năm Vĩnh Lạc 6 (8/9/1408), Thái Tông Thực lục, q. 82, tr. 6b-7a.

[7] v.b [664] ngày 27/11 năm Hồng Hi 1 (5/1/1426), Tuyên Tông Thực lục, q. 11, tr. 11b- 12a.

[8] v.b [663] ngày 26/11/ năm Hồng Hi 1 (4/1/1426), Tuyên Tông Thực lục, q. 11, tr. 10a-10b.

[9] v.b [686] 2/4 năm Tuyên Đức 1 (8/5/1426), Tuyên Tông Thực lục, q. 16, tr. 1a.

[10] v.b [680] 13/3 năm Tuyên Đức 1 (20/4/1426), Tuyên Tông Thực lục, q. 15, tr. 6b.

[11] v.b [688] 2/4 năm Tuyên Đức 1 (8/5/1426), Tuyên Tông Thực lục, q. 16, tr. 1a.

[12] v.b [690] 3/4 năm Tuyên Đức 1 (9/5/1426), Tuyên Tông Thực lục, q. 16, tr. 1b.

[13] v.b [691] 3/4 năm Tuyên Đức 1 (9/5/ 1426), Tuyên Tông Thực lục, q. 16, tr. 1b-2a.

[14] “lời nói của Hoàng đế” và “hành động của Hoàng đế” được chép lại bởi sử quan theo hầu bên tả và bên hữu Hoàng đế, loại sử liệu này gọi là Khởi cư chú.

[15] Hầu hết các khảo chứng này không thấy bản dịch Toàn thư xuất bản năm 1993 sử dụng lại.

[16] Xem v.b [103], ngày 21/2 năm Hồng Vũ 30 (20/3/1397), Thái Tổ Thực lục, q. 250, tr. 3b-7a; v.b [132], ngày 26/6 năm Vĩnh Lạc 3 (22/7/1405), Thái Tông Thực lục, q. 43, tr. 4a-4b.

[17] Việc khảo chứng có ý nghĩa khảo sát nhiều tư liệu để đối chứng, vì vậy có thể được xem là “chú thích” ở cấp độ sâu hơn, mặt khác khảo chứng lại là cơ sở cho một số loại hình nghiên cứu.

[18] v.b [91], ngày 1/1 năm Hồng Vũ 26 (12/2/1393), Thái Tổ Thực lục, q. 224, tr. 1a.

[19] Hoàng Xuân Hãn, Lịch và lịch Việt Nam, “Phẩm bình và gợi ý về sách Bảng đối chiếu”, KHXH, H., 2003.

[20] Tiết Trọng Tam, Âu Dương Di. Thương vụ ấn thư quán, Hương Cảng, 1961.

[21] lời Tựa, Nhân thế tu tri, nxb Văn học, H., 2001.

Tìm hiểu MINH THỰC LỤC Hồ Bạch Thảo

Lời giới thiệu bộ MINH THỰC LỤC / Quan hệ Trung Hoa - Việt Nam thế kỷ XIV-XVII (Nhà xuất bản Hà Nội)

Minh Thực Lục, với khoảng bốn mươi ngàn trang không có dấu chấm câu, là bộ sử chép việc xảy ra trong gần 300 năm lịch sử triều Minh (1368-1644). Tuy nhà Minh có 15 đời vua, nhưng thực ra chỉ có 13 Thực Lục cho 13 đời, lý do bởi :

- Ðời vua thứ 2 Huệ Ðế [1399-1402] bị chú là vua Thái Tông giành ngôi, không có Thực Lục riêng. Sự kiện lịch sử trong đời này được chép lấn vào đời vua thứ nhất Thái Tổ [1368-1398] hoặc vua thứ 3 Thái Tông [1402-1424]

- Theo nguyên tắc Minh Thực Lục được soạn ngay sau khi vua tiền nhiệm mất ; như vậy vua Sùng Trinh, vị vua cuối cùng của triều Minh [1628-1644] không có người kế thừa, nên bộ Sùng Trinh Trường Biên được hoàn thành vào cuối thế kỷ thứ 17 dưới thời nhà Thanh, không được chính thức xếp vào Thực Lục.

Ðiều đáng lưu ý thêm ở chỗ vua Minh Anh Tông làm vua 2 lần, trước khi bị Ngỏa Lạt bắt làm tù binh niên hiệu là Chính Thống, sau khi được tha rồi lên ngôi trở lại có niên hiệu là Thiên Thuận. Thời gian giữa [1450-1456] do em là vua Cảnh Tông thay thế, niên hiệu Cảnh Thái. Cả 3 triều vua này được gộp lại làm một bộ Anh Tông Thực Lục.

Minh Thực Lục được biên soạn bởi những nguồn tài liệu sau đây :

1. Khởi Cư Chú (起 居 注) tức nhật ký ghi lại việc làm cùng lúc nghỉ ngơi của nhà vua. Truyền thống này bắt nguồn từ thời nhà Chu [-1100-221], do quan Tả sử chép lời, Hữu sử chép việc ; nhiệm vụ ghi lại lời nói và việc làm của nhà vua trong triều.

2. Nhật lịch (日 曆) ghi chép sự việc hàng ngày, công việc này cung cấp tài liệu chính xác cho Minh Thực Lục.

3. Các văn kiện chính thức được thu thập từ chiếu dụ của vua ; cùng tấu, biểu của các quan và các nước chư hầu.

Sau khi vị vua đương nhiệm mất, Sử quan có nhiệm vụ tổng hợp tài liệu để hoàn thành Thực Lục cho đời vua này ; việc làm được giám sát bởi quan Trung Thư tỉnh [Bí thư] của triều đình.

Bộ sử lúc làm xong chỉ chép thành hai bản ; một bản dành cho vua, để trong nội cung ; bản thứ hai dành cho các quan Đại thần, cất tại nội các, dùng để tham khảo. Vì không muốn tiết lộ những chứng liệu bất lợi cho triều đình, nên sau khi làm xong cho một đời vua, bản thảo phải đốt ngay tại Ba Tiêu viên (vườn chuối) phía đông ao Thái Dịch, trước mắt quan Tổng tài sử. Đến đời Gia Tĩnh vì có hỏa hoạn trong cung, nên nhà vua ra lệnh chép thêm hai bản, một bản khổ giấy cỡ nhỏ, để vua tiện cầm xem hàng ngày.

Như vậy Minh Thực Lục là bộ sử lưu hành hạn chế trong triều đình, nên đương thời người dân chưa từng được xem. Bàn về vấn đề này, Cố Viêm Vũ, một học giả thời đầu nhà Thanh có nhận xét như sau :

“ Sử của tiền triều đều do các quan đại thần của Thiên tử cùng các thị tòng làm ra ; người đời không được xem.”

Minh Thực Lục do Lương Hồng Chí in lần đầu tiên vào năm 1941, từ bản lưu tại thư viện tỉnh Giang Tô gọi là bản Bảo Kinh Lâu. Bản hiện nay được nhiều người chấp nhận là bản in tại Đài Loan từ năm 1963 cho đến 1968. Nguồn gốc bản này từ Bắc Bình Đồ Thư Quán ; trong thời chiến tranh Trung Nhật, chính phủ Dân Quốc cho chụp bằng microfilm, rồi đưa gửi tại thư viện Quốc Hội Hoa Kỳ (Library of Congress) nhờ giữ dùm, sau đó mang trở về in tại Đài Loan.

Việt Nam là nước láng giềng được chép nhiều nhất trong Minh Thực Lục, chúng tôi đã thu thập được 1329 văn bản liên quan đến An Nam, Giao Chỉ hoặc Chiêm Thành ; trong khi các nước khác như Singapore, Mã Lai chỉ được đề cập trong vài chục văn bản. Tuy nhiên Học Viện Nghiên Cứu Về Á Châu (Asia Research Institute) của Trường Ðại Học Quốc Gia Singapore (National University of Singapore) đã cho dịch ra Anh văn tất cả những văn bản liên quan dến vùng Ðông Nam Á, trong một công trình lớn mang tên là Southeast Asia In The Ming Shi-Lu.

Theo sự hiểu biết hạn chế của chúng tôi, chỉ mới có một quyển sách duy nhất dùng sử liệu trong Minh Thực Lục để nghiên cứu về Việt Nam. Quyển sách này nhan đề là An Nam Sử Nghiên Cứu (安 南 史 研 究), tác giả là một người Nhật tên Sơn Bản Ðạt Lang (Yamamoto Tatsuro), xuất bản tại Tokyo. Riêng chúng tôi, không ngại học vấn cạn hẹp, đã dùng tư liệu trong Thực Lục để viết một số bài nghiên cứu về lịch sử ; những bài viết này được đăng rải rác trên các tạp chí. Nay đã đến lúc dịch toàn bộ các văn bản liên quan đến Việt Nam trong Minh Thực Lục ; làm công việc này, nhắm giúp cho sử Việt những điều thiết thực sau đây :

- Ðối với những sử liệu được ghi trong sử nước ta như Ðại Việt Sử Ký Toàn Thư lại được nêu lên trong Minh Thực Lục, như vậy sử liệu được phối kiểm từ hai nguồn, bởi thư tịch 2 nước, nên độ chính xác càng cao. Ngoài ra sử Việt thường chép sơ lược, như việc Sứ thần hai bên qua lại, chỉ ghi vắn tắt ngày tháng xảy ra, riêng Minh Thực Lục cho biết thêm nội dung hai bên trao đổi, nên tư liệu dồi dào hơn.

- Ðối với những sử liệu chỉ riêng Minh Thực Lục chép, giúp chúng ta có thêm tư liệu mới.

- Qua Minh Thực Lục, người yêu sử được thưởng thức nguyên văn những văn kiện của vua quan nước ta gửi sang Trung Quốc, cảm động bởi tâm tình và lòng yêu nước của tiền nhân bàng bạc qua ngòi bút. Như trong cuộc tranh luận về việc tranh chấp đất tại biên giới Việt Hoa với phủ Tư Minh vào năm Hồng Vũ thứ 30 [1397] vua Trần Thuận Tông nước ta đã gửi cho vua Minh Thái Tổ bức thư lời lẽ tuy mềm dẻo nhưng rất cương quyết, có đoạn như sau :

“… Hạ quốc với Tư Minh giáp giới, người phủ Tư Minh thường đến đất hạ quốc giành đất đai, cướp trâu, súc vật ; hạ quốc là chỗ sơ viễn khó có thể tố cáo. Nay Tư Minh đã quen với thu hoạch nhỏ, nên mưu lợi lớn.

Nếu hạ quốc xâm chiếm thì trả lại có khó gì ! Nay không xâm chiếm lấy gì mà thoái hoàn. Năm huyện này là của hạ quốc, đời nối đời truyền lại ; đất để lại phải giữ vững, đâu dám để đất đai của tổ tiên, giao cho Tư Minh …” (Minh Thực Lục, Thái Tổ, q. 250, tr. 3b- 7a)

- Minh Thực Lục chép việc theo trình tự ngày thàng, lần lượt ghi lại mấy chục cuộc nổi dậy tại nước ta trong suốt thời gian nhà Minh đặt ách đô hộ. Chỗ này chưa dẹp xong, thì nơi khác lại nổi lên, giống như bếp lửa bén khói, để rồi bừng lên không thể nào ngăn cản nổi. Những sự kiện được thực lục, giúp người yêu sử Việt cảm thấy hãnh diện tự tin, mặt khác kẻ thù phương Bắc cũng coi đó làm điều răn, phải chùn chân trước tham vọng bành trướng. Về điểm này, bài sớ của Thị Lang Ðường Trụ dâng lên vua Gia Tĩnh triều Minh từng đề cập qua, có đoạn như sau :

…Vào năm Vĩnh Lạc thứ 5 [1407-1408] bình Giao Chỉ ; năm sau Giản Định tiếm hiệu nổi lên, đến năm thứ 8 [1410-1411] Trần Quý Khoách làm phản ; rồi các thổ dân hưởng ứng theo, chỉ còn một thành Giao Châu an toàn ! Năm thứ 11 [1413-1414] Trần Quý Khoách bị bắt, Trần Nguyệt Hồ lại làm phản ; rồi năm Tuyên Đức thứ 2 [1427] Lê Lợi làm phản. Các quan văn võ của ta bị chết rất nhiều, như bọn Lưu Tử Phụ, Hà Trung, Dịch Tiên, Lý Nhiệm, Cố Phúc vv.. Quân sĩ, của cải vật chất tổn thất có đến mấy chục vạn ; làm kiệt sức lực Trung Quốc hơn 10 năm, chỉ được cái tiếng thu phục được một số quận huyện trong mấy năm.

Còn các triều đại khác, đánh mà không thắng như Tống Thái Tổ, Tống Thần Tông, Nguyên Thế Tổ, Hiến Tông thì quân đội chôn vùi, uy danh thương tổn. Các sự kiện kê ra như tấm gương sáng có thể soi, đó là điều thứ 4… ( Minh Thực Lục, Thế Tông, q. 195, tr. 1a-2a)

- Về phương điện địa lý, Minh Thực Lục ghi rõ ngày thành lập, hoặc cải đổi các đơn vị hành chánh như phủ, châu, huyện và vị trí hàng trăm ty tuần kiểm đặt khắp nước ta ; tư liệu này rất bổ ích trong việc xác định địa danh duyên cách.

Tất cả những tư liệu nêu trên được dịch ra, xếp theo thứ tự ngày tháng, để in kèm với nguyên văn. Ngoài ra để được thêm phần chính xác, chúng tôi tham khảo thêm Minh Thực Lục Hiệu Khám Ký, cùng bản dịch Anh văn của Asia Research Institute & The Singapore E-press. Cuối sách làm bản Tổng Tra (Index) tên người, tên đất, công trình xây dựng gồm 3411 mục ; giúp người đọc tra cứu một cách dễ dàng.

Làm công việc này chúng tôi đặc biệt cảm ơn anh Nguyễn Bá Dũng đã nhiệt tình cộng tác, cung cấp tài liệu về Minh Thực Lục trên mạng và góp thêm nhiều ý kiến quý báu. Trộm nghĩ muốn hoàn thành một bộ sử lớn cần sự đóng góp của nhiều người, nhiều thế hệ ; khi làm công việc này chúng tôi kính cẩn học theo đức tính cần cù của cha ông, thu lượm những vật liệu như sỏi đá rãi rác khắp nơi, ngõ hầu góp một phần nhỏ xây dựng ngôi nhà quốc sử. (1)

Dịch giả :

Hồ Bạch Thảo




Chú Thích


(1) Tài liệu tham khảo để viết Lời Giới Thiệu :

Minh Thực Lục Nghiên Cứu, Tạ Quí An, Hồ Bắc nhân dân xuất bản xã, 2003.

The Ming Shi-lu as a source for Southeast Asian History, Geoff Wade, Asian Reseach Institute.



Bảng tóm tắt về Minh Thực lục

Miếu hiệu, niên hiệu

Thời gian bao gồm cho mỗi Thực Lục

Năm soạn xong cho mỗi Thực Lục

Số quyển cho các triều đại

Đời vua tương đương tại nước ta

Thái Tổ (Hồng Vũ)

5/1351-24/6/1398

1418

257

Trần Dụ Tông, Nghệ Tông, Duệ Tông , Đế Nghiễn, Thuận đế, Thiếu đế

Thái Tông (Vĩnh Lạc)

24/6/1398-2/9/1424

1430

274

Hồ Quí Ly, Hồ Hán Thương, Minh thuộc

Nhân Tông

(Hồng Hy)

25/8/1424- 29/5/1425

1430

12

Minh thuộc

Tuyên Tông

(TuyênĐức)

16/6/1425-31/1/1435

1438

115

Lê Thái Tổ, Thái Tôn

Anh Tông
(ChínhThống) Cảnh Tông

(Cảnh Thái)

Anh Tông

(ThiênThuận)

29/1/1435-23/2/1464

1467

261

Lê Nhân Tông, Thánh Tông

Hiến Tông

(Thành Hóa)

23/2/1464-9/9/1487

1491

93

Thánh Tông

Hiếu Tông

(Hoằng Trị)

9/9/1487-8/6/1505

1509

224

Thánh Tông, Hiến Tông, Túc Tông, Uy Mục

Vũ Tông ( Chánh Đức )

9/6/1505-27/5/1521

1525

197

Uy Mục, Tương Dực, Chiêu Tông

Thế Tông ( Gia Tĩnh )

27/5/1521-23/1/1567

1577

566

Chiêu Tông, nhà Mạc, Trang Tông, Trung Tông, Anh Tông

Mục Tông

(Long Khánh)

24/1/1567-5/7/1572

1574

70

Anh Tông

Thần Tông (Vạn Lịch)

5/7/1572-18/8/1620

1630

596

Thế Tông, Kính Tông, Thần Tông

Quang Tông (Thái Xương)

19/8/1620-25/9/1620

1623

8

Thần Tông

Hy Tông (Thiên Khải)

22/1/1621-3/2/1628

1637

87

Thần Tông

Hoài Tông (Sùng Trinh)

7/2/1628-24/4/1644

Cuối thế kỷ thứ 17

55 (Sùng Trinh Trường Biên)

Thần Tông, Chân Tông

Geoff Wade – Minh Thực lục, một nguồn sử liệu Đông Nam Á talawas

Người dịch: Trần Công Khanh

Hiệu chú: Phạm Hoàng Quân

Bài viết dưới đây, của Tiến sĩ Geoff Wade – Viện Nghiên cứu châu Á, Đại học Quốc gia Singapore [NUS], là một nghiên cứu tổng quan về nguồn sử liệu Đông Nam Á trong Minh Thực lục [MTL]. Nghiên cứu của G. Wade nằm trong một chương trình chung khá dài hơi của NUS với mục tiêu dịch sang tiếng Anh toàn bộ các điều mục có liên quan đến Đông Nam Á nằm rải rác trong 40.000 trang Minh Thực lục. Gần hai phần ba trong các trích lục về Đông Nam Á liên quan trực tiếp đến lịch sử Việt Nam, là lý do khiến chúng ta không thể không lưu ý hoặc hứng thú đối với công trình này.

Bản dịch cùng những chú thích cần thiết (đặt trong ngoặc đơn), các mở rộng ngắn gọn đi cùng với chính văn đặt trong ngoặc móc. Các chú thích bắt đầu bằng “(bổ sung)” hoặc không (nếu là chú thích chung) nhưng đều kết thúc bằng “(NHC)” đều là chú thích của người hiệu chú.

(Trích sách: Minh Thực lục: Quan hệ Trung Hoa –Việt Nam thế kỷ XIV-XVII (3 tập). Hồ Bạch Thảo dịch và chú thích; Phạm Hoàng Quân hiệu đính, bổ chú và giới thiệu. Nxb Hà Nội xuất bản năm 2010)

Xem toàn bộ bài viết bằng bản PDF tại đây.

- Giới thiệu sách “Minh Thực lục: Quan hệ Trung Hoa –Việt Nam thế kỷ XIV-XVII” (3 tập)(talawas). Mời tải xuống bản dịch sang tiếng Việt bài viết Minh Thực lục, một nguồn sử liệu Đông Nam Á của Geoff Wade Geoff-Wade: Minh Thực Lục .



Tổng số lượt xem trang