(Khả năng và giới hạn của công nghệ thông tin)
Ian Bremmer, Foreign Affairs, November/December 2010
IAN BREMMER là chủ tịch của Eurasia Group và là tác giả cuốn The End of the Free Market: Who Wins the War Between the States and Corporations? (Sự kế thúc của thị trường tự do: Ai thắng cuộc chiến giữa các nhà nước và các tập đoàn kinh tế?)
“Công nghệ thông tin đã xóa bỏ thời gian và khoảng cách”, Walter Wriston, cựu tổng giám đốc của tiền thân công ty Citygroup đã viết như thế năm 1997. “Thay vì chứng minh viễn tượng Orwell rằng Anh Cả theo dõi người công dân, công nghệ thông tin cho phép người công dân giám sát Anh Cả. Và cứ thế con siêu vi tự do (the virus of freedom), vì không có thuốc trị, được các mạng điện tử giúp lây lan khắp bốn phương trời.
Các cựu tổng thống Ronald Reagan, Bill Clinton, và George W. Bush đã từng đưa ra một viễn kiến tương tự, với luận điệu hùng hồn tương tự. Tất cả đều cho rằng sự tồn tại lâu dài của các nhà nước độc tài tùy thuộc vào khả năng kiểm soát luồng tư tưởng và thông tin ở bên trong và xuyên qua biên giới của mình. Khi những tiến bộ trong công nghệ truyền thông – như điện thoại di động, văn bản nhắn tin, Internet, mạng xã hội – cho phép một giới người ngày càng đông đảo chia sẻ tâm tư, nguyện vọng dễ dàng và ít tốn kém, công nghệ hiện đại sẽ triệt hạ biên giới giữa các dân tộc và các quốc gia. Theo quan điểm này, sự lây lan của “siêu vi tự do” sẽ khiến cho các nhà độc tài phải vất vả hơn và tốn kém hơn để cô lập nhân dân của mình với phần còn lại của thế giới. Công nghệ thông tin cũng trang bị cho người dân bình thường những phương tiện để tạo cho mình những thế mạnh khác. Lý luận này cho rằng, tiến trình dân chủ hoá các phương tiện truyền thông sẽ mang lại tiến trình dân chủ hóa thế giới.Hình như có nhiều bằng chứng bênh vực cho những ý kiến này. Tại Philippines năm 2001, những người chống chính phủ đã gửi những văn bản tin nhắn (text messages) khắp nơi để tổ chức các cuộc biểu tình lật đổ tổng thống Joseph Estrada. Trong cuộc vận động dẫn đến cuộc tranh cử tổng thống tại Ucraine năm 2004, những người ủng hộ ông Victor Yushchenco, lãnh tụ phe đối lập bấy giờ, đã sử dụng văn bản tin nhắn để tổ chức các cuộc biểu tình rầm rộ, đưa đến cuộc Cách mạng màu da cam (the Orange Revolution). Tại Lebanon năm 2005, các nhà hoạt động đã phối hợp tổ chức, xuyên qua e-mail và văn bản tin nhắn, để đưa xuống đường một triệu người biểu tình, đòi hỏi chính phủ Syria chấm dứt sự hiện diện quân sự tại Lebanon gần ba chục năm bằng cách rút ra khỏi nước này 14.000 quân của họ. (Syria đã thỏa mãn đòi hỏi một tháng sau đó, dưới sức ép đáng kể của thế giới). Trong vài năm qua, tại Colombia, Miến Điện, và Zimbabwe, những người biểu tình đã sử dụng điện thoại di động và Facebook để phối hợp các cuộc xuống đường và truyền đi các hình ảnh tố cáo các cuộc đàn áp của chính quyền. Dòng thác lũ gồm văn bản và hình ảnh được các người chống đối truyền đi tiếp theo sau cuộc bầu cử tổng thống đầy tranh cãi gay gắt tại Iran năm 2009 – được nhanh chóng mệnh danh là “cuộc cách mạng Twitter” – hình như đã củng cố quan niệm cho rằng chính quyền Tehran lo sợ “phương tiện truyền thông của người dân” hơn sợ các chiến hạm Hoa Kỳ đang tuần phòng trên vịnh Ba Tư (the Persian Gulf).
Nhưng một cái nhìn sâu sát hơn đối với những ví dụ nói trên sẽ cho thấy một thực tế phức tạp hơn nhiều. Chỉ tại các nước dân chủ – Philippines, Ukraine, Lebanon, và Colombia – những vũ khí truyền thông này mới đạt được mục tiêu nhanh chóng. Tại Miến Điện, Zimbabwe, và Iran, chúng có thể làm chính phủ bối rối nhưng không thể lật đổ được nó. Như Wriston nhìn nhận, cuộc cách mạng tin học là một tiến trình dài hạn, không gian xi-be là một không gian phức tạp, và tiến bộ kỹ thuật không thể thay thế cho trí tuệ con người. Những phát kiến trong ngành truyền thông hiện đại có thể trợ giúp cho việc bào mòn quyền lực độc tài qua thời gian lâu dài. Nhưng hiện nay, tác động của các phát kiến này lên chính trị quốc tế là không dễ dàng tiên đoán như người ta đã tưởng.
Có nhiều lý do giải thích tại sao quan điểm lạc quan về mối quan hệ giữa phương tiện truyền thông, thông tin, và dân chủ đã đâm chồi nẩy lộc tại Hoa Kỳ. Trước hết, những phương tiện truyền thông này là hiện thân của phát kiến (innovation) trong thế kỷ 21, và người Mỹ xưa nay vẫn tin tưởng ở sức mạnh của óc phát minh trong việc cổ vũ hòa bình và tạo ra thịnh vượng. Và họ có lý do vững chắc để tin tưởng như thế. Những người ngưỡng mộ Reagan lý luận rằng khả năng của Hoa Kỳ trong việc đầu tư vào lá chắn tên lửa chiến lược đã đưa giới lãnh đạo Liên-xô vào một cuộc khủng hoảng lòng tin mà họ không bao giờ gượng dậy được. Bóng điện, ô tô, và máy bay đã biến đổi thế giới, mang lại nhiều tự do cá nhân to lớn hơn cho người Mỹ. Trong một cách tương tự, người Mỹ tin rằng hàng triệu người trên thế giới đang sử dụng Internet, một phát minh của Mỹ, cuối cùng cũng sẽ chấp nhận tư duy chính trị của Mỹ, tương tự như nhiều người mang quần jean của Mỹ, xem phim Mỹ, và nhảy theo nhạc Mỹ. Những người chủ trương dùng sức mạnh của Internet để cổ vũ đa nguyên và nhân quyền đã viện dẫn các blogger tại Trung Quốc, Nga và thế giới Á-rập đang kêu gọi dân chủ và chế độ pháp trị (rule of law) cho đất nước họ, đôi khi bằng cả tiếng Anh.
Nhưng trong số hàng trăm triệu người sử dụng blog bằng chính ngôn ngữ của mình – chỉ nội Trung Quốc đã có hơn 75 triệu người – tuyệt đại đa số bloggers có các ưu tiên khác hơn dân chủ và nhân quyền. Ngày càng nhiều blogger tập trung vào các sinh hoạt văn hóa thịnh hành (pop culture) hơn là vào triết lý chính trị, vào các vấn đề liên quan ngân quĩ cá nhân hơn quyền lực chính trị, và vào niềm tự hào dân tộc hơn là các nguyện vọng quốc tế. Nói thế khác, những công cụ truyền thông hiện đại thỏa mãn một phạm vi rộng lớn gồm những đam mê và khát vọng của nhân loại như tiền thân của chúng đã làm trong thế kỷ 20, và nhiều đam mê và khát vọng của con người không hề liên quan đến dân chủ.
Tính trung lập của Internet
Một cái nhìn thận trọng nhắm vào ảnh hưởng hiện nay của các phương tiện truyền thông hiện đại đối với sự phát triển chính trị của những quốc gia độc tài sẽ khiến những ai chào đón những công nghệ này như công cụ của tiến trình dân chủ hoá cũng phải ngập ngừng. Những người có tính lạc quan công nghệ (techno-optimists) hình như đã quên rằng những công cụ truyền thông này có giá trị trung lập; chẳng có gì nội tại trong những phương tiện này là thiên dân chủ (pro-democratic). Sử dụng những phương tiện này là thể hiện một hình thức tự do, nhưng điều này không nhất thiết là một tự do để cổ vũ tự do của người khác.
Trong việc hỗ trợ tự do lựa chọn, sự gia nhập của Internet vào một nước độc tài có cùng một đặc tính cơ bản với sự thực hiện các cuộc bầu cử tại đó. Một số người lý luận rằng tổ chức bầu cử ở một nước tại Trung Đông sẽ tạo ra nhu cầu cho các cuộc bầu cử ở những nước khác trong vùng. “Một Iraq tự do sẽ khuyến khích những nước khác đòi hỏi cái điều mà tôi cho là một quyền phổ quát của con người”, tổng thống Bush đã nói như thế vào tháng Bảy 2006; theo luận cứ này, các cuộc bầu cử tại Iraq sẽ làm cho dân chúng các nước láng giềng tự hỏi tại sao người Iraq bây giờ được tự do chọn lãnh đạo còn họ thì không. Cũng một luận điệu tương tự, một số người cho rằng sự tự do đi liền với Internet nhất định sẽ dân chủ hóa Trung Quốc. Theo lý luận này, một khi người dân Trung Quốc đọc biết về các tự do mà dân chúng nước khác có được, họ sẽ muốn những tự do ấy cho chính mình. Những công cụ truyền thông hiện đại sẽ mở mắt cho người dân Trung Quốc thấy được những tự do chính trị mà họ chưa có và cho họ phương tiện đòi hỏi chúng.
Nhưng lịch sử hạn hẹp của các cuộc bầu cử tại Trung Đông cho thấy người dân không luôn luôn bầu chọn chế độ đa nguyên (pluralism). Khi thì họ bầu chọn an ninh xã hội hay chế độ chuyên chế (absolutism), khi thì họ bày tỏ sự phẫn nộ hay bảo vệ các lợi ích địa phương. Mô hình này cũng đúng cho Internet và các dạng thức khác của phương tiện truyền thông hiện đại. Những công nghệ này giúp con người tiếp cận thông tin đủ loại, những thông tin đáp ứng đủ mọi sở thích của con người – từ đùa bỡn đến hợp lý, từ hi vọng đến phẫn nộ. Chúng cho người sử dụng một số khán giả nhưng chúng không quyết định đuợc người đó sẽ nói gì. Phương tiện truyền thông hiện đại là một cái loa và có hiệu ứng nhân rộng (multiplier effect), nhưng chúng phục vụ cả người muốn thúc đẩy luồng thông tin vượt biên giới lẫn người muốn chuyển hướng hay dùng mánh khóe để lèo lái luồng thông tin đó.
Không gian xi-be có thể là một nơi rất hắc ám. Trong tác phẩm You Are Not a Gadget (mày không phải là một dụng cụ cải biến), Jaron Lanier cho rằng tính vô danh (anonymity) mà Internet cung ứng có thể đưa đến một loại “văn hóa bạo dâm”, kích thích thú tính của những người ngồi trên xe bắn xuống (drive-by attacks) hay những kẻ sử dụng công lý đám đông (mob justice). Tại Trung Quốc, Internet đã cung ứng phương tiện để nói lên một niềm tự hào quốc gia bị thương tổn, nói lên sự phẫn nộ đối với phương Tây và Nhật Bản về những tủi nhục vừa có thực vừa tưởng tượng, và bày tỏ sự thù nghịch đối người Tây Tạng, người Uighurs Hồi giáo ở Tân Cương, và các nhóm thiểu số khác. Internet cũng trở thành một loại quảng trường dành cho các dạng bạo hành tự chế (improvised violence). Trong một bài đăng trên Tạp chí New York Times vào đầu năm nay, Tom Downey mô tả hiện tượng “săn thịt người” tại Trung Quốc, “một hình thức đòi hỏi công lý trực tuyến, theo đó một số người sử dụng Internet để săn đuổi và trừng trị những kẻ gây căm phẫn cho họ”. Theo cách mô tả của Downey, mục tiêu của các cuộc lùng sục này, một loại “công tác điệp báo có gốc rễ trong đám đông”, có thể là những quan chức tham nhũng hay kẻ thù của quốc gia, hay chỉ là những người đã làm cho người khác tức giận.
Những vấn đề này không phải chỉ xảy ra ở Trung Quốc. Tại Nga, bọn đầu trọc (skinheads) đã quay phim những vụ tấn công giết người nhắm vào các di dân khác màu da từ vùng Caucasus và Trung Á rồi đưa hình ảnh lên mạng. Cũng tại Nga – và cả tại Mỹ và châu Âu – các nhóm kỳ thị và bọn hiếu chiến đủ loại đang dùng Internet để tuyển mộ thành viên và phổ biến tài liệu tuyên truyền. Dĩ nhiên, ngoài các hình thức lo âu và thù ghét ra, ngày càng có nhiều người khắp thế giới sử dụng Internet như một thương xá toàn cầu và như một nguồn giải trí. Internet tạo điều kiện cho những người có sở thích chính trị phát hiện và liên hệ với những người cùng chí hướng, nhưng không có bao nhiêu bằng chứng vững chắc cho biết Internet có thể mở rộng đầu óc của họ để tiếp nhận những ý kiến và thông tin đi ngược với tư duy của họ. Internet nuôi dưỡng nhiều đam mê – như chủ nghĩa tiêu thụ và các giả thuyết về âm mưu, lòng căm thù và sự cuồng tín – nhưng nó chỉ yểm trợ những kêu đòi dân chủ ở những nơi nào đã có sẵn một nhu cầu đối với thể chế dân chủ. Nếu công nghệ đã giúp người công dân tạo sức ép lên các chính phủ độc tài tại một số quốc gia, điều này không phải vì công nghệ đã tạo được một đòi hỏi về sự thay đổi. Đòi hỏi đó phải phát xuất từ sự công phẫn của quần chúng đối với bản thân chế độ độc tài.
Phía nhà nước
Công dân không phải là những người duy nhất tich cực hoạt động trong không gian xi-be. Nhà nước cũng sử dụng Internet, để đưa ra quan điểm của mình và hạn chế những gì mà một người sử dụng Internet trung bình có thể được thấy và được làm. Những phát kiến trong công nghệ truyền thông cung cấp cho người dân các nguồn thông tin mới mẻ và các cơ hội mới mẻ để chia sẻ ý kiến, nhưng chúng cũng tăng sức cho các chính phủ muốn lèo lái công luận và theo dõi những điều người dân đang phát biểu.
Sự sụp đổ của chủ nghĩa cộng sản Xô-viết cách đây một thế hệ đã dạy cho các lãnh tụ độc tài khắp thế giới rằng họ không thể ra lệnh (mandate) phát triển kinh tế liên tục và rằng họ phải chấp nhận chủ nghĩa tư bản nếu họ còn nuôi hi vọng tạo công ăn việc làm và nâng mức sống người dân nhằm đảm bảo sinh mệnh chính trị lâu dài của chính họ. Nhưng ôm lấy chủ nghĩa tư bản cũng có nghĩa là cho phép nhiều tự do nguy hiểm. Và vì thế, để phát triển kinh tế mạnh mẽ đồng thời vẫn tiếp tục nắm quyền kiểm soát chính trị, một số lãnh đạo độc tài đã quay qua chủ nghĩa tư bản nhà nước (state capitalism), một hệ thống giúp họ khống chế sinh hoạt thị trường bằng cách sử dụng các công ty dầu khí quốc gia, các xí nghiệp quốc doanh khác, các công ty lớn do tư nhân làm chủ nhưng trung thành với nhà nước (national champions), các ngân hàng quốc doanh, và các quĩ đầu tư quốc gia (sovereign wealth funds).
Theo cùng một lô-gíc, những chính phủ độc tài hiện nay đang cố gắng nắm chắc rằng luồng ý kiến và tư duy ngày càng tự do xuyên qua không gian xi-be sẽ nuôi dưỡng nền kinh tế nhưng không đe dọa quyền lực chính trị của họ. Vào tháng Sáu, lần đầu tiên chính phủ Trung Quốc đã ra một tuyên bố chính thức về quyền và trách nhiệm của người sử dụng Internet. Văn bản này “đảm bảo quyền tự do ngôn luận của công dân trên Internet cũng như quyền của dân chúng được biết, được tham gia, được lắng nghe, và được giám sát [chính phủ] phù hợp với pháp luật”. Nhưng văn bản cũng qui định rằng “trong phạm vi lãnh thổ Trung Quốc, Internet nằm dưới quyền tài phán thuộc chủ quyền Trung Quốc”. Qui định này đã hợp thức hóa “bức đại tường thành lửa” của Trung Quốc, một hệ thống có chức năng gạn lọc dữ liệu, chuyển đường nối kết đi hướng khác, hay đưa đến ngỏ cụt, một hệ thống được thiết kế để bắt người sử dụng Internet tại Trung Quốc phải ở trên con lộ thông tin trực tuyến được nhà nước chấp thuận.
Lãnh đạo Trung Quốc cũng sử dụng những phương tiện công nghệ thấp (low-tech) để bảo vệ lợi ích trên mạng của họ. Người lướt mạng có trình độ trung bình tại Trung Quốc không thể biết chắc mọi ý kiến hay quan niệm mà họ gặp trên mạng có thực sự phản ánh quan điểm người viết hay không. Chính phủ đã tạo ra Đảng 50 Xu (the 50 Cent Party), một đội ngũ gồm những người bình luận trực tuyến được chính phủ trả tiền cho mỗi bài viết trên blog hay mỗi thông điệp được đăng trên diễn đàn Internet có nội dung cổ vũ đường lối của Đảng Cộng sản Trung Quốc về một số đề tài nhạy cảm. Đây là một cách đơn giản, rẻ tiền để các chính phủ phổ biến và nguỵ trang quan điểm chính thống. Các nhà nước độc tài không dùng công nghệ chỉ để chặn đứng dòng luân lưu tự do của những tư tưởng trái chiều. Họ còn sử dụng công nghệ để phổ biến lập trường của mình.
Phong trào phi liên kết
Những người có tinh thần lạc quan công nghệ (techno-optimists), những người hi vọng rằng các phương tiện truyền thông hiện đại sẽ dân chủ hóa các quốc gia độc tài, cũng đang hi vọng rằng các phương tiện này sẽ tạo điều kiện liên kết lợi ích của các quốc gia phi dân chủ với lợi ích của các quốc gia dân chủ. Nhưng sự thật đã diễn ra ngược lại. Những nỗ lực của các nhà nước độc tài nhằm kiểm soát hoặc thủ đắc các phương tiện này tất yếu tạo ra các xung đột thương mại rồi dẫn đến các xung đột chính trị giữa các chính phủ.
Vào tháng Giêng, Google công khai phàn nàn các tài khoản Gmail (Gmail accounts) cá nhân đã bị xâm phạm vì những cuộc tấn công mạng phát xuất từ Trung Quốc – những cuộc tấn công mà giới chức Trung Quốc có vẻ đồng tình hay thậm chí chính họ đã tung ra. Để phản đối hành vi này, Google tuyên bố sẽ không tiếp tục kiểm duyệt các kết quả tìm kiếm của người sử dụng tại lục địa Trung Quốc, điều mà trước đây công ty này đã miễn cưỡng chấp nhận khi bước vào thị trường Trung Quốc năm 2006. Bắc Kinh không chịu xuống nước, khiến Google tự động chuyển các tìm kiếm của người sử dụng tại Trung Quốc sang một máy tìm kiếm không kiểm duyệt của Google đặt tại Hồng Kông. Nhưng thật nhẹ nhõm cho những người sử dụng Google tại lục địa, chủ yếu là sinh viên và các nhà nghiên cứu vốn ưa thích các chức năng của Google hơn thích đối thủ chính của công ty này tại lục địa, tức công ty Baidu, giới chức Trung Quốc cuối cùng đã tuyên bố gia hạn giấy phép hoạt động của Google. (Cũng có thể họ xuống nước vì họ tin tưởng có thể kiểm soát Google hoặc sử dụng công ty này để theo dõi các hoạt động trực tuyến của những nhà bất đồng chính kiến).
Khi các công ty công nghệ Trung Quốc bắt đầu cạnh tranh ngang hàng với các công ty công nghệ phương Tây đồng thời chính phủ Trung Quốc sử dụng các phương tiện pháp lý và tài chính để tích cực hỗ trợ những công ty nội địa, tức những công ty vốn coi chế độ kiểm duyệt là cái giá bình thường phải trả khi làm doanh nghiệp, nhu cầu đối với các sản phẩm của Google sẽ suy giảm tại Trung Quốc. Tháng Tám 2010, Tân Hoa Xã và công ty China Mobile, công ty điện thoại di động lớn nhất nước, công bố kế hoạch liên doanh xây dựng một công ty truyền thông và máy tìm kiếm thông tin do nhà nước sở hữu. Để đối phó với tình hình này, các công ty công nghệ Hoa Kỳ dĩ nhiên sẽ hướng về các nhà lập pháp Hoa Kỳ để tìm sự hỗ trợ trong việc tạo ra và duy trì một sân chơi thương mại bằng phẳng tại Trung Quốc. Thay vì liên kết các giá trị chính trị Hoa Kỳ và Trung Quốc lại với nhau và giúp công dân hai nước xích lại gần nhau hơn, những xung đột về dòng thông tin luân lưu qua không gian xi-be sẽ làm phức tạp thêm nữa mối quan hệ Mỹ-Trung vốn đã rất đáng lo ngại.
Những dấu hiệu xung đột đã xuất hiện rõ rệt. Khi Google lần đầu tiên công bố những khiếu nại về các cuộc tấn công mạng và chế độ kiểm duyệt, Bắc Kinh không trực tiếp trả lời công ty này, một công ty mà Bắc Kinh coi như là một cánh tay công nghệ cao của chính phủ Hoa Kỳ, và đã trả lời trực tiếp với Washington. Một bản tin của Đảng Cộng sản Trung Quốc đã đăng một bài bình luận dưới tựa đề “Thế giới không hoan nghênh công ty Google của Nhà Trắng”; bài báo tranh luận: “Cứ mỗi lần chính phủ Hoa Kỳ đòi hỏi, Google lại dễ dàng trở thành một công cụ tiện lợi để cổ vũ ý chí chính trị và các giá trị của chính phủ Hoa Kỳ ở nước ngoài”. Để đáp lại, bộ trưởng ngoại giao Hoa Kỳ Hillary Clinton khuyến khích các công ty như Google không nên cộng tác với “chế độ kiểm duyệt có động lực chính trị”, phát biều này đã nhấn mạnh hơn nữa sự dị biệt, chứ không phải là sự hợp lưu, giữa các giá trị chính trị của Hoa Kỳ và Trung Quốc.
Cũng bày tỏ những lo sợ tương tự về tương lai của việc kiểm soát chính trị của mình, Tiểu vương quốc Á rập thống nhất (UAE) và Á rập Xê-út đã có hành động vào đầu năm nay chống lại công ty Research in Motion (RIM), một công ty của Canada sản xuất loạt máy BlackBerry, một loại điện thoại thông minh đa chức năng, vì đã trang bị trong máy của mình công nghệ mã hóa mà chính quyền không thể giải mã được. Bằng lý luận cho rằng bọn khủng bố và gián điệp có thể sử dụng máy BlackBerry để liên lạc nhau trong lãnh thổ UAE mà không sợ bị phát hiện, các giới chức Tiểu vương quốc công bố vào tháng Tám rằng họ sẽ chấm dứt dịch vụ của BlackBerry trong một tương lai gần trừ phi hãng RIM cung cấp cho các giới chức nhà nước một số phương tiện để theo dõi các văn bản tin nhắn trên máy BlackBerry. Hai ngày sau đó, Á rập Xê-út cũng công bố một lệnh cấm tương tự, mặc dù từ đó chính quyền Riyadh và hãng RIM đã đạt được một tương nhượng đòi hỏi hãng RIM phải thiết lập một máy chủ chuyển tiếp (relay server) trên lãnh thổ Xê-út, cho phép giới chức Xê-út theo dõi các tin nhắn gửi ra ngoài hay gửi đi trong nước. UAE chắc cũng sẽ đi đến một thỏa hiệp nào đó với hãng RIM: có khoảng nửa triệu người sử dụng BlackBerry tại UAE (khoảng 10 phần trăm dân số), và quốc gia này muốn duy trì tư thế một trung tâm thương mại và du lịch chủ yếu của thế giới Ả rập. Tuy nhiên, thay vì cổ vũ những giá trị phương Tây ở các nước độc tài phi-Tây phương (non-Western), điện thoại thông minh BlackBerry đã châm ngòi thêm một loạt tranh luận về sự kiện các công ty công nghệ phương Tây quyết tâm bảo vệ thị phần (market shares) của mình bằng cách đưa ra nhiều nhượng bộ có thể giúp các chính phủ độc tài theo dõi tư tưởng của người dân.
Công bằng với những chính phủ trên mà nói, các quốc gia dân chủ hàng đầu thế giới cũng không kém phần lo ngại về các tiềm năng đe dọa khủng bố được đặt ra do các văn bản nhắn tin không kiểm soát. Chính phủ Ấn Độ cũng đe dọa cấm sử dụng điện thoại thông minh BlackBerry trừ phi hãng RIM cho phép chính phủ này tiếp cận một số dữ liệu nhất định, và các viên chức chống khủng bố của Hoa Kỳ và châu Âu cũng đang cân nhắc lựa chọn biện pháp này. Xuyên qua các nỗ lực để tu chính Đạo luật về quyền riêng tư cá nhân trong truyền thông điện tử (the Electronic Communications Privacy Act), chính quyền Obama đã từng bước có những biện pháp giúp đỡ Cơ quan điều tra liên bang (FBI) tiếp cận “các hồ sơ dịch vụ truyền thông điện tử” – như địa chỉ người nhận, hồ sơ lưu giữ các hoạt động trực tuyến của người sử dụng, lịch sử các chương trình tìm kiếm trên máy tính – mà không cần đến lệnh tòa án nếu nhân viên điều tra nghi ngờ có dấu hiệu khủng bố hay gián điệp. Các chính trị gia và các công ty công nghệ như Google và RIM sẽ đối diện những cuộc tranh chấp này trong nhiều năm tới.
Hẳn nhiên, các chính phủ độc tài, khác với các thể chế dân chủ, còn phải lo ngại rằng các cá nhân không phải là khủng bố hay tình báo sẽ sử dụng các phương tiện truyền thông hiện đại để thách thức tính hợp pháp chính trị của họ. Trung Quốc, Iran, Miến Điện, Bắc Hàn, Á-rập Xê-út, và các quốc gia độc tài khác không thể chặn đứng sự lan tràn của các loại vũ khí trong ngành truyền thông hiện đại, nhưng họ có thể cố gắng theo dõi và lèo lái chúng để phục vụ cho mục đích của mình. Cuộc phản công của họ cũng sẽ tiếp tục, bằng cách hạn chế khả năng của các công nghệ hiện đại trong việc tiếp sức cho phe đối lập chính trị tại những quốc gia này và bằng cách tạo thêm nhiều mâu thuẫn về các giá trị chính trị giữa các nước dân chủ và các nước độc tài.
Những vòng phản hồi tác dụng ngược lại
Mặc dù Internet có thể đã thay đổi thế giới, nhưng hiện nay thế giới đang thay đổi Internet. Trong 30 năm qua, các công nghệ truyền thông mới mẻ đã thúc đẩy tiến trình toàn cầu hóa, xu thế mang tính cách thời đại. Những công ty tạo ra các sản phẩm này đã thực hiện những kế hoạch dài hạn dựa trên nhu cầu và đòi hỏi của người tiêu thụ, chứ không phải của các chính phủ. Lợi nhuận của họ đã tăng lên trong khi họ nối kết hằng tỉ khách hàng lại với nhau; biên giới quốc gia đã có một thời trở nên ít quan trọng.
Nhưng hiện nay, nhịp độ của những biến đổi công nghệ và mối đe dọa khủng bố đang buộc các nhà hoạch định chính sách phải nới rộng các định nghĩa về an ninh quốc gia và đang xét lại các định nghĩa về “cơ sở hạ tầng trọng yếu” của họ. Do đó, các chính phủ đang hướng về các hãng truyền thông công nghệ cao để nhờ chống đỡ những vị trí nhạy cảm về an ninh đang xuất hiện, và các hãng truyền thông công nghệ cao đã bắt đầu suy nghĩ ngày càng giống như các hãng thầu quốc phòng – các công ty mà sự thành công của chúng tùy thuộc vào tính bí mật, tính độc quyền, quan hệ chính trị, và hồ sơ an ninh không tì vết.
Do đó, các biên giới chính trị, mà có thời công nghệ thông tin tưởng chừng có thể xóa bỏ, hiện đang mang một tầm quan trọng mới: một chính sách cởi mở rộng lớn hơn sẽ tạo thêm nhiều vận hội hơn, nhưng đồng thời nó cũng tạo thêm nhiều lo ngại. Dù không thể bắt kịp các chi phí quốc phòng của Hoa Kỳ, nhưng Trung Quốc và Nga đã trở nên rất tinh khôn trong chiến tranh thông tin. Tháng Tám vừa qua, Lầu năm góc cho biết rằng Trung Quốc vẫn tiếp tục phát triển các khả năng đánh cắp bí mật quân sự của Hoa Kỳ qua phương tiện điện tử và không cho phép các nước thù địch “tiếp cận các thông tin cần thiết cho việc điều động các cuộc hành quân tác chiến”. Năm 2007, một cuộc tấn công xi-be rộng lớn được tung ra từ bên trong nước Nga đã gây thiệt hại cho cơ hở hạ tầng kỹ thuật số (digital infrastructure) tại nước láng giềng Estonia. Những cơ sở nhạy cảm về an ninh của Hoa Kỳ gồm có, từ các nhà máy điện hạt nhân và các mạng lưới điện lực đến các hệ thống thông tin của các cơ quan chính phủ và các công ty lớn của Hoa Kỳ. Bất chấp sự cạnh tranh chính trị và thương mại giữa họ với nhau, Hoa Kỳ, Trung Quốc, Nga, Ấn Độ và nhiều quốc gia khác đều chia sẻ một sự sơ hở đối với các cuộc tấn công xi-be, do đó họ cam kết cộng tác để xây dựng một chiến lược chung nhằm bảo vệ an ninh mạng lưới Internet. Nhưng trong vấn đề gián điệp, các quốc gia không bao giờ có thể tin tưởng nhau hoàn toàn. Và hẳn nhiên, chính quyền Obama không muốn chia sẻ các ngành công nghệ có thể tạo điều kiện dễ dãi hơn cho các quan chức công an tại Bắc Kinh hay Moscow theo dõi các hoạt động trực tuyến của các nhà bất đồng chính kiến.
Nhiều vấn đề khác sẽ làm cho các căng thẳng quốc tế trở nên tồi tệ hơn. Các hãng công nghệ tại Hoa Kỳ và châu Âu, từng lưu tâm theo dõi những rắc rối gần đây của Google tại Trung Quốc, sẽ hướng về chính phủ của họ để nhờ đáp ứng các nhu cầu an ninh riêng. Khi các đe dọa mạng trở nên tinh vi hơn bao giờ cả, những công ty này sẽ hợp tác tích cực hơn nữa với các cơ quan an ninh quốc gia trong việc phát triển các công nghệ mới. Tình trạng này sẽ lôi kéo thêm nhiều công ty công nghệ vào quỉ đạo của khu liên hợp quân sự-công nghiệp (the military-industrial complex). Tiếp đó, sự kiện này sẽ làm cho các công ty công nghệ trở nên khả nghi hơn nữa đối với các chế độ độc tài và có thêm nhiều khả năng trở thành mục tiêu cho tin tặc và gián điệp đủ loại. Biên giới quốc gia sẽ trở nên quan trọng hơn nhiều trong một tương lai không xa.
Hậu quả sẽ là, thế giới không phải chỉ có một Internet mà có một tập hợp gồm nhiều nội mạng nối kết với nhau (interlinked intranets), được theo dõi kỹ lưỡng bởi nhiều chính phủ khác nhau. Internet sẽ không biến mất trong một tương lai gần, nhưng lời tiên đoán cho rằng chỉ cần một mạng lưới Internet là có thể đáp ứng cả nhu cầu của phương Tây lẫn những đòi hỏi đang diễn ra của các nhà nước độc tài là không bao giờ thực tế. Người sử dụng mạng tại Hoa Kỳ và châu Âu sẽ tiếp cận cùng một Internet như trước, nhưng chính phủ Trung Quốc đã nói rõ ý định tuyên bố chủ quyền trên một Internet riêng của mình. Các quốc gia độc tài khác có đủ mọi động lực khuyến khích họ đi theo sự lãnh đạo của Trung Quốc.
Tuý Vân phỏng dịch theo Foreign Affairs, November/December 2010
Người dịch gửi trực tiếp cho BVN
-----------
Internet và dân chủTôi dịch bài này vào thời điểm Facebook ở Việt Nam có những dấu hiệu “trục trặc kỹ thuật”. Bình thường khi dịch các bài liên quan đến khoa học chính trị, tôi hay ghi chú: “Quan điểm của người dịch không nhất thiết trùng quan điểm tác giả”, hoặc “Quan điểm của tác giả không nhất thiết phản ánh quan điểm của người dịch”. Tuy nhiên, với riêng bài Texting to Utopia dưới đây, tại thời điểm dịch (năm 2009), tôi tán đồng với một số luận điểm như: “không một nhà độc tài nào bị lật đổ vì Thế giới Ảo”, “Internet giúp chúng ta dễ dàng hơn trong việc tìm kiếm và tham gia các nhóm mà chúng ta vốn đã ủng hộ từ trước; đến lượt nó, việc này có thể khiến các quan điểm của chúng ta thậm chí còn cực đoan hơn”.
Mặc dù vậy, tôi cũng đã ngay lập tức dựa vào đây để viết một bài “lách đủ đường” để bảo vệ Facebook. Điều tôi muốn hướng đến khi dịch Texting to Utopia cũng như khi viết bài ăn theo nó (cuối năm 2009), thực chất là làm sao để “ai đó” hoặc “nhiều ai đó” thấy rằng Internet chỉ là thế giới ảo, không gây nguy hiểm gì đối với chính quyền và do vậy, chẳng nên quá sợ và ghét nó. Việc gì phải kiểm soát Internet nhỉ, khi mà chỉ 24 triệu trên tổng số 86 triệu dân Việt Nam có thể tiếp cận Internet, và trong số 24 triệu người dùng đó thì đã có tới 50% là game thủ. Số người sở hữu blog, theo một thống kê mà tôi không nhớ nguồn, chỉ khoảng 500.000. Người viết blog chính trị còn ít nữa. Người đọc, hiểu và ủng hộ blog chính trị lại càng ít nữa nữa.
Tuy nhiên, từ bấy đến nay, “âm mưu” của tất cả những người tìm cách thuyết phục “ai đó” rằng “Internet vô hại, hãy để nó tự do”, rõ ràng là không thành công. Thậm chí viết blog đang trở thành nguy hiểm. Thực tế này chứng tỏ rằng bất luận ảnh hưởng của Internet là sâu hay nông, rộng hay hẹp, “nhiều ai đó” vẫn muốn kiểm soát Internet thật chặt, nói nôm na theo văn phong của người trẻ Việt Nam bây giờ là để “cho nó lành”.
+++++
LƯỚT MẠNG TỚI CÕI KHÔNG TƯỞNG
Internet có khiến dân chủ trở thành phổ biến không? Bài viết nhan đề “Texting to Utopia” của Evegeny Morozov trên Boston Review. Đoan Trang biên dịch.
Năm 1989, Ronald Reagan tuyên bố: “Tên Goliah toàn trị sẽ bị chàng David microchip hạ bệ”; sau đó, Bill Clinton so sánh việc kiểm duyệt Internet cũng như chuyện “cố gắng đóng đinh thạch Jell-O lên tường”; và vào năm 1999, George W. Bush (không phải John Lennon) đề nghị chúng ta “hãy tưởng tượng nếu Internet chiếm lĩnh Trung Quốc. Hãy tưởng tượng tự do sẽ lan truyền như thế nào”.
Tinh thần lạc-quan-mạng như thế cho thấy hình thức mới của một quyết định luận công nghệ, theo đó Internet sẽ là cây búa đóng chiếc đinh vào tất cả các vấn đề toàn cầu, từ phát triển kinh tế ở châu Phi cho tới nguy cơ khủng bố xuyên quốc gia ở Trung Đông. Thậm chí khôn ngoan như nhà tài phiệt Rupert Murdoch mà còn phải chịu thua sức quyến rũ của kỹ thuật số: “Những tiến bộ trong công nghệ viễn thông đã chứng tỏ mình như một mối đe dọa mơ hồ đối với chế độ toàn trị ở mọi nơi”, ông tuyên bố. Chẳng bao lâu sau, Murdoch phải cúi đầu trước chính quyền Trung Quốc, những người đã đe dọa hoạt động kinh doanh tivi vệ tinh của ông ta trong khu vực để trả đũa cho tuyên bố giật gân này.
Một số nhà phân tích không vội theo đóm ăn tàn. Giọng điệu kiềm chế của một báo cáo năm 2003 thể hiện sự mâu thuẫn với niềm lạc quan mạng hiện nay. Bản báo cáo, của Carnegie thực hiện cho tổ chức International Peace, có tên là Mạng mở, chế độ đóng: Ảnh hưởng của Internet lên nền cai trị độc tài, cảnh báo: “Thay vì gióng lên hồi chuông báo tử cho chế độ độc tài, sự khuếch tán ra toàn cầu của mạng Internet đưa đến cả cơ hội lẫn thách thức cho các chế độ độc tài”. Khảo sát một loạt chế độ khác nhau từ Singapore tới Cuba, báo cáo kết luận rằng ảnh hưởng chính trị của Internet sẽ dao động tùy tình hình kinh tế và xã hội của mỗi đất nước, văn hóa chính trị của nó, và đặc thù của hạ tầng Internet quốc gia.
Báo cáo của Carnegie ra đời vào thuở hỗn mang của Youtube, Facebook và Myspace, nên dễ dàng quan sát được việc giảm chi phí nhanh chóng của hoạt động tự xuất bản, tự tổ chức điều phối, tương tác và hợp tác trên mạng, từ mạng chính trị cho tới Wikipedia. Vẫn còn khó để phỏng đoán tác động về mặt chính trị của Internet và công nghệ di dộng tại các khu vực nghèo nhất thế giới, nơi chúng hiện cung cấp một cơ sở hạ tầng ngân hàng vô cùng cần thiết (ví dụ, bằng cách sử dụng tín dụng trên điện thoại di động như là tiền tệ), tạo ra các thị trường mới, mang lại những cơ hội giáo dục mới, giúp phổ biến thông tin về phòng chống và chữa trị bệnh tật. Và vẫn còn hy vọng rằng thành quả của tốc độ phát triển kinh tế cao hơn, sinh ra từ công nghệ thông tin hiện đại, cũng có thể có ích cho dân chủ.
Do đó, chúng ta sẽ bị niềm lạc quan mạng trước đây cám dỗ. Lần theo dấu những thành công của nhiều sáng kiến dân chủ và chính trị trên toàn cầu, sẽ đi đến sự ra đời của Web 2.0, và chúng ta loại bỏ ngay mối lo ngại trong bản báo cáo của Carnegie.
Phải chăng những thay đổi trên mạng trong vòng 6 năm qua – đặc biệt là sự trỗi dậy của mạng xã hội, blog, chia sẻ hình ảnh – thể hiện sự đơm hoa của tiềm năng dân chủ hóa mà Internet có? Dường như luận thuyết này giải thích động cơ đằng sau việc kiểm duyệt Internet hiện nay: các site có nội dung do chính người dùng tạo ra – Facebook, YouTube, Blogger – đặc biệt không được các chế độ độc tài ưa thích. Một số cuốn sách bình dân và hàn lâm về chủ đề này chỉ thiếu nước chỉ ra một cuộc cách mạng cả trong chính trị và thông tin (ví dụ, hãy đọc cuốn The Blogging Revolution (tạm dịch: Cách mạng Blogging) của Antony Lowenstein, hay cuốn The Information Revolution and World Politics (Cuộc Cách mạng Thông tin và Chính trị Thế giới) của Elizabeth Hanson, cả hai đều mới xuất bản năm ngoái). Cuối cùng thì, niềm lạc quan mạng có đúng đắn không? Internet có phổ biến dân chủ không?
Câu trả lời cho câu hỏi này phụ thuộc đáng kể vào cách chúng ta đo mức độ “tự do” như thế nào. Một cách an toàn, có thể nói rằng Internet đã thay đổi đáng kể dòng thông tin vào và ra khỏi các nước dưới chế độ độc tài. Trong khi kiểm duyệt Internet vẫn còn là một vấn đề nhức nhối và thật không may là phổ biến hơn hồi năm 2003, thì cũng khó mà bỏ qua sự phát triển của nội dung số – những nội dung mà đột nhiên hàng triệu người Trung Quốc, Iran hay Ai Cập đã có thể tiếp cận. Nếu tốc độ và sự thoải mái của việc xuất bản trên mạng Internet có làm cho nhiều tác phẩm lậu bị cấm trước kia thành lỗi thời; thế hệ những người bất đồng chính kiến đang nổi lên này cũng có thể sử dụng Facebook và YouTube làm trụ sở giao dịch, còn iTunes và Wikipedia làm phòng học của họ.
Trên thực tế, nhiều nhà bất đồng như thế đã tận dụng đáng kể web. Ở Ukraine, những nhà hoạt động trẻ tuổi dựa vào các công nghệ truyền thông mới để huy động người ủng hộ trong suốt cuộc Cách mạng Cam. Những người phản đối ở Colombia sử dụng Facebook để tổ chức các cuộc tuần hành khổng lồ chống lực lượng du kích cánh hữu FARC. Những bức ảnh gây sốc và có giá trị mạnh mẽ xuất phát từ Myanmar suốt trong các cuộc đấu tranh phản đối chính phủ năm 2007 – nhiều bức trong đó là do các blogger bản địa chụp bằng điện thoại di động – đã nhanh chóng được lưu hành khắp thế giới. Các nhà hoạt động dân chủ ở đất nước Zimbabwe của Robert Mugabe sử dụng web để tra lại gian lận phiếu trong bầu cử hồi năm ngoái, và dùng điện thoại di động để chụp hình các bản kết quả bầu cử có lúc được bày tạm ra ngoài thùng phiếu (sau đó chúng sẽ là bằng chứng hữu ích của sự bất tuân luật). Rất nhiều ví dụ khác – từ Iran, Ai Cập, Nga, Belarus, và nhất là Trung Quốc – chứng minh tầm quan trọng ngày càng tăng của công nghệ trong việc hỗ trợ những người bất đồng.
Sự thay đổi chế độ nhờ tin nhắn có thể khả thi trong không gian mạng, nhưng không một nhà độc tài nào bị lật đổ vì Thế giới Ảo cả.
Nhưng rút ra kết luận về bản chất dân chủ hóa của Internet vẫn là quá sớm. Khó khăn lớn nhất trong việc tìm hiểu mối quan hệ giữa dân chủ và Internet – bên cạnh việc triển khai các biện pháp cải thiện dân chủ – là phân biệt giữa nguyên nhân và kết quả. Việc đó luôn luôn khó, và đặc biệt khó trong trường hợp này, bởi vì lời hứa hẹn hoành tráng của quyết định luận công nghệ – niềm tin lý tưởng vào sức mạnh thay đổi của Internet – đã làm mờ mắt ngay cả những nhà phân tích tỉnh táo nhất. Hãy xem xét những lập luận quy thắng lợi bầu cử của Barack Obama, một phần, cho khả năng đội ngũ của ông nắm được cơ sở dữ liệu, gây quỹ trên mạng, và sử dụng được mạng xã hội. Việc Obama tận dụng phương tiện truyền thông mới sắp là chủ đề của nhiều bài báo và cuốn sách. Nhưng tuyên bố sự vượt trội của công nghệ so với chính trị tức là đã đánh giá thấp sức thu hút sâu rộng của Obama đối với quần chúng, đánh giá thấp những gì còn lại sau một chính quyền Bush bị chán ghét tới mức đáng kinh ngạc, hậu quả phân rã của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, và cơ hội của John McCain có được Sarah Palin như một người bạn đồng hành. Mặc dù đội ngũ của Obama rất thành thạo mạng, nhưng không thể công nhận tính đúng đắn của lập luận nói rằng mạng đã mang lại chiến thắng cho Obama.
Tuy nhiên, dường như chúng ta sẵn sàng trỏ đến quyết định luận công nghệ trong bối cảnh quốc tế. Ví dụ, những cuộc thảo luận về Cách mạng Cam đã gán một vai trò đặc biệt quan trọng cho các tin nhắn trên điện thoại di động. Sau đây là một đoạn trong bài nghiên cứu vào năm 2007, The Role of Digital Network Technologies in the Ukrainian Orange Revolution (Vai trò của công nghệ mạng số trong cuộc Cách mạng Cam ở Ukraine), do Trung tâm Berkman về Internet và Xã hội thuộc ĐH Harvard, mô tả ảnh hưởng của các thông điệp bằng chữ (text), hay tin nhắn sms:
Đến tháng 9/2004, Pora (phong trào thanh niên của phe đối lập) đã tạo ra hàng loạt mạng lưới chính trị ổn định trên khắp đất nước, gồm 150 nhóm mobile chịu trách nhiệm phát tán thông tin và phối hợp việc giám sát bầu cử, với 72 trung tâm khu vực và hơn 30.000 thành viên có đăng ký. Điện thoại di động đóng một vai trò quan trọng trong nhóm các nhà hoạt động bằng mobile này. Báo cáo sau bầu cử của Pora tuyên bố, “một hệ thống phát tán thông tin tức thời thông qua sms đã được triển khai và chứng tỏ tầm quan trọng”.
Sự huy động đó có lẽ quả thật đã rất quan trọng ở những nỗ lực vào phút chót. Nhưng nó dẫn người ta đến một ngụ ý sai lầm, như một số nghiên cứu gần đây của đội ngũ nhân sự thuộc Trung tâm Berkman đã chỉ ra, rằng Cách mạng Cam là sản phẩm của một “đám đông thông minh” – thuật ngữ do nhà phê bình Howard Rheingold đưa ra để mô tả những tổ chức xã hội tự thiết kế và đang nổi lên, được hỗ trợ bởi công nghệ. Chỉ tập trung vào công nghệ tức là đã che khuất đi những nỗ lực trắng trợn làm giả kết quả bầu cử tổng thống, vốn là cái kích động những cuộc phản đối; là quên đi hai tuần mà những người phản đối đã đứng dưới tiết trời tháng 11 giá lạnh; hay hàng triệu đôla được bơm vào cho các lực lượng dân chủ Ukraine để những cuộc biểu tình đó được nổ ra. Thay đổi chế độ bằng tin nhắn – nghe có vẻ khả thi trên mạng, nhưng không nhà độc tài nào bị lật đổ vì Thế giới Ảo, và cũng không có cuộc bầu cử thật nào thu được chiến thắng trên đó; nếu không, Ron Paul đã là Tổng thống rồi.
Chắc chắn là công nghệ có một vai trò trong các sự nghiệp của toàn cầu. Bên cạnh việc là công cụ truyền thông trực tiếp và giúp con người hợp tác, sự sinh sôi của dữ liệu không gian và hình ảnh vệ tinh vừa rẻ vừa dễ tiếp cận, cùng với sự ra đời những trình duyệt thân thiện với người sử dụng như Google Earth, đã biến đổi về căn bản công việc của các NGO chuyên biệt; giúp hình thành rất nhiều NGO mới; và cho phép, chẳng hạn, việc truy sát trên thực tế (không phải trên mạng) đối với hành động tàn phá rừng, khai thác gỗ trái phép. Thậm chí các cộng đồng thổ dân trước đây vốn đóng chặt cánh cửa trước đổi mới công nghệ, nay cũng đã tận dụng được những công cụ trực tuyến này.
Quan trọng hơn, sự thay đổi kiến tạo về tính kinh tế trong hoạt động đã cho phép số lượng lớn các nhà hoạt động cá nhân (một số làm part-time hoặc thậm chí làm việc tự do) tham gia vào những nỗ lực chung to lớn. Như Clay Shirky lập luận trong cuốn Here Comes Everybody: Organizing without Organization (Mọi người đã đến: tổ chức lại mà không thành tổ chức), thế hệ các nhà bất đồng mới đang ngày càng hoạt động một cách thời vụ hơn, đồng thời hơn, và tức thời hơn (một sự bóng gió khác ám chỉ khái niệm “đám đông thông minh” của Rheingold). Công nghệ cho phép các tổ chức tận dụng từng mức độ tham gia khác nhau của từng nhà hoạt động khác nhau. Thao tác được tới từng dấu chấm, dấu phẩy trên Wikipedia, cuối cùng thì việc tổng hợp sức mạnh của cả các nhà bất đồng, dù họ tham gia chủ động hay bị động, đã trở thành khả thi. Ngày nay, ngay cả một email được chuyển tiếp (forward) đi cũng có tác dụng. Cách hoạt động “nano” như vậy rất có ý nghĩa tập hợp mọi người.
Vì vậy, Internet đang làm cho hoạt động của các nhóm và cá nhân được rẻ hơn, nhanh hơn, gọn gàng hơn. Tuy nhiên, hậu cần (logistics) lại không phải là yếu tố duy nhất quyết định sự tham gia của các công dân. Internet có ảnh hưởng gì tới những động cơ xui khiến chúng ta hành động? Câu hỏi này đặc biệt quan trọng ở các nước độc tài, nơi bầu cử và cơ hội để có hành động đồng thời và tổng lực là rất hiếm. Câu trả lời phụ thuộc một phần rất lớn vào việc liệu Internet có nuôi dưỡng được sự háo hức hành động sau khi tiếp nhận những thông tin mới đó không? Internet hâm nóng thêm hay làm nguội đi tâm trạng háo hức này – đây là vấn đề quan trọng cốt yếu và hiện chưa xác quyết được.
Internet giúp chúng ta dễ dàng hơn trong việc tìm kiếm và tham gia các nhóm mà chúng ta vốn đã ủng hộ từ trước; đến lượt nó, việc này có thể khiến các quan điểm của chúng ta thậm chí còn cực đoan hơn.
Một số người lập luận rằng việc công dân được tiếp xúc với các tài liệu công cộng vạch trần tham nhũng và gian dối (hồ sơ SEC, chuyện hoàn thuế cho các quan chức trúng cử, tiết lộ về đóng góp cho các chiến dịch lớn, v.v.) sẽ thúc giục họ hành động. Phát biểu chủ yếu kêu gọi tính minh bạch cao độ như vậy đến từ những nhà tiên phong về công nghệ, như Carl Malamud – người sáng lập trang web public.resource.org ở Mỹ, và Tom Steinberg với trang mySociety ở Anh. Logic tương tự – rằng dữ liệu mở giúp vạch trần sự lạm dụng quyền lực hoặc, như thẩm phán Brandeis có nói, rằng “ánh sáng mặt trời là thứ thuốc tẩy tốt nhất” – đã dẫn dắt hoạt động của tổ chức Sunlight (Ánh sáng Mặt trời) ở Mỹ và nhiều tổ chức nhỏ hơn ở các nơi khác, như Mzalendo – một trang web và cơ sở dữ liệu bầu cử theo dõi các bộ trưởng trong Nghị viện Kenya, và FairPlay Alliance (Liên minh Chơi đẹp) – một site tương tự ở Slovakia.
Cũng còn những site như Wikileaks, nơi lữu trữ tất cả các dữ liệu gây tranh cãi, từ một danh sách website bị Chính phủ Thái Lan kiểm duyệt, tới bản copy cuốn Human Terrain Team Handbook của quân đội Mỹ. Một khi những tài liệu như vậy bị rò rỉ, những site này dám chắc rằng, mở hồ sơ cho công luận xem thì có tác dụng hơn là để chúng rơi vào tay ai đó có cơ hội (Wikileaks dường như cũng có sức mạnh chết người: CEO của Julius Baer – một ngân hàng Thụy Sĩ bị ám chỉ có dính líu đến tham nhũng, nhờ những tài liệu trên Wikileaks chỉ ra – gần đây đã chết vì một nguyên nhân bí ẩn, nhiều khả năng là do tự sát). Giả thuyết nói rằng việc cung cấp quyền tiếp cận thông tin và nuôi dưỡng sự minh bạch có thể thúc đẩy dân chủ hóa đã làm hoạt động của họ thêm cơ sở vững chắc. Sau đây là những gì Wikileaks mô tả sứ mệnh của mình:
Tất cả các chính phủ đều có thể thu lợi từ việc nghiên cứu ngày càng sâu về cộng đồng thế giới cũng như về chính nhân dân của họ. Chúng tôi tin quá trình nghiên cứu này đòi hỏi thông tin. Từ lâu thông tin đã rất đắt – xét về những nhân mạng và nhân quyền chúng ta phải trả vì nó. Nhưng với tiến bộ công nghệ – Internet , [sic], và khoa học mật mã – rủi ro của việc truyền tải các thông tin quan trọng đã có thể giảm đi.
Chỉ riêng sự kiên nhẫn của các nhà tổ chức ra Wikileaks đã đáng được người ta vỗ tay hoan nghênh (họ tuyên bố đã nhận được hơn 1,2 triệu hồ sơ từ những người bất đồng chính kiến và các nguồn ẩn danh). Tuy nhiên, thành công của những chiến dịch như vậy – cả ở những nhà nước dân chủ lẫn nhà nước độc tài – có lẽ còn hạn chế. Sự tồn tại của các tài liệu, hồ sơ cũng không đảm bảo mang lại một kết quả cụ thể. Như tiểu thuyết saga của Madoff đã tiết lộ, thậm chí tài liệu công khai cho công chúng về vụ SEC cũng tiết lộ được ít thông tin hơn chúng ta tưởng. Và tìm hiểu 1,2 triệu tài liệu tải lên Wikileaks sẽ mất thời gian, nỗ lực, và đòi hỏi một sự phối hợp tổng lực của các nhà báo, phóng viên điều tra.
Misha Glenny lập luận trong cuốn sách rất hay mới đây của ông, McMafia, tội ác thời hiện đại đã toàn cầu hóa, trở nên phức tạp và khó có thể được ghi chép lại và lưu trữ trong biên giới một quốc gia, xác định người đồng chủ mưu có thể là việc bất khả thi. Ví dụ, thật khó mà tưởng tượng rằng chính quyền Sudan lại vẫn còn lưu giữ vô tận những hồ sơ về hoạt động mua bán vũ khí bất hợp pháp của họ. Nhưng ngay cả khi họ có làm như vậy – và những tài liệu này đột nhiên được công khai hóa – cơ hội để chúng làm bùng lên những cuộc phản đối dữ dội là bao nhiêu? Căn cứ vào tình hình xuất bản yên ổn những bằng chứng còn gai góc hơn thế nhiều, trong đó có cả chuyện nhân chứng trông thấy tận mắt những chiếc tàu không giống thông lệ đang chở vũ khí thật, có thể nói ít có khả năng những phong trào phản đối kịch liệt sẽ nổ ra. Lý do không mấy liên quan tới Twitter và Facebook, mà phần nhiều từ một thực tế là mọi người có thể có rất nhiều thông tin và rất ít quyền lực để hành động dựa trên thông tin đó.
Một số người khác cho rằng Internet đặt những công dân bị tẩy não dưới một chính quyền độc tài vào trước những quan điểm đối lập về chính phủ của họ. Điều này giúp họ phát triển một thế giới quan khác và, một cách tiềm tàng, nảy sinh cảm hứng cho những thay đổi mang tính dân chủ. Điều này là khả thi, mặc dù có lẽ khó mà tìm được một nước – lấy ví dụ, có lẽ như Bắc Hàn hay Turmenistan – nơi các công dân chưa từng nghe nói tại sao chính phủ của họ lại tồi tệ: Xét cho cùng, đó là những gì các ông già thảo luận với nhau ở quán rượu. Chúng ta cũng không thể giả định rằng con người sẽ đi tìm kiếm những thông tin họ không tán đồng hay đơn giản là chưa từng nghe nói tới.
Hơn nữa, dựa vào Internet để thực hiện chức năng này chịu rủi ro của cái mà Cass Sunstein (gần đây được chỉ định làm người đứng đầu Văn phòng Thông tin và Sự vụ Thông thường của Nhà Trắng) gọi là “chủ nghĩa cực đoan cô lập”. Internet giúp chúng ta dễ dàng hơn trong việc tìm kiếm và tham gia những nhóm mà chúng ta vốn đã sẵn ủng hộ, điều này đến lượt nó có thể khiến các quan điểm của chúng ta thậm chí còn cực đoan hơn. Theo Sunstein, tránh vấn đề này trong kỷ nguyên tiền-Internet dễ hơn bây giờ, vì trang nhất tờ báo quốc gia lớn nhất cũng cung cấp đủ kinh nghiệm tổng hợp được chia sẻ cũng như một liều lượng hợp lý các phát hiện mới, đặt chúng ta trước những quan điểm và tin tức mà chúng ta có thể chưa từng tiếp cận. Mô hình “trang nhất” của Sunstein, tất nhiên, không vận hành tốt ở những xã hội mà truyền thông bị kiểm soát. Sẽ là không trung thực khi so sánh blog và các cộng đồng online với trang nhất của tờ báo quốc gia lớn ở một nước, ví dụ Uzebekistan, nơi các dòng chữ có lẽ do chính phủ viết ra thay vì do các biên tập viên được tự do viết. Không có nhiều phát hiện mới ở đó; trên thực tế, sẽ tốt hơn nếu một người đọc một loạt blog độc lập. Do đó, có thể là Internet – mà đặc biệt là blog – quả thật đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra một cộng đồng dân chủ hơn ở các nước độc tài. Điều này là một bước tiến rất có ý nghĩa (của Internet) so với các phương tiện truyền thông do Nhà nước kiểm soát. Một số bằng chứng trước đây nói rằng tình trạng này đúng ở ít nhất một vài nước. Nghiên cứu của John Kelly thuộc ĐH Colombia khẳng định rằng các blog của người Iran rất đa dạng, thể hiện cả tiếng nói bảo thủ lẫn tự do, với một loạt các lực lượng khác, hỗn hợp, ở giữa. Không có phe nào tuyệt đối thắng thế trong số họ.
Giá trị mà người đọc đặt vào các blog nằm ở quan niệm cho rằng tác giả của blog là “độc lập”, thoát ly khỏi những sự nhồi sọ của nhà nước hay của các lực lượng thứ ba. Thế thì họ độc lập tới mức nào? Sai lầm lớn nhất về quan niệm của những nhà không tưởng trên mạng, là coi không gian mạng như một khu vực vô chính phủ, nơi chính quyền không dám bước chân vào trừ phi để đóng cửa ráo cả. Những báo cáo truyền thông khuyến khích quan điểm coi các chính phủ độc tài như những nhà kiểm duyệt Internet có ác cảm với công nghệ hoặc sợ công nghệ.
Tại sao lại giả định rằng người sử dụng Internet ở Trung Quốc sẽ đột nhiên đòi hỏi thêm nhiều quyền lợi chính trị, thay vì thích lối sống trong những bộ phim truyền hình Friends, Sex in the City mà họ xem trên Internet?
Mà tại sao chính quyền lại không theo đuổi một chiến lược hai mũi nhọn – vừa hạn chế đường vào những trang web ít được ưa thích vừa sử dụng Internet để điều khiển ý kiến dư luận? Điều này chính xác là cách các chính phủ độc tài xử lý những mối đe dọa về truyền thông trong quá khứ. Chính phủ Xô Viết không cấm phát thanh; họ phá sóng một số kênh phương Tây nhất định, đàn áp một vài đài bất đồng phát sóng từ nhà riêng, và tận dụng phương tiện truyền thông để yểm trợ cho ý thức hệ của mình. Chính quyền quốc xã cũng có cách xử lý tương tự đối với điện ảnh, cái mà lúc đó là công cụ tuyên truyền được ưa thích ở Đế chế thứ Ba.
Một khối lượng bằng chứng ngày càng lớn từ Trung Quốc và Nga – hai nước tích cực nhất trong việc sản xuất nội dung web – cho thấy mô hình này đang được tiếp tục cả trên Internet. Chính quyền Trung Quốc nổi tiếng về chuyện tạo ra và điều hành cái gọi là Đảng 50 Xu – một đội những tay bình luận trên mạng (commentator) thân chính phủ, sẽ lướt web mò những cuộc thảo luận chính trị hấp dẫn và để lại các comment khuyết danh trên blog và forum. Tương tự, chính quyền Nga thường dựa vào các công ty Internet tư nhân, như công ty hàng đầu New Media Stars (Những ngôi sao truyền thông mới), nơi rất sung sướng được đưa các quan điểm của chính phủ lên mạng. New Media Stars mới đây sản xuất một bộ phim yêu nước, Chiến tranh 08.08.08, phát hành thành công trên mạng và được chào mời trên nhiều blog tiếng Nga, đổ hoàn toàn tội gây chiến tranh ở Nam Ossetia cho Gruzia. Trong khi không gian công cộng trên mạng có thể ngày càng dân chủ hơn (ít nhất về số lượng), thì mặt khác nó cũng bị ô nhiễm nặng nề bởi các nhà điều hành trong chính phủ, khiến không thể phân biệt nổi giữa không gian công cộng thời số hóa với không gian công cộng thời analog – cũ kỹ và bị kiểm soát chặt.
Ngay cả khi chính quyền bất tài, bất lực, hoặc không sẵn sàng trải nhựa đường lên không gian web với những thông tin “chính thức”, cũng có ít bằng chứng cho thấy một không gian Internet mở sẽ đột ngột tạo nên giấc mơ dân chủ cho người Trung Quốc hay người Nga. Chúng ta đã từng gặp chuyện như vậy trước kia: Những người Đông Đức không bắt được sóng của phía Tây Đức chống đối chính phủ cao hơn những người có thể. Ý kiến cho rằng được tháo cũi mở xiềng để truy cập vào Internet sẽ mang lại dân chủ bộc lộ một trong những sai lầm lớn nhất của những nhà không tưởng trên không gian mạng. Một khi người sử dụng Internet được lên mạng mà không bị giám sát, chúng ta có thể mong đợi họ – rất nhiều trong số này là thanh niên – đổ xô vào download báo cáo mới nhất của tổ chức Ân xá Quốc tế, hay đọc về Pháp Luân Công trên Wikipedia chăng? Hay là họ sẽ lựa chọn The Soprano, hoặc bộ phim James Bond mới nhất? Tại sao lại giả định họ sẽ đột nhiên đòi hỏi nhiều quyền lợi chính trị hơn là các phim truyền hình Friends hay Sex in the City mà họ xem trên Internet?
Do đó, vấn đề liệu Internet có hướng người Trung Quốc hay Nga tới việc đòi hỏi một xã hội dân chủ và tự do hơn quy về việc liệu con đường nào – hướng ngoại hay hướng nội – sẽ là con đường mà giới trẻ sẽ chọn đi theo? Có thể dự đoán là, nhiều nhân vật không tưởng trên mạng nuôi dưỡng một niềm tin ăn sâu bén rễ vào việc sự hiểu biết về thế giới sẽ đi liền với Internet. Họ tưởng tượng rằng “những người bản địa số hóa” – tức những người đã lớn lên giữa thời công nghệ và Internet – sẽ chọn con đường hướng ngoại và trở thành người đi tiền trạm cho nền dân chủ, lối sống Mỹ. Logic này thẩm thấu vào gần như tất cả các cơ quan lớn có nhiệm vụ thúc đẩy dân chủ ở nước ngoài, như Bộ Ngoại giao Mỹ, nơi mà Phó Ngoại trưởng Ngoại giao Công và Ngoại vụ thời Condoleezza Rice, James Glassman, từng nói: “Chúng tôi cảm thấy rằng trên khắp thế giới, những người trẻ tuổi đang sử dụng Internet để đẩy lùi bạo lực theo một cách mới, sử dụng mạng xã hội, tham gia những nhóm lớn để có đối thoại, về căn bản, để chia sẻ thông tin”.
Những đánh giá nhiệt tình như vậy cũng làm sản sinh ra những tác phẩm văn chương bình dân hoặc bác học, với số lượng tăng lên nhanh chóng, về các công dân số ở Mỹ và Tây Âu. Các sách như Born Digital (Sinh ra số hóa) của John Palfrey và Urs Gasser, Grown up Digital (Lớn lên số hóa) của Don Tapscott, iBrain (Não điện tử) của Gary Small và Gigi Vorgan, và The Pirate’s Dilemma (Tình thế lưỡng nan của tên cướp biển) của Matt Mason, cũng như một nghiên cứu kéo dài ba năm gần đây về giới trẻ thời số hóa của tổ chức MacArthur, đã ra mắt. Trong những xã hội đã dân chủ, lòng lạc quan về ảnh hưởng của Internet đối với việc thu hút sự tham gia của những công dân trẻ tuổi – thậm chí khái niệm “công dân số” – là một suy nghĩ có lý do xác đáng, nếu không có gì đặc biệt mới mẻ.
Tuy nhiên, ở bên ngoài những nước thịnh vượng và dân chủ ở Bắc Mỹ và Tây Âu, những người bản địa số hóa cũng có khả năng trở thành những người tù số hóa hay những người sống ngoài vòng pháp luật số hóa, một đề tài mà không một nghiên cứu nào gần đây đi sâu làm rõ. Nếu quan niệm rằng Internet có thể làm nguội cảm hứng dân chủ của thanh niên dường như có vẻ phản trực giác, đó chỉ là vì các phương tiện truyền thông đại chúng của chúng ta vẫn bị mê mệt bởi những bài tường thuật cũ mòn, coi blogger như lực lượng tạo ra các thay đổi tích cực. Các tựa báo gần đây vẫn còn nói: “Cộng đồng blogger ngày càng tăng ở Ai Cập mở rộng giới hạn bất đồng chính kiến”, “Từ Trung Quốc tới Iran, những người ghi nhật ký trên mạng đang thách thức các nhà kiểm duyệt”, “Đàn áp blogger ở Cuba”, “Những nhà kiểm duyệt web ở Trung Quốc chiến đấu để rọ mõm các blogger có tinh thần tự do”.
Nhiều bài báo kích động có thể đúng, kể cả nếu có bị thổi phồng chút ít, nhưng nó chịu tác động từ vài nguồn có tính định kiến. Hóa ra, các blogger thường xuyên, tiến bộ, và thân phương Tây có xu hướng viết bằng tiếng Anh nhiều hơn bằng ngôn ngữ bản địa. Do đó, họ cũng là những người thường hay nói chuyện với các phóng viên phương Tây. Nếu các nhà báo đi sâu tìm hiểu hơn một chút, họ có thể phát hiện thấy các chất liệu phong phú để viết những bài báo có tựa đề như: “Blogger Iran – thách thức chủ yếu đối với cải cách dân chủ”, và “Ảrập Xêút: blogger ghét quyền phụ nữ”. Tin bài về blogging ở Ai Cập trên phương tiện truyền thông đại chúng ở phương Tây tập trung hầu như hoàn toàn và duy nhất vào cuộc đấu tranh của những người viết thân phương Tây, mà rất ít đề cập đến lực lượng blogger đang tăng lên nhanh chóng trong cộng đồng thân hữu Hồi giáo.
Gọi một blog của một người anh em Hồi giáo nào đó là “phi dân chủ” có thể mang hai nghĩa. Do đó, các chính phủ phương Tây, bị kẹt trong sự không tưởng trên mạng rất sôi nổi trong suốt hai thập kỷ qua, gặp một thế lưỡng nan. Không có đầu tư của họ vào blog, thì các blogger đông người đọc, và các blog hình ảnh ở những nơi xa xôi về địa lý nhưng quan trọng về địa chính trị, tiếng nói trên mạng của những lực lượng dân chủ và cấp tiến được phương Tây ưa thích, sẽ không còn mang nhiều trọng lượng. Tuy nhiên, đầu tư vào cơ sở hạ tầng truyền thông mới cũng khuyến khích các phần tử bảo thủ, dân tộc, cực đoan, tạo ra thách thức thậm chí còn lớn hơn cho quá trình dân chủ hóa. Nhìn lướt qua chủ nghĩa dân tộc đang nổi lên trên mạng ở Nga và Trung Quốc cũng có thể thấy một cảm giác về những gì sẽ xảy ra.
Vấn đề xảy ra với việc xây dựng không gian công cộng, trên mạng hay ngoài mạng, rất giống chuyện tạo ra những con quỷ nhập tràng Frankenstein: Chúng ta có thể không thích sản phẩm cuối cùng. Điều này không có nghĩa là chúng ta sẽ ngừng coi Internet như một lực lượng dân chủ hóa, chỉ có điều chúng ta nên khai thông ý thức hệ mù quáng về quyết định luận công nghệ và tập trung vào các nhiệm vụ thực tiễn. Xác định rõ Internet có thể làm lợi như thế nào cho các lực lượng và tổ chức dân chủ hiện nay – rất ít trong số đó thể hiện được nhiều sáng tạo trên web – là một xuất phát điểm không tồi.
Nguồn: Đoan Trang blog
Mặc dù vậy, tôi cũng đã ngay lập tức dựa vào đây để viết một bài “lách đủ đường” để bảo vệ Facebook. Điều tôi muốn hướng đến khi dịch Texting to Utopia cũng như khi viết bài ăn theo nó (cuối năm 2009), thực chất là làm sao để “ai đó” hoặc “nhiều ai đó” thấy rằng Internet chỉ là thế giới ảo, không gây nguy hiểm gì đối với chính quyền và do vậy, chẳng nên quá sợ và ghét nó. Việc gì phải kiểm soát Internet nhỉ, khi mà chỉ 24 triệu trên tổng số 86 triệu dân Việt Nam có thể tiếp cận Internet, và trong số 24 triệu người dùng đó thì đã có tới 50% là game thủ. Số người sở hữu blog, theo một thống kê mà tôi không nhớ nguồn, chỉ khoảng 500.000. Người viết blog chính trị còn ít nữa. Người đọc, hiểu và ủng hộ blog chính trị lại càng ít nữa nữa.
Tuy nhiên, từ bấy đến nay, “âm mưu” của tất cả những người tìm cách thuyết phục “ai đó” rằng “Internet vô hại, hãy để nó tự do”, rõ ràng là không thành công. Thậm chí viết blog đang trở thành nguy hiểm. Thực tế này chứng tỏ rằng bất luận ảnh hưởng của Internet là sâu hay nông, rộng hay hẹp, “nhiều ai đó” vẫn muốn kiểm soát Internet thật chặt, nói nôm na theo văn phong của người trẻ Việt Nam bây giờ là để “cho nó lành”.
+++++
LƯỚT MẠNG TỚI CÕI KHÔNG TƯỞNG
Internet có khiến dân chủ trở thành phổ biến không? Bài viết nhan đề “Texting to Utopia” của Evegeny Morozov trên Boston Review. Đoan Trang biên dịch.
Năm 1989, Ronald Reagan tuyên bố: “Tên Goliah toàn trị sẽ bị chàng David microchip hạ bệ”; sau đó, Bill Clinton so sánh việc kiểm duyệt Internet cũng như chuyện “cố gắng đóng đinh thạch Jell-O lên tường”; và vào năm 1999, George W. Bush (không phải John Lennon) đề nghị chúng ta “hãy tưởng tượng nếu Internet chiếm lĩnh Trung Quốc. Hãy tưởng tượng tự do sẽ lan truyền như thế nào”.
Tinh thần lạc-quan-mạng như thế cho thấy hình thức mới của một quyết định luận công nghệ, theo đó Internet sẽ là cây búa đóng chiếc đinh vào tất cả các vấn đề toàn cầu, từ phát triển kinh tế ở châu Phi cho tới nguy cơ khủng bố xuyên quốc gia ở Trung Đông. Thậm chí khôn ngoan như nhà tài phiệt Rupert Murdoch mà còn phải chịu thua sức quyến rũ của kỹ thuật số: “Những tiến bộ trong công nghệ viễn thông đã chứng tỏ mình như một mối đe dọa mơ hồ đối với chế độ toàn trị ở mọi nơi”, ông tuyên bố. Chẳng bao lâu sau, Murdoch phải cúi đầu trước chính quyền Trung Quốc, những người đã đe dọa hoạt động kinh doanh tivi vệ tinh của ông ta trong khu vực để trả đũa cho tuyên bố giật gân này.
Một số nhà phân tích không vội theo đóm ăn tàn. Giọng điệu kiềm chế của một báo cáo năm 2003 thể hiện sự mâu thuẫn với niềm lạc quan mạng hiện nay. Bản báo cáo, của Carnegie thực hiện cho tổ chức International Peace, có tên là Mạng mở, chế độ đóng: Ảnh hưởng của Internet lên nền cai trị độc tài, cảnh báo: “Thay vì gióng lên hồi chuông báo tử cho chế độ độc tài, sự khuếch tán ra toàn cầu của mạng Internet đưa đến cả cơ hội lẫn thách thức cho các chế độ độc tài”. Khảo sát một loạt chế độ khác nhau từ Singapore tới Cuba, báo cáo kết luận rằng ảnh hưởng chính trị của Internet sẽ dao động tùy tình hình kinh tế và xã hội của mỗi đất nước, văn hóa chính trị của nó, và đặc thù của hạ tầng Internet quốc gia.
Báo cáo của Carnegie ra đời vào thuở hỗn mang của Youtube, Facebook và Myspace, nên dễ dàng quan sát được việc giảm chi phí nhanh chóng của hoạt động tự xuất bản, tự tổ chức điều phối, tương tác và hợp tác trên mạng, từ mạng chính trị cho tới Wikipedia. Vẫn còn khó để phỏng đoán tác động về mặt chính trị của Internet và công nghệ di dộng tại các khu vực nghèo nhất thế giới, nơi chúng hiện cung cấp một cơ sở hạ tầng ngân hàng vô cùng cần thiết (ví dụ, bằng cách sử dụng tín dụng trên điện thoại di động như là tiền tệ), tạo ra các thị trường mới, mang lại những cơ hội giáo dục mới, giúp phổ biến thông tin về phòng chống và chữa trị bệnh tật. Và vẫn còn hy vọng rằng thành quả của tốc độ phát triển kinh tế cao hơn, sinh ra từ công nghệ thông tin hiện đại, cũng có thể có ích cho dân chủ.
Do đó, chúng ta sẽ bị niềm lạc quan mạng trước đây cám dỗ. Lần theo dấu những thành công của nhiều sáng kiến dân chủ và chính trị trên toàn cầu, sẽ đi đến sự ra đời của Web 2.0, và chúng ta loại bỏ ngay mối lo ngại trong bản báo cáo của Carnegie.
Phải chăng những thay đổi trên mạng trong vòng 6 năm qua – đặc biệt là sự trỗi dậy của mạng xã hội, blog, chia sẻ hình ảnh – thể hiện sự đơm hoa của tiềm năng dân chủ hóa mà Internet có? Dường như luận thuyết này giải thích động cơ đằng sau việc kiểm duyệt Internet hiện nay: các site có nội dung do chính người dùng tạo ra – Facebook, YouTube, Blogger – đặc biệt không được các chế độ độc tài ưa thích. Một số cuốn sách bình dân và hàn lâm về chủ đề này chỉ thiếu nước chỉ ra một cuộc cách mạng cả trong chính trị và thông tin (ví dụ, hãy đọc cuốn The Blogging Revolution (tạm dịch: Cách mạng Blogging) của Antony Lowenstein, hay cuốn The Information Revolution and World Politics (Cuộc Cách mạng Thông tin và Chính trị Thế giới) của Elizabeth Hanson, cả hai đều mới xuất bản năm ngoái). Cuối cùng thì, niềm lạc quan mạng có đúng đắn không? Internet có phổ biến dân chủ không?
Câu trả lời cho câu hỏi này phụ thuộc đáng kể vào cách chúng ta đo mức độ “tự do” như thế nào. Một cách an toàn, có thể nói rằng Internet đã thay đổi đáng kể dòng thông tin vào và ra khỏi các nước dưới chế độ độc tài. Trong khi kiểm duyệt Internet vẫn còn là một vấn đề nhức nhối và thật không may là phổ biến hơn hồi năm 2003, thì cũng khó mà bỏ qua sự phát triển của nội dung số – những nội dung mà đột nhiên hàng triệu người Trung Quốc, Iran hay Ai Cập đã có thể tiếp cận. Nếu tốc độ và sự thoải mái của việc xuất bản trên mạng Internet có làm cho nhiều tác phẩm lậu bị cấm trước kia thành lỗi thời; thế hệ những người bất đồng chính kiến đang nổi lên này cũng có thể sử dụng Facebook và YouTube làm trụ sở giao dịch, còn iTunes và Wikipedia làm phòng học của họ.
Trên thực tế, nhiều nhà bất đồng như thế đã tận dụng đáng kể web. Ở Ukraine, những nhà hoạt động trẻ tuổi dựa vào các công nghệ truyền thông mới để huy động người ủng hộ trong suốt cuộc Cách mạng Cam. Những người phản đối ở Colombia sử dụng Facebook để tổ chức các cuộc tuần hành khổng lồ chống lực lượng du kích cánh hữu FARC. Những bức ảnh gây sốc và có giá trị mạnh mẽ xuất phát từ Myanmar suốt trong các cuộc đấu tranh phản đối chính phủ năm 2007 – nhiều bức trong đó là do các blogger bản địa chụp bằng điện thoại di động – đã nhanh chóng được lưu hành khắp thế giới. Các nhà hoạt động dân chủ ở đất nước Zimbabwe của Robert Mugabe sử dụng web để tra lại gian lận phiếu trong bầu cử hồi năm ngoái, và dùng điện thoại di động để chụp hình các bản kết quả bầu cử có lúc được bày tạm ra ngoài thùng phiếu (sau đó chúng sẽ là bằng chứng hữu ích của sự bất tuân luật). Rất nhiều ví dụ khác – từ Iran, Ai Cập, Nga, Belarus, và nhất là Trung Quốc – chứng minh tầm quan trọng ngày càng tăng của công nghệ trong việc hỗ trợ những người bất đồng.
Sự thay đổi chế độ nhờ tin nhắn có thể khả thi trong không gian mạng, nhưng không một nhà độc tài nào bị lật đổ vì Thế giới Ảo cả.
Nhưng rút ra kết luận về bản chất dân chủ hóa của Internet vẫn là quá sớm. Khó khăn lớn nhất trong việc tìm hiểu mối quan hệ giữa dân chủ và Internet – bên cạnh việc triển khai các biện pháp cải thiện dân chủ – là phân biệt giữa nguyên nhân và kết quả. Việc đó luôn luôn khó, và đặc biệt khó trong trường hợp này, bởi vì lời hứa hẹn hoành tráng của quyết định luận công nghệ – niềm tin lý tưởng vào sức mạnh thay đổi của Internet – đã làm mờ mắt ngay cả những nhà phân tích tỉnh táo nhất. Hãy xem xét những lập luận quy thắng lợi bầu cử của Barack Obama, một phần, cho khả năng đội ngũ của ông nắm được cơ sở dữ liệu, gây quỹ trên mạng, và sử dụng được mạng xã hội. Việc Obama tận dụng phương tiện truyền thông mới sắp là chủ đề của nhiều bài báo và cuốn sách. Nhưng tuyên bố sự vượt trội của công nghệ so với chính trị tức là đã đánh giá thấp sức thu hút sâu rộng của Obama đối với quần chúng, đánh giá thấp những gì còn lại sau một chính quyền Bush bị chán ghét tới mức đáng kinh ngạc, hậu quả phân rã của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, và cơ hội của John McCain có được Sarah Palin như một người bạn đồng hành. Mặc dù đội ngũ của Obama rất thành thạo mạng, nhưng không thể công nhận tính đúng đắn của lập luận nói rằng mạng đã mang lại chiến thắng cho Obama.
Tuy nhiên, dường như chúng ta sẵn sàng trỏ đến quyết định luận công nghệ trong bối cảnh quốc tế. Ví dụ, những cuộc thảo luận về Cách mạng Cam đã gán một vai trò đặc biệt quan trọng cho các tin nhắn trên điện thoại di động. Sau đây là một đoạn trong bài nghiên cứu vào năm 2007, The Role of Digital Network Technologies in the Ukrainian Orange Revolution (Vai trò của công nghệ mạng số trong cuộc Cách mạng Cam ở Ukraine), do Trung tâm Berkman về Internet và Xã hội thuộc ĐH Harvard, mô tả ảnh hưởng của các thông điệp bằng chữ (text), hay tin nhắn sms:
Đến tháng 9/2004, Pora (phong trào thanh niên của phe đối lập) đã tạo ra hàng loạt mạng lưới chính trị ổn định trên khắp đất nước, gồm 150 nhóm mobile chịu trách nhiệm phát tán thông tin và phối hợp việc giám sát bầu cử, với 72 trung tâm khu vực và hơn 30.000 thành viên có đăng ký. Điện thoại di động đóng một vai trò quan trọng trong nhóm các nhà hoạt động bằng mobile này. Báo cáo sau bầu cử của Pora tuyên bố, “một hệ thống phát tán thông tin tức thời thông qua sms đã được triển khai và chứng tỏ tầm quan trọng”.
Sự huy động đó có lẽ quả thật đã rất quan trọng ở những nỗ lực vào phút chót. Nhưng nó dẫn người ta đến một ngụ ý sai lầm, như một số nghiên cứu gần đây của đội ngũ nhân sự thuộc Trung tâm Berkman đã chỉ ra, rằng Cách mạng Cam là sản phẩm của một “đám đông thông minh” – thuật ngữ do nhà phê bình Howard Rheingold đưa ra để mô tả những tổ chức xã hội tự thiết kế và đang nổi lên, được hỗ trợ bởi công nghệ. Chỉ tập trung vào công nghệ tức là đã che khuất đi những nỗ lực trắng trợn làm giả kết quả bầu cử tổng thống, vốn là cái kích động những cuộc phản đối; là quên đi hai tuần mà những người phản đối đã đứng dưới tiết trời tháng 11 giá lạnh; hay hàng triệu đôla được bơm vào cho các lực lượng dân chủ Ukraine để những cuộc biểu tình đó được nổ ra. Thay đổi chế độ bằng tin nhắn – nghe có vẻ khả thi trên mạng, nhưng không nhà độc tài nào bị lật đổ vì Thế giới Ảo, và cũng không có cuộc bầu cử thật nào thu được chiến thắng trên đó; nếu không, Ron Paul đã là Tổng thống rồi.
Chắc chắn là công nghệ có một vai trò trong các sự nghiệp của toàn cầu. Bên cạnh việc là công cụ truyền thông trực tiếp và giúp con người hợp tác, sự sinh sôi của dữ liệu không gian và hình ảnh vệ tinh vừa rẻ vừa dễ tiếp cận, cùng với sự ra đời những trình duyệt thân thiện với người sử dụng như Google Earth, đã biến đổi về căn bản công việc của các NGO chuyên biệt; giúp hình thành rất nhiều NGO mới; và cho phép, chẳng hạn, việc truy sát trên thực tế (không phải trên mạng) đối với hành động tàn phá rừng, khai thác gỗ trái phép. Thậm chí các cộng đồng thổ dân trước đây vốn đóng chặt cánh cửa trước đổi mới công nghệ, nay cũng đã tận dụng được những công cụ trực tuyến này.
Quan trọng hơn, sự thay đổi kiến tạo về tính kinh tế trong hoạt động đã cho phép số lượng lớn các nhà hoạt động cá nhân (một số làm part-time hoặc thậm chí làm việc tự do) tham gia vào những nỗ lực chung to lớn. Như Clay Shirky lập luận trong cuốn Here Comes Everybody: Organizing without Organization (Mọi người đã đến: tổ chức lại mà không thành tổ chức), thế hệ các nhà bất đồng mới đang ngày càng hoạt động một cách thời vụ hơn, đồng thời hơn, và tức thời hơn (một sự bóng gió khác ám chỉ khái niệm “đám đông thông minh” của Rheingold). Công nghệ cho phép các tổ chức tận dụng từng mức độ tham gia khác nhau của từng nhà hoạt động khác nhau. Thao tác được tới từng dấu chấm, dấu phẩy trên Wikipedia, cuối cùng thì việc tổng hợp sức mạnh của cả các nhà bất đồng, dù họ tham gia chủ động hay bị động, đã trở thành khả thi. Ngày nay, ngay cả một email được chuyển tiếp (forward) đi cũng có tác dụng. Cách hoạt động “nano” như vậy rất có ý nghĩa tập hợp mọi người.
Vì vậy, Internet đang làm cho hoạt động của các nhóm và cá nhân được rẻ hơn, nhanh hơn, gọn gàng hơn. Tuy nhiên, hậu cần (logistics) lại không phải là yếu tố duy nhất quyết định sự tham gia của các công dân. Internet có ảnh hưởng gì tới những động cơ xui khiến chúng ta hành động? Câu hỏi này đặc biệt quan trọng ở các nước độc tài, nơi bầu cử và cơ hội để có hành động đồng thời và tổng lực là rất hiếm. Câu trả lời phụ thuộc một phần rất lớn vào việc liệu Internet có nuôi dưỡng được sự háo hức hành động sau khi tiếp nhận những thông tin mới đó không? Internet hâm nóng thêm hay làm nguội đi tâm trạng háo hức này – đây là vấn đề quan trọng cốt yếu và hiện chưa xác quyết được.
Internet giúp chúng ta dễ dàng hơn trong việc tìm kiếm và tham gia các nhóm mà chúng ta vốn đã ủng hộ từ trước; đến lượt nó, việc này có thể khiến các quan điểm của chúng ta thậm chí còn cực đoan hơn.
Một số người lập luận rằng việc công dân được tiếp xúc với các tài liệu công cộng vạch trần tham nhũng và gian dối (hồ sơ SEC, chuyện hoàn thuế cho các quan chức trúng cử, tiết lộ về đóng góp cho các chiến dịch lớn, v.v.) sẽ thúc giục họ hành động. Phát biểu chủ yếu kêu gọi tính minh bạch cao độ như vậy đến từ những nhà tiên phong về công nghệ, như Carl Malamud – người sáng lập trang web public.resource.org ở Mỹ, và Tom Steinberg với trang mySociety ở Anh. Logic tương tự – rằng dữ liệu mở giúp vạch trần sự lạm dụng quyền lực hoặc, như thẩm phán Brandeis có nói, rằng “ánh sáng mặt trời là thứ thuốc tẩy tốt nhất” – đã dẫn dắt hoạt động của tổ chức Sunlight (Ánh sáng Mặt trời) ở Mỹ và nhiều tổ chức nhỏ hơn ở các nơi khác, như Mzalendo – một trang web và cơ sở dữ liệu bầu cử theo dõi các bộ trưởng trong Nghị viện Kenya, và FairPlay Alliance (Liên minh Chơi đẹp) – một site tương tự ở Slovakia.
Cũng còn những site như Wikileaks, nơi lữu trữ tất cả các dữ liệu gây tranh cãi, từ một danh sách website bị Chính phủ Thái Lan kiểm duyệt, tới bản copy cuốn Human Terrain Team Handbook của quân đội Mỹ. Một khi những tài liệu như vậy bị rò rỉ, những site này dám chắc rằng, mở hồ sơ cho công luận xem thì có tác dụng hơn là để chúng rơi vào tay ai đó có cơ hội (Wikileaks dường như cũng có sức mạnh chết người: CEO của Julius Baer – một ngân hàng Thụy Sĩ bị ám chỉ có dính líu đến tham nhũng, nhờ những tài liệu trên Wikileaks chỉ ra – gần đây đã chết vì một nguyên nhân bí ẩn, nhiều khả năng là do tự sát). Giả thuyết nói rằng việc cung cấp quyền tiếp cận thông tin và nuôi dưỡng sự minh bạch có thể thúc đẩy dân chủ hóa đã làm hoạt động của họ thêm cơ sở vững chắc. Sau đây là những gì Wikileaks mô tả sứ mệnh của mình:
Tất cả các chính phủ đều có thể thu lợi từ việc nghiên cứu ngày càng sâu về cộng đồng thế giới cũng như về chính nhân dân của họ. Chúng tôi tin quá trình nghiên cứu này đòi hỏi thông tin. Từ lâu thông tin đã rất đắt – xét về những nhân mạng và nhân quyền chúng ta phải trả vì nó. Nhưng với tiến bộ công nghệ – Internet , [sic], và khoa học mật mã – rủi ro của việc truyền tải các thông tin quan trọng đã có thể giảm đi.
Chỉ riêng sự kiên nhẫn của các nhà tổ chức ra Wikileaks đã đáng được người ta vỗ tay hoan nghênh (họ tuyên bố đã nhận được hơn 1,2 triệu hồ sơ từ những người bất đồng chính kiến và các nguồn ẩn danh). Tuy nhiên, thành công của những chiến dịch như vậy – cả ở những nhà nước dân chủ lẫn nhà nước độc tài – có lẽ còn hạn chế. Sự tồn tại của các tài liệu, hồ sơ cũng không đảm bảo mang lại một kết quả cụ thể. Như tiểu thuyết saga của Madoff đã tiết lộ, thậm chí tài liệu công khai cho công chúng về vụ SEC cũng tiết lộ được ít thông tin hơn chúng ta tưởng. Và tìm hiểu 1,2 triệu tài liệu tải lên Wikileaks sẽ mất thời gian, nỗ lực, và đòi hỏi một sự phối hợp tổng lực của các nhà báo, phóng viên điều tra.
Misha Glenny lập luận trong cuốn sách rất hay mới đây của ông, McMafia, tội ác thời hiện đại đã toàn cầu hóa, trở nên phức tạp và khó có thể được ghi chép lại và lưu trữ trong biên giới một quốc gia, xác định người đồng chủ mưu có thể là việc bất khả thi. Ví dụ, thật khó mà tưởng tượng rằng chính quyền Sudan lại vẫn còn lưu giữ vô tận những hồ sơ về hoạt động mua bán vũ khí bất hợp pháp của họ. Nhưng ngay cả khi họ có làm như vậy – và những tài liệu này đột nhiên được công khai hóa – cơ hội để chúng làm bùng lên những cuộc phản đối dữ dội là bao nhiêu? Căn cứ vào tình hình xuất bản yên ổn những bằng chứng còn gai góc hơn thế nhiều, trong đó có cả chuyện nhân chứng trông thấy tận mắt những chiếc tàu không giống thông lệ đang chở vũ khí thật, có thể nói ít có khả năng những phong trào phản đối kịch liệt sẽ nổ ra. Lý do không mấy liên quan tới Twitter và Facebook, mà phần nhiều từ một thực tế là mọi người có thể có rất nhiều thông tin và rất ít quyền lực để hành động dựa trên thông tin đó.
Một số người khác cho rằng Internet đặt những công dân bị tẩy não dưới một chính quyền độc tài vào trước những quan điểm đối lập về chính phủ của họ. Điều này giúp họ phát triển một thế giới quan khác và, một cách tiềm tàng, nảy sinh cảm hứng cho những thay đổi mang tính dân chủ. Điều này là khả thi, mặc dù có lẽ khó mà tìm được một nước – lấy ví dụ, có lẽ như Bắc Hàn hay Turmenistan – nơi các công dân chưa từng nghe nói tại sao chính phủ của họ lại tồi tệ: Xét cho cùng, đó là những gì các ông già thảo luận với nhau ở quán rượu. Chúng ta cũng không thể giả định rằng con người sẽ đi tìm kiếm những thông tin họ không tán đồng hay đơn giản là chưa từng nghe nói tới.
Hơn nữa, dựa vào Internet để thực hiện chức năng này chịu rủi ro của cái mà Cass Sunstein (gần đây được chỉ định làm người đứng đầu Văn phòng Thông tin và Sự vụ Thông thường của Nhà Trắng) gọi là “chủ nghĩa cực đoan cô lập”. Internet giúp chúng ta dễ dàng hơn trong việc tìm kiếm và tham gia những nhóm mà chúng ta vốn đã sẵn ủng hộ, điều này đến lượt nó có thể khiến các quan điểm của chúng ta thậm chí còn cực đoan hơn. Theo Sunstein, tránh vấn đề này trong kỷ nguyên tiền-Internet dễ hơn bây giờ, vì trang nhất tờ báo quốc gia lớn nhất cũng cung cấp đủ kinh nghiệm tổng hợp được chia sẻ cũng như một liều lượng hợp lý các phát hiện mới, đặt chúng ta trước những quan điểm và tin tức mà chúng ta có thể chưa từng tiếp cận. Mô hình “trang nhất” của Sunstein, tất nhiên, không vận hành tốt ở những xã hội mà truyền thông bị kiểm soát. Sẽ là không trung thực khi so sánh blog và các cộng đồng online với trang nhất của tờ báo quốc gia lớn ở một nước, ví dụ Uzebekistan, nơi các dòng chữ có lẽ do chính phủ viết ra thay vì do các biên tập viên được tự do viết. Không có nhiều phát hiện mới ở đó; trên thực tế, sẽ tốt hơn nếu một người đọc một loạt blog độc lập. Do đó, có thể là Internet – mà đặc biệt là blog – quả thật đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra một cộng đồng dân chủ hơn ở các nước độc tài. Điều này là một bước tiến rất có ý nghĩa (của Internet) so với các phương tiện truyền thông do Nhà nước kiểm soát. Một số bằng chứng trước đây nói rằng tình trạng này đúng ở ít nhất một vài nước. Nghiên cứu của John Kelly thuộc ĐH Colombia khẳng định rằng các blog của người Iran rất đa dạng, thể hiện cả tiếng nói bảo thủ lẫn tự do, với một loạt các lực lượng khác, hỗn hợp, ở giữa. Không có phe nào tuyệt đối thắng thế trong số họ.
Giá trị mà người đọc đặt vào các blog nằm ở quan niệm cho rằng tác giả của blog là “độc lập”, thoát ly khỏi những sự nhồi sọ của nhà nước hay của các lực lượng thứ ba. Thế thì họ độc lập tới mức nào? Sai lầm lớn nhất về quan niệm của những nhà không tưởng trên mạng, là coi không gian mạng như một khu vực vô chính phủ, nơi chính quyền không dám bước chân vào trừ phi để đóng cửa ráo cả. Những báo cáo truyền thông khuyến khích quan điểm coi các chính phủ độc tài như những nhà kiểm duyệt Internet có ác cảm với công nghệ hoặc sợ công nghệ.
Tại sao lại giả định rằng người sử dụng Internet ở Trung Quốc sẽ đột nhiên đòi hỏi thêm nhiều quyền lợi chính trị, thay vì thích lối sống trong những bộ phim truyền hình Friends, Sex in the City mà họ xem trên Internet?
Mà tại sao chính quyền lại không theo đuổi một chiến lược hai mũi nhọn – vừa hạn chế đường vào những trang web ít được ưa thích vừa sử dụng Internet để điều khiển ý kiến dư luận? Điều này chính xác là cách các chính phủ độc tài xử lý những mối đe dọa về truyền thông trong quá khứ. Chính phủ Xô Viết không cấm phát thanh; họ phá sóng một số kênh phương Tây nhất định, đàn áp một vài đài bất đồng phát sóng từ nhà riêng, và tận dụng phương tiện truyền thông để yểm trợ cho ý thức hệ của mình. Chính quyền quốc xã cũng có cách xử lý tương tự đối với điện ảnh, cái mà lúc đó là công cụ tuyên truyền được ưa thích ở Đế chế thứ Ba.
Một khối lượng bằng chứng ngày càng lớn từ Trung Quốc và Nga – hai nước tích cực nhất trong việc sản xuất nội dung web – cho thấy mô hình này đang được tiếp tục cả trên Internet. Chính quyền Trung Quốc nổi tiếng về chuyện tạo ra và điều hành cái gọi là Đảng 50 Xu – một đội những tay bình luận trên mạng (commentator) thân chính phủ, sẽ lướt web mò những cuộc thảo luận chính trị hấp dẫn và để lại các comment khuyết danh trên blog và forum. Tương tự, chính quyền Nga thường dựa vào các công ty Internet tư nhân, như công ty hàng đầu New Media Stars (Những ngôi sao truyền thông mới), nơi rất sung sướng được đưa các quan điểm của chính phủ lên mạng. New Media Stars mới đây sản xuất một bộ phim yêu nước, Chiến tranh 08.08.08, phát hành thành công trên mạng và được chào mời trên nhiều blog tiếng Nga, đổ hoàn toàn tội gây chiến tranh ở Nam Ossetia cho Gruzia. Trong khi không gian công cộng trên mạng có thể ngày càng dân chủ hơn (ít nhất về số lượng), thì mặt khác nó cũng bị ô nhiễm nặng nề bởi các nhà điều hành trong chính phủ, khiến không thể phân biệt nổi giữa không gian công cộng thời số hóa với không gian công cộng thời analog – cũ kỹ và bị kiểm soát chặt.
Ngay cả khi chính quyền bất tài, bất lực, hoặc không sẵn sàng trải nhựa đường lên không gian web với những thông tin “chính thức”, cũng có ít bằng chứng cho thấy một không gian Internet mở sẽ đột ngột tạo nên giấc mơ dân chủ cho người Trung Quốc hay người Nga. Chúng ta đã từng gặp chuyện như vậy trước kia: Những người Đông Đức không bắt được sóng của phía Tây Đức chống đối chính phủ cao hơn những người có thể. Ý kiến cho rằng được tháo cũi mở xiềng để truy cập vào Internet sẽ mang lại dân chủ bộc lộ một trong những sai lầm lớn nhất của những nhà không tưởng trên không gian mạng. Một khi người sử dụng Internet được lên mạng mà không bị giám sát, chúng ta có thể mong đợi họ – rất nhiều trong số này là thanh niên – đổ xô vào download báo cáo mới nhất của tổ chức Ân xá Quốc tế, hay đọc về Pháp Luân Công trên Wikipedia chăng? Hay là họ sẽ lựa chọn The Soprano, hoặc bộ phim James Bond mới nhất? Tại sao lại giả định họ sẽ đột nhiên đòi hỏi nhiều quyền lợi chính trị hơn là các phim truyền hình Friends hay Sex in the City mà họ xem trên Internet?
Do đó, vấn đề liệu Internet có hướng người Trung Quốc hay Nga tới việc đòi hỏi một xã hội dân chủ và tự do hơn quy về việc liệu con đường nào – hướng ngoại hay hướng nội – sẽ là con đường mà giới trẻ sẽ chọn đi theo? Có thể dự đoán là, nhiều nhân vật không tưởng trên mạng nuôi dưỡng một niềm tin ăn sâu bén rễ vào việc sự hiểu biết về thế giới sẽ đi liền với Internet. Họ tưởng tượng rằng “những người bản địa số hóa” – tức những người đã lớn lên giữa thời công nghệ và Internet – sẽ chọn con đường hướng ngoại và trở thành người đi tiền trạm cho nền dân chủ, lối sống Mỹ. Logic này thẩm thấu vào gần như tất cả các cơ quan lớn có nhiệm vụ thúc đẩy dân chủ ở nước ngoài, như Bộ Ngoại giao Mỹ, nơi mà Phó Ngoại trưởng Ngoại giao Công và Ngoại vụ thời Condoleezza Rice, James Glassman, từng nói: “Chúng tôi cảm thấy rằng trên khắp thế giới, những người trẻ tuổi đang sử dụng Internet để đẩy lùi bạo lực theo một cách mới, sử dụng mạng xã hội, tham gia những nhóm lớn để có đối thoại, về căn bản, để chia sẻ thông tin”.
Những đánh giá nhiệt tình như vậy cũng làm sản sinh ra những tác phẩm văn chương bình dân hoặc bác học, với số lượng tăng lên nhanh chóng, về các công dân số ở Mỹ và Tây Âu. Các sách như Born Digital (Sinh ra số hóa) của John Palfrey và Urs Gasser, Grown up Digital (Lớn lên số hóa) của Don Tapscott, iBrain (Não điện tử) của Gary Small và Gigi Vorgan, và The Pirate’s Dilemma (Tình thế lưỡng nan của tên cướp biển) của Matt Mason, cũng như một nghiên cứu kéo dài ba năm gần đây về giới trẻ thời số hóa của tổ chức MacArthur, đã ra mắt. Trong những xã hội đã dân chủ, lòng lạc quan về ảnh hưởng của Internet đối với việc thu hút sự tham gia của những công dân trẻ tuổi – thậm chí khái niệm “công dân số” – là một suy nghĩ có lý do xác đáng, nếu không có gì đặc biệt mới mẻ.
Tuy nhiên, ở bên ngoài những nước thịnh vượng và dân chủ ở Bắc Mỹ và Tây Âu, những người bản địa số hóa cũng có khả năng trở thành những người tù số hóa hay những người sống ngoài vòng pháp luật số hóa, một đề tài mà không một nghiên cứu nào gần đây đi sâu làm rõ. Nếu quan niệm rằng Internet có thể làm nguội cảm hứng dân chủ của thanh niên dường như có vẻ phản trực giác, đó chỉ là vì các phương tiện truyền thông đại chúng của chúng ta vẫn bị mê mệt bởi những bài tường thuật cũ mòn, coi blogger như lực lượng tạo ra các thay đổi tích cực. Các tựa báo gần đây vẫn còn nói: “Cộng đồng blogger ngày càng tăng ở Ai Cập mở rộng giới hạn bất đồng chính kiến”, “Từ Trung Quốc tới Iran, những người ghi nhật ký trên mạng đang thách thức các nhà kiểm duyệt”, “Đàn áp blogger ở Cuba”, “Những nhà kiểm duyệt web ở Trung Quốc chiến đấu để rọ mõm các blogger có tinh thần tự do”.
Nhiều bài báo kích động có thể đúng, kể cả nếu có bị thổi phồng chút ít, nhưng nó chịu tác động từ vài nguồn có tính định kiến. Hóa ra, các blogger thường xuyên, tiến bộ, và thân phương Tây có xu hướng viết bằng tiếng Anh nhiều hơn bằng ngôn ngữ bản địa. Do đó, họ cũng là những người thường hay nói chuyện với các phóng viên phương Tây. Nếu các nhà báo đi sâu tìm hiểu hơn một chút, họ có thể phát hiện thấy các chất liệu phong phú để viết những bài báo có tựa đề như: “Blogger Iran – thách thức chủ yếu đối với cải cách dân chủ”, và “Ảrập Xêút: blogger ghét quyền phụ nữ”. Tin bài về blogging ở Ai Cập trên phương tiện truyền thông đại chúng ở phương Tây tập trung hầu như hoàn toàn và duy nhất vào cuộc đấu tranh của những người viết thân phương Tây, mà rất ít đề cập đến lực lượng blogger đang tăng lên nhanh chóng trong cộng đồng thân hữu Hồi giáo.
Gọi một blog của một người anh em Hồi giáo nào đó là “phi dân chủ” có thể mang hai nghĩa. Do đó, các chính phủ phương Tây, bị kẹt trong sự không tưởng trên mạng rất sôi nổi trong suốt hai thập kỷ qua, gặp một thế lưỡng nan. Không có đầu tư của họ vào blog, thì các blogger đông người đọc, và các blog hình ảnh ở những nơi xa xôi về địa lý nhưng quan trọng về địa chính trị, tiếng nói trên mạng của những lực lượng dân chủ và cấp tiến được phương Tây ưa thích, sẽ không còn mang nhiều trọng lượng. Tuy nhiên, đầu tư vào cơ sở hạ tầng truyền thông mới cũng khuyến khích các phần tử bảo thủ, dân tộc, cực đoan, tạo ra thách thức thậm chí còn lớn hơn cho quá trình dân chủ hóa. Nhìn lướt qua chủ nghĩa dân tộc đang nổi lên trên mạng ở Nga và Trung Quốc cũng có thể thấy một cảm giác về những gì sẽ xảy ra.
Vấn đề xảy ra với việc xây dựng không gian công cộng, trên mạng hay ngoài mạng, rất giống chuyện tạo ra những con quỷ nhập tràng Frankenstein: Chúng ta có thể không thích sản phẩm cuối cùng. Điều này không có nghĩa là chúng ta sẽ ngừng coi Internet như một lực lượng dân chủ hóa, chỉ có điều chúng ta nên khai thông ý thức hệ mù quáng về quyết định luận công nghệ và tập trung vào các nhiệm vụ thực tiễn. Xác định rõ Internet có thể làm lợi như thế nào cho các lực lượng và tổ chức dân chủ hiện nay – rất ít trong số đó thể hiện được nhiều sáng tạo trên web – là một xuất phát điểm không tồi.
Nguồn: Đoan Trang blog
-----------
James Hookway – Ở Việt Nam, nhà nước “làm bạn” với các bạn
Hoài Phi dịch
Hà Nội – Internet đặt ra thách thức đối với tất cả các chế độ độc tài trên toàn thế giới.[1] Nhưng giới lãnh đạo Việt Nam nghĩ rằng họ đã tìm ra cách thuần hóa nó – bằng cách khai trương mạng thân thiện với cộng sản để đối lại các mạng liên kết xã hội được ưa chuộng như Facebook.
Đó là mạng go.vn; Tập đoàn Đa truyền thông Việt Nam (VMC) do nhà nước quản lý khai trương bản thử nghiệm mạng này đúng vào ngày 19 tháng 5, sinh nhật của anh hùng cách mạng Hồ Chí Minh. Go.vn có những tính năng quen thuộc với người đã quen “tag” (báo cho bạn bè), “poke” (chọc) và “defriend” (bỏ ai đó ra khỏi danh sách bạn bè): Mọi người có thể đưa ảnh lên, kết nối với bạn bè và nhắn tin qua lại trên mạng.
Với mạng kết nối xã hội này, Việt Nam nhằm mục đích thu hút giới trẻ, chẳng hạn sinh viên trong các tiệm café Internet.
Cái bẫy ở đây là người dùng phải trình tên họ và số chứng minh thư do chính phủ cấp trước khi họ có thể truy cập vào mạng. Bộ phận an ninh giám sát các website ở Việt Nam, nơi nền chuyên chính độc đảng độc tài thẳng tay trừng trị các nhà bất đồng chính kiến.
Mạng go.vn đánh dấu bước ngoặt chiến thuật của các ủy viên Bộ Chính trị của Hà Nội, những người có xu hướng muốn đóng cửa mọi trang web chỉ trích họ. Trong năm vừa qua, nhà cầm quyền đã bỏ tù các blogger bất đồng chính kiến và cố chặn trang mạng Facebook để ngăn các tư tưởng lật đổ phát tán trên mạng.
Trong một bài viết mới đây trên go.vn, Bộ trưởng Bộ Thông tin & Truyền thông Lê Doãn Hợp tuyên bố go.vn là lựa chọn “đáng tin cậy” so với các trang nước ngoài. “Chúng ta sẵn sàng cạnh tranh lành mạnh,” ông cổ vũ giới trẻ vị thành niên Việt Nam vào go.vn tìm kiếm “văn hóa, giá trị và lợi ích”.
Nhưng các bài viết ban đầu về cuộc đời của nhà anh hùng cách mạng Hồ Chí Minh và của các vị tướng nổi tiếng không giúp go.vn thu hút thành viên. Để tránh lối mòn kế hoạch năm năm kiểu Liên xô của Việt Nam, ban quản trị trang mạng đang tăng gia vị để go.vn hấp dẫn hơn.
Tại các văn phòng trang trọng trưng ảnh chủ tịch đầu tiên của Việt Nam thường được biết với cách gọi trìu mến là Bác Hồ, khoảng 400 nhân viên với độ tuổi trung bình là 26 đang làm việc để diệt bọ trong các phần mềm trên trang mạng và cài đặt thêm nội dung, ông Phan Anh Tuấn, phó giám đốc bộ phận đa truyền thông mạng cho biết.
Ban điều hành đã đưa lên mạng một số bài thi tiếng Anh trực tuyến và game được nhà nước cho phép, trong đó có cả một trò chơi bạo lực cho nhiều game thủ, với nội dung là một nhóm chiến binh chiến đấu ngăn chặn sự lan tràn của chủ nghĩa tư bản toàn cầu. Các tin tức gần đây trên go.vn bao gồm tin về các cuộc thi hoa hậu địa phương, về ngư dân ở South Carolina đánh bắt được một con cá có bộ răng giống người, và tin về tình báo Anh đã từng thử nghiệm chế tạo mực vô hình từ tinh trùng.
Bộ trưởng thông tin Lê Doãn Hợp dự đoán là vào năm 2015, go.vn sẽ thu hút được khoảng 40 triệu người – một nửa trong dân số 85 triệu người của Việt Nam.
Nhưng để giành được sự tán đồng của tầng lớp trẻ và ngày càng thông thạo về công nghệ không dễ. Phố phường Hà Nội tràn ngập tiệm Internet nhỏ xíu, nơi các chuyên gia sử dụng que hàn và tăm tre để bẻ khóa iPhone của Apple và các thiết bị khác, giúp chủ nhân của chúng có thể sử dụng bất kỳ mạng điện thoại nào mà họ thích. Thống kê của Google cho thấy những lệnh tìm có nội dung “bẻ khóa” – một thuật ngữ có liên quan chặt chẽ với việc đột nhập vào các phần mềm được bảo vệ – xuất phát từ Việt Nam nhiều hơn bất cứ nước nào khác trên thế giới.
Một số người Việt tìm cách đi vòng rào cản chặn Facebook bằng cách sử dụng các cầu nối trung gian (proxy server) hoặc thay đổi cài đặt trong máy tính. Những người khác phát động chiến dịch trên mạng tẩy chay các trang web địa phương như go.vn bất chấp những thay đổi trang này đang tiến hành. “Hãy làm cho “go” biến đi” là nội dung của một tin nhắn trên mạng.
Nhiều người Việt nhún vai khi được hỏi về go.vn. “Thậm chí tôi không biết là nó tồn tại,” Phạm Thành Công, sinh viên năm thứ tư khoa lý tại Đại học Bách khoa cho biết; Công đang đợi đến lượt mình để chơi trò bắn-chúng-nó-đi trên mạng tại một quán cà phê Internet ngoài phố.
Chính những người sử dụng mạng như Công là đối tượng mà go.vn muốn thu hút. Phó giám đốc bộ phận đa truyền thông Tuấn nói ông hy vọng trang mạng này sẽ thu hút được lượng thành viên lớn trong số các game thủ cuồng nhiệt của Việt Nam bằng cách cung cấp một số trò chơi được họ ưa chuộng với giá rẻ và dễ truy cập. “Đây là nền tảng vững chắc cho chúng tôi,” ông Tuấn cho biết. Bản thân ông năm nay mới 33 tuổi.
Việc Việt Nam đề xướng sáng tạo ra các cổng điện tử thân thiện với chính quyền cho thấy sự bất an của nhà nước trước tốc độ mà Internet đang đe dọa các phương tiện truyền thông được kiểm duyệt chặt chẽ khác ở nước này như truyền hình và báo chí. Việt Nam ghi nhận có 26 triệu người sử dụng Internet vào tháng Tám – tăng 18% so với cùng kỳ năm ngoái, và là một trong những tỉ lệ tăng nhanh nhất tại các nước đang phát triển.
Vào tháng Ba, các kỹ thuật viên an ninh của Google và công ty an ninh máy tính McAfee thông báo họ tìm ra các phần mềm độc hại rõ ràng được sử dụng để do thám các nhà bất đồng chính kiến và đánh sập các trang mạng của họ. Chính phủ Việt Nam bác bỏ việc đứng sau các cuộc tấn công trên mạng, và không trả lời các yêu cầu bình luận về việc chặn Facebook.
Vào thời điểm đó, Facebook tuyên bố rằng “chúng tôi rất lấy làm thất vọng nếu người sử dụng ở bất kỳ nước nào gặp khó khăn khi truy cập Facebook.”
Theo các quan chức chính phủ, hệ thống mạng giết-Facebook của Việt Nam [go.vn-ND] là đầu tư trên mạng lớn nhất của nước này tính đến nay, mặc dù họ không cho biết đã tiêu tốn bao nhiêu để xây dựng mạng này; họ cũng không cho biết đã có bao nhiêu người đã đăng ký vào mạng để xem.
Ông Tuấn cũng hy vọng sẽ nhận được phản hồi từ một số người sử dụng để cải tiến trang web. Nhưng những gì người sử dụng thực sự đang nghĩ có thể đến chậm hơn mong muốn của ông Tuấn. Ông cho biết, “Cho đến nay, vẫn chưa có nhiều phản hồi.”
Nguyen Anh Thu từ Hà Nội có đóng góp cho bài báo này.
Từ Cộng đồng Nhật ký (Journal Community):
Kevin Trump – Tôi thử vào trang web của họ, nhưng tốc độ truyền cực kỳ chậm. Có thể họ cần cải tiến bandwidth (dải tần số) và capacity (dung tích).
David Richman – Bởi vì có quá nhiều tường lửa an ninh và quá nhiều trạm giám sát. Nhiều dải tần số và dung tích lớn hơn cũng sẽ không giúp cho tốc độ truyền nhanh hơn được; đó là nút thắt cổ chai.
Nguồn: “In Vietnam, State ‘Friends’ You”, The Wall Street Journal, 4.10.2010
Bản tiếng Việt © 2010 talawas
[1] Mời độc giả tham khảo bản “lược thuật” bài báo này trên trang go.vn: “Mạng Việt Nam Go.vn lên Wall Street Journal” trong đó có đoạn, “Internet đặt ra thách thức đối với các chế độ cầm quyền trên khắp thế giới. Nhưng các nhà lãnh đạo Việt Nam nghĩ họ đã tìm ra một cách mới để khuất phục nó – bằng cách tung ra câu trả lời của chính mình cho các mạng xã hội như Facebook”.
- James Hookway: Ở Việt Nam, nhà nước “làm bạn” với các bạn — (talawas). “Internet đặt ra thách thức đối với tất cả các chế độ độc tài trên toàn thế giới.[1] Nhưng giới lãnh đạo Việt Nam nghĩ rằng họ đã tìm ra cách thuần hóa nó – bằng cách khai trương mạng thân thiện với cộng sản để đối lại với các mạng liên kết xã hội được ưa chuộng như Facebook. Đó là mạng go.vn”.Và mạng go.vn lấy bài báo đem khoe, nhưng cắt xén, lắp ghép sao cho ngon, được gọi là “lược thuật”.- Và đây là vài bình luận ngắn liên quan có cái tựa lạ: Poked by the Politburo? (Foreign Policy).