Lời nói đầu
Trưa thứ bảy, cuối tuần tháng 1-2008, hội hải quân Bạch Đằng đến họp tại Viện Bảo Tàng để thảo luận về việc thiết lập một sa bàn Hoàng Sa. Các bạn trao tặng bộ quân phục thủy thủ cùng rất nhiều hình ảnh và tác phẩm liên quan đến trận hải chiến 34 nằm về trước. Những tác phẩm viết về Hải quân Việt Nam Cộng Hòa và đặc biệt có trên mười tác giả viết về biến cố Hoàng Sa ngày 19 tháng 1 năm 1974. Hồi ký của tư lệnh hải quân vùng 1, của vị chỉ huy hải đội Hoàng Sa, của trung tâm trưởng hành quân biển tại Sài Gòn, các hạm trưởng, sỹ quan trên chiến hạm tham chiến số 4, 5, số 10 và 16, của biệt kích trên đảo, sĩ quan truyền tin trên soái hạm, của thủy thủ trôi giạt trên biển, của anh em đoàn viên và địa phương quân bị bắt tù binh đưa về Trung Quốc.
Khối tài liệu hết sức phong phú trên ngàn trang phải đọc suốt cả tuần lễ chưa hết. Đặc biệt trong khi quí vị cấp trên viết còn dè dặt thì anh em cấp dưới viết ra tất cả mọi chi tiết hết sức chân thật và rõ ràng. Những anh em mang đến tài liệu cho chúng tôi, ngày xưa vốn là các thiếu tá và cấp úy trẻ trung của biển cả, ngày nay tuổi đã về chiều mà tấm lòng nặng chĩu tâm tư khi nghe tin các hải đảo xa xôi lại một lần nữa rơi vào tay địch. Trong số các chiến hữu có mặt tại San Jose, chúng tôi đã gặp được một người, hết sức tình cờ và hết sức đặc biệt.
Người chỉ huy pháo HQ 16
Đó là hải quân đại úy Đoàn viết Ất, nguyên sĩ quan pháo thủ của HQ 16,con tầu mang tên danh tướng Lý thường Kiệt. Năm 1974, khi tàu rẽ sóng đi Hoàng Sa, trung úy Ất tưởng chỉ làm một chuyến hải hành tiếp tế như thường lệ, nào ngờ ông đã tham dự vào trận đánh lịch sử. Chuyến về trên con tàu bị thương với cõi lòng tan nát vì đã bỏ lại đồng đội trên hải đảo và biển cả. Trung úy Ất cùng một số hải quân được tuyên dương anh hùng, thăng cấp đặc cách tại mặt trận. Ngày nay, ông Ất đang đóng vai một người dân tỵ nạn hiền lành sống rất bình dị bên cạnh chúng ta. Ai biết đâu con người ấy, ngày xưa cũng đã từng là một chiến sĩ dũng cảm của hải quân. Trong chiến trường, binh thư viết rằng khi lâm trận, cấp úy ở ải địa đầu là những người quyết định thắng bại. Trên các chiến hạm vào ngày đầu năm 74, sống chết của con tàu trông cậy vào các trung úy chỉ huy pháo thủ. Trên chiến hạm HQ 16 vào buổi sáng hôm đó, số mạng trong tay Trung úy Ất, ngồi bên cây đại bác 125 ly, nạp đạn chạm nổ, hướng thẳng vào đài chỉ huy của con tàu địch trước mắt. Sẵn sàng chuẩn bị bắn trực xạ.
Phóng đồ Hải Chiến Hoàng Sa.
Cuộc đời Đoàn viết ẤtSau trận Hoàng Sa, miền Nam ca ngợi chiến công của hải quân anh hùng. Trong số các sĩ quan con sống mà được vinh thăng có trung úy Đoàn viết Ất. Ất người Nam Định, 54 theo cha mẹ di cư vào Sài Gòn. Sinh viên đại học Vạn Hạnh. Năm 20 tuổi vào hải quân. Học thêm anh văn tại Sài Gòn rồi thụ huấn căn bản quân sự tại Quang Trung. Năm 70 được gửi đi học tại trường hải quân Hoa Kỳ khóa 4-OCS. Vào thời kỳ đó sinh viên sỹ quan hải quân Đoàn viết Ất đã có dịp học lái tàu Mỹ tại vùng Vịnh Cựu Kim Sơn. Khi về nước, chuẩn úy Ất nhờ có đệ tam đẳng Thái cực đạo nên được làm huấn luyện viên võ thuật. Cuộc đời đưa đẩy, trải qua các đơn vị, lên thiếu úy rồi trung úy thì bắt đầu xuống HQ 16 làm sỹ quan trách nhiệm dàn pháo cho chiến hạm. Các vũ khí dưới tay gồm có cây 125 ly, lớn hơn cả đại bác 105 của bộ binh. Những cây 40 ly một nòng và cây 40 ly nòng ghép đôi. Các bách kích pháo. Súng cá nhân, áo giáp và nón sắt. Cùng với các đoàn viên xạ thủ đầy kinh nghiệm, trung úy Ất chỉ huy anh em vào nhiệm sở tác chiến với một tinh thần hăng hái rất hào hùng. Khi con tàu Lý thường Kiệt phải đoạn chiến về đến bến bờ quê hương, nhớ lại cảnh chiến hữu bị bỏ lại, lòng dạ hết sức não nề. Một năm sau, 1975 theo hạm đội hải hành chuyến cuối cùng anh bỏ lại vợ con, vì vậy đại úy Ất quyết định từ giã hải quân tại Côn Sơn, xuống tàu trở lại Việt Nam. Đây là một quyết định sai lầm phải trả giá 6 năm tù gọi là tập trung cải tạo trên miền biên giới Bắc Việt. Ngay sau khi được trả tự do, cựu đại úy hải quân đã có nhiều nơi móc nối để lái tàu vượt biên. Năm 1983 cả gia đình đến Bidong và sau cùng về định cư tại San Jose. Hai mươi năm qua chỉ làm một việc, cho một hãng. Nghề sửa máy điện tử. Bây giờ ông già 60 tuổi theo phái tu thiền tại gia, tuyệt thực mỗi buổi chiều. Buổi tối ngày 15 tháng giêng năm 2008 gần 34 năm trước sắp đến giờ khai hỏa trận Hoàng Sa, công dân Mỹ gốc Việt tên At Doan ngồi nhớ lại lúc con tàu lướt sóng vào vùng hải chiến giữa các đảo Vĩnh Lạc, Cam Tuyền, Quang Hòa và Duy Mộng.
Di chúc của tiền nhân
Với ngàn năm đô hộ giặc Tàu, Việt Nam trải qua bao phen chống xăm lăng. Từ nhà Hán, nhà Ngô cho đến giặc Mông Cổ. Rồi nhà Minh, nhà Thanh. Quân dân ta phải chống giặc Bắc phương suốt 4 ngàn năm lập quốc. Trận hải chiến cuối cùng vào đời nhà Trần cách đây 7 thế kỷ. Vua Trần Nhân Tông đã để lại di chúc như sau:
“Các người chớ quên nước lớn thường làm điều trái đạo. Họa muôn đời của ta là Trung Hoa. Họ không tôn trọng quy ước và biên giới. Luôn luôn bày đặt chuyện để gây hấn. Không thôn tính được thì gặm nhấm đất đai của ta. Vậy các ngươi phải nhớ lời ta dặn. Một tấc đất cũng không để lọt vào tay kẻ thù. Đây là di chúc cho con cháu muôn đời." Trần Nhân Tông (1279-1293)
Chiến hạm VNCH.
Trận Hoàng SaVào lúc 10 giờ sáng ngày 19 tháng 1 năm 1974, trận Hải chiến lịch sử giữa Hải quân Việt nam Cộng Hòa và Hải quân Trung Cộng diễn ra tại Hoàng Sa. Nguyên do vì sao? Di chúc của vua Trần Nhân Tông để lại hơn 700 năm đúng từng chữ một. Vẫn là họa phương Bắc. Nước lớn không tôn trọng quy ước. Bày đặt chuyện gây hấn. Gặm nhấm đất của ta. Trận hải chiến hết sức anh hùng của lực lượng hải quân nhỏ bé VNCH đã khai diễn với anh khổng lồ Trung Quốc. Trước khi nổ súng, chiến hạm hai bên đã cài răng lược, vì vậy chỉ vài giây phút đầu tiên là quyết định trận đánh. Gần nhau đến nỗi đại bác của ta bắn trượt tàu địch đã xéo qua tàu bạn.Trong vòng 30 phút đầu tiên, chiến hạm HQ 10 bên ta bị bắn trúng đài chỉ huy và hoàn toàn bất khiển dụng. Hạm trưởng tử trận chết theo tàu, hạm phó ra lệnh đào thoát, sau đó ông phó chết trên xuồng cấp cứu vì vết thương quá nặng. HQ 16 sau khi hạ được một chiến hạm của địch cũng bị thương rất nặng. Hạm trưởng và thủy thủ đoàn cố cứu con tàu ra khỏi chiến trường. Bên địch có hai chiến hạm bốc cháy và hai tàu còn lại chịu thương vong nhưng vẫn còn chuyển vận. Những hình ảnh sau cùng ghi nhận được hết sức hào hùng nhưng đồng thời cũng hết sức thương cảm. Hải quân đào thoát từ HQ 10 ngồi trên bè cấp cứu bị tàu địch bắn theo. Nhưng đặc biệt còn thấy chiến hữu từ chiến hạm không bỏ tàu vẫn tiếp tục tác xạ qua tàu địch.
Bút ký của người còn sống có ghi rõ cả tên các thủy thủ Việt Nam đang bắn những viên đạn sau cùng. Nước biển trên đầu ngọn sóng làm nhạt nhòa nước mắt của những lính bỏ tàu. Truyện kể của những anh em từ hải đảo xuống bè di tản khi thấy bên ta bắn chiến hạm địch bốc cháy đã cùng nhau cất tiếng hát trên biển Hoàng Sa.
Bài ca bất hủ đó là bản Việt Nam, Việt Nam. Hãy tưởng tượng giây phút lạ lùng giữa trùng khơi dậy sóng với lửa đạn vang trời, ai cất được tiếng hát.. Nghe tự vào đời.. Việt Nam nước tôi...
Năm 74, dầu sôi lửa bỏng
Tháng giêng năm 1974 không phải là lúc Miền Nam thái bình thịnh trị. Hiệp ước Ba Lê đã ký xong nhưng hai bên vẫn còn chiến đấu trong trận giành dân lấn đất. Với chương trình Việt Nam hóa chiến tranh, Hoa kỳ đã rút hết quân về. Xa hơn nữa, ngay từ năm 1970, Mỹ đã tuyên bố dứt khoát không tham dự vào cuộc tranh chấp các hải đảo ở biển Đông. Trong khi quân Mỹ rút thì Việt Nam Cộng Hòa bùng lên tia hy vọng mới. Tin biển Đông có dầu làm tổng thống Thiệu nói với nội các là dường như ông Trời ngó lại. Một thùng dầu thô được lệnh đem lên đốt tại Nghĩa trang quân đội Biên Hòa trong buổi lễ tưởng niệm để linh hồn 16 ngàn tử sĩ phù hộ cho đất nước một tương lai tốt đẹp. Nhưng chính niềm vui ngắn ngủi đã nằm trong thiên tai. Trường Sa là nơi có nhiều triển vọng của kho tàng đáy biển. Muốn lấy Trường Sa thì Trung Cộng phải thôn tính Hoàng Sa.
Trong lúc VNCH còn phải lo trong nội địa thì Trung Quốc cho hải quân đóng vai ngư phủ xâm nhập phía đông của quần đảo. Đúng như vua Trần đã nói, chúng cứ gặm nhấm dần dần. Căn cứ vào địa lý nhân văn, căn cứ vào di tích lịch sử, căn cứ vào hiện trạng thềm lục địa, dứt khoát toàn bộ Hoàng Sa và Trường Sa là của Việt Nam. Từ ngàn xưa cho đến ngàn sau. Nhưng đất nước đang chiến tranh, sức đâu mà có đủ phương tiện trấn giữ cả trăm hải đảo cô quạnh giữa trùng khơi. Vì vậy, thừa nước đục thả câu, các quốc gia lân bang xâu xé. Từ Trung Hoa đỏ của Bắc Kinh cho đến Trung Hoa vàng của Đài Bắc. Rồi Mã Lai, Indo và Phi luật tân đều nhào vô giành hải đảo. Nhưng có kế hoạch và tham lam nhất vẫn là người Tàu. Từ Trung Hoa ngày xưa cho đến Trung Cộng ngày nay, mộng bá quyền của người phương Bắc luôn luôn là cơn ác mộng của phương Nam.
Châu chấu đá voi
Ngày 15 tháng 1 năm 1974 chiến hạm HQ 16 lên đường ra Hoàng Sa đưa địa phương quân Quảng Nam ra thay phiên trấn thủ lưu đồn. Ngày 17 tháng 1 khi đổ bộ lên đảo đã gặp Hồng quân. Từ trước đến nay vẫn gặp dân đánh cá xua đuổi là chúng bỏ đi, những lần này lại là hải quân Trung Cộng. Đô đốc Hồ văn Kỳ Thoại tư lệnh hải quân vùng I cảm thấy chuyện bất thường. Nhân lúc tổng thống Thiệu ra kinh lý, nội vụ được trình trực tiếp. Sau phần trình bày của vị tướng hải quân, ông Thiệu ngồi xuống lấy giấy bút viết tay trong 15 phút một bản văn lịch sử. Đây là chỉ thị căn bản của trận hải chiến duy nhất đã xảy ra giữa Việt Nam và Trung Hoa trong thế kỷ thứ 20.
Tướng Thoại đã ghi lại trong tác phẩm "Can trường trong chiến bại" chương 16 đại ý như sau.
Lệnh viết tay của trung tướng Thiệu chỉ thị áp dụng các biện pháp xua đuổi ôn hòa, bắn dọa cảnh cáo và sau cùng thì dùng vũ khí để bảo vệ lãnh thổ. Quyết không để mất một tấc đất nào.
Tất cả mọi người hiện diện đều không có ý kiến. Các tướng lãnh và phái đoàn chính phủ tháp tùng không ai lên tiếng. Không có bàn thảo gì hết. Xem ra ông Thiệu hết sức cô đơn và cương quyết trong quyết định lịch sử rất có thể bùng nổ lớn mà không ai tiên đoán được. Vẫn theo bản tính của ông, không ra lệnh chi tiết về việc khai hỏa. Không cần thảo luận về việc khả năng hùng mạnh của toàn thể hải quân Trung Cộng. Chỉ riêng hạm đội Hải Nam cũng có thể tung ra 10 chiến hạm phục kích vây chung quanh hạm đội Việt Nam và diệt gọn. Rõ ràng là một quyết định châu chấu đá voi, dựa trên tình tự dân tộc với mối thù từ ngàn năm trước.
Sau cùng châu chấu cũng đành phải đá voi.
Hạm đội Hà văn Ngạc
Từ Sài Gòn đại tá Hà văn Ngạc bay ra Đà Nẵng nhận lãnh chức vụ chỉ huy cuộc chiến lấy lại Hoàng Sa. Đô đốc Hồ văn Kỳ Thoại tiễn ông đại tá Sài Gòn lên HQ 5, mang hiệu kỳ soái hạm lên đường. Chia tay trên cầu tàu căn cứ Đà Nẵng, ông Thoại viết lại rằng đôi mắt chiến hữu nhìn nhau, cùng cảm thấy sắp có biến cố lịch sử. Lệnh phải bảo vệ đất nước được ghi rõ ràng từ tổng tư lệnh. Quân xâm lăng lần này đâu có dễ thuyết phục. Hoàng Sa là con đường đi xuống Trường Sa, mỏ dầu tương lai của cả Đông nam Á. Hoa Kỳ lại xác nhận là không can thiệp. Giặc Tàu đã chuẩn bị cuộc xâm lăng chắc chắn sẽ không bỏ đi. Lính thủy Việt Nam với 4 con tàu cũ sẽ lâm chiến trong hoàn cảnh hết sức cô đơn trên biển cả mênh mông. Từ tướng cho đến quân, ai nấy đều biết rằng phải khai hỏa trước. Không thể bắn cảnh cáo dọa dẫm gì hết. Tiên hạ thủ vi cường. Điều quan trọng là khai hỏa vào lúc nào và ai sẽ là người ra lệnh khai hỏa. Đại tá Hà văn Ngạc xuống con tàu mang tên danh tướng Trần bình Trọng, phen này nếu chẳng may sa vào tay địch chắc lại phải làm quỉ nước Nam, còn hơn làm vương đất Bắc.
Khói lửa biển san hô
Buổi sáng hôm đó trời trong sáng, vào lúc 10 giờ thì tàu hai bên đã gần nhau. Bên địch bên ta kèm nhau từng chiếc một. Ngẫu nhiên mỗi bên đều có 4 chiến hạm. HQ 16 có HQ 10 bên tay mặt làm thành phân đội số 2. Soái hạm HQ 5 đi với HQ 4 là phân đội 1 vòng xuống phía đông nam đánh vào đảo Quang Hòa. Lập tức 2 tàu địch tách ra ứng chiến. Hỏa lực của hai bên tương đương, nhưng tàu địch tối tân hơn, chạy nhanh hơn, thân nhỏ sàn tàu thấp tạo thành mục tiêu di động và nhỏ bé hơn chiến hạm của Việt Nam. Các vị chỉ huy của bên ta đều dự trù sẽ nổ súng trước khai thác yếu tố bất ngờ. Vả lại, địch là kẻ xâm lăng, chiếm đất ta, ta có quyền nổ súng. Lúc đó Trung úy Ất 24 tuổi, ngồi trấn thủ cạnh cây đại bác quyết định chiến trường với 125 ly nòng dài. Phía trước mặt là 2 tàu chiến của Trung Cộng chế ngự trước đảo Duy Mộng. Trung tá Lê văn Thự trên con tàu Lý Thường Kiệt đã xoay trở mấy ngày qua nên quen thuộc với khu vực đầy bãi đá ngầm và san hô. Pháo đội trưởng rất tin tưởng vào dàn xạ thủ nhiều kinh nghiệm với những năm yểm trợ hải pháo cho bộ binh vùng duyên hải Trung phần. Các hạ sĩ quan đều vững tay nghề và tinh thần hết sức cao. Cũng có thể chưa thấy quan tài chưa đổ lệ.
Thực sự thì cả hai bên đều chưa hề có kinh nghiệm hải chiến trên biển cả. Sách vở và chỉ thị dùng đạn xuyên phá nhưng trung úy Ất cho nạp toàn đạn chạm nổ. Gần thế này mà xuyên phá thì hỏng hết. Phải chạm nổ mới có kết quả. Lại có lệnh bắn yểm trợ cho bộ binh trên đảo trước. Mấy bác hạ sĩ quan thâm niên đến bên cạnh thì thào vào tai anh trung úy trẻ. Ta cứ nhằm vào đài chỉ huy mà ra tay trước. Nếu cứ phơi mình ra mà bắn yểm trợ lên đảo thì chết hết còn đâu mà yểm trợ bộ binh. Nhớ lại chuyện 34 năm trước, ông Ất kể rằng, chúng tôi cứ hướng vào đài chỉ huy của tàu địch. Địch di chuyển là các nòng súng 125 và 40 ly theo sát. Phía bên địch cũng quay súng hướng về chúng tôi như vậy. Giây phút nghẹt thở kéo dài. Lệnh từ soái hạm cho HQ 10 bắn trước. Nghe tiếng nổ là các tàu khai hỏa đồng loạt. HQ 16 hạ được một tàu địch và phía bên phân đội 2 của HQ4 và 5 bắn cháy một tàu. Ngay sau đó thì HQ 10 bị địch bắn xập đài chỉ huy.
Trong hải chiến, mục tiêu chính là đài chỉ huy, nơi tập trung bộ phận lái tàu, hệ thống điện, truyền tin. Kế tiếp là dàn pháo của tàu địch. Phần còn lại nằm dưới mặt nươc, phải tấn công bằng thủy lôi nhưng chiến hạm không được trang bị. Súng bắn qua lại như mưa. Trung úy Ất thấy rõ hai chiến hạm địch bốc cháy. Bên HQ 10 có lệnh bỏ tàu, tình thế rất bi thảm. Cùng lúc đó HQ 16 bị trúng thương nặng, lệnh bỏ tàu đã ban hành những sau đã kịp thu hồi và cố gắng xoay trở để rời khỏi chiến trường. Hai chiến hạm của phân đội 1 cũng đã trên đường triệt thoải khỏi vùng hải chiến. Hai chiến hạm địch còn lại cũng bị thương nặng nên không đủ sức truy kích. Nếu không chắc chắn HQ 16 không thể tiếp tục chiến đấu để tồn tại. Con tàu chỉ còn một máy, không có điện phải vận chuyển bằng tay, cố lết ra khỏi quần đảo Hoàng Sa.
Rời khỏi trận địa khoảng 11 giờ sáng, đại úy Ất còn nhớ lúc 3 giờ chiều chưa ra khỏi chiến trường. Nhìn về phía sau thật xa vẫn còn thấy chiến hữu trên đảo vẫy tay gọi tàu vào đón. Con tàu không còn khả năng tự xoay trở nên đã đành đoạn bỏ lại đoàn viên tuyệt vọng mỗi lúc một xa dần. Sang ngày hôm sau toàn thể hạm đội Hải Nam của Trung Cộng mới ào ạt tiến đến và bắt tất cả các quân nhân của ta đem về lục địa. Sau đó trao trả tại Hồng Kông. Còn các chiến binh thả trôi trên bè cấp cứu đã nhờ ngọn gió Đông thổi vào đất liền, trôi giạt cho đến khi tàu buôn và ghe chài vớt được trả về cho đơn vị.
Giấc mơ của Đại úy Ất
Trung úy Đoàn viết Ất với chiến công trên HQ 16 trong trận Hoàng Sa đã được đặc cách lên đại úy. Chính vì cấp bậc này, cộng thêm khả năng lái tàu Mỹ, ông được cộng sản gia tăng thêm 3 năm thành 6 năm “cải tạo”. Khi ra tù, lại nhờ khả năng lái chiến hạm nên bà con móc nối cho lái ghe vượt biên mới có cơ hội trở lại vịnh Cựu Kim Sơn quen biết từ năm 70.
Ba mươi tư năm sau, bác Ất quê Nam Định ngồi nhớ lại hình ảnh con tàu HQ 10 nằm trên biển san hô. Biết rằng bây giờ ta đánh thì không lại quân Tàu, những vật đổi sao rời, cũng có ngày nước Trung Hoa chia năm xẻ bảy. Việt nam hậu sinh lấy lại được Hoàng Sa sẽ trục con tàu anh hùng lên làm thành một đài kỷ niệm như người Mỹ đã làm ở Trân châu Cảng xứ Hạ Uy Di. Ai mà biết giấc mộng đó sẽ không phải là thực. Trong khi chờ đợi, đại úy Đoàn viết Ất sẽ cùng đại úy hải quân Phạm bách Phi làm một sa bàn Hoàng Sa cho viện Bảo tàng để con cháu thuyền nhân tỵ nạn Việt Nam đến xem ông cha ta ngày xưa châu chấu đá voi ra làm sao.
Lệnh khai hỏa
Khi đặt bút viết bài này có tựa đề là Lệnh Khai Hỏa. Tác giả là một chiến binh lục quân chân đất, hoàn toàn không có kiến thức hải quân nên chỉ xin lạm bàn chút đỉnh. Lệnh khai hỏa thực sự bắt đầu từ đâu và vào lúc nào? Đề đốc Kỳ Thoại viết trong chương sách về trận Hoàng Sa có ghi rằng đại tá Ngạc chỉ huy hạm đội xin ông lệnh khai hỏa. Qua máy truyền tin tiếng súng bắn tại Hoàng Sa, đại tá Ngạc mở lớn cho ông Thoại nghe thấy. Bút ký của sĩ quan truyền tin trên HQ 5 cũng ghi rõ đoạn này. Tài liệu bằng Anh ngữ của đại tá Đỗ Kiểm thuộc bộ tư lệnh hải quân Sài Gòn lại ghi rằng đại tá Ngạc điện thoại về xin lệnh khai hỏa của đề đốc tư lệnh hải quân. Lúc đó tư lệnh đang trên đường bay ra Vùng I. Vì chuyện khẩn cấp nên đại tá Kiểm xin lệnh của đô đốc Diệp quang Thủy tham mưu trưởng có mặt tại bộ tư lệnh Sài Gòn. Nhân lúc họp bạn với anh em hải quân để viết lại câu chuyện làm phim, tôi có dịp nói chuyện thêm chi tiết với đô đốc Thủy. Bây giờ đại tá Hà văn Ngạc không còn nữa. Người viết chuyện tò mò muốn tìm hiểu đành phải suy nghĩ rằng trước khi nổ súng ông đã gọi bộ tư lệnh hải quân để xin phép trước. Qua đề đốc Diệp quang Thủy ông được lệnh Sài Gòn. Sau đó ông cẩn thận xin lệnh Đà Nẵng qua đề đốc Hồ văn Kỳ Thoại, và lệnh khai hỏa bắt đầu. Tuy nhiên dù lệnh ra sao thì cũng chỉ qua giấy tờ và máy truyền tin.
Lệnh khai hỏa đích thực sau cùng trên chiến hạm bằng khẩu lệnh là của cấp úy như ông trung úy Đoàn viết Ất. Lúc đó Trung úy Ất mới 24 tuổi, dân Nam Định. Ông là người tin vào những chuyện số mệnh linh thiêng huyền bí. Dù rằng lệnh xuống theo hệ thống quân giai từ tổng thống, tư lệnh hải quân, tư lệnh vùng, chỉ huy hạm đội, hạm trưởng rồi mới đến tai ông. Nhưng theo tiếng gọi từ nơi xa thẳm thì cái lệnh khai hỏa đã bắt đầu từ vua nhà Trần. Bẩy trăm năm về trước Đức Trần Nhân Tông đã ra lệnh bắn quân Tàu. Tư lệnh quân đội thời đó là Đức Hưng Đạo đại vương, Trần quốc Tuấn. Có phải ngẫu nhiên hay không, vua quan nhà Trần thời đó cũng là người quê ở Nam Định, chẳng khác gì ông tỵ nạn vô danh Đoàn viết Ất ngày nay đang lưu lạc ở San Jose. Mỗi sáng vào hãng sửa vài cái máy điện toán, bữa ăn trưa là lần cuối trong ngày. Chiều chiều ghé vào nhà con trai kèm bài cho cháu nội. Ông pháo thủ hải quân bỏ lại dàn đại bác từ hơn ba mươi năm trước ở cuối chân trời. Từ ngày đó đến nay chẳng bao giờ còn nghe thấy lệnh khai hỏa của các cấp chỉ huy.
Giao Chỉ
-Đọc cuốn “Hải Chiến Hoàng Sa” Trần Bình Nam
Cuốn Hải Chiến Hoàng Sa do Ủy Ban Nghiên Cứu Trận Hải Chiến Hoàng Sa soạn thảo. Ủy ban được gọi tắt là Ủy Ban Hoàng Sa (UBHS) và do Tổng Hội Hải Quân & Hàng Hải Việt Nam Cộng Hòa và Hội Đồng Hải Sử bảo trợ thành lập. UBHS ra đời năm 2004 và cuốn Hải Chiến Hoàng Sa là kết quả của 6 năm làm việc không ngừng của UBHS do cựu Hải Quân Thiếu Tá Trần Trọng Ngà làm Trưởng Ban cùng với 7 Ủy viên khác đều là cựu sĩ quan hải quân.
Trận hải chiến Hoàng Sa giữ gìn bờ cõi giữa Hải quân Việt Nam Cộng Hòa (HQ/VNCH) và Hải quân Trung quốc (HQ/TQ) ngày 19/1/1974 là trận hải chiến đầu tiên với vũ khí hiện đại trong lịch sử Việt Nam không kể những trận hải chiến bằng tàu thuyền gỗ giữa các đội thủy quân Việt Nam với Chiêm Thành và Trung quốc trong những thế kỷ trước.
Trận hải chiến Hoàng Sa đã làm mất nhiều giấy mực. Nhưng trong xúc động và xáo trộn của biến cố 30/4/1975 liền sau đó các sự việc của trận đánh (như nguyên nhân, diễn tiến, kết thúc, thắng bại, hoạt động ngoại giao…) chưa được phân tích đầy đủ. Các tài liệu được viết đã khác nhau ở rất nhiều điểm then chốt, ngay cả sự kể lại diễn tiến trận đánh của các sĩ quan chỉ huy trận đánh, Hải Quân Đại Tá Hà Văn Ngạc và 3 vị hạm trưởng tham dự trận chiến còn sống sót. Hải Quân Trung Tá Vũ Hữu Sa
n chỉ huy chiến hạm HQ 4, Hải Quân Trung Tá Phạm Trọng Quỳnh chỉ huy chiến hạm HQ 5, Hải Quân Trung Tá Lê Văn Thự chỉ huy chiến hạm HQ 16. Hải Quân Thiếu Tá Ngụy Văn Thà chỉ huy chiến hạm HQ 10 đã tử trận khi lâm chiến.
Ngày 30/4/1975 khi đoàn tàu HQ/VNCH rời khỏi nước không ai mang theo các tài liệu liên quan đến trận hải chiến, trong đó có một tài liệu quan trọng là Bản Tường Trình của Ủy Ban điều tra về trận đánh của Bộ Tư Lệnh Hải Quân (BTL/HQ). Nếu có tài liệu này sự tranh cãi giữa các nhân vật liên hệ có thể đã không diễn ra hay ít nhất cũng giới hạn được rất nhiều các điểm cần tranh cãi.
Đại tá Hà Văn Ngạc trước khi qua đời năm 1999 tại Hoa Kỳ có viết một tài liệu nhan đề “Trận Hải chiến lịch sử Hoàng Sa” nói về trận đánh. Đây là tài liệu có thẩm quyền nhất của người trong cuộc. Nhưng một số hạm trưởng trong hải đoàn đặc nhiệm bảo vệ Hoàng Sa của ông nhìn diễn tiến cuộc chiến qua lăng kính của chiến hạm họ chỉ huy đã nêu ra nhiều điểm khác biệt. Và trong nội bộ HQ/VNCH đã có những cái nhìn rất khác nhau ngoài mẫu số chung là HQ/VNCH đã giao chiến với HQ/TQ khi Trung quốc muốn chiếm toàn bộ quần đảo Hoàng Sa. Sự khác biệt nhau rất rộng ngay cả sự đánh giá thắng hay bại.
Thậm chí khi Hội Bạch Đằng ở San Jose tự sưu tầm tài liệu và nhân chứng thực hiện một DVD ngắn nói về trận hải chiến Hoàng Sa được vị cựu Tư Lệnh Hải Quân Trần Văn Chơn và nhiều sĩ quan HQ/VNCH khác xem là tương đối gần sự thật nhất cũng đã gặp phải sự “phiền hà” gay gắt của một trong 3 hạm trưởng còn sống sót khi DVD nói một trong 4 chiến hạm tham chiến đã gặp trở ngại tác xạ sau phát súng đại bác đầu tiên.
Có lẽ đó là lý do UBHS ra đời với mục đích nghiên cứu để viết một tài liệu lịch sử thật chính xác về cuộc hải chiến Hoàng Sa. Thiếu Tá Trần Trọng Ngà trưởng ban, và Trung Tá Nguyễn Mạnh Trí, ủy viên UBHS tâm sự rằng để đạt mục đích này UBHS đã phải cố gắng hết mình gạt bỏ ra ngòai mục tiêu tuyên truyền và các xúc động cá nhân.
Thiện chí của UBHS thể hiện trong cách sắp xếp công việc của Ủy Ban không theo thủ tục thường lệ là sĩ quan thâm niên nhất làm trưởng ban. Trung Tá Nguyễn Mạnh Trí khóa 10 SQHQ Nha Trang là một người nghiên cứu về “Tranh Chấp Biển Đông” với Web www.tranhchapbiendong.com của ông làm ủy viên,
và Thiếu Tá Trần Trọng Ngà khóa 12 SQHQ Nha Trang làm Trưởng Ban (đúng ra phải gọi là Chủ tịch Ủy Ban). Ông Trần Trọng Ngà được biết nhiều ở hải ngoại qua biệt danh Trần Quốc Bảo, một trong những sáng lập viên và hiện là chủ tịch Tổ chức Phục Hưng Việt Nam (thành lập năm 1978), và cũng là Trưởng ban Điều hành Phong Trào Sài Gòn, đoàn thể đã thực hiện phim “Sự thật về Hồ Chí Minh”.
Trận đánh diễn ra cách đây 36 năm nên chưa đủ dài để có một lịch sử thật chính xác. Thí dụ các tài liệu mật về phía Trung quốc (Trung quốc có tiết lộ một số chi tiết với mục đích tuyên truyền). Và những sự việc quan trọng như ông Kissinger, Bộ trưởng Ngoại giao Hoa Kỳ đã nói gì với Thủ tướng Chu An Lai khi hai người gặp nhau tại Bắc Kinh cuối năm 1973 bàn về quan hệ Mỹ-Nga-Tàu.
UBHS đã dùng một số tài liệu Trung quốc công bố sau khi gạn lọc.
Nhưng về quan hệ Mỹ-Trung – có lẽ UBHS cho là một vấn đề tế nhị và chưa có bằng chứng xác thực – đã không nghiên cứu kỹ hơn, mặc dù đã có những bài viết nghiêm chỉnh đăng trên tờ Đi Tới ở Canada (1) và nhiều báo Việt ngữ tại Hoa Kỳ bàn về vấn đề này (2)
Tài liệu về phía HQ/VNCH cũng thiếu sót nhiều. Vị sĩ quan hải quân Chủ tịch Ủy Ban điều tra hiện ở Hoa Kỳ cũng cho biết không còn nhớ được bao nhiêu vì thời gian. Riêng tài liệu về phía Hoa Kỳ chỉ có một bản tường trình công khai của ông cựu đại úy Gerald Kosh khi theo đoàn tàu HQ/VN ra Hoàng Sa và bị bắt trên đảo. Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ còn cất giữ nhiều tài liệu về vụ Hoàng Sa. UBHS có thể dùng luật “Information Act” của Hoa Kỳ để xin giải mật những tài liệu này nhưng UBHS không đủ thời gian và phương tiện.
Cuộc phỏng vấn các sĩ quan hải quân cao cấp VNCH liên hệ còn sống tại hải ngoại trong đó có vị TL/HQ năm nay đã hơn 90 tuổi và phó Đề Đốc Tư lệnh Vùng I Duyên Hải lúc đó thì nói chung vì tuổi tác và thời gian cũng không ăn khớp với nhau. Đáng tiếc nhất là ngoài đại tá Hà Văn Ngạc đa qua đời, trong 3 vị hạm trưởng còn sống, chỉ có Trung Tá Lê Văn Thự, hạm trưởng HQ 16 nhận trả lời phỏng vấn của UBHS.
Dù 36 năm chưa đủ dài nhưng cũng không quá ngắn để UBHS có thể viết một tài liệu đầy đủ các mặt của vấn đề. Về mặt này UBHS đã rất thành công.
Cuốn HCHS gồm 3 phần chính: Phần I nói về địa lý và lịch sử của quần đảo Hoàng Sa. Phần II nói về trận hải chiến. Phần III là phụ bản ghi lại nguyên văn (verbatim) các cuộc phỏng vấn, ngoại trừ cuộc trà đàm với ông Nguyễn Văn Ngân, cựu cố vấn đặc biệt tổng thống Nguyễn Văn Thiệu được UB ghi lại.
Ở đây tôi không đi vào chi tiết của các phần. Cuốn HCHS tự nó đã rất đầy đủ. Tôi chỉ ghi lại những nhận xét tổng quát của từng phần .
Phần I, với nhưng bằng chứng lịch sử, diện địa, đất đai, và tài liệu ngoại giao UBHS đã chứng minh một cách hùng hồn quần đảo Hoàng Sa là của Việt Nam. Cuộc đấu tranh giành lại biển đảo đã mất sẽ rất cam go. Thế kỷ này là thế kỷ của Trung quốc trên con đường vươn lên để làm bá chủ. Trung quốc đang biến quần đảo Hoàng Sa thành một căn cứ quân sự nối dài về phía sau với căn cứ Hải quân tại Yulin ở cực nam đải Hải Nam, và nối dài về phía trước với quần đảo Trường Sa trong sách lược chiếm cứ Biển Đông và chia đôi Thái Bình Dương với Hoa Kỳ .
Phần II miêu tả những vận chuyển chiến thuật của 4 chiến hạm VNCH khi lâm trân. HQ/VNCH đã phải nổ súng trước, khi các tàu Trung quốc ngăn cản không cho đổ lính và người nhái lên đảo. Mặt khác, nổ súng trước để lấy thế thượng phong.
HQ/VNCH cũng như HQ/TQ đều chưa có nhiều kinh nghiệm hải chiến trên đại dương nên UB không thể trình bày một thế trận theo sách vở tại các trường dạy về hải chiến. Cuối cùng HQ/VNCH quyết định triệt thối về căn cứ hải quân Đà Nẵng để bảo toàn chủ lực. HQ/TQ bắt tù binh trên đảo và trên biển, trong đó có đại úy Kosh. Sau đó Trung quốc đưa nhiều tiểu đoàn bộ binh đến đổ bộ chiếm toàn bộ quần đảo Hoàng Sa. Trung quốc đưa tất các tù binh về đảo Hải Nam và Quảng Đông, được ghi nhận đối đãi tử tế. Sau khi phỏng vấn tù binh lấy lệ, 10 ngay sau Trung quốc trả tự do cho ông Kosh và 4 quân nhân Việt Nam, và cuối tháng 2/1974 tất cả 45 tù binh sĩ quan cũng như binh sĩ VNCH còn lại đều được trả tự do tại Hồng Kông.
Phần III là phần phỏng vấn. Nội dung các cuộc phỏng vấn đã được UB dùng một cách có hệ thống trong suốt cuốn HCHS. Trong 16 nhân vật được phỏng vấn có 3 cuộc phỏng vấn đáng quan tâm, và đáng ra UBHS nên in lại nguyên văn bài viết “Trận Hải chiến lịch sử Hoàng Sa” của Đại Tá Hà Văn Ngạc trong phần này dù ông đã qua đời .
Cuộc phỏng vấn cựu Ngoại trưởng Vương Văn Bắc tiết lộ cuộc đấu tranh ngoại giao hết sức tích cực và đúng bài bản trên diễn đàn quốc tế để chứng minh quần đảo Hoàng Sa là của Việt Nam. Trước cuộc chiến, Bộ Ngoại Giao VNCH đã đưa ra những tuyên bố tố cáo định tâm xâm lăng của Trung quốc. Và sau cuộc chiến cũng đã đệ nạp cho Liên hiệp quốc những văn kiện khiếu nại cần thiết. Các thủ tục ngoại giao quốc tế và các tài liệu để lại sẽ là căn bản pháp lý quan trọng cho công cuộc đấu tranh giành lại đất đai về sau.
Cuộc phỏng vấn thứ hai với cựu Thiếu Tá Không quân Hồ Kim Giàu, phi đoàn trưởng phi đoàn nghênh cản 538 là lý thú nhất vì từ trước đến nay chưa được ai đề cập tới.
Phi đoàn nghênh cản của Không quân Việt Nam được thành lập cuối năm 1973 để đối phó với Không quân Bắc Việt trường hợp họ tấn công các phi trường thuộc Vùng I chiến thuật. Ngày 19/1/1974 khi cuộc chiến tại Hoàng Sa còn chưa ngả ngủ, Thiếu Tá Giàu được lệnh chuẩn bị phi đoàn bay ra Hoàng Sa oanh tạc các chiến hạm Trung quốc. Phi đoàn nghênh cản gồm 4 chiến đấu cơ F5-A và 12 chiến đấu cơ F5-E tối tân và với bình xăng phụ có khả năng bay ra Hòang Sa tác chiến trong vòng 15 phút và trở về. Các phi công đều được huấn luyện không chiến tại Hoa Kỳ.
Sáng ngày 20/1 phi đoàn sẵn sàng lên đường. Nhưng đến trưa có lệnh từ phủ tổng thống hủy bỏ công tác.
Cuộc phỏng vấn thứ ba là một cuộc trà đàm không ghi âm với ông Nguyễn Văn Ngân do UB ghi lại theo trí nhớ gồm 7 điểm. Trong đó chỉ có điểm số 6 liên quan đến những gì ông Ngân nghe biết về vụ Hoàng Sa. Sáu điểm còn lại không liên quan đến vụ Hoàng Sa mà chỉ là những nhận xét chính trị của ông Ngân về quan hệ Việt –Mỹ sau Hiệp Định Paris.
Nhưng trong điểm 6 ông Ngân là người duy nhất trong 16 nhân vật được phỏng vấn nêu nghi vấn Hoa Kỳ đã thỏa thuận làm ngơ để cho Trung quốc chiếm Hoàng Sa trước khi Hà Nội chiếm miền Nam Việt Nam, một điều Hoa Kỳ biết trước sau cũng xẩy ra. Ý của Hoa Kỳ là dùng Trung quốc cản đường Nga Xô sau này dựa thế đồng minh với Hà Nội tiến vào Biển Đông đe dọa eo biển Malacca và Ấn Độ Dương.
Rất tiếc UB không đi vào chi tiết để tìm hiểu cơ sở lý luận của ông Ngân, và đào sâu thêm nghi vấn quan trọng này trong mối quan hệ giữa VNCH và Hoa Kỳ vào giờ thứ 25.
Tuy chỉ là giả thuyết nhưng các sự việc lạ lùng về thái độ của Hoa Kỳ và Trung quốc chung quanh nó đủ cho chúng ta xây dựng một giả thuyết vững chắc về mặt sử liệu.
Vào thời điểm năm 1974 Hoa Kỳ đã rút Bộ binh và Không quân ra khỏi Việt Nam nhưng HQ/HK vẫn kiểm soát mặt Tây Thái Bình Dương và họ biết nhất cử nhất động của Trung quốc trong viêc chuẩn bị chiếm Hoàng Sa. Thế nhưng Hoa Kỳ chỉ cho HQ/VNCH biết như là một tin không quan trọng khi quân Trung quốc đã lén lút chiếm một số đảo trong quần đảo Hoàng Sa.
Thứ hai, cựu đại úy Kosh khi ra đến Hoàng Sa đã xin lên đảo thay vì ở trên chiến hạm. Phải chăng ông Kosh biết sẽ có hải chiến và ở trên tàu nguy hiểm hơn?
Sau trận hải chiến thủy thủ chiến hạm HQ 10 trôi dạt trên biển Việt Nam yêu cầu các chiến hạm Hoa Kỳ của hạm đội 7 gần đó vớt nhưng hạm đội 7 đã làm ngơ.
Sau cùng Trung quốc đã trả tự do cho ông Kosh và các quân nhân VNCH bị bắt giữ một cách nhanh chóng .
Theo tiền lệ Trung quốc không trao trả tù binh, nhất là tù binh Mỹ nhanh như thế. Họ đã từng giam giữ những linh mục, mục sư Hoa Kỳ nhiều chục năm sau khi chiếm Trung quốc lục địa năm 1949.
Ngoài ra mấy tháng trước cuộc tấn công ông Ngoại trưởng Hoa Kỳ Kissinger đã đi Bắc Kinh trao đổi tình hình thế giới nhất là mối quan hệ Mỹ-Nga-Tàu.
Ngòai những điểm nêu trên, cuốn Hải Chiến Hoàng Sa là một tài liệu công phu và nghiêm chỉnh nhất từ trước đến nay. Quyết định của Tổng Hội HQ&HH Việt Nam Cộng Hòa và Hội Đồng Hải Sử thành lập Ủy ban Nghiên cứu trận Hải chiến Hoàng Sa là một quyết định có tầm vóc.
Cuốn sách chứng minh một điều không thể chối cãi trên công pháp quốc tế và Luật Biển 1994 Hoàng Sa là của Việt Nam và nếu kiên trì tranh đấu trên mọi địa bàn thì – như cựu Ngoại trưởng Vương Văn Bắc đã nói – nếu không trong thế hệ này, thế hệ con cháu chúng ta vẫn có đủ căn bản để lấy lại Hoàng Sa. Lịch sử chứng tỏ rằng sau một xáo trộn lớn (như Thế giới chiến tranh I, Thế giới chiến tranh II) ranh giới nhiều quốc gia thay đổi và “châu lại về hợp phố ” .
UBHS với số ủy viên chỉ còn 5 người khi hoàn thành cuốn Hải Chiến Hoàng Sa, đã làm việc kiên trì và liên tục trong 6 năm liền là một đóng góp lớn lao cho kho lịch sử dựng nước và giữ nước, và là một phần của lịch sử HQ/VNCH khi đất nước còn bị chia cắt.
Đây là một tài liệu sống động mang màu sắc lịch sử, nhất là trong thời điểm này lúc Trung quốc đang biến cải Hoàng Sa thành một căn cứ hải quân nhỏ với phi trường, kho tiếp liệu, kho vũ khí, đài quan sát và cũng là lúc cuộc tranh chấp về Hoàng Sa (và Trường Sa) giữa Hà Nội và Bắc Kinh đang làm cho Biển Đông lại dậy sóng.
Tài liệu này là một thứ vũ khí đóng góp không nhỏ cho công cuộc tranh đấu đòi đất, đòi đảo của dân tộc Việt Nam không phân biệt chính kiến.
Ngày 24/10 Ủy Ban Hoàng Sa sẽ ra mắt cuốn Hải Chiến Hoàng Sa tại Little Sài gòn. Đây là một dịp hiếm có để đồng bào hải ngoại có cơ hội đọc một tài liệu quý, phong phú, và đầy đủ mọi mặt của vấn đề và nhất là được trình bày bởi những cựu sĩ quan quân lực VNCH nắm vững vấn đề Hoàng Sa nhất .
Oct. 18, 2010
binhnam@sbcglobal.net
www.tranbinhnam.com
————————-
(1) Tờ “Đi Tới” nay đã đóng cửa
(2) Xem tài liệu số 118 phần Bình Luận
Trận hải chiến Hoàng Sa giữ gìn bờ cõi giữa Hải quân Việt Nam Cộng Hòa (HQ/VNCH) và Hải quân Trung quốc (HQ/TQ) ngày 19/1/1974 là trận hải chiến đầu tiên với vũ khí hiện đại trong lịch sử Việt Nam không kể những trận hải chiến bằng tàu thuyền gỗ giữa các đội thủy quân Việt Nam với Chiêm Thành và Trung quốc trong những thế kỷ trước.
Trận hải chiến Hoàng Sa đã làm mất nhiều giấy mực. Nhưng trong xúc động và xáo trộn của biến cố 30/4/1975 liền sau đó các sự việc của trận đánh (như nguyên nhân, diễn tiến, kết thúc, thắng bại, hoạt động ngoại giao…) chưa được phân tích đầy đủ. Các tài liệu được viết đã khác nhau ở rất nhiều điểm then chốt, ngay cả sự kể lại diễn tiến trận đánh của các sĩ quan chỉ huy trận đánh, Hải Quân Đại Tá Hà Văn Ngạc và 3 vị hạm trưởng tham dự trận chiến còn sống sót. Hải Quân Trung Tá Vũ Hữu Sa
n chỉ huy chiến hạm HQ 4, Hải Quân Trung Tá Phạm Trọng Quỳnh chỉ huy chiến hạm HQ 5, Hải Quân Trung Tá Lê Văn Thự chỉ huy chiến hạm HQ 16. Hải Quân Thiếu Tá Ngụy Văn Thà chỉ huy chiến hạm HQ 10 đã tử trận khi lâm chiến.
Ngày 30/4/1975 khi đoàn tàu HQ/VNCH rời khỏi nước không ai mang theo các tài liệu liên quan đến trận hải chiến, trong đó có một tài liệu quan trọng là Bản Tường Trình của Ủy Ban điều tra về trận đánh của Bộ Tư Lệnh Hải Quân (BTL/HQ). Nếu có tài liệu này sự tranh cãi giữa các nhân vật liên hệ có thể đã không diễn ra hay ít nhất cũng giới hạn được rất nhiều các điểm cần tranh cãi.
Đại tá Hà Văn Ngạc trước khi qua đời năm 1999 tại Hoa Kỳ có viết một tài liệu nhan đề “Trận Hải chiến lịch sử Hoàng Sa” nói về trận đánh. Đây là tài liệu có thẩm quyền nhất của người trong cuộc. Nhưng một số hạm trưởng trong hải đoàn đặc nhiệm bảo vệ Hoàng Sa của ông nhìn diễn tiến cuộc chiến qua lăng kính của chiến hạm họ chỉ huy đã nêu ra nhiều điểm khác biệt. Và trong nội bộ HQ/VNCH đã có những cái nhìn rất khác nhau ngoài mẫu số chung là HQ/VNCH đã giao chiến với HQ/TQ khi Trung quốc muốn chiếm toàn bộ quần đảo Hoàng Sa. Sự khác biệt nhau rất rộng ngay cả sự đánh giá thắng hay bại.
Thậm chí khi Hội Bạch Đằng ở San Jose tự sưu tầm tài liệu và nhân chứng thực hiện một DVD ngắn nói về trận hải chiến Hoàng Sa được vị cựu Tư Lệnh Hải Quân Trần Văn Chơn và nhiều sĩ quan HQ/VNCH khác xem là tương đối gần sự thật nhất cũng đã gặp phải sự “phiền hà” gay gắt của một trong 3 hạm trưởng còn sống sót khi DVD nói một trong 4 chiến hạm tham chiến đã gặp trở ngại tác xạ sau phát súng đại bác đầu tiên.
Có lẽ đó là lý do UBHS ra đời với mục đích nghiên cứu để viết một tài liệu lịch sử thật chính xác về cuộc hải chiến Hoàng Sa. Thiếu Tá Trần Trọng Ngà trưởng ban, và Trung Tá Nguyễn Mạnh Trí, ủy viên UBHS tâm sự rằng để đạt mục đích này UBHS đã phải cố gắng hết mình gạt bỏ ra ngòai mục tiêu tuyên truyền và các xúc động cá nhân.
Thiện chí của UBHS thể hiện trong cách sắp xếp công việc của Ủy Ban không theo thủ tục thường lệ là sĩ quan thâm niên nhất làm trưởng ban. Trung Tá Nguyễn Mạnh Trí khóa 10 SQHQ Nha Trang là một người nghiên cứu về “Tranh Chấp Biển Đông” với Web www.tranhchapbiendong.com của ông làm ủy viên,
và Thiếu Tá Trần Trọng Ngà khóa 12 SQHQ Nha Trang làm Trưởng Ban (đúng ra phải gọi là Chủ tịch Ủy Ban). Ông Trần Trọng Ngà được biết nhiều ở hải ngoại qua biệt danh Trần Quốc Bảo, một trong những sáng lập viên và hiện là chủ tịch Tổ chức Phục Hưng Việt Nam (thành lập năm 1978), và cũng là Trưởng ban Điều hành Phong Trào Sài Gòn, đoàn thể đã thực hiện phim “Sự thật về Hồ Chí Minh”.
Trận đánh diễn ra cách đây 36 năm nên chưa đủ dài để có một lịch sử thật chính xác. Thí dụ các tài liệu mật về phía Trung quốc (Trung quốc có tiết lộ một số chi tiết với mục đích tuyên truyền). Và những sự việc quan trọng như ông Kissinger, Bộ trưởng Ngoại giao Hoa Kỳ đã nói gì với Thủ tướng Chu An Lai khi hai người gặp nhau tại Bắc Kinh cuối năm 1973 bàn về quan hệ Mỹ-Nga-Tàu.
UBHS đã dùng một số tài liệu Trung quốc công bố sau khi gạn lọc.
Nhưng về quan hệ Mỹ-Trung – có lẽ UBHS cho là một vấn đề tế nhị và chưa có bằng chứng xác thực – đã không nghiên cứu kỹ hơn, mặc dù đã có những bài viết nghiêm chỉnh đăng trên tờ Đi Tới ở Canada (1) và nhiều báo Việt ngữ tại Hoa Kỳ bàn về vấn đề này (2)
Tài liệu về phía HQ/VNCH cũng thiếu sót nhiều. Vị sĩ quan hải quân Chủ tịch Ủy Ban điều tra hiện ở Hoa Kỳ cũng cho biết không còn nhớ được bao nhiêu vì thời gian. Riêng tài liệu về phía Hoa Kỳ chỉ có một bản tường trình công khai của ông cựu đại úy Gerald Kosh khi theo đoàn tàu HQ/VN ra Hoàng Sa và bị bắt trên đảo. Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ còn cất giữ nhiều tài liệu về vụ Hoàng Sa. UBHS có thể dùng luật “Information Act” của Hoa Kỳ để xin giải mật những tài liệu này nhưng UBHS không đủ thời gian và phương tiện.
Cuộc phỏng vấn các sĩ quan hải quân cao cấp VNCH liên hệ còn sống tại hải ngoại trong đó có vị TL/HQ năm nay đã hơn 90 tuổi và phó Đề Đốc Tư lệnh Vùng I Duyên Hải lúc đó thì nói chung vì tuổi tác và thời gian cũng không ăn khớp với nhau. Đáng tiếc nhất là ngoài đại tá Hà Văn Ngạc đa qua đời, trong 3 vị hạm trưởng còn sống, chỉ có Trung Tá Lê Văn Thự, hạm trưởng HQ 16 nhận trả lời phỏng vấn của UBHS.
Dù 36 năm chưa đủ dài nhưng cũng không quá ngắn để UBHS có thể viết một tài liệu đầy đủ các mặt của vấn đề. Về mặt này UBHS đã rất thành công.
Cuốn HCHS gồm 3 phần chính: Phần I nói về địa lý và lịch sử của quần đảo Hoàng Sa. Phần II nói về trận hải chiến. Phần III là phụ bản ghi lại nguyên văn (verbatim) các cuộc phỏng vấn, ngoại trừ cuộc trà đàm với ông Nguyễn Văn Ngân, cựu cố vấn đặc biệt tổng thống Nguyễn Văn Thiệu được UB ghi lại.
Ở đây tôi không đi vào chi tiết của các phần. Cuốn HCHS tự nó đã rất đầy đủ. Tôi chỉ ghi lại những nhận xét tổng quát của từng phần .
Phần I, với nhưng bằng chứng lịch sử, diện địa, đất đai, và tài liệu ngoại giao UBHS đã chứng minh một cách hùng hồn quần đảo Hoàng Sa là của Việt Nam. Cuộc đấu tranh giành lại biển đảo đã mất sẽ rất cam go. Thế kỷ này là thế kỷ của Trung quốc trên con đường vươn lên để làm bá chủ. Trung quốc đang biến quần đảo Hoàng Sa thành một căn cứ quân sự nối dài về phía sau với căn cứ Hải quân tại Yulin ở cực nam đải Hải Nam, và nối dài về phía trước với quần đảo Trường Sa trong sách lược chiếm cứ Biển Đông và chia đôi Thái Bình Dương với Hoa Kỳ .
Phần II miêu tả những vận chuyển chiến thuật của 4 chiến hạm VNCH khi lâm trân. HQ/VNCH đã phải nổ súng trước, khi các tàu Trung quốc ngăn cản không cho đổ lính và người nhái lên đảo. Mặt khác, nổ súng trước để lấy thế thượng phong.
HQ/VNCH cũng như HQ/TQ đều chưa có nhiều kinh nghiệm hải chiến trên đại dương nên UB không thể trình bày một thế trận theo sách vở tại các trường dạy về hải chiến. Cuối cùng HQ/VNCH quyết định triệt thối về căn cứ hải quân Đà Nẵng để bảo toàn chủ lực. HQ/TQ bắt tù binh trên đảo và trên biển, trong đó có đại úy Kosh. Sau đó Trung quốc đưa nhiều tiểu đoàn bộ binh đến đổ bộ chiếm toàn bộ quần đảo Hoàng Sa. Trung quốc đưa tất các tù binh về đảo Hải Nam và Quảng Đông, được ghi nhận đối đãi tử tế. Sau khi phỏng vấn tù binh lấy lệ, 10 ngay sau Trung quốc trả tự do cho ông Kosh và 4 quân nhân Việt Nam, và cuối tháng 2/1974 tất cả 45 tù binh sĩ quan cũng như binh sĩ VNCH còn lại đều được trả tự do tại Hồng Kông.
Phần III là phần phỏng vấn. Nội dung các cuộc phỏng vấn đã được UB dùng một cách có hệ thống trong suốt cuốn HCHS. Trong 16 nhân vật được phỏng vấn có 3 cuộc phỏng vấn đáng quan tâm, và đáng ra UBHS nên in lại nguyên văn bài viết “Trận Hải chiến lịch sử Hoàng Sa” của Đại Tá Hà Văn Ngạc trong phần này dù ông đã qua đời .
Cuộc phỏng vấn cựu Ngoại trưởng Vương Văn Bắc tiết lộ cuộc đấu tranh ngoại giao hết sức tích cực và đúng bài bản trên diễn đàn quốc tế để chứng minh quần đảo Hoàng Sa là của Việt Nam. Trước cuộc chiến, Bộ Ngoại Giao VNCH đã đưa ra những tuyên bố tố cáo định tâm xâm lăng của Trung quốc. Và sau cuộc chiến cũng đã đệ nạp cho Liên hiệp quốc những văn kiện khiếu nại cần thiết. Các thủ tục ngoại giao quốc tế và các tài liệu để lại sẽ là căn bản pháp lý quan trọng cho công cuộc đấu tranh giành lại đất đai về sau.
Cuộc phỏng vấn thứ hai với cựu Thiếu Tá Không quân Hồ Kim Giàu, phi đoàn trưởng phi đoàn nghênh cản 538 là lý thú nhất vì từ trước đến nay chưa được ai đề cập tới.
Phi đoàn nghênh cản của Không quân Việt Nam được thành lập cuối năm 1973 để đối phó với Không quân Bắc Việt trường hợp họ tấn công các phi trường thuộc Vùng I chiến thuật. Ngày 19/1/1974 khi cuộc chiến tại Hoàng Sa còn chưa ngả ngủ, Thiếu Tá Giàu được lệnh chuẩn bị phi đoàn bay ra Hoàng Sa oanh tạc các chiến hạm Trung quốc. Phi đoàn nghênh cản gồm 4 chiến đấu cơ F5-A và 12 chiến đấu cơ F5-E tối tân và với bình xăng phụ có khả năng bay ra Hòang Sa tác chiến trong vòng 15 phút và trở về. Các phi công đều được huấn luyện không chiến tại Hoa Kỳ.
Sáng ngày 20/1 phi đoàn sẵn sàng lên đường. Nhưng đến trưa có lệnh từ phủ tổng thống hủy bỏ công tác.
Cuộc phỏng vấn thứ ba là một cuộc trà đàm không ghi âm với ông Nguyễn Văn Ngân do UB ghi lại theo trí nhớ gồm 7 điểm. Trong đó chỉ có điểm số 6 liên quan đến những gì ông Ngân nghe biết về vụ Hoàng Sa. Sáu điểm còn lại không liên quan đến vụ Hoàng Sa mà chỉ là những nhận xét chính trị của ông Ngân về quan hệ Việt –Mỹ sau Hiệp Định Paris.
Nhưng trong điểm 6 ông Ngân là người duy nhất trong 16 nhân vật được phỏng vấn nêu nghi vấn Hoa Kỳ đã thỏa thuận làm ngơ để cho Trung quốc chiếm Hoàng Sa trước khi Hà Nội chiếm miền Nam Việt Nam, một điều Hoa Kỳ biết trước sau cũng xẩy ra. Ý của Hoa Kỳ là dùng Trung quốc cản đường Nga Xô sau này dựa thế đồng minh với Hà Nội tiến vào Biển Đông đe dọa eo biển Malacca và Ấn Độ Dương.
Rất tiếc UB không đi vào chi tiết để tìm hiểu cơ sở lý luận của ông Ngân, và đào sâu thêm nghi vấn quan trọng này trong mối quan hệ giữa VNCH và Hoa Kỳ vào giờ thứ 25.
Tuy chỉ là giả thuyết nhưng các sự việc lạ lùng về thái độ của Hoa Kỳ và Trung quốc chung quanh nó đủ cho chúng ta xây dựng một giả thuyết vững chắc về mặt sử liệu.
Vào thời điểm năm 1974 Hoa Kỳ đã rút Bộ binh và Không quân ra khỏi Việt Nam nhưng HQ/HK vẫn kiểm soát mặt Tây Thái Bình Dương và họ biết nhất cử nhất động của Trung quốc trong viêc chuẩn bị chiếm Hoàng Sa. Thế nhưng Hoa Kỳ chỉ cho HQ/VNCH biết như là một tin không quan trọng khi quân Trung quốc đã lén lút chiếm một số đảo trong quần đảo Hoàng Sa.
Thứ hai, cựu đại úy Kosh khi ra đến Hoàng Sa đã xin lên đảo thay vì ở trên chiến hạm. Phải chăng ông Kosh biết sẽ có hải chiến và ở trên tàu nguy hiểm hơn?
Sau trận hải chiến thủy thủ chiến hạm HQ 10 trôi dạt trên biển Việt Nam yêu cầu các chiến hạm Hoa Kỳ của hạm đội 7 gần đó vớt nhưng hạm đội 7 đã làm ngơ.
Sau cùng Trung quốc đã trả tự do cho ông Kosh và các quân nhân VNCH bị bắt giữ một cách nhanh chóng .
Theo tiền lệ Trung quốc không trao trả tù binh, nhất là tù binh Mỹ nhanh như thế. Họ đã từng giam giữ những linh mục, mục sư Hoa Kỳ nhiều chục năm sau khi chiếm Trung quốc lục địa năm 1949.
Ngoài ra mấy tháng trước cuộc tấn công ông Ngoại trưởng Hoa Kỳ Kissinger đã đi Bắc Kinh trao đổi tình hình thế giới nhất là mối quan hệ Mỹ-Nga-Tàu.
Ngòai những điểm nêu trên, cuốn Hải Chiến Hoàng Sa là một tài liệu công phu và nghiêm chỉnh nhất từ trước đến nay. Quyết định của Tổng Hội HQ&HH Việt Nam Cộng Hòa và Hội Đồng Hải Sử thành lập Ủy ban Nghiên cứu trận Hải chiến Hoàng Sa là một quyết định có tầm vóc.
Cuốn sách chứng minh một điều không thể chối cãi trên công pháp quốc tế và Luật Biển 1994 Hoàng Sa là của Việt Nam và nếu kiên trì tranh đấu trên mọi địa bàn thì – như cựu Ngoại trưởng Vương Văn Bắc đã nói – nếu không trong thế hệ này, thế hệ con cháu chúng ta vẫn có đủ căn bản để lấy lại Hoàng Sa. Lịch sử chứng tỏ rằng sau một xáo trộn lớn (như Thế giới chiến tranh I, Thế giới chiến tranh II) ranh giới nhiều quốc gia thay đổi và “châu lại về hợp phố ” .
UBHS với số ủy viên chỉ còn 5 người khi hoàn thành cuốn Hải Chiến Hoàng Sa, đã làm việc kiên trì và liên tục trong 6 năm liền là một đóng góp lớn lao cho kho lịch sử dựng nước và giữ nước, và là một phần của lịch sử HQ/VNCH khi đất nước còn bị chia cắt.
Đây là một tài liệu sống động mang màu sắc lịch sử, nhất là trong thời điểm này lúc Trung quốc đang biến cải Hoàng Sa thành một căn cứ hải quân nhỏ với phi trường, kho tiếp liệu, kho vũ khí, đài quan sát và cũng là lúc cuộc tranh chấp về Hoàng Sa (và Trường Sa) giữa Hà Nội và Bắc Kinh đang làm cho Biển Đông lại dậy sóng.
Tài liệu này là một thứ vũ khí đóng góp không nhỏ cho công cuộc tranh đấu đòi đất, đòi đảo của dân tộc Việt Nam không phân biệt chính kiến.
Ngày 24/10 Ủy Ban Hoàng Sa sẽ ra mắt cuốn Hải Chiến Hoàng Sa tại Little Sài gòn. Đây là một dịp hiếm có để đồng bào hải ngoại có cơ hội đọc một tài liệu quý, phong phú, và đầy đủ mọi mặt của vấn đề và nhất là được trình bày bởi những cựu sĩ quan quân lực VNCH nắm vững vấn đề Hoàng Sa nhất .
Oct. 18, 2010
binhnam@sbcglobal.net
www.tranbinhnam.com
————————-
(1) Tờ “Đi Tới” nay đã đóng cửa
(2) Xem tài liệu số 118 phần Bình Luận
HỘ TỐNG HẠM NHẬT TẢO (HQ 1O) ĐI VÀO LỊCH SỬ NHƯ THẾ NÀO
Tường thuật lại trận hải chiến tại Hoàng Sa 19-1-1974 giữa quân đội Việt Nam cộng hòa và Hải quân Trung Quốc
Lời mở đầu: Bài viết này tổng hợp từ các bài đã viết về Hộ Tống Hạm Nhật Tảo HQ 10 trong trận hải chiến Hoàng Sa, và các tài liệu đã được tìm thấy gần đây trong đó có tài liệu do gia đình cố HQ Thiếu Tá Nguyễn Thành Trí cung cấp.
Tác giả hy vọng sẽ trình bày một cách đầy đủ những hình ảnh hào hùng và bi thương của các chiến sĩ Hải Quân VNCH trong trận hải chiến lịch sử chống lại bọn giặc xâm lăng Trung Cộng.
Tác giả hy vọng sẽ trình bày một cách đầy đủ những hình ảnh hào hùng và bi thương của các chiến sĩ Hải Quân VNCH trong trận hải chiến lịch sử chống lại bọn giặc xâm lăng Trung Cộng.
Thềm Sơn Hà
Hơn hai tháng biệt phái công tác cho Vùng I Duyên Hải, Hộ tống hạm Nhật Tảo HQ10 trở về Đà Nẵng sau chuyến tuần dương cuối cùng để bàn giao lại vùng trách nhiệm cho HQ11 (Hộ tống hạm Chí Linh). Tất cả nhân viên chiến hạm đều vui mừng khi nghĩ đến lần trở về Sài Gòn sắp đến sẽ trùng hợp vào ngày Tết Nguyên Đán. Họ sẽ có dịp gần gũi gia đình trong những giờ phút thiêng liêng của năm mới và cũng theo lời Hạm Phó (HP) Nguyễn Thành Trí nói với vợ trước khi lên đường công tác thì chiến hạm sẽ chuẩn bị đi đại kỳ tại Guam sau khi trở về Sài Gòn (1). Ngoài ra với đồng lương mới lãnh, họ đi bờ ra phố Đà Nẵng mua sắm hàng hóa đặc biệt của địa phương để mang về làm quà Xuân cho gia đình và cũng là dịp những chàng lính thủy độc thân ra phố hưởng thụ những giây phút thoải mái sau những ngày dài lênh đênh trên trên biển.
Bất ngờ chiều 17-1-1974 chiến hạm nhận lịnh khẩn cấp cùng với Tuần Dương Hạm Trần Bình Trọng HQ5 lên đường ra công tác Hoàng Sa (HS).
Hạm Trưởng (HT) ra lịnh kéo còi nhiệm sở vận chuyển. Một vài nhân viên trở về lúc sợi dây cuối cùng vừa tháo vội vàng nhảy xuống tàu, có người bị hụt chân rớt xuống nước phải thả phao vớt lên.
Chiến hạm rời bến Đà Nẵng lúc 2000H (8 giờ đêm) với tốc độ chậm để chờ HQ5. Lúc 00 giờ 12 qua ngày 18-1, HQ5 bắt đầu tách bến và bắt kịp HQ 10 vào lúc 3 giờ 15 sáng. Trước tình trạng kỹ thuật của HQ10 chỉ còn xử dụng được một máy và do nhu cầu hành quân khẩn cấp nên HQ Đại Tá Hà Văn Ngạc Chỉ Huy Trưởng Lực Lượng Hành Quân đã quyết định chỉ thị HQ5 chạy trước bỏ lại HQ10 phía sau.
Bất ngờ chiều 17-1-1974 chiến hạm nhận lịnh khẩn cấp cùng với Tuần Dương Hạm Trần Bình Trọng HQ5 lên đường ra công tác Hoàng Sa (HS).
Hạm Trưởng (HT) ra lịnh kéo còi nhiệm sở vận chuyển. Một vài nhân viên trở về lúc sợi dây cuối cùng vừa tháo vội vàng nhảy xuống tàu, có người bị hụt chân rớt xuống nước phải thả phao vớt lên.
Chiến hạm rời bến Đà Nẵng lúc 2000H (8 giờ đêm) với tốc độ chậm để chờ HQ5. Lúc 00 giờ 12 qua ngày 18-1, HQ5 bắt đầu tách bến và bắt kịp HQ 10 vào lúc 3 giờ 15 sáng. Trước tình trạng kỹ thuật của HQ10 chỉ còn xử dụng được một máy và do nhu cầu hành quân khẩn cấp nên HQ Đại Tá Hà Văn Ngạc Chỉ Huy Trưởng Lực Lượng Hành Quân đã quyết định chỉ thị HQ5 chạy trước bỏ lại HQ10 phía sau.
Trên đường đến HS, Hạm Trưởng HQ10, HQ Thiếu Tá Ngụy Văn Thà (K.12/SQHQ/NT) ra lịnh kiểm soát tất cả mọi ụ súng, đem đạn tối đa từ hầm đạn lên các dàn súng nhưng tất cả các khẩu súng đều phải bao lại và nòng súng chỉa lên trời, HT khuyến khích tất cả các nhân viên không thuộc phiên đi ca cố ngũ để lấy sức cho những ngày kế tiếp. Ngoài ra ông ra lịnh mang lương khô để ở các nhiệm sở tác chiến và kiểm soát lại 4 bè cấp cứu cùng các hộp mưu sinh thoát hiểm. HT còn ra nghiêm lịnh bắt buộc tất cả nhân viên phải mặc áo phao và đội nón sắt mặc dù trời rất nắng và nóng bức (đây là những chỉ thị rất sáng suốt của một cấp chỉ huy đầy kinh nghiệm, tiên liệu được những điều có thể xảy ra cho chiến hạm trong một trận hải chiến và cũng nhờ những nghiêm lịnh này mà các chiến sĩ HQ10 trong lúc đào thoát đã có sẵn một số nước uống, thực phẩm khô để cầm cự trong thời gian đầu và áo phao đã giúp họ không bị chìm cũng như che chỡ bớt cơn lạnh về đêm).
HQ10 đến HS vào khoảng 11 giờ đêm ngày 18-1. HT liên lạc với cấp chỉ huy trực tiếp là HQ Trung Tá Lê Văn Thự (K.10/SQHQ/NT) Hạm Trưởng Tuần Dương Hạm Lý Thường Kiệt HQ16 kiêm Chỉ Huy Trưởng Phân Đội II (gồm có HQ 10 và HQ 16), sau đó thi hành lịnh của Trung Tá Thự, HT ra lịnh làm tối chiến hạm (darken ship) để địch không nhận dạng được.
HQ10 đến HS vào khoảng 11 giờ đêm ngày 18-1. HT liên lạc với cấp chỉ huy trực tiếp là HQ Trung Tá Lê Văn Thự (K.10/SQHQ/NT) Hạm Trưởng Tuần Dương Hạm Lý Thường Kiệt HQ16 kiêm Chỉ Huy Trưởng Phân Đội II (gồm có HQ 10 và HQ 16), sau đó thi hành lịnh của Trung Tá Thự, HT ra lịnh làm tối chiến hạm (darken ship) để địch không nhận dạng được.
Khoảng 01.00H khuya 19-1, chiến hạm nhận được lịnh hành quân từ Đại Tá Ngạc. Sau khi hội ý với HP là HQ Đại Úy Nguyễn Thành Trí (K.17/SQHQ/NT), HT đã ở lại phòng vô tuyến phụ cạnh đài chỉ huy (ĐCH) để liên lạc với các giới chức liên hệ và chỉ thị HP họp các SQ và nhân viên tại phòng ăn SQ vào lúc 0200H.
Trong buổi họp, HP đã thông báo cho thủy đoàn HQ10 biết là theo nội dung công điện hành quân thì chiến hạm sẽ chuẫn bị chiến đấu thực sự lúc 6 giờ sáng, HP cũng nhấn mạnh ở điểm là bên ta không được khai hỏa trước vì vậy phần thiệt hại về phía ta có thể lên đến 80% hoặc 90%. Trung Úy Nguyễn Đông Mai có đặt câu hỏi về việc khai hỏa thì HP trả lời đây là lịnh từ Sài Gòn chúng ta phải thi hành theo lịnh. Cuộc họp chấm dứt vào lúc 0230H.
Khoảng 4 giờ sáng, sau một giấc ngủ ngắn HT thức giấc và từ ĐCH ông ra lịnh kéo còi nhiệm sở tác chiến. Tiếp theo hồi còi.. tít..tít..tít..là tiếng của HT vang lên trong hệ thống âm thoại: "Đây là HT…nhiệm sở tác chiến …nhiệm sở tác chiến…tất cả vào nhiệm sở tác chiến”.
Nghe tiếng còi và lịnh của HT tất cả nhân viên bật dậy và lập tức vào nhiệm sở của mình. Tiếp theo đó là nhiệm sở phòng không. Tất cả nòng súng rợp rợp hướng lên trời ở góc độ 45 độ.
Khoảng 4 giờ 30 có hai đóm sáng trên trời, tất cả các khẩu súng đều quay về hướng hai mục tiêu này.
Khoảng 5 giờ 30 hai đóm này lại xuất hiện.
Lúc 6 giờ hai đóm sáng này bay thấp hơn có lẽ là hai phản lực cơ.
Sự xuất hiện liên tiếp của các phi cơ lạ tạo nên tình trạng căng thẳng cho tất cả các nhân viên trên chiến hạm, chắc hẳn mọi người ai cũng linh cảm rằng một cuộc hải chiến chắc sẽ xảy ra.
Rạng sáng ngày 19-1, thi hành lịnh Phân Đội Trưởng, HQ10 di chuyển vào lòng chảo nhóm Nguyệt Thiềm theo lối giữa bãi Antelope và đảo Quang Hòa. Lúc này trời còn lờ mờ chưa tỏ hẵn ánh dương, lực lượng địch bây giờ được tăng cường thêm 2 chiếc Trục lôi hạm T43 mang số 389, 396. Như vậy chúng có cả thảy 4 chiến hạm (2 chiếc Hộ tống hạm loại Kronstadt số 271, 274 đã xuất hiện từ trước) và 2 tàu đánh cá ngụy trang mang số 402, 407 đang hiện diện tại vùng, đối đầu với 4 chiến hạm của ta (kể cả Khu trục hạm Trần Khánh Dư HQ 4 và Tuần Dương Hạm Trần Bình Trọng HQ 5 thuộc Phân Đội I đang ở trong khu vực phía Nam và phía Tây Nam đảo Quang Hòa).
Chiến hạm ta và địch chạy đan qua đan lại nhau rất gần. Địch nhiều lúc như muốn đâm thẳng cả tàu vào chiến hạm của ta nhưng về cả hai phía các khẩu súng đều chỉa lên trời.
Khoảng 6 giờ 30, Đại Tá Ngạc ra lịnh cho HQ5 đổ bộ toán người Nhái lên đảo Quang Hòa. Toán này vừa tiến vào bờ thì bị lính TC nổ súng trước, một SQ và một chiến sĩ người Nhái bị tử thương. Đại Tá Ngạc ra lịnh toán người Nhái mang xác SQ và rút toàn bộ trở về HQ5.
Nghe tiếng súng nổ, HT thông báo diển tiến và ra lịnh tất cả nhân viên sẵn sàng. Ngay sau tiếng súng nổ trên đảo, chiến hạm của ta và TC không còn chạy gần nhau nữa mà bắt đầu tách ra xa.
Khoảng 9 giờ, các tàu TC trao đổi quang hiệu. Ngay tiếp sau đó các tàu đánh cá ngụy trang được 4 chiến hạm bảo vệ di chuyển song song về hướng Bắc và dần dần biến mất ở cuối chân trời. Mọi người trên chiến hạm thoáng vui mừng, ai cũng thở phào nhẹ nhõm nghĩ là TC đã chịu lùi bước rút lui. Phần Trung Úy Hà Đăng Ngân hơn ngày qua lúc nào thần kinh cũng căng thẳng áo phao, nón sắt rất bực bội bây giờ được tạm cỡi ra vừa xuống phòng ăn cơm xong định đặt chân vào phòng tắm thì còi nhiệm sở tác chiến đột ngột reo inh ỏi, Tr/Úy Ngân tức tốc chạy lên nhiệm sở, mặc lại áo phao, đội nón sắt vào. Nhìn theo hướng chỉ trên ĐCH thấy có mấy vệt khói mỏng nơi cuối chân trời, rồi từ từ 4 chiến hạm TC đã rời vùng cách đây khoảng một tiếng quay đầu trở lại. Khi các chiến hạm TC tiến đến các chiến hạm ta, chúng không đến gần như lúc sáng mà ở xa xa khoảng 1 km làm thành một vòng tròn bao quanh các chiến hạm ta. Sau khi chạy loang quanh chừng 2 vòng các tàu TC từ từ lảng xa ra hơn. Như tiên đoán trước được dấu hiệu khác thường HT ra lịnh chuẩn bị tác chiến nhưng tất cả nòng súng hướng vào phía đảo để tránh sự khiêu khích với tàu địch. Trông chờ mãi khẩu lịnh “bắn” vẫn chưa được ban hành, thủy thủ đoàn có phần xao lãng không còn vẽ hăng say như lúc đầu. Lợi dụng khoảng thời gian này , một số nhân viên ở các nhiệm sở luân phiên vào nhà ăn để dùng cháo cho buổi điểm tâm.
Khoảng 10 giờ, hai chiếc tàu TC mang số 389, 396 bắt đầu tách rời ra khỏi hai chiếc 271, 274 và chạy song song gần nhau. Như một kinh nghiệm chiến trường, HT ra lịnh hạ nòng súng và quay súng về phía tàu TC, vài phút sau hai tàu TC chạy gần sát vào nhau và thình lình cùng quay mũi song song trực chỉ HQ10. HT ra lịnh tất cả ổ súng hướng về hai mục tiêu địch và xin lịnh cấp trên cho phép nổ súng nhưng được trả lời chờ Sài Gòn quyết định. Lúc này thần kinh tất cả mọi người thật căng thẳng. Hai tàu TC cứ từ từ đến gần, khi còn cách HQ10 khoảng 200-300m, HT hét lớn “bắn”. Tất cả các khẩu súng trên tàu đều nhả đạn vào tàu địch. HQ10 khai hỏa đầu tiên do lịnh của chính HT (theo HQ Tr/Tá Lê Văn Thự Hạm Trưởng HQ16 thì HQ16 khai hỏa trước). Những phát đạn đầu tiên của HQ10 trúng ngay vào chiếc 389 của TC làm nó bốc cháy khói mịt mù phải lùi lại phía sau, cùng lúc khẩu 127 ly trên HQ16 trực xạ vào chiếc 396 và chiếc này bị trúng đạn ngay ĐCH làm hư hệ thống tay lái nên tàu cứ xoay quanh. Đến lúc này HQ10 vẫn an toàn, đạn từ tàu TC bắn tới đều bay qua đầu hoặc nổ trên mặt nước.
Chiếc 389 bị trúng nơi hầm đạn với lỗ thủng hơi lớn làm nước tràn vào, ngoài ra máy phát điện cũng bị hư vì trúng đạn. Sau khi đã cố gắng vá xong lỗ thủng và sửa chửa máy phát điện, chiếc này quay trở lại tham chiến.
Điểm cần nêu lên ở đây là so sánh về hỏa lực thì hai trục lôi hạm số 389 và 396 tuy không được trang bị đại bác cỡ lớn nhưng bù lại mỗi chiếc có 4 khẩu đại bác 37 ly (tương đương với đại bác Bofors 40 ly của ta) và 4 khẩu đại bác 25 ly. So sánh về kích thước 2 chiếc này tương đương với HQ10, do đó địch đã áp dụng chiến thuật bám sát vào các chiến hạm ta để làm giảm đi sự hiệu quả của khẩu 127 ly trên HQ16 và 76, 2 ly trên HQ10.
Đang chiếm ưu thế, bổng dưng khẩu 76, 2 ly trên HQ10 bị trở ngại tác xạ (có phải đây là lý do mà HT đã khẩn cấp gọi HP lên ĐCH???) thêm vào đó chiến hạm lại chỉ có một máy khiển dụng, vì thế việc vận chuyển để xử dụng tối đa 2 khẩu đại bác 40 ly ở phía sân sau cùng một lúc rất là khó khăn. Lợi dụng sự bất lợi của HQ10, chiếc 389 đã tấn công tới tấp và HQ10 bắt đầu trúng đạn ở ĐCH và phòng lái. HT, hầu hết các Sĩ Quan, HSQ và nhân viên ngành Giám lộ và Vận Chuyển có mặt trên ĐCH và phòng lái đều tử trận ngoại trừ Hạm Phó bị thương nặng nơi mặt, bụng và chân phải (mất một miếng thịt ở chân phải).
Ngoài ĐCH và phòng lái, hầm máy và hầm đạn dược cũng bị trúng đạn bốc cháy. Đạn nổ văng tứ tung và khói đen tuôn mịt mù khắp con tàu.
Từ vị trí cách HQ 10 khoảng vài trăm mét, quan sát thấy HQ10 đang ở trong tình trạng rối loạn, không bỏ lỡ cơ hội chiếc 389 của TC vận chuyển tiến vào phía sau lái hữu hạm HQ10. Thấy tàu địch có ý định cặp vào một vài nhân viên hơi giao động nhưng 2 chiến sĩ Lê Văn Tây và Ngô Văn Sáu vẫn ngang nhiên ghì chặt nòng súng làm tròn phận sự của mình (lúc này trên HQ10 có khoảng 50 chiến sĩ đã hy sinh, một số bị thương nặng nhẹ, chỉ còn khoảng 20 người còn khả năng chiến đấu). Lính TC trên 389 ném lựu đạn, bắn súng tiểu liên , súng bazooka qua HQ10 với mục đích thanh toán các ổ súng còn lại, sau đó sẽ cặp vào đổ bộ lính lên chiếm đoạt tàu và bắt sống thủy thủ đoàn HQ10.
Những đợt tác xạ của địch trúng vào Đài Chỉ Huy đã làm Đ/U Trí rớt xuống phòng lái, tuy nhiên với dáng người to con, tướng vạm vỡ (cao 1,74m - nặng 70 kg), HP Nguyễn Thành Trí mặc dù đang bị thương nặng nhưng đã cố gượng đứng lên. Đoán được ý định của giặc, từ phòng lái, Đ/U Trí đã giựt lấy khẩu M16 nhã hàng loạt đạn vào tàu địch và sau khi đợi tàu địch vào đúng vị trí, Đ/U Trí đã cố sức vận chuyển chiến hạm, lấy hết tay lái về bên phải, hướng mũi tàu HQ10 đâm vào hông chiếc 389 của địch.
Quá bất ngờ trước hành động sáng suốt và quyết tử này, chiếc 389 không còn cách gì để vận chuyển tránh né khỏi nên đã bị phần mũi của HQ10 đâm mạnh vào yếu điểm của chiến hạm là phần sau lái. Cú đụng mạnh này cộng thêm vào những hư hại do hỏa pháo của HQ10 bắn trúng trong đợt khai hỏa đầu tiên đã đưa chiếc 389 lâm vào tình trạng nguy kịch, có lẽ đang sắp sửa chìm. Đây chắc cũng là lý do khiến chiến 396 phải ngưng chiến đấu với HQ16 để cấp tốc chạy đến tiếp cứu chiếc 389. Tuy nhiên, ngay cả chiếc 396 cũng lâm vào tình trạng nguy ngập vì thế 2 tàu đánh cá ngụy trang 402 và 407 đã đến tiếp cứu và đưa 389 ủi vào bãi san hô.
Có thể nói đây là một chiến công thật hiển hách của anh hùng Nguyễn Thành Trí trước giặc thù Trung Cộng. Nhận lãnh trách nhiệm quyền Hạm Trưởng (HT Tuần Dương Hạm Lý Thường Kiệt kiêm Phân Đội Trưởng Phân ĐộI II đã chỉ định HQ Đ/U Nguyễn Thành Trí thay thế HT Ngụy Văn Thà đã tử thương) trong lúc đang bị thương nặng, một mình đơn độc trên đài chỉ huy (Hạm Trưởng và hầu hết các SQ và nhân viên trên đài chỉ huy và phòng lái đã hy sinh), chiến hạm lại đang ở trong tình trạng nguy kịch, Đ/U Trí quyết định liều chết trong tình trạng khẩn trương đã dùng con tàu làm vũ khí lợi hại chống lại kẻ thù. Đ/U Trí không những đã phá vỡ ý đồ cướp tàu, bắt sống thủy thủ đoàn và mang HQ10 về làm chiến lợi phẩm của địch mà ngược lại còn gây thiệt hại nặng nề cho tàu địch.
Hành động này của Đ/U Trí đã dẫn đến cái chết cho ông và 6 chiến sĩ trên HQ10 trong lúc đào thoát, nhưng ngược lại đã bảo toàn danh dự của Hải Quân VNCH và của tổ quốc Việt Nam.
Vì cấu trúc của phần mũi HQ10 rất chắc chắn nên sau khi đâm mạnh vào sau lái chiếc 389, phần sườn và võ tàu HQ10 không bị hư hại thêm nhiều nhưng cả 2 máy lúc này hoàn toàn bất khiển dụng. Chiến hạm ta và địch từ từ tách ra xa. Tiếng súng đã lắng dịu. Trận hải chiến đang ở trong giai đoạn chấm dứt. HQ16 đang cố gắng bơm nước ra và sửa chửa máy phát điện từ từ ra khỏi lòng chảo hướng về Đà Nẵng. HQ4 và HQ5 rời vùng về hướng Đông Nam. Chiến hạm địch đang tự cứu hoặc đến cứu giúp lẫn nhau. Do đó, mặc dù HQ10 vẫn còn hiện diện tại vùng chiến nhưng đã không có một chiến hạm nào khác của TC đến gần để thăm dò hoặc để bắn chìm. Mãi đến 11 giờ 49 phút TC mới ra lịnh cho 2 chiến hạm loại Hainan mang số 281, 282 tăng tốc độ trực chỉ đến vùng và chúng đã đến địa điểm giao chiến vào lúc 12 giờ 12 phút.
Tình trạng HQ10 lúc này quá bi đát, gần 70% nhân viên đã hy sinh kể cả Hạm Trưởng, một số đang bị thương, phòng máy còn đang cháy, các nhân viên cơ khí bị cháy đen thui trong đó có Tr/Úy Thạch Cơ khí trưởng hai chân hầu như lìa khỏi thân mình, mặt mày cháy đen, 2 máy chánh và máy điện hoàn toàn bất khiển dụng, hệ thống liên lạc nội bộ và máy truyền tin không xử dụng được.
Đ/U Trí từ ĐCH bò xuống sàn tàu. Trước tình trạng tuyệt vọng không được sự tiếp cứu từ các chiến hạm bạn, ngoài ra các chiến hạm địch cũng đang tự cứu lấy do đó không còn là mối đe dọa nữa. Có lẽ đây là những lý do đã khiến cho Đ/U Trí ra lịnh đào thoát.
Với gương mặt đầy máu, Đ/U Trí được hai nhân viên dìu đứng gần bè cấp cứu dõng dạc tuyên bố: ” Hạm Trưởng đã hy sinh, tôi thay mặt Hạm Trưởng ra lịnh đào thoát.” Sau đó, Đ/U Trí đã lết đến từng chỗ mà kéo vực các binh sĩ xuống bè đào thoát (trong số này có Tr/úy Phạm Văn Thì đang ở tại nhiệm sở thủ cây đại liên). Ngoài ra Đ/U Trí chỉ định những nhân viên còn khỏe mạnh thả 4 bè cấp cứu cùng phụ giúp đưa những người bị thương xuống bè và chuẩn bị 1 bè nhỏ có 2 miếng ván kê lên để cho 2 chiến sĩ bị thương nặng là TS/VC Đa và TS/TP Nam nằm lên.
Khi tất cả nhân viên đã xuống bè, Đ/U Trí với vết thương quá nặng, khắp người nhầy nhụa máu cương quyết ở lại chết cùng Hạm Trưởng cùng nhân viên và chiến hạm nhưng hai nhân viên là HS/TP Trần Ngọc Sơn và TT/TX Trương Văn Long đã cặp và lôi ông xuống bè.
Như vậy cuộc đào thoát đã được thực hiện từng giai đoạn, rất có kỷ luật và theo đúng truyền thống Hải Quân. Quyền Hạm Trưởng Nguyễn Thành Trí là người cuối cùng miển cưỡng rời chiến hạm. Trong những giờ phút sau cùng, Đ/U Trí vẫn không quên những bài học về Hải Quy trong hai năm thụ huấn nơi quân trường.
Khi tất cả nhân viên đã lên bè đầy đủ (có người nhảy xuống nước rồi mới lên bè) kiểm điểm lại có tất cả 28 người trong đó có những người bị thương nặng và nhẹ trên 4 bè lớn và 1 bè nhỏ, ngoại trừ các chiến sĩ đã hy sinh.
Trong buổi họp, HP đã thông báo cho thủy đoàn HQ10 biết là theo nội dung công điện hành quân thì chiến hạm sẽ chuẫn bị chiến đấu thực sự lúc 6 giờ sáng, HP cũng nhấn mạnh ở điểm là bên ta không được khai hỏa trước vì vậy phần thiệt hại về phía ta có thể lên đến 80% hoặc 90%. Trung Úy Nguyễn Đông Mai có đặt câu hỏi về việc khai hỏa thì HP trả lời đây là lịnh từ Sài Gòn chúng ta phải thi hành theo lịnh. Cuộc họp chấm dứt vào lúc 0230H.
Khoảng 4 giờ sáng, sau một giấc ngủ ngắn HT thức giấc và từ ĐCH ông ra lịnh kéo còi nhiệm sở tác chiến. Tiếp theo hồi còi.. tít..tít..tít..là tiếng của HT vang lên trong hệ thống âm thoại: "Đây là HT…nhiệm sở tác chiến …nhiệm sở tác chiến…tất cả vào nhiệm sở tác chiến”.
Nghe tiếng còi và lịnh của HT tất cả nhân viên bật dậy và lập tức vào nhiệm sở của mình. Tiếp theo đó là nhiệm sở phòng không. Tất cả nòng súng rợp rợp hướng lên trời ở góc độ 45 độ.
Khoảng 4 giờ 30 có hai đóm sáng trên trời, tất cả các khẩu súng đều quay về hướng hai mục tiêu này.
Khoảng 5 giờ 30 hai đóm này lại xuất hiện.
Lúc 6 giờ hai đóm sáng này bay thấp hơn có lẽ là hai phản lực cơ.
Sự xuất hiện liên tiếp của các phi cơ lạ tạo nên tình trạng căng thẳng cho tất cả các nhân viên trên chiến hạm, chắc hẳn mọi người ai cũng linh cảm rằng một cuộc hải chiến chắc sẽ xảy ra.
Rạng sáng ngày 19-1, thi hành lịnh Phân Đội Trưởng, HQ10 di chuyển vào lòng chảo nhóm Nguyệt Thiềm theo lối giữa bãi Antelope và đảo Quang Hòa. Lúc này trời còn lờ mờ chưa tỏ hẵn ánh dương, lực lượng địch bây giờ được tăng cường thêm 2 chiếc Trục lôi hạm T43 mang số 389, 396. Như vậy chúng có cả thảy 4 chiến hạm (2 chiếc Hộ tống hạm loại Kronstadt số 271, 274 đã xuất hiện từ trước) và 2 tàu đánh cá ngụy trang mang số 402, 407 đang hiện diện tại vùng, đối đầu với 4 chiến hạm của ta (kể cả Khu trục hạm Trần Khánh Dư HQ 4 và Tuần Dương Hạm Trần Bình Trọng HQ 5 thuộc Phân Đội I đang ở trong khu vực phía Nam và phía Tây Nam đảo Quang Hòa).
Chiến hạm ta và địch chạy đan qua đan lại nhau rất gần. Địch nhiều lúc như muốn đâm thẳng cả tàu vào chiến hạm của ta nhưng về cả hai phía các khẩu súng đều chỉa lên trời.
Khoảng 6 giờ 30, Đại Tá Ngạc ra lịnh cho HQ5 đổ bộ toán người Nhái lên đảo Quang Hòa. Toán này vừa tiến vào bờ thì bị lính TC nổ súng trước, một SQ và một chiến sĩ người Nhái bị tử thương. Đại Tá Ngạc ra lịnh toán người Nhái mang xác SQ và rút toàn bộ trở về HQ5.
Nghe tiếng súng nổ, HT thông báo diển tiến và ra lịnh tất cả nhân viên sẵn sàng. Ngay sau tiếng súng nổ trên đảo, chiến hạm của ta và TC không còn chạy gần nhau nữa mà bắt đầu tách ra xa.
Khoảng 9 giờ, các tàu TC trao đổi quang hiệu. Ngay tiếp sau đó các tàu đánh cá ngụy trang được 4 chiến hạm bảo vệ di chuyển song song về hướng Bắc và dần dần biến mất ở cuối chân trời. Mọi người trên chiến hạm thoáng vui mừng, ai cũng thở phào nhẹ nhõm nghĩ là TC đã chịu lùi bước rút lui. Phần Trung Úy Hà Đăng Ngân hơn ngày qua lúc nào thần kinh cũng căng thẳng áo phao, nón sắt rất bực bội bây giờ được tạm cỡi ra vừa xuống phòng ăn cơm xong định đặt chân vào phòng tắm thì còi nhiệm sở tác chiến đột ngột reo inh ỏi, Tr/Úy Ngân tức tốc chạy lên nhiệm sở, mặc lại áo phao, đội nón sắt vào. Nhìn theo hướng chỉ trên ĐCH thấy có mấy vệt khói mỏng nơi cuối chân trời, rồi từ từ 4 chiến hạm TC đã rời vùng cách đây khoảng một tiếng quay đầu trở lại. Khi các chiến hạm TC tiến đến các chiến hạm ta, chúng không đến gần như lúc sáng mà ở xa xa khoảng 1 km làm thành một vòng tròn bao quanh các chiến hạm ta. Sau khi chạy loang quanh chừng 2 vòng các tàu TC từ từ lảng xa ra hơn. Như tiên đoán trước được dấu hiệu khác thường HT ra lịnh chuẩn bị tác chiến nhưng tất cả nòng súng hướng vào phía đảo để tránh sự khiêu khích với tàu địch. Trông chờ mãi khẩu lịnh “bắn” vẫn chưa được ban hành, thủy thủ đoàn có phần xao lãng không còn vẽ hăng say như lúc đầu. Lợi dụng khoảng thời gian này , một số nhân viên ở các nhiệm sở luân phiên vào nhà ăn để dùng cháo cho buổi điểm tâm.
Khoảng 10 giờ, hai chiếc tàu TC mang số 389, 396 bắt đầu tách rời ra khỏi hai chiếc 271, 274 và chạy song song gần nhau. Như một kinh nghiệm chiến trường, HT ra lịnh hạ nòng súng và quay súng về phía tàu TC, vài phút sau hai tàu TC chạy gần sát vào nhau và thình lình cùng quay mũi song song trực chỉ HQ10. HT ra lịnh tất cả ổ súng hướng về hai mục tiêu địch và xin lịnh cấp trên cho phép nổ súng nhưng được trả lời chờ Sài Gòn quyết định. Lúc này thần kinh tất cả mọi người thật căng thẳng. Hai tàu TC cứ từ từ đến gần, khi còn cách HQ10 khoảng 200-300m, HT hét lớn “bắn”. Tất cả các khẩu súng trên tàu đều nhả đạn vào tàu địch. HQ10 khai hỏa đầu tiên do lịnh của chính HT (theo HQ Tr/Tá Lê Văn Thự Hạm Trưởng HQ16 thì HQ16 khai hỏa trước). Những phát đạn đầu tiên của HQ10 trúng ngay vào chiếc 389 của TC làm nó bốc cháy khói mịt mù phải lùi lại phía sau, cùng lúc khẩu 127 ly trên HQ16 trực xạ vào chiếc 396 và chiếc này bị trúng đạn ngay ĐCH làm hư hệ thống tay lái nên tàu cứ xoay quanh. Đến lúc này HQ10 vẫn an toàn, đạn từ tàu TC bắn tới đều bay qua đầu hoặc nổ trên mặt nước.
Chiếc 389 bị trúng nơi hầm đạn với lỗ thủng hơi lớn làm nước tràn vào, ngoài ra máy phát điện cũng bị hư vì trúng đạn. Sau khi đã cố gắng vá xong lỗ thủng và sửa chửa máy phát điện, chiếc này quay trở lại tham chiến.
Điểm cần nêu lên ở đây là so sánh về hỏa lực thì hai trục lôi hạm số 389 và 396 tuy không được trang bị đại bác cỡ lớn nhưng bù lại mỗi chiếc có 4 khẩu đại bác 37 ly (tương đương với đại bác Bofors 40 ly của ta) và 4 khẩu đại bác 25 ly. So sánh về kích thước 2 chiếc này tương đương với HQ10, do đó địch đã áp dụng chiến thuật bám sát vào các chiến hạm ta để làm giảm đi sự hiệu quả của khẩu 127 ly trên HQ16 và 76, 2 ly trên HQ10.
Đang chiếm ưu thế, bổng dưng khẩu 76, 2 ly trên HQ10 bị trở ngại tác xạ (có phải đây là lý do mà HT đã khẩn cấp gọi HP lên ĐCH???) thêm vào đó chiến hạm lại chỉ có một máy khiển dụng, vì thế việc vận chuyển để xử dụng tối đa 2 khẩu đại bác 40 ly ở phía sân sau cùng một lúc rất là khó khăn. Lợi dụng sự bất lợi của HQ10, chiếc 389 đã tấn công tới tấp và HQ10 bắt đầu trúng đạn ở ĐCH và phòng lái. HT, hầu hết các Sĩ Quan, HSQ và nhân viên ngành Giám lộ và Vận Chuyển có mặt trên ĐCH và phòng lái đều tử trận ngoại trừ Hạm Phó bị thương nặng nơi mặt, bụng và chân phải (mất một miếng thịt ở chân phải).
Ngoài ĐCH và phòng lái, hầm máy và hầm đạn dược cũng bị trúng đạn bốc cháy. Đạn nổ văng tứ tung và khói đen tuôn mịt mù khắp con tàu.
Từ vị trí cách HQ 10 khoảng vài trăm mét, quan sát thấy HQ10 đang ở trong tình trạng rối loạn, không bỏ lỡ cơ hội chiếc 389 của TC vận chuyển tiến vào phía sau lái hữu hạm HQ10. Thấy tàu địch có ý định cặp vào một vài nhân viên hơi giao động nhưng 2 chiến sĩ Lê Văn Tây và Ngô Văn Sáu vẫn ngang nhiên ghì chặt nòng súng làm tròn phận sự của mình (lúc này trên HQ10 có khoảng 50 chiến sĩ đã hy sinh, một số bị thương nặng nhẹ, chỉ còn khoảng 20 người còn khả năng chiến đấu). Lính TC trên 389 ném lựu đạn, bắn súng tiểu liên , súng bazooka qua HQ10 với mục đích thanh toán các ổ súng còn lại, sau đó sẽ cặp vào đổ bộ lính lên chiếm đoạt tàu và bắt sống thủy thủ đoàn HQ10.
Những đợt tác xạ của địch trúng vào Đài Chỉ Huy đã làm Đ/U Trí rớt xuống phòng lái, tuy nhiên với dáng người to con, tướng vạm vỡ (cao 1,74m - nặng 70 kg), HP Nguyễn Thành Trí mặc dù đang bị thương nặng nhưng đã cố gượng đứng lên. Đoán được ý định của giặc, từ phòng lái, Đ/U Trí đã giựt lấy khẩu M16 nhã hàng loạt đạn vào tàu địch và sau khi đợi tàu địch vào đúng vị trí, Đ/U Trí đã cố sức vận chuyển chiến hạm, lấy hết tay lái về bên phải, hướng mũi tàu HQ10 đâm vào hông chiếc 389 của địch.
Quá bất ngờ trước hành động sáng suốt và quyết tử này, chiếc 389 không còn cách gì để vận chuyển tránh né khỏi nên đã bị phần mũi của HQ10 đâm mạnh vào yếu điểm của chiến hạm là phần sau lái. Cú đụng mạnh này cộng thêm vào những hư hại do hỏa pháo của HQ10 bắn trúng trong đợt khai hỏa đầu tiên đã đưa chiếc 389 lâm vào tình trạng nguy kịch, có lẽ đang sắp sửa chìm. Đây chắc cũng là lý do khiến chiến 396 phải ngưng chiến đấu với HQ16 để cấp tốc chạy đến tiếp cứu chiếc 389. Tuy nhiên, ngay cả chiếc 396 cũng lâm vào tình trạng nguy ngập vì thế 2 tàu đánh cá ngụy trang 402 và 407 đã đến tiếp cứu và đưa 389 ủi vào bãi san hô.
Có thể nói đây là một chiến công thật hiển hách của anh hùng Nguyễn Thành Trí trước giặc thù Trung Cộng. Nhận lãnh trách nhiệm quyền Hạm Trưởng (HT Tuần Dương Hạm Lý Thường Kiệt kiêm Phân Đội Trưởng Phân ĐộI II đã chỉ định HQ Đ/U Nguyễn Thành Trí thay thế HT Ngụy Văn Thà đã tử thương) trong lúc đang bị thương nặng, một mình đơn độc trên đài chỉ huy (Hạm Trưởng và hầu hết các SQ và nhân viên trên đài chỉ huy và phòng lái đã hy sinh), chiến hạm lại đang ở trong tình trạng nguy kịch, Đ/U Trí quyết định liều chết trong tình trạng khẩn trương đã dùng con tàu làm vũ khí lợi hại chống lại kẻ thù. Đ/U Trí không những đã phá vỡ ý đồ cướp tàu, bắt sống thủy thủ đoàn và mang HQ10 về làm chiến lợi phẩm của địch mà ngược lại còn gây thiệt hại nặng nề cho tàu địch.
Hành động này của Đ/U Trí đã dẫn đến cái chết cho ông và 6 chiến sĩ trên HQ10 trong lúc đào thoát, nhưng ngược lại đã bảo toàn danh dự của Hải Quân VNCH và của tổ quốc Việt Nam.
Vì cấu trúc của phần mũi HQ10 rất chắc chắn nên sau khi đâm mạnh vào sau lái chiếc 389, phần sườn và võ tàu HQ10 không bị hư hại thêm nhiều nhưng cả 2 máy lúc này hoàn toàn bất khiển dụng. Chiến hạm ta và địch từ từ tách ra xa. Tiếng súng đã lắng dịu. Trận hải chiến đang ở trong giai đoạn chấm dứt. HQ16 đang cố gắng bơm nước ra và sửa chửa máy phát điện từ từ ra khỏi lòng chảo hướng về Đà Nẵng. HQ4 và HQ5 rời vùng về hướng Đông Nam. Chiến hạm địch đang tự cứu hoặc đến cứu giúp lẫn nhau. Do đó, mặc dù HQ10 vẫn còn hiện diện tại vùng chiến nhưng đã không có một chiến hạm nào khác của TC đến gần để thăm dò hoặc để bắn chìm. Mãi đến 11 giờ 49 phút TC mới ra lịnh cho 2 chiến hạm loại Hainan mang số 281, 282 tăng tốc độ trực chỉ đến vùng và chúng đã đến địa điểm giao chiến vào lúc 12 giờ 12 phút.
Tình trạng HQ10 lúc này quá bi đát, gần 70% nhân viên đã hy sinh kể cả Hạm Trưởng, một số đang bị thương, phòng máy còn đang cháy, các nhân viên cơ khí bị cháy đen thui trong đó có Tr/Úy Thạch Cơ khí trưởng hai chân hầu như lìa khỏi thân mình, mặt mày cháy đen, 2 máy chánh và máy điện hoàn toàn bất khiển dụng, hệ thống liên lạc nội bộ và máy truyền tin không xử dụng được.
Đ/U Trí từ ĐCH bò xuống sàn tàu. Trước tình trạng tuyệt vọng không được sự tiếp cứu từ các chiến hạm bạn, ngoài ra các chiến hạm địch cũng đang tự cứu lấy do đó không còn là mối đe dọa nữa. Có lẽ đây là những lý do đã khiến cho Đ/U Trí ra lịnh đào thoát.
Với gương mặt đầy máu, Đ/U Trí được hai nhân viên dìu đứng gần bè cấp cứu dõng dạc tuyên bố: ” Hạm Trưởng đã hy sinh, tôi thay mặt Hạm Trưởng ra lịnh đào thoát.” Sau đó, Đ/U Trí đã lết đến từng chỗ mà kéo vực các binh sĩ xuống bè đào thoát (trong số này có Tr/úy Phạm Văn Thì đang ở tại nhiệm sở thủ cây đại liên). Ngoài ra Đ/U Trí chỉ định những nhân viên còn khỏe mạnh thả 4 bè cấp cứu cùng phụ giúp đưa những người bị thương xuống bè và chuẩn bị 1 bè nhỏ có 2 miếng ván kê lên để cho 2 chiến sĩ bị thương nặng là TS/VC Đa và TS/TP Nam nằm lên.
Khi tất cả nhân viên đã xuống bè, Đ/U Trí với vết thương quá nặng, khắp người nhầy nhụa máu cương quyết ở lại chết cùng Hạm Trưởng cùng nhân viên và chiến hạm nhưng hai nhân viên là HS/TP Trần Ngọc Sơn và TT/TX Trương Văn Long đã cặp và lôi ông xuống bè.
Như vậy cuộc đào thoát đã được thực hiện từng giai đoạn, rất có kỷ luật và theo đúng truyền thống Hải Quân. Quyền Hạm Trưởng Nguyễn Thành Trí là người cuối cùng miển cưỡng rời chiến hạm. Trong những giờ phút sau cùng, Đ/U Trí vẫn không quên những bài học về Hải Quy trong hai năm thụ huấn nơi quân trường.
Khi tất cả nhân viên đã lên bè đầy đủ (có người nhảy xuống nước rồi mới lên bè) kiểm điểm lại có tất cả 28 người trong đó có những người bị thương nặng và nhẹ trên 4 bè lớn và 1 bè nhỏ, ngoại trừ các chiến sĩ đã hy sinh.
Những người lính của quân đội Việt Nam cộng hòa đã hy sinh trong trận giao chiến với Hải quân Trung Quốc 1/1974
Có 2 chiến sĩ oai hùng là HS1/VC Lê Văn Tây và HS/VC Ngô Văn Sáu đã từ chối không xuống bè đào thoát, quyết ở lại tử chiến với giặc thù Trung Cộng và chết theo tàu..
Tình trạng các bè rất bi thảm, bè nào cũng bị trúng đạn. Riêng bè của Đ/U Trí bị bể một miếng lớn, khi 6 người ngồi lên, bè chìm xuống, nước ngập tới ngực. Dù bị thương nặng nhưng Đ/U Trí vẫn còn tỉnh táo, ông bảo thủy thủ cố đưa 4 bè lại gần nhau rồi dùng những sợi dây chung quanh phao, cột chúng lại với nhau để cho tàu chạy ngang qua dễ nhìn thấy.
Luồng nước và gió từ từ đưa các bè xa dần HQ10. Lúc này tiếng súng đã ngưng hẵn. Từ bè nhìn lại HQ10 vẫn còn bốc khói. Tàu bị trúng đạn quá nhiều lỗ chỗ như tổ ong; về phía Trung Cộng, 3 chiếc cũng đang bốc cháy.
Tất cả mọi người đều hy vọng sẽ có chiến hạm bạn đến tiếp cứu nhất là HQ16 cũng không xa lắm, nhưng khi nhìn thấy HQ16 bị nghiêng một bên và đang từ từ chạy ra khỏi lòng chảo họ mới hiểu được lý do vì sao HQ16 không đến vớt họ lên.
Gió mùa Đông Bắc đưa các bè trôi theo hướng ra ngoài lòng chảo nhóm Nguyệt Thiềm và HQ10 cũng đang trôi theo. Khoảng hơn một giờ sau các thủy thủ trên bè thấy có khói xuất hiện ở cuối chân trời, niềm hy vọng có tàu bạn đến cứu nhóm lên, nhưng khi đến gần thì ra là hai chiếc số 281, 282 loại Hainan của TC. Khi 2 chiếc này tới gần HQ10 vào lúc 12 giờ 12 phút khẩu đại bác 20 ly do 2 chiến sĩ anh hùng Tây và Sáu ở lại tử thủ bắt đầu nổ vang, chiến hạm địch vừa tiến vừa phản pháo bằng đại bác 57 ly và các loại súng khác. Một hồi lâu sau tiếng đại bác 20 ly từ HQ10 im bặt, HS1/VC Lê Văn Tây và HS/VC Ngô Văn Sáu đã trúng đạn của giặc thù TC hy sinh đền nợ nước một cách oai hùng.
Mặc dù không còn tiếng súng chống trả trên HQ 10 nhưng tàu TC vẫn tiếp tục bắn xối xả vào HQ10 trong khi HQ10 đang bốc cháy và trôi lềnh bềnh cho đến 14 giờ 52 phút thì chìm tại địa điểm cách phía Nam bãi đá ngầm Hải Sâm (Antelope reef) khoảng 2,5 km mang theo thân xác của Hạm Trưởng Ngụy Văn Thà và 54 (2) chiến sĩ anh hùng của HQ/VNCH.
Thanh toán HQ 10 xong, hai chiếc 281, 282 quay lại tiến gần đến các bè, HP Nguyễn Thành Trí dặn các nhân viên trên bè: ”Nếu bị bắt, bị đánh cũng đừng khóc, đừng van xin”. Tất cả đều hồi hộp không biết chúng sẽ hành động như thế nào? Chúng sẽ vớt họ lên bắt sống làm tù binh? Chúng sẽ bỏ mặc cho bè các anh tiếp tục trôi để chết lần mòn giữa biển khơi? Hay là chúng sẽ bắn vào bè để giết chết hết các anh?... Cuối cùng, sau khi chạy quanh các bè khoảng 2 vòng, chúng vẫy tay cười rồi bỏ đi. Chúng đã chọn phương cách thật tàn nhẫn vừa khỏi phí đạn, vừa khỏi tốn công chăm sóc các anh theo luật tù binh quốc tế, vừa khỏi mang tiếng sát nhân vì chúng nghĩ là sớm muộn gì các anh cũng sẽ chết.
Hành động vô nhân đạo này của TC đã làm chết thêm 7 chiến sĩ của HQ10. Nếu chúng thi hành đúng theo hiệp ước Geneva về tù binh thì khi các chiến sĩ HQ10 được vớt lên chúng có nhiệm vụ phải chăm sóc cho họ và sẽ không có thêm 7 chiến sĩ của HQ10 phải chết oan uổng trên đường đào thoát.
Sau khi tàu TC bỏ đi, các bè vẫn tiếp tục trôi và khi mặt trời bắt đầu lặn dòng nước đưa các bè lại gần một hòn đảo nhỏ. Đ/U Trí ân cần dặn nếu lên được đảo thì phải đào hố để che gió cho ấm và kiếm nước uống , tuyệt đối không được uống nước biển sẽ chóng chết.
Các anh em cố gắng dùng tay và những mảnh ván nhỏ thế chèo nhưng vẫn không vào được gần đảo, dần dần các bè trôi ra ngoài khu vực lòng chảo. Càng về đêm gió càng thổi mạnh, sóng dâng to đánh mạnh vào các bè làm chiếc bè trên đó có Đ/U Trí bị đứt giây tách ra khỏi nhóm. Tất cả mọi người trên các bè đều lạnh run và mệt lả. Trên bè của Đ/U Trí có thêm Tr/úy Ngân cũng bị thương. Phần Đ/U Trí bị thương trên đầu, bụng và chân nhưng ông vẫn cố gắng giữ vẻ tỉnh táo, che dấu đi những nổi đau đớn do vết thương hành hạ. Tuy nhiên vết thương ở chân vì không được băng bó kỷ lưỡng nên vẫn còn rĩ máu vì thế cá mập cứ bám theo sau. Lo ngại về sự an toàn của đồng đội và có lẽ cũng biết là mình sắp chết nên Đ/U Trí đã bảo thuộc cấp: "Hảy thả tôi xuống biển, nếu không cá mập cứ bám theo, các anh cũng sẽ chết hết." (3) Nhưng các anh em không thể nhẩn tâm đối với vị Hạm Phó đã từng sống chết với mình nên họ đã làm ngơ. Cho đến khi đêm xuống, các anh em mệt nhoài ngủ thiếp đi thì cũng là lúc Đ/U Trí trút hơi thỏ cuối cùng đền nợ nước vào khoảng 2 giờ sáng ngày 20 tháng 1 năm 1974, sau khi đã làm tròn nhiệm vụ của một chiến sĩ HQ/VNCH cho đến phút cuối cùng. Các chiến sĩ đào thoát đã chờ đến lúc trời sáng để làm lễ thủy táng cho ông theo truyền thống Hải quân.
Ngoài Đ/U Trí còn có 5 chiến sĩ bị thương trong trận hải chiến cũng đã hy sinh trên các bè đào thoát, danh sách trích từ phiếu tường trình ủy khúc số 121/BLH/HĐ/NV/TTUK/K ngày 16-2-1974 của BTL/HĐ (4) gồm có:
- HQ. Đại Úy Nguyễn Thành Trí số quân: 61A702.714
- TS1/GL Vương Thương - 64A700.777
- TS/VCh Phan Ngọc Đa - 71A703.001
- TS/TP Võ Văn Nam - 71A705.697
- TS/ĐTTrần Văn Thọ - 71A706.845
- TS/QK Nguyễn Văn Tuấn - 71A700.206
Với khoảng 4 ngày và 3 đêm trôi lênh đênh giữa vùng biển mênh mông trên các bè loang lỗ đầy vết đạn của giặc thù, nước uống và thức ăn không đủ để chia nhau phải dùng nước tiểu pha với nước biển để uống cầm cự. Họ đã sống giữa tuyệt vọng và hy vọng, giữa cái chết và cái sống, giữa những cơn đau đớn tận cùng do vết thương hành hạ, do thời tiết nghiệt ngã mang đến và nhất là nổi đau xót khi chứng kiến đồng đội người này tiếp nối người kia gục ngã trên bè, thân xác được thủy táng vào lòng đại dương. Nhưng hầu như tất cả mọi người lúc nào cũng chia xẽ với nhau, cũng nhường nhịn lo lắng cho nhau và cùng nhau cầu nguyện.
Công tác tìm kiếm và cứu vớt các chiến sĩ đào thoát.
Ngay trong ngày 19-1, trước tin sơ khởi báo cáo về cho biết có thể có 2 chiến hạm phía ta đã bị hỏa tiển Styx của TC bắn chìm, chánh phủ VNCH đã 3 lần nhờ chánh phủ Hoa Kỳ trợ giúp trong việc tìm kiếm và cấp cứu (2 lần nhờ sự trợ giúp của các chiến hạm và 1 lần nhờ sự trợ giúp của các trực thăng thuộc Đệ 7 Hạm Đội), nhưng lời yêu cầu này đã bị Đại Sứ Martin khước từ. Người bạn đồng minh từ bao năm nay đã lựa chọn thái độ không can dự vào các vụ tranh chấp chủ quyền trên các hải đảo trong vùng biển Đông, ngay cả việc giúp đỡ với mục đích nhân đạo.
Thái độ này đã được thể hiện rõ rệt qua việc Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ yêu cầu Bộ Quốc Phòng chỉ thị cho Hải Quân Hoa Kỳ đứng ngoài khu vực xung đột. (ngày giờ chính xác của văn thơ này chưa được rõ). Do vậy, nên ngay sau khi được tin chiến hạm HQ/VNCH đã nhận được lịnh khai hỏa, Tư Lịnh Đệ Thất Hạm Đội Hải Quân Hoa Kỳ vào lúc 0950H ngày 19-1 lập tức gởi công điện ra lịnh cho các chiến hạm Hoa Kỳ tránh xa khỏi khu vực sắp giao chiến và tránh các hành động có thể được xem như là tham dự vào hay cung cấp sự yểm trợ cho miền Nam.
Đồng thời Tư Lịnh Không Quân Hoa Kỳ Thái Bình Dương cũng ra lịnh cấm tất cả các phi cơ thuộc Không Lực Hoa Kỳ bay trên không phận quần đảo Hoàng Sa ở bất cứ cao độ nào.
Nhật báo The New York Times ra ngày 19-1 có đăng lời Phát Ngôn Viên Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ tuyên bố “Chúng tôi không đứng về bất cứ phe nào”. Ngoài ra John F. King viên chức Giao Tế thuộc Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ đã phát biểu khi trả lời các câu hỏi: ”Lẽ dỉ nhiên, chúng tôi hết sức mong muốn một sự dàn xếp êm đẹp”, nhưng “chúng tôi không can dự vào”
Vào buổi tối ngày 20-1, Ngoại Trưởng VNCH đã yêu cầu Đại Sứ Martin chuyển đạt lời yêu cầu đến chánh phủ Hoa Kỳ để nhờ họ đề nghị với TC đồng ý hưu chiến trong 48 giờ, đủ thời gian để chánh phủ VNCH có thể di tản những người chết và bị thương ra khỏi quần đảo HS (5)
Lời đề nghị hợp lý và nhân đạo này đã không được chánh phủ Hoa Kỳ chuyển đến Bắc Kinh.
Trước thái độ dửng dưng của Hoa Kỳ, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu sau khi cân nhắc lợi hại đã từ bỏ ý định dùng võ lực tái chiếm Hoàng Sa. Vì vậy các giới chức thẫm quyền đã nghĩ ngay đến việc cứu cấp các chiến sĩ HQ10 đào thoát trên bè sau trận hải chiến.
Trưa ngày 22-1 lúc 1 giờ 05 phút, Toà Đại Sứ Mỹ tại Sài Gòn đã gởi điện thư về Bộ Ngoại Giao báo cáo là vào buổi sáng, dinh Độc Lập, Bộ Ngoại Giao và Đại Tướng Cao Văn Viên Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Lực VNCH đã thông báo với họ là Chánh Phủ Việt Nam cảm thấy bắt buộc phải mở ra cuộc hành quân không/hải để tìm kiếm những người hy vọng sống sót trên mặt biển trong khoảng giữa Hoàng Sa và Đà Nẵng.
Tiếp theo đó lúc 1 giờ 31 trưa ngày 22-1, Tòa Đại Sứ lại gởi tiếp bản văn từ Bộ Ngoại Giao VNCH mới vừa được Phát Ngôn Viên Bộ Ngoại Giao VNCH phổ biến đến báo chí, nội dung bản văn loan báo cấp chỉ huy quân sự Việt Nam đang mở ra cuộc hành quân cứu cấp trong vòng 48 giờ để cứu vớt những người sống sót trên Hộ Tống Hạm Nhật Tảo HQ10, chiến hạm này đã được báo cáo mất tích sau trận hải chiến với Hải Quân TC tại quần đảo Hoàng Sa.
Lực lượng tham dự cuộc tìm kiếm gồm có Tuần Dương Hạm Trần Quốc Toản HQ6, hai chiếc Tuần Duyên Đỉnh (WPB) và 1 phi cơ C-119.
Khu vực tìm kiếm nằm trong giới hạn bởi các tọa độ dưới đây :
- A. 15 độ 30 phút 28 giây Bắc - 110 độ 00 phút 18 giây Đông
- B. 14 độ 50 phút 30 giây Bắc - 110 độ 40 phút 27 giây Đông
- C. 15 độ 30 phút 36 giây Bắc - 111 độ 10 phút 00 giây Đông
- D. 16 độ 00 phút 00 giây Bắc - 110 độ 40 phút 48 giây Đông
Bản văn từ Tòa Đại Sứ Mỹ cũng cho biết là các giới chức thẫm quyền VNCH quan tâm đến số phận của thủy thủ đoàn HQ10 mà lần sau cùng đã được thấy không người điều khiển gần đảo Vĩnh Lạc (Money). Với dòng nước biển chảy bình thường sẽ đưa HQ10 hoặc là nếu chiến hạm bị chìm sẽ đưa những người sống sót đến khoảng 70 hải lý về hướng Tây Nam của khu vực nằm trong các tọa độ A, B, C và D.
Bản văn còn cho biết là chánh phủ VNCH chỉ thị phái đoàn VN ở Geneva lập tức thông báo cho Hội Hồng Thập Tự Quốc Tế những điều đã đề cập ở trên và yêu cầu Hội thông báo Bắc Kinh về bản chất và phạm vi của cuộc hành quân, ngoài ra còn yêu cầu chánh phủ Hoa Kỳ xử dụng các phương tiện thông tin trực tiếp với Bắc Kinh trong nỗ lực để đảm bảo là Bắc Kinh cũng biết rõ về chiến dịch hoàn toàn có tính chất nhân đạo này.
Về phần Đại Sứ Martin, ông cũng khuyến cáo Bộ Ngoại Giao Mỹ nên tiếp xúc với Phái đoàn liên lạc TC ở Hoa Thịnh Đốn hoặc Văn phòng Liên Lạc Hoa Kỳ ở Bắc Kinh để yêu cầu TC thông báo đến các giới chức thẫm quyền quân sự của họ về chiến dịch này và Bộ Ngoại Giao có thể chỉ thị Phái Đoàn Hoa Kỳ ở Geneva tạo điều kiện để Phái đoàn Việt Nam tại Geneva và Hội HTT quốc tế gặp gỡ nhau.
Những lời khuyến cáo của Đại Sứ Martin đã được Ngoại Trưởng Kissinger chấp thuận, vì vậy ngay sau đó Ngoại Trưởng Kissinger đã gởi điện thư cho Văn Phòng Liên Lạc Mỹ ở Bắc Kinh yêu cầu họ thông báo với Bộ Ngoại Giao TC về cuộc hành quân cứu cấp này. Ngoài ra cũng giải thích cho Bắc Kinh biết là Mỹ làm việc này theo sự yêu cầu của chánh phủ VN và với tính cách nhân đạo, còn việc đề nghị Bộ Ngoại giao TC thông báo cho cấp chỉ huy quân sự TC là tùy ở Văn Phòng Liên Lạc.
Trong khi các chiến hạm và phi cơ VNCH đang bắt đầu việc tìm kiếm thì vào lúc 6 giờ 30 chiều ngày 22-1-1974 tàu dầu Kopionella thuộc hảng Shell mang quốc tịch Hòa Lan đã tìm thấy và vớt tất cả 22 người (5) thuộc HQ10 còn sống sót lên tàu tại toạ độ 16 độ 10’ N và 110 độ 46’ E cách Đà Nẵng khoảng 287 km về hướng Đông, như vậy toán đào thoát đã trôi trên biển trong khoảng 78 giờ với khoảng cách độ 110 km.
Sau khi lên tàu Thượng Sĩ Châu vì quá kiệt sức nên đã trút hơi thở cuối cùng, ngoài ra có 4 người bị thương nặng. Tất cả đã được từ Thuyền Trưởng, Thuyền Phó và phu nhân của các vị này cùng thủy đoàn tàu dầu Kopionella tận tình chăm sóc. Với tư cách Sĩ quan thâm niên hiện diện, HQ Trung Úy Phạm Văn Thì đã được Thuyền Trưởng đưa vào phòng của ông để liên lạc với cấp chỉ huy Hải Quân Việt Nam.
Sáng ngày 23-1 lúc 5 giờ 15 tất cả đã được chuyển sang Tuần dương Hạm Trần Quốc Toản HQ6 để đưa về Đà Nẵng.
Qua lời thuật lại của các chiến sĩ sống sót, cuộc hành quân cứu vớt tiếp tục sang ngày 23-1 với hy vọng tìm thấy bè bằng cây trên đó có TS/VC Đa và TS/TP Nam, nhưng đến 6 giờ 15 phút chiều cùng ngày phi cơ tuần tiểu đã phát giác hai mãnh ván tại tọa độ 15 độ 43’ Bắc – 110 độ 02’ Đông, nhưng khi chiến hạm được điều động đến nơi mọi người đều thất vọng vì chỉ thấy 2 miếng ván không người.
Cuộc hành quân tìm kiếm và cấp cứu đã được chấm dứt ngay sau đó.
Để kết luận, trận hải chiến Hoàng Sa ngày 19-1-1974 như là một định mệnh đã sẵn dành cho Hộ Tống Hạm Nhật Tảo HQ10 một chỗ đứng xứng đáng trong lịch sử chống ngoại xâm để gìn giữ cõi bờ hùng vĩ do tổ tiên truyền lại. Tuy mất Hoàng Sa nhưng gương sáng về những sự hy sinh cao qúy, về tinh thần chiến đấu cao độ, liều chết tử thủ trước giặc thù, về lời nói đầy hùng khí ngay cả khi lâm vào tình thế nguy khốn sẽ mãi mãi được nhớ đến trong lịch sử oai hùng ngàn đời của con dân nước Việt.
Xin cho một lần tất cả những người dân nước Việt, không phân biệt Nam, Trung, Bắc không phân biệt lý thuyết, chủ nghĩa hãy cúi đầu khâm phục tinh thần bất khuất và sự hy sinh cao cả của 54 chiến sĩ HQ10 đã hy sinh tại chiến trường, 7 chiến sĩ hy sinh trên đường đào thoát cũng như 21 chiến sĩ còn lại đã thoát chết trong lúc chiến đấu với giặc thù, đã sống sót trong 3 đêm và 4 ngày gian khổ cùng cực trên biển khơi.
Các anh còn sống để có ngày chứng minh cho cả thế giới biết sự chiến đấu hào hùng của dân Việt cũng như sự nhẫn tâm của giặc thù Trung Cộng.
Tình trạng các bè rất bi thảm, bè nào cũng bị trúng đạn. Riêng bè của Đ/U Trí bị bể một miếng lớn, khi 6 người ngồi lên, bè chìm xuống, nước ngập tới ngực. Dù bị thương nặng nhưng Đ/U Trí vẫn còn tỉnh táo, ông bảo thủy thủ cố đưa 4 bè lại gần nhau rồi dùng những sợi dây chung quanh phao, cột chúng lại với nhau để cho tàu chạy ngang qua dễ nhìn thấy.
Luồng nước và gió từ từ đưa các bè xa dần HQ10. Lúc này tiếng súng đã ngưng hẵn. Từ bè nhìn lại HQ10 vẫn còn bốc khói. Tàu bị trúng đạn quá nhiều lỗ chỗ như tổ ong; về phía Trung Cộng, 3 chiếc cũng đang bốc cháy.
Tất cả mọi người đều hy vọng sẽ có chiến hạm bạn đến tiếp cứu nhất là HQ16 cũng không xa lắm, nhưng khi nhìn thấy HQ16 bị nghiêng một bên và đang từ từ chạy ra khỏi lòng chảo họ mới hiểu được lý do vì sao HQ16 không đến vớt họ lên.
Gió mùa Đông Bắc đưa các bè trôi theo hướng ra ngoài lòng chảo nhóm Nguyệt Thiềm và HQ10 cũng đang trôi theo. Khoảng hơn một giờ sau các thủy thủ trên bè thấy có khói xuất hiện ở cuối chân trời, niềm hy vọng có tàu bạn đến cứu nhóm lên, nhưng khi đến gần thì ra là hai chiếc số 281, 282 loại Hainan của TC. Khi 2 chiếc này tới gần HQ10 vào lúc 12 giờ 12 phút khẩu đại bác 20 ly do 2 chiến sĩ anh hùng Tây và Sáu ở lại tử thủ bắt đầu nổ vang, chiến hạm địch vừa tiến vừa phản pháo bằng đại bác 57 ly và các loại súng khác. Một hồi lâu sau tiếng đại bác 20 ly từ HQ10 im bặt, HS1/VC Lê Văn Tây và HS/VC Ngô Văn Sáu đã trúng đạn của giặc thù TC hy sinh đền nợ nước một cách oai hùng.
Mặc dù không còn tiếng súng chống trả trên HQ 10 nhưng tàu TC vẫn tiếp tục bắn xối xả vào HQ10 trong khi HQ10 đang bốc cháy và trôi lềnh bềnh cho đến 14 giờ 52 phút thì chìm tại địa điểm cách phía Nam bãi đá ngầm Hải Sâm (Antelope reef) khoảng 2,5 km mang theo thân xác của Hạm Trưởng Ngụy Văn Thà và 54 (2) chiến sĩ anh hùng của HQ/VNCH.
Thanh toán HQ 10 xong, hai chiếc 281, 282 quay lại tiến gần đến các bè, HP Nguyễn Thành Trí dặn các nhân viên trên bè: ”Nếu bị bắt, bị đánh cũng đừng khóc, đừng van xin”. Tất cả đều hồi hộp không biết chúng sẽ hành động như thế nào? Chúng sẽ vớt họ lên bắt sống làm tù binh? Chúng sẽ bỏ mặc cho bè các anh tiếp tục trôi để chết lần mòn giữa biển khơi? Hay là chúng sẽ bắn vào bè để giết chết hết các anh?... Cuối cùng, sau khi chạy quanh các bè khoảng 2 vòng, chúng vẫy tay cười rồi bỏ đi. Chúng đã chọn phương cách thật tàn nhẫn vừa khỏi phí đạn, vừa khỏi tốn công chăm sóc các anh theo luật tù binh quốc tế, vừa khỏi mang tiếng sát nhân vì chúng nghĩ là sớm muộn gì các anh cũng sẽ chết.
Hành động vô nhân đạo này của TC đã làm chết thêm 7 chiến sĩ của HQ10. Nếu chúng thi hành đúng theo hiệp ước Geneva về tù binh thì khi các chiến sĩ HQ10 được vớt lên chúng có nhiệm vụ phải chăm sóc cho họ và sẽ không có thêm 7 chiến sĩ của HQ10 phải chết oan uổng trên đường đào thoát.
Sau khi tàu TC bỏ đi, các bè vẫn tiếp tục trôi và khi mặt trời bắt đầu lặn dòng nước đưa các bè lại gần một hòn đảo nhỏ. Đ/U Trí ân cần dặn nếu lên được đảo thì phải đào hố để che gió cho ấm và kiếm nước uống , tuyệt đối không được uống nước biển sẽ chóng chết.
Các anh em cố gắng dùng tay và những mảnh ván nhỏ thế chèo nhưng vẫn không vào được gần đảo, dần dần các bè trôi ra ngoài khu vực lòng chảo. Càng về đêm gió càng thổi mạnh, sóng dâng to đánh mạnh vào các bè làm chiếc bè trên đó có Đ/U Trí bị đứt giây tách ra khỏi nhóm. Tất cả mọi người trên các bè đều lạnh run và mệt lả. Trên bè của Đ/U Trí có thêm Tr/úy Ngân cũng bị thương. Phần Đ/U Trí bị thương trên đầu, bụng và chân nhưng ông vẫn cố gắng giữ vẻ tỉnh táo, che dấu đi những nổi đau đớn do vết thương hành hạ. Tuy nhiên vết thương ở chân vì không được băng bó kỷ lưỡng nên vẫn còn rĩ máu vì thế cá mập cứ bám theo sau. Lo ngại về sự an toàn của đồng đội và có lẽ cũng biết là mình sắp chết nên Đ/U Trí đã bảo thuộc cấp: "Hảy thả tôi xuống biển, nếu không cá mập cứ bám theo, các anh cũng sẽ chết hết." (3) Nhưng các anh em không thể nhẩn tâm đối với vị Hạm Phó đã từng sống chết với mình nên họ đã làm ngơ. Cho đến khi đêm xuống, các anh em mệt nhoài ngủ thiếp đi thì cũng là lúc Đ/U Trí trút hơi thỏ cuối cùng đền nợ nước vào khoảng 2 giờ sáng ngày 20 tháng 1 năm 1974, sau khi đã làm tròn nhiệm vụ của một chiến sĩ HQ/VNCH cho đến phút cuối cùng. Các chiến sĩ đào thoát đã chờ đến lúc trời sáng để làm lễ thủy táng cho ông theo truyền thống Hải quân.
Ngoài Đ/U Trí còn có 5 chiến sĩ bị thương trong trận hải chiến cũng đã hy sinh trên các bè đào thoát, danh sách trích từ phiếu tường trình ủy khúc số 121/BLH/HĐ/NV/TTUK/K ngày 16-2-1974 của BTL/HĐ (4) gồm có:
- HQ. Đại Úy Nguyễn Thành Trí số quân: 61A702.714
- TS1/GL Vương Thương - 64A700.777
- TS/VCh Phan Ngọc Đa - 71A703.001
- TS/TP Võ Văn Nam - 71A705.697
- TS/ĐTTrần Văn Thọ - 71A706.845
- TS/QK Nguyễn Văn Tuấn - 71A700.206
Với khoảng 4 ngày và 3 đêm trôi lênh đênh giữa vùng biển mênh mông trên các bè loang lỗ đầy vết đạn của giặc thù, nước uống và thức ăn không đủ để chia nhau phải dùng nước tiểu pha với nước biển để uống cầm cự. Họ đã sống giữa tuyệt vọng và hy vọng, giữa cái chết và cái sống, giữa những cơn đau đớn tận cùng do vết thương hành hạ, do thời tiết nghiệt ngã mang đến và nhất là nổi đau xót khi chứng kiến đồng đội người này tiếp nối người kia gục ngã trên bè, thân xác được thủy táng vào lòng đại dương. Nhưng hầu như tất cả mọi người lúc nào cũng chia xẽ với nhau, cũng nhường nhịn lo lắng cho nhau và cùng nhau cầu nguyện.
Công tác tìm kiếm và cứu vớt các chiến sĩ đào thoát.
Ngay trong ngày 19-1, trước tin sơ khởi báo cáo về cho biết có thể có 2 chiến hạm phía ta đã bị hỏa tiển Styx của TC bắn chìm, chánh phủ VNCH đã 3 lần nhờ chánh phủ Hoa Kỳ trợ giúp trong việc tìm kiếm và cấp cứu (2 lần nhờ sự trợ giúp của các chiến hạm và 1 lần nhờ sự trợ giúp của các trực thăng thuộc Đệ 7 Hạm Đội), nhưng lời yêu cầu này đã bị Đại Sứ Martin khước từ. Người bạn đồng minh từ bao năm nay đã lựa chọn thái độ không can dự vào các vụ tranh chấp chủ quyền trên các hải đảo trong vùng biển Đông, ngay cả việc giúp đỡ với mục đích nhân đạo.
Thái độ này đã được thể hiện rõ rệt qua việc Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ yêu cầu Bộ Quốc Phòng chỉ thị cho Hải Quân Hoa Kỳ đứng ngoài khu vực xung đột. (ngày giờ chính xác của văn thơ này chưa được rõ). Do vậy, nên ngay sau khi được tin chiến hạm HQ/VNCH đã nhận được lịnh khai hỏa, Tư Lịnh Đệ Thất Hạm Đội Hải Quân Hoa Kỳ vào lúc 0950H ngày 19-1 lập tức gởi công điện ra lịnh cho các chiến hạm Hoa Kỳ tránh xa khỏi khu vực sắp giao chiến và tránh các hành động có thể được xem như là tham dự vào hay cung cấp sự yểm trợ cho miền Nam.
Đồng thời Tư Lịnh Không Quân Hoa Kỳ Thái Bình Dương cũng ra lịnh cấm tất cả các phi cơ thuộc Không Lực Hoa Kỳ bay trên không phận quần đảo Hoàng Sa ở bất cứ cao độ nào.
Nhật báo The New York Times ra ngày 19-1 có đăng lời Phát Ngôn Viên Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ tuyên bố “Chúng tôi không đứng về bất cứ phe nào”. Ngoài ra John F. King viên chức Giao Tế thuộc Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ đã phát biểu khi trả lời các câu hỏi: ”Lẽ dỉ nhiên, chúng tôi hết sức mong muốn một sự dàn xếp êm đẹp”, nhưng “chúng tôi không can dự vào”
Vào buổi tối ngày 20-1, Ngoại Trưởng VNCH đã yêu cầu Đại Sứ Martin chuyển đạt lời yêu cầu đến chánh phủ Hoa Kỳ để nhờ họ đề nghị với TC đồng ý hưu chiến trong 48 giờ, đủ thời gian để chánh phủ VNCH có thể di tản những người chết và bị thương ra khỏi quần đảo HS (5)
Lời đề nghị hợp lý và nhân đạo này đã không được chánh phủ Hoa Kỳ chuyển đến Bắc Kinh.
Trước thái độ dửng dưng của Hoa Kỳ, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu sau khi cân nhắc lợi hại đã từ bỏ ý định dùng võ lực tái chiếm Hoàng Sa. Vì vậy các giới chức thẫm quyền đã nghĩ ngay đến việc cứu cấp các chiến sĩ HQ10 đào thoát trên bè sau trận hải chiến.
Trưa ngày 22-1 lúc 1 giờ 05 phút, Toà Đại Sứ Mỹ tại Sài Gòn đã gởi điện thư về Bộ Ngoại Giao báo cáo là vào buổi sáng, dinh Độc Lập, Bộ Ngoại Giao và Đại Tướng Cao Văn Viên Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Lực VNCH đã thông báo với họ là Chánh Phủ Việt Nam cảm thấy bắt buộc phải mở ra cuộc hành quân không/hải để tìm kiếm những người hy vọng sống sót trên mặt biển trong khoảng giữa Hoàng Sa và Đà Nẵng.
Tiếp theo đó lúc 1 giờ 31 trưa ngày 22-1, Tòa Đại Sứ lại gởi tiếp bản văn từ Bộ Ngoại Giao VNCH mới vừa được Phát Ngôn Viên Bộ Ngoại Giao VNCH phổ biến đến báo chí, nội dung bản văn loan báo cấp chỉ huy quân sự Việt Nam đang mở ra cuộc hành quân cứu cấp trong vòng 48 giờ để cứu vớt những người sống sót trên Hộ Tống Hạm Nhật Tảo HQ10, chiến hạm này đã được báo cáo mất tích sau trận hải chiến với Hải Quân TC tại quần đảo Hoàng Sa.
Lực lượng tham dự cuộc tìm kiếm gồm có Tuần Dương Hạm Trần Quốc Toản HQ6, hai chiếc Tuần Duyên Đỉnh (WPB) và 1 phi cơ C-119.
Khu vực tìm kiếm nằm trong giới hạn bởi các tọa độ dưới đây :
- A. 15 độ 30 phút 28 giây Bắc - 110 độ 00 phút 18 giây Đông
- B. 14 độ 50 phút 30 giây Bắc - 110 độ 40 phút 27 giây Đông
- C. 15 độ 30 phút 36 giây Bắc - 111 độ 10 phút 00 giây Đông
- D. 16 độ 00 phút 00 giây Bắc - 110 độ 40 phút 48 giây Đông
Bản văn từ Tòa Đại Sứ Mỹ cũng cho biết là các giới chức thẫm quyền VNCH quan tâm đến số phận của thủy thủ đoàn HQ10 mà lần sau cùng đã được thấy không người điều khiển gần đảo Vĩnh Lạc (Money). Với dòng nước biển chảy bình thường sẽ đưa HQ10 hoặc là nếu chiến hạm bị chìm sẽ đưa những người sống sót đến khoảng 70 hải lý về hướng Tây Nam của khu vực nằm trong các tọa độ A, B, C và D.
Bản văn còn cho biết là chánh phủ VNCH chỉ thị phái đoàn VN ở Geneva lập tức thông báo cho Hội Hồng Thập Tự Quốc Tế những điều đã đề cập ở trên và yêu cầu Hội thông báo Bắc Kinh về bản chất và phạm vi của cuộc hành quân, ngoài ra còn yêu cầu chánh phủ Hoa Kỳ xử dụng các phương tiện thông tin trực tiếp với Bắc Kinh trong nỗ lực để đảm bảo là Bắc Kinh cũng biết rõ về chiến dịch hoàn toàn có tính chất nhân đạo này.
Về phần Đại Sứ Martin, ông cũng khuyến cáo Bộ Ngoại Giao Mỹ nên tiếp xúc với Phái đoàn liên lạc TC ở Hoa Thịnh Đốn hoặc Văn phòng Liên Lạc Hoa Kỳ ở Bắc Kinh để yêu cầu TC thông báo đến các giới chức thẫm quyền quân sự của họ về chiến dịch này và Bộ Ngoại Giao có thể chỉ thị Phái Đoàn Hoa Kỳ ở Geneva tạo điều kiện để Phái đoàn Việt Nam tại Geneva và Hội HTT quốc tế gặp gỡ nhau.
Những lời khuyến cáo của Đại Sứ Martin đã được Ngoại Trưởng Kissinger chấp thuận, vì vậy ngay sau đó Ngoại Trưởng Kissinger đã gởi điện thư cho Văn Phòng Liên Lạc Mỹ ở Bắc Kinh yêu cầu họ thông báo với Bộ Ngoại Giao TC về cuộc hành quân cứu cấp này. Ngoài ra cũng giải thích cho Bắc Kinh biết là Mỹ làm việc này theo sự yêu cầu của chánh phủ VN và với tính cách nhân đạo, còn việc đề nghị Bộ Ngoại giao TC thông báo cho cấp chỉ huy quân sự TC là tùy ở Văn Phòng Liên Lạc.
Trong khi các chiến hạm và phi cơ VNCH đang bắt đầu việc tìm kiếm thì vào lúc 6 giờ 30 chiều ngày 22-1-1974 tàu dầu Kopionella thuộc hảng Shell mang quốc tịch Hòa Lan đã tìm thấy và vớt tất cả 22 người (5) thuộc HQ10 còn sống sót lên tàu tại toạ độ 16 độ 10’ N và 110 độ 46’ E cách Đà Nẵng khoảng 287 km về hướng Đông, như vậy toán đào thoát đã trôi trên biển trong khoảng 78 giờ với khoảng cách độ 110 km.
Sau khi lên tàu Thượng Sĩ Châu vì quá kiệt sức nên đã trút hơi thở cuối cùng, ngoài ra có 4 người bị thương nặng. Tất cả đã được từ Thuyền Trưởng, Thuyền Phó và phu nhân của các vị này cùng thủy đoàn tàu dầu Kopionella tận tình chăm sóc. Với tư cách Sĩ quan thâm niên hiện diện, HQ Trung Úy Phạm Văn Thì đã được Thuyền Trưởng đưa vào phòng của ông để liên lạc với cấp chỉ huy Hải Quân Việt Nam.
Sáng ngày 23-1 lúc 5 giờ 15 tất cả đã được chuyển sang Tuần dương Hạm Trần Quốc Toản HQ6 để đưa về Đà Nẵng.
Qua lời thuật lại của các chiến sĩ sống sót, cuộc hành quân cứu vớt tiếp tục sang ngày 23-1 với hy vọng tìm thấy bè bằng cây trên đó có TS/VC Đa và TS/TP Nam, nhưng đến 6 giờ 15 phút chiều cùng ngày phi cơ tuần tiểu đã phát giác hai mãnh ván tại tọa độ 15 độ 43’ Bắc – 110 độ 02’ Đông, nhưng khi chiến hạm được điều động đến nơi mọi người đều thất vọng vì chỉ thấy 2 miếng ván không người.
Cuộc hành quân tìm kiếm và cấp cứu đã được chấm dứt ngay sau đó.
Để kết luận, trận hải chiến Hoàng Sa ngày 19-1-1974 như là một định mệnh đã sẵn dành cho Hộ Tống Hạm Nhật Tảo HQ10 một chỗ đứng xứng đáng trong lịch sử chống ngoại xâm để gìn giữ cõi bờ hùng vĩ do tổ tiên truyền lại. Tuy mất Hoàng Sa nhưng gương sáng về những sự hy sinh cao qúy, về tinh thần chiến đấu cao độ, liều chết tử thủ trước giặc thù, về lời nói đầy hùng khí ngay cả khi lâm vào tình thế nguy khốn sẽ mãi mãi được nhớ đến trong lịch sử oai hùng ngàn đời của con dân nước Việt.
Xin cho một lần tất cả những người dân nước Việt, không phân biệt Nam, Trung, Bắc không phân biệt lý thuyết, chủ nghĩa hãy cúi đầu khâm phục tinh thần bất khuất và sự hy sinh cao cả của 54 chiến sĩ HQ10 đã hy sinh tại chiến trường, 7 chiến sĩ hy sinh trên đường đào thoát cũng như 21 chiến sĩ còn lại đã thoát chết trong lúc chiến đấu với giặc thù, đã sống sót trong 3 đêm và 4 ngày gian khổ cùng cực trên biển khơi.
Các anh còn sống để có ngày chứng minh cho cả thế giới biết sự chiến đấu hào hùng của dân Việt cũng như sự nhẫn tâm của giặc thù Trung Cộng.
Sơ đồ cuộc hành quân tìm kiếm và cứu vớt các chiến sĩ thuộc HQ 10.
Tàu dầu Kopionella
Chuyện bên lề:
Trong bài “Nhật ký bên lề trận hải chiến Hoàng Sa”, HQ Đại Tá Võ Sum TP6/BTL/HQ (Phòng Truyền Tin) đã viết là vì muốn biết số phận cuả HQ10 nên trong ngày 20 tháng 1, ông đã dùng phương pháp cảm xạ học để tìm vị trí của chiến hạm xấu số này.
Ông đã tiên đoán số phận HQ10 “không bao giờ trở lại” và các bè trôi theo hướng 240 độ thật là chính xác. Vị trí cuối cùng của các bè đào thoát do Ông tìm được lần sau cùng vào lúc 10 giờ đêm ngày 22 tháng1 là điểm E tọa độ 16 độ 17’ Bắc và 110 độ 58’ Đông.
Ngoài ra cũng theo bài viết thì chính HQ Trung Tá Lê Thành Uyển đã thiết lập khu vực tìm kiếm cho các chiến hạm và phi cơ.
Phần dẫn chứng:
Trong bài viết “ On January 19, 1974 Xisha naval battle detailed solution” tác giả TC đã diển tả về chiếc 389 như sau: ”...chiếc 389 bị trúng đạn nước tràn vào trong hầm đạn dược…..ngoài ra 5 binh sĩ cũng hy sinh trong lúc sửa lại máy phát điện. Tất cả thủy thủ chiếc 389 chiến đấu một cách dũng cảm ném từng quả lựu đạn, xử dụng súng tiểu liên, súng bazooka bắn qua chiếc HQ10 gần sát đó. Hạm Trưởng Ngụy Văn Thà hy sinh trong trận chiến xáp lá cà này.
Lúc bấy giờ chiếc HQ 16 trở lại giao chiến với chiếc 389 để tiếp cứu chiếc HQ10 đang cháy bừng bừng. Đại Úy Nguyễn (ám chỉ Nguyễn Thành Trí) trên chiếc HQ10 thay thế Thiếu Tá Thà đã hy sinh, dốc toàn lực định húc ngay phía sau chiếc 389 thì chiếc 396 đến kịp để cản trở chiếc HQ 16 yễm trợ cho chiếc 389 thoát hiểm…………….12 giờ 12 phút, phân đội 74 nhận lịnh công kích, chiến hạm 281 bắn xối xả lên chiến hạm Nhật Tảo, tuy thủy thủ đoàn chiến hạm Nhật Tảo chống trả mãnh liệt, đến 14 giờ 52 phút chiến hạm Nhật Tảo chìm tại địa điểm phía Nam bãi Ninh Dương (bãi đá Hải Sâm – Antelope reef) cách 2,5 cây số...”.
Ngoài ra bài này đã viết về chiếc 389 sau khi bị HQ10 đụng vào phía sau lái: ”…chiến hạm số 389 của ta có hơn 10 người chết, đã bị chiến hạm VNCH bắn trúng nhiều lần và bị thiệt hại rất nặng. Khi chiếc 396 chạy đến cứu, hầm máy chiếc 389 đã bị phát nổ, lửa đang cháy lớn, tàu có thể bị chìm bất cứ lúc nào. Hai chiếc tàu đánh cá số 402 và 407 cũng đang bị tấn công nhưng đã cố sức chạy đến cứu và cuối cùng đã thành công đưa chiếc 389 ủi vào bãi.
Ba chiến hạm khác của ta tất cả đều hư hại, chiếc 274 bị thiệt hại rất nặng phải rởi khỏi vùng trở về đảo Phú Lâm, tại đây chiếc này đã được sửa chửa và đã trở lại căn cứ hải quân Yulin ngày hôm sau”.
Có thể nói một phần trong bài này đã được phía TC viết gần đúng sự thật. Đoạn viết này đã cho thấy vài sự kiện rất quan trọng và từ đó sau khi kiểm chứng và tổng hợp với các tài liệu từ phiá VNCH ta có thể làm sáng tỏ 1 vài sự kiện mà từ trước đến nay chưa giải thích được, ngay cả các nhân chứng còn sống sót trên HQ10 cũng không biết về các hành động rất dũng cảm và rất oai hùng của các chiến sĩ trên HQ10.
- Điểm thứ nhất bài viết đã xác nhận là chiếc 389 đã tiến sát vào HQ10 qua việc chúng ném lựu đạn, bắn súng tiểu liên.
- Điểm thứ 2 là vì tiến vào quá gần nên chúng đã quan sát thấy HT Ngụy Văn Thà đã tử trận.
- Điểm thứ 3 là vì ở quá gần nên chúng đã quan sát thấy HP Nguyễn Thành Trí dốc toàn lực định húc ngay phiá sau chiếc 389.
- Điểm thứ 4 là chúng đã công nhận khi 281 và 282 nhập vùng tác xạ vào HQ10 thủy thủ đoàn trên HQ10 đã chống trả mãnh liệt, điều này chứng tỏ là 2 chiến sĩ Lê Văn Tây và Ngô Văn Sáu đã can trường liều chết tử thủ, chống trả dữ dội khiến chúng không dám xáp lại gần, vì thế phải mất gần 2 tiếng đồng hồ, chúng mới đánh chìm HQ10
Bài viết của TC dĩ nhiên là không hoàn toàn đúng sự thật vì không có can đảm viết rõ là HQ10 do chính Đại Úy Trí điều khiển đã đâm mạnh vào phần lái tả hạm và đã gây nên tổn thất nặng nề cho chiếc 389. Nếu 389 không bị đụng thì tại sao chúng lại bỏ cơ hội hiếm có để đổ bộ lên chiếm đoạt HQ10 và tại sao tàu lại bị nghiêng và phần lái bị chìm xuống. Tại sao 2 tàu đánh cá 402 và 407 phải chạy đến để tiếp cứu? (hình chụp chiếc 389 trích trong www.military.china.com)
Tài liệu “On January 19, 1974 Xisha defended the war” trong phần tổng kết thiệt hại về phía TC có viết là chiếc 389 bị tổn thất nặng nề và 2 tàu đánh cá 402, 407 từ các vị trí ẩn núp an toàn lúc xảy ra trận hải chiến đã chờ cho đến khi các chiến hạm ta rút ra khỏi vòng chiến chúng mới dám chạy đến yểm trợ để đưa 389 ủi vào bãi san hô tránh chìm, nếu không chiếc 389 sẽ chịu chung số phận như HQ10.
Đoạn viết này không nói đến 396 lại yểm trợ cho 389 chứng tỏ là 396 cũng đang bị thiệt hại nặng phải tự cứu. Ngoài ra khi 281 và 282 đến nơi hầu hết các chiến sĩ trên HQ10 còn sống sót đang ở trên các bè đào thoát, TC đã biết rõ điều này nhưng trong bài viết chúng cho là “thủy thủ đoàn” HQ10 chống trả mãnh liệt để tô đậm thành tích đánh chìm HQ 10 của chúng.
Về việc HQ 10 đụng mạnh vào tàu TC, một số bài viết về phía VNCH như Hải Chiến Hoàng Sa của HQ Đại Tá Phạm Mạnh Khuê đăng trong HSTT và bài viết Lần đào thoát ở Hoàng Sa của HQ Tr/U Nguyễn Đông Mai (6) cho là chiếc 396 của TC đụng vào HQ10, nhưng dựa theo các tài liệu TC thì đây là chiếc 389 trùng hợp với Tài Liệu Hải Chiến Hoàng Sa của Vũ Hữu San & Trần Đỗ Cẩm.
Hà Đăng Ngân trong Hoàng Sa và HQ10 (7) viết: ”…Vài phút sau mục tiêu 2 cũng bốc khói, mục tiêu 1 tuy còn chút khói bốc lên, chạy trở vào gần HQ10, bắn trả lại HQ10 và HQ10 bắt đầu trúng đạn của tàu Trung Quốc…”.
Tuy không nhớ rõ số của mục tiêu 1 và mục tiêu 2, nhưng qua bài viết của TC ta có thể suy ra mục tiêu 1 là chiếc 389 và mục tiêu 2 là chiếc 396.
Các bài viết của các SQ và nhân viên còn sống sót trên HQ10 đã xác nhận sự kiện một chiến hạm TC đụng vào HQ 10 và ý định của chúng định cặp vào đổ bộ lính qua HQ10 mặc dù con số chiến hạm có khác đi. HQ Tr/Úy Nguyễn Đông Mai trong bài ‘Lần đào thoát ở Hoàng Sa’ đã viết: ”...chiếc 396 như tiến lại gần tôi hơn từ phía lái…rồi chừng 15 phút sau, một tiếng va chạm mạnh làm chúng tôi té nhào trên sân tàu. Tôi chợt nghĩ đến chuyện tàu lên cạn vì vùng này có nhiều san hô. Sau này khi đào thoát tôi mới biết HQ10 đâm vào tả hạm chiếc 396.”
HQ Ch/Úy Tất Ngưu (8) đã cho thấy một sự kiện hiển nhiên là chiến hạm của chúng tiến vào quá gần và các chiến sĩ trên HQ10 có cảm tưởng là chúng sẽ cặp vào để đưa lính sang chiếm tàu, bài ‘Trận hải chiến Hoàng Sa dưới mắt một người còn sống sót’ đã viết: "…Có giọng nói giữa đám anh em đang hỗn loạn :” tàu TC đổ bộ, anh em cẩn thận”. Một loạt đạn M16 túa bay ra từ đài chỉ huy. Nhìn phía trước, tôi thấy mũi tàu của ta đâm vào tàu địch. Thế rồi hai tàu từ từ dang ra. Tàu ta bất khiển dụng cả hai máy chánh, cứ vậy mà trôi lênh đênh. Sau khi hai chiếc tàu đụng nhau, tiếng súng lớn dường như im bặt, chỉ còn nghe những tiếng súng nhỏ. Giai đoạn hải chiến hình như chấm dứt."
Hạ Sĩ Trọng Pháo Vương Văn Hà (9) qua bài “Người về từ Hoàng Sa” cũng xác nhận cú đụng này: ”…HQ10 bị bất khiển dụng khiến cho tàu địch đã bị bắn ở phía tả hạm đụng vào tàu chúng tôi.”
HSTT cũng viết: ” …tuy chiến hạm đang cháy nhưng vẫn tiến từ từ, sau đó ngừng lại khi đụng vào lái tàu địch 396….”
Các bài viết trích dẫn ở trên đã xác nhận sự việc HQ10 và chiếc 389 đụng vào nhau, nhưng vì lúc bấy giờ trên ĐCH và phòng lái không còn ai sống sót, ngoại trừ HP Nguyễn Thành Trí do đó không ai biết được lý do chính xác và nếu không nhờ những chi tiết từ bài viết của TC, chiến công oanh liệt và oai hùng của HP Nguyễn Thành Trí sẽ không được biết đến.
Qua các dẫn chứng trên đã chứng minh một sự thật hiển nhiên là HQ10 và chiếc 389 không phải vì đã: ”…trôi nổi không kiểm soát được trên mặt biển, đã đụng vào nhau” như trong Tài Liệu Hải Chiến Hoàng Sa đã viết mà cú đụng này là do chủ ý của Đại Úy Trí đã đơn độc vận chuyển chiến hạm liều chết hy sinh cả chiến hạm và mạng sống đâm mạnh vào phần lái tàu địch.
Chiếc 389 có lẽ không ngờ được là trên đài chỉ huy còn Đ/U Trí vì thế chúng không thể nào tránh né được cú đụng này và có lẽ chúng đã quan sát một cách rõ ràng những diển tiến trên ĐCH nên trong bài viết chúng đã nêu rõ là Đ/U Trí “dốc toàn lực định húc vào tàu chúng”.
Dựa theo bài viết trên thì sự thiệt hại nhân mạng về phía TC trong trận hải chiến HS là 18 người chết và 67 người bị thương (chưa được kiểm chứng) trong số đó chiếc 389 trực chiến với HQ10 có số thương vong cao nhất là 10 người chết, như vậy đã chứng tỏ mức độ giao chiến rất khốc liệt giữa HQ10 và 389.
Tuy dáng người vạm vỡ, nhưng với vết thương quá nặng có lẽ HP Nguyễn Thành Trí biết là mình sẽ không thể nào sống sót được lâu, nên sau khi tất cả nhân viên đã xuống bè Ông quyết định ở lại chết với chiến hạm, nhưng các nhân viên đã bắt buộc Ông phải xuống bè với họ. Việc Đ/U Trí quyết định ở lại tàu có 2 tài liệu viết trong khoảng thời gian ngắn sau biến cố HS đã chứng minh một cách rõ rệt.
Tài liệu “Đêm Xuân trên vùng biển chết” của tác giả Thanh Chương trong Lướt Sóng đã viết: ”Người đã bị thương nhiều nhưng quyết ở lại cùng HT…Một nhân viên đã phải vực Người nhẩy xuống cùng bè với tôi, bè cấp cứu sau cùng rời chiến hạm.”
Tài liệu của tác giả ẩn danh viết: ”… Hạ Sĩ Trọng Pháo Trần Ngọc Sơn và Thủy thủ Thám Sát Trương Văn Long, 2 người này đã cặp Đ/U Hạm Phó và lôi xuống bè.”
(2) Dựa trên tài liệu của TC/CTCT thì: ”Chiến hạm cùng thủy thủ đoàn gồm 82 người đã bị mất liên lạc”, như vậy số quân nhân chết theo chiến hạm là 54 người. Tuy nhiên theo TTHS thì số quân nhân chết theo chiến hạm là 55 người.
(6) Tài liệu của TC/CTCT viết: ”…thương thuyền Kopionella quốc tịch Hòa Lan đã vớt được 23 thủy thủ của Hộ tống hạm HQ10……Trong số này có 2 quân nhân bị tử thương ( gồm có 1 Đại Úy Hạm Phó)…” Chi tiết này không đúng vì Đ/U Hạm Phó đã hy sinh trên bè đào thoát và tàu dầu Hòa Lan chỉ vớt được tổng cộng có 22 người.
Đặc Tính Hộ Tống Hạm Nhật Tảo :
Hộ Tống Hạm Nhật Tảo thuộc loại Admirable Class Minesweeper (AM) do hảng tàu Winslow Marine Railway and Shipbuilding Co ở Winslow tiểu bang Washington đóng.
Chiến hạm được hạ thủy ngày 31 tháng 10 năm 1943 và được đăt tên là USS Serene (AM 300).
Ngày 7 tháng 2 năm 1955 đổi thành loại Fleet Minesweeper MSF 300.
Ngày 24 tháng 1 năm 1964 chuyển giao cho Hải Quân VNCH và được đặt tên là Hộ Tống Hạm Nhật Tảo HQ10.
Trọng tải:
650 tấn (tiêu chuẩn) – 945 tấn (tối đa)
Kích thước:
Dài 184,5 ft – ngang 33 ft - tầm nước 9,75 ft
Máy chánh:
2 máy dầu cặn (Cooper Bessemer), 2 trục chân vịt, 1710 mã lực
Vũ khí:
- 1 khẩu đại bác 76,2 ly phía sân trước có tầm tối đa 14,000 yds, tầm hữu hiệu 7,500 yds, tác xạ với tốc độ nhanh 50 phát/phút, với tốc độ thích ứng 20 phát/phút.
- 2 khẩu đại bác 40 ly (tả và hữu) phía sân sau có tầm tối đa 11,000 yds, tầm hữu hiệu 4,000 yds, tác xạ với tốc độ 140 phát/phút
- 4 khẩu đại bác 20 ly đôi bao quanh phòng lái có tầm tối đa 4,800 yds, tầm hữu hiệu 2,000 yds, tác xạ với tốc độ 450 phát/phút
- 2 khẩu đại liên 30
- Có trang bị súng cối 81 ly ( không rõ số lượng)
- Vũ khí chống tàu ngầm: với nhiệm vụ tuần tiểu và hộ tống các dụng cụ rà mìn đã được tháo gỡ và thay vào đó là 2 dàn thủy lựu đạn ( depth charge rack) đã được thiết trí ở phía sau lái, ngoài ra còn có 1 dàn phóng thủy lựu đạn hedgehog ở phía sân trước.
Vận tốc:
Tối đa 14,5 knots, có tầm hoạt động 6,500 miles với vận tốc tiết kiệm là 8 knots
Thủy thủ đoàn:
82 người
Tài liệu dẫn chứng :
- Công điện với nhóm ngày giờ 190150Z JAN 74 (giờ Sài Gòn 0950H) của Tư Lịnh Đệ 7 Hạm Đội Hoa Kỳ.
- Công điện với nhóm ngày giờ 190420Z JAN 74 (giờ Sài Gòn 1220H) của Tư Lịnh Không Quân Hoa Kỳ Thái Bình Dương (Click vào xem tài liệu 2 công điện trên)
- Điện thư số 075995 ngày 22-1- 1974 của Ngoại Trưởng Hoa Kỳ gởi Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ ở Sài Gòn.
- Điện thư số 01000 ngày 22-1- 1974 của Toà Đại Sứ Hoa Kỳ ở Sài Gòn gởi Ngoại Trưởng Hoa Kỳ (Click vào xem tài liệu này)
- Điện thư số 01006 ngày 22-1-1974 của Toà Đại Sứ Hoa Kỳ ở Sài Sòn gởi Ngoại Trưởng Hoa Kỳ
- Điện thư số 013552 ngày 22-1-1974 của Ngoại Trưởng Hoa Kỳ gởi Văn Phòng Liên Lạc Hoa Kỳ ở Bắc Kinh
- Điện thư số 014042 ngày 22-1-1974 của Ngoại Trưởng Hoa Kỳ gởi Toà Đại Sứ Hoa Kỳ ở Sài Gòn
- Điện thư số 01026 ngày 23-1-1974 của Toà Đại Sứ Hoa Kỳ ở Sài Gòn gởi Ngoại Trưởng Hoa Kỳ
- Hà Văn Ngạc “Trận hải chiến lịch sử Hoàng Sa” trong Tuyển Tập Hải Sử (TTHS) - Tổng Hội Hải Quân&Hàng Hải (THHQ&HH) ấn hành 2004
- Jane’s Fighting Ships
- Lê Văn Thự “Sự thật về trận hải chiến Hoàng Sa” – Calitoday, March 08, 2004
- Liu Bingfeng “On January 19, 1974 Xisha defended the war” – Military.china.com
- Nguyễn Thị Thanh Thảo : ”Tài liệu mới HQ10 –Hoàng Sa” www.hqvnch.net
- Phạm Mạnh Khuê “Hành quân Trần Hưng Đạo 47” (TTHS-THHQ&HH 2004)
- Thanh Chương “Đêm Xuân trên vùng biển chết”- Đặc san Lướt Sóng số đặc biệt Chiến thắng Hoàng Sa ,Cục Tâm Lý Chiến/K.CTCT/BTL/HQ ấn hành 2004
- The Vietnam Center and Archive (Vietnam.edu.ttu) – tài liệu về đặc tính chiến hạm thuộc Hạm Đội Hải Quân VNCH
- Tổng Cục Chiến Tranh Chánh Trị/Cục Tâm Lý Chiến “Thế giới lên án Trung Cộng xâm lăng Hoàng Sa của VNCH” ấn hành 1974
- Vũ Hữu San&Trần Đỗ Cẩm “Tài liệu Hải Chiến Hoàng Sa” ấn hành 2004
- Xisha naval battle detailed solution – Militarychina.com
- Võ Sum “Nhật ký bên lề cuộc hải chiến Hoàng Sa”- Đặc san Lướt Sóng số đặc biệt Chiến thắng Hoàng Sa, Cục TLC/Khối CTCT/BTL/HQ ấn hành 1974
- Xisha naval battle detailed solution – Militarychina.com
- (1) Theo lời thuật lại của chị Nguyễn Thành Trí trong lần đến thăm chị ở Sài Gòn vào tháng 10/2006.
- (3) HQ Đại Úy Lê Văn Thự Trung Tâm Trưởng TTHQ/VIDH lúc xảy ra biến cố HS “Trận hải chiến Hoàng Sa và nước mắt của vị Tư Lịnh Hải Quân” phổ biến vào năm 1997 tại Yukon – Oklahoma (Câu nói này chính Đ/U Thự đã nghe nhân viên HQ10 trên cùng bè đào thoát với Đ/U Trí kể lại sau khi HQ6 đưa họ về Đà Nẵng)
- (4) Phiếu Tường Trình Ủy Khúc số 121 ngày 16 tháng 2 năm 1974 của Bộ Tư Lệnh Hạm Đội (Tài liệu do phu nhân cố HQ/Thiếu Tá Nguyễn Thành Trí cung cấp)
- (5) điện thư số 0869 ngày 20-1-1974 của Toà Đại Sứ Hoa Kỳ tại Sài Gòn gởi Ngoại Trưởng Hoa Kỳ
- (7) Nguyễn Đông Mai “Lần đào thoát ở Hoàng Sa” (TTHS-THHQ&HH 2004)
- (8) Hà Đăng Ngân “Hoàng Sa và HQ10” trong www.hqvnch.net
- (9) Tất Ngưu “Trận hải chiến Hoàng Sa dưới mắt một người còn sống sót” – www.sqhq25.org
- (10) Vương Văn Hà “Người về từ Hoàng Sa” – TTHS-THHQ&HH, 2004
Posted by FreeVN at 6:51 AM 0 comments Links to this post
( Nguồn: Trích từ http://hqvnch.net/default.asp?id=1099&lstid=135 )
AI ĐÃ KHAI HỎA CUỘC HẢI CHIẾN TẠI HOÀNG SA NĂM 1974 GIỮA HẢI QUÂN VIỆT NAM CỘNG HÒA VÀ HẢI QUÂN TRUNG QUỐC
Vua Trần Nhân Tông đã để lại di chúc như sau:" Các người chớ quên nước lớn thường làm điều trái đạo. Hoạ muôn đời của ta là nước Tàu. Họ không tôn trọng quy ước và biên giới. Luôn luôn bày đặt chuyện để gây hấn. Không thôn tính được thì gặm nhấm đất đai của ta. Vậy các ngươi phải nhớ lời ta dặn. Một tấc đất cũng không để lọt vào tay kẻ thù. Ðây là di chúc cho con cháu muôn đời". (Trần Nhân Tông 1279-1293)
Tuần vừa qua, hai chiến hữu già của tôi ghé thăm Viện Bảo Tàng. Các bác Lương Văn Ngọ và Võ Ðại. Quí vị hỏi thăm qua loa nhưng thực tình là yêu cầu yểm trợ để cùng đánh trận Trường Sa. Sẽ tổ chức gây quĩ, đăng báo Mỹ để tuyên ngôn cho thế giới biết là quần đảo và hải phận Ðông Hải muôn đời phải là của Việt Nam ta. Vâng, chúng tôi sẽ chuẩn bị tài liệu để triển lãm, duyệt lại cuốn phim đem chiếu và xin viết bài này để góp phần giới thiệu với độc giả. Lẽ dĩ nhiên cần sự giúp đỡ của các chiến hữu Hải Quân về các tài liệu. Chuyện Hoàng Sa và Trường Sa nếu không có anh em hội Bạch Ðằng là không xong. Trưa thứ bảy, cuối tuần, hội Hải Quân đến họp tại Viện Bảo Tàng để thảo luận về việc thiết lập một sa bàn Hoàng Sa. Các bạn trao tặng bộ quân phục thuỷ thủ cùng rất nhiều hình ảnh và tác phẩm liên quan đến trận hải chiến 34 nằm về trước. Những tác phẩm viết về Hải Quân Việt Nam Cộng Hoà và đặc biệt có trên mười tác giả viết về biến cố Hoàng Sa ngày 19/01/1974. Hồi ký của tư lệnh Hải Quân vùng 1, của vị chỉ huy hải đội Hoàng Sa, của trung tâm trưởng hành quân biển tại Sài Gòn, các hạm trưởng, sỹ quan trên chiến hạm tham chiến số 4, 5, số 10 và 16, của biệt kích trên đảo, sĩ quan truyền tin trên soái hạm, của thuỷ thủ trôi giạt trên biển, của anh em đoàn viên và địa phương quân bị bắt tù binh đưa về TC. Khối tài liệu hết sức phong phú trên ngàn trang phải đọc suốt cả tuần lễ chưa hết. Ðặc biệt trong khi quí vị cấp trên viết còn dè dặt thì anh em cấp dưới viết ra tất cả mọi chi tiết hết sức chân thật và rõ ràng. Những anh em mang đến tài liệu cho chúng tôi, ngày xưa vốn là các thiếu tá và cấp uý trẻ trung của biển cả, ngày nay tuổi đã về chiều mà tấm lòng nặng chĩu tâm tư khi nghe tin các hải đảo xa xôi lại một lần nữa rơi vào tay địch. Trong số các chiến hữu có mặt tại San Jose, chúng tôi đã gặp được một người, hết sức tình cờ và hết sức đặc biệt.
Đoàn Viết Ất, người chỉ huy pháo HQ 16 đã khai hỏa...
Ðó là Hải Quân Đại Uý Ðoàn Viết Ất, nguyên sĩ quan pháo thủ của HQ 16 mang tên danh tướng Lý Thường Kiệt. Năm 1974, khi con tàu rẽ sóng đi Hoàng Sa, Trung Uý Ất tưởng chỉ làm một chuyến hải hành tiếp tế như thường lệ, nào ngờ ông đã tham dự vào trận đánh lịch sử. Chuyến về trên con tàu bị thương với cõi lòng tan nát vì đã bỏ lại đồng đội trên hải đảo và biển cả. Trung Uý Ất cùng một số Hải Quân được tuyên dương anh hùng, thăng cấp đặc cách tại mặt trận. Ngày nay, ông Ất đang đóng vai một người dân tỵ nạn hiền lành sống rất bình dị bên cạnh chúng ta. Ai biết đâu con người ấy, ngày xưa cũng đã từng là một chiến sĩ dũng cảm của Hải Quân. Trong chiến trường, binh thư viết rằng khi lâm trận, cấp uý ở ải địa đầu là những người quyết định thắng bại. Trên các chiến hạm vào ngày đầu năm 1974, sống chết của con tàu trông cậy vào các Trung Uý chỉ huy pháo thủ. Trên chiến hạm HQ 16 vào buổi sáng hôm đó, số mạng trong tay Trung Uý Ất, ngồi bên cây đại bác 125 ly, nạp đạn chạm nổ, hướng thẳng vào đài chỉ huy của con tàu địch trước mắt. Sẵn sàng chuẩn bị bắn trực xạ.
Cuộc đời Ðoàn Viết Ất
Sau trận Hoàng Sa, miền Nam ca ngợi chiến công của Hải Quân anh hùng. Trong số các sĩ quan con sống mà được vinh thăng có Trung Uý Ðoàn Viết Ất. Ất người Nam Ðịnh, 54 theo cha mẹ di cư vào Sài Gòn. Sinh viên đại học Vạn Hạnh. Năm 20 tuổi vào Hải Quân. Học thêm Anh văn tại Sài Gòn rồi thụ huấn căn bản quân sự tại Quang Trung. Năm 70 được gửi đi học tại trường Hải Quân Hoa Kỳ khoá 4-OCS. Vào thời kỳ đó Sinh viên sỹ quan Hải Quân Ðoàn Viết Ất đã có dịp học lái tàu Mỹ tại vùng Vịnh Cựu Kim Sơn. Khi về nước, chuẩn uý Ất nhờ có đệ tam đẳng Thái cực đạo nên được làm huấn luyện viên võ thuật. Cuộc đời đưa đẩy, trải qua các đơn vị, lên thiếu uý rồi Trung Uý thì bắt đầu xuống HQ 16 làm sỹ quan trách nhiệm dàn pháo cho chiến hạm. Các vũ khí dưới tay gồm có cây 125 ly, lớn hơn cả đại bác 105 của bộ binh. Những cây 40 ly một nòng và cây 40 ly nòng ghép đôi. Các bách kích pháo. Súng cá nhân, áo giáp và nón sắt. Cùng với các đoàn viên xạ thủ đầy kinh nghiệm, Trung Uý Ất chỉ huy anh em vào nhiệm sở tác chiến với một tinh thần hăng hái rất hào hùng. Khi con tàu Lý thường Kiệt phải đoạn chiến về đến bến bờ quê hương, nhớ lại cảnh chiến hữu bị bỏ lại, lòng dạ hết sức não nề. Một năm sau theo hạm đội hải hành chuyến cuối cùng anh bỏ lại vợ con, vì vậy Đại Uý Ất quyết định từ giã Hải Quân tại Côn Sơn, xuống tàu trở lại Việt Nam. Ðây là một quyết định sai lầm phải trả giá 6 năm tù cải tạo trên miền biên giới Bắc Việt. Ngay sau khi được trả tự do, cựu Đại Uý Hải Quân đã có nhiều nơi móc nối để lái tàu vượt biên. Năm 1983 cả gia đình đến Bidong và sau cùng về định cư tại San Jose. Hai mươi năm qua chỉ làm một việc, cho một hãng. Nghề sửa máy điện tử. Bây giờ ông già 60 tuổi theo phái tu thiền tại gia, tuyệt thực mỗi buổi chiều. Buổi tối ngày15 tháng giêng năm 2008 đúng 34 năm trước sắp đến giờ khai hoả trận Hoàng Sa, công dân Mỹ gốc Việt tên Ất Ðoàn ngồi nhớ lại lúc con tàu lướt sóng vào vùng hải chiến giữa các đảo Vĩnh Lạc, Cam Tuyền, Quang Hoà và Duy Mộng.
Di chúc của tiền nhân
Với ngàn năm đô hộ giặc Tàu, Việt Nam trải qua bao phen chống xăm lăng. Từ nhà Hán, nhà Ngô cho đến giặc Mông Cổ. Rồi nhà Minh, nhà Thanh. Quân dân ta phải chống giặc Bắc phương suốt 4 ngàn năm lập quốc. Trận hải chiến cuối cùng vào đời nhà Trần cách đây 7 thế kỷ. Vua Trần Nhân Tông đã để lại di chúc như sau:" Các người chớ quên nước lớn thường làm điều trái đạo. Hoạ muôn đời của ta là nước Tàu. Họ không tôn trọng quy ước và biên giới. Luôn luôn bày đặt chuyện để gây hấn. Không thôn tính được thì gặm nhấm đất đai của ta. Vậy các ngươi phải nhớ lời ta dặn. Một tấc đất cũng không để lọt vào tay kẻ thù. Ðây là di chúc cho con cháu muôn đời". (Trần Nhân Tông 1279-1293)
Trận Hoàng Sa
Vào lúc 10 giờ sáng ngày 19/01/1974, trận Hải chiến lịch sử giữa Hải Quân Việt Nam Cộng Hoà và Hải Quân TC diễn ra tại Hoàng Sa. Nguyên do vì sao ? Di chúc của vua Trần Nhân Tông để lại hơn 700 năm đúng từng chữ một. Vẫn là hoạ phương Bắc. Nước lớn không tôn trọng quy ước. Bày đặt chuyện gây hấn. Gặm nhấm đất của ta. Trận hải chiến hết sức anh hùng của lực lượng Hải Quân nhỏ bé VNCH đã khai diễn với anh khổng lồ TC. Trước khi nổ súng, chiến hạm 2 bên đã cài răng lược, vì vậy chỉ vài giây phút đầu tiên là quyết định trận đánh. Gần đến nỗi đại bác của ta bắn trượt tàu địch đã xéo qua tàu bạn. Trong vòng 30 phút đầu tiên, bên ta chiến hạm HQ 10 bị trúng đài chỉ huy và hoàn toàn bất khiển dụng. Hạm trưởng từ trần chết theo tàu, hạm phó ra lệnh đào thoát, sau đó ông chết trên xuồng cấp cứu vì vết thương quá nặng. HQ 16 sau khi hạ được một chiến hạm của địch cũng bị thương rất nặng. Hạm trưởng và thuỷ thủ đoàn cố cứu con tàu ra khỏi chiến trường. Bên địch có 2 chiến hạm bốc cháy và 2 tàu còn lại chịu thương vong nhưng vẫn còn chuyển vận. Những hình ảnh sau cùng ghi nhận được hết sức hào hùng nhưng đồng thời cũng hết sức thương cảm. Hải Quân đào thoát từ HQ 10 ngồi trên bè cấp cứu bị tàu địch bắn theo. Nhưng đặc biệt còn thấy chiến hữu từ chiến hạm không bỏ tàu vẫn tiếp tục tác xạ qua tàu địch. Bút ký của người còn sống có ghi rõ cả tên các thuỷ thủ Việt Nam đang bắn những viên đạn sau cùng. Nước biển trên đầu ngọn sóng làm nhạt nhoà nước mắt của những lính bỏ tàu. Truyện kể của những anh em từ hải đảo xuống bè di tản khi thấy bên ta bắn chiến hạm địch bốc cháy đã cùng nhau cất tiếng hát trên biển Hoàng Sa.
Bài ca bất hủ đó là bản Việt Nam, Việt Nam.
Hãy tưởng tượng giây phút lạ lùng giữa trùng khơi dậy sóng với lửa đạn vang trời, ai cất được tiếng hát ... nghe tự vào đời ... Việt Nam nước tôi ...
Năm 1974, dầu sôi lửa bỏng
Tháng giêng năm 1974 không phải là lúc Miền Nam thái bình thịnh trị. Hiệp Ước Ba Lê đã ký xong nhưng hai bên vẫn còn chiến đấu trong trận giành dân lấn đất. Với chương trình Việt Nam Hoá chiến tranh, Hoa kỳ đã rút hết quân về. Xa hơn nữa, ngay từ năm 1970, Mỹ đã tuyên bố dứt khoát không tham dự vào cuộc tranh chấp các hải đảo ở biển Ðông. Trong khi quân Mỹ rút thì Việt Nam Cộng Hoà bùng lên tia hy vọng mới. Tin biển Ðông có dầu làm tổng thống Thiệu nói với nội các là dường như Trời ngó lại. Một thùng dầu thô được lệnh đem lên đốt tại Nghĩa trang quân đội Biên Hoà trong buổi lễ tưởng niệm để linh hồn 16 ngàn tử sĩ phù hộ cho đất nước một tương lai tốt đẹp. Nhưng chính niềm vui ngắn ngủi đã nằm trong thiên tai. Trường Sa là nơi có nhiều triển vọng của kho tàng đáy biển. Muốn lấy Trường Sa thì TC phải thôn tính Hoàng Sa. Trong lúc VNCH còn phải lo trong nội địa thì TC cho Hải Quân đóng vai ngư phủ xâm nhập phía đông của quần đảo. Ðúng như vua Trần đã nói, chúng cứ gặm nhấm dần dần. Căn cứ vào địa lý nhân văn, căn cứ vào di tích lịch sử, căn cứ vào hiện trạng thềm lục địa, dứt khoát toàn bộ Hoàng Sa và Trường Sa là của Việt Nam. Từ ngàn xưa cho đến ngàn sau. Nhưng đất nước đang chiến tranh, sức đâu mà có đủ phương tiện trấn giữ cả trăm hải đảo cô quạnh giữa trùng khơi. Vì vậy, thừa nước đục thả câu, các quốc gia lân bang xâu xé. Từ Tàu đỏ của Bắc Kinh cho đến Tàu vàng của Ðài Bắc. Rồi Mã Lai, Indo và Phi luật tân đều nhào vô giành hải đảo. Nhưng có kế hoạch và tham lam nhất vẫn là người Tàu. Từ Tàu ngày xưa cho đến TC ngày nay, mộng bá quyền của người phương Bắc luôn luôn là cơn ác mộng của phương Nam.
Đô đốc Hồ Văn Kỳ Thoại đang kể lại trận hải chiến Hoàng Sa
Châu Chấu Đá Voi
Ngày 15/01/1974 chiến hạm HQ 16 lên đường ra Hoàng Sa đưa địa phương quân Quảng Nam ra thay phiên trấn thủ lưu đồn. Ngày 17/01 khi đổ bộ lên đảo đã gặp Hồng quân. Từ trước đến nay vẫn gặp dân đánh cá xua đuổi là chúng bỏ đi, những lần này lại là Hải Quân TC. Ðô Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại tư lệnh Hải Quân vùng I cảm thấy chuyện bất thường. Nhân lúc tổng thống Thiệu ra kinh lý, nội vụ được trình trực tiếp. Sau phần trình bày của vị tướng Hải Quân, ông Thiệu ngồi xuống lấy giấy bút viết tay trong 15 phút một bản văn lịch sử. Ðây là chỉ thị căn bản của trận hải chiến duy nhất đã xảy ra giữa Việt Nam và nước Tàu trong thế kỷ thứ 20. Tướng Thoại đã ghi lại trong tác phẩm "Can trường trong chiến bại" chương 16 đại ý như sau. Lệnh viết tay của trung tướng Thiệu chỉ thị áp dụng các biện pháp xua đuổi ôn hoà, bắn doạ cảnh cáo và sau cùng thì dùng vũ khí để bảo vệ lãnh thổ. Quyết không để mất một tấc đất nào. Tất cả mọi người hiện diện đều không có ý kiến. Các tướng lãnh và phái đoàn chính phủ tháp tùng không ai lên tiếng. Không có bàn thảo gì hết. Xem ra ông Thiệu hết sức cô đơn và cương quyết trong quyết định lịch sử rất có thể bùng nổ lớn mà không ai tiên đoán được. Vẫn theo bản tính của ông, không ra lệnh chi tiết về việc khai hoả. Không cần thảo luận về việc khả năng hùng mạnh của toàn thể Hải Quân TC. Chỉ riêng Hạm đội Hải Nam cũng có thể tung ra 10 chiến hạm phục kích vây chung quanh hạm đội Việt Nam và diệt gọn. Rõ ràng là một quyết định châu chấu đá voi, dựa trên tình tự dân tộc với mối thù từ ngàn năm trước. Sau cùng châu chấu cũng đành phải đá voi.
Hạm Đội Hà Văn Ngạc
Từ Sài Gòn đại tá Hà Văn Ngạc bay ra Ðà Nẵng nhận lãnh chức vụ chỉ huy cuộc chiến lấy lại Hoàng Sa. Ðô Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại tiễn ông đại tá Sài Gòn lên HQ 5, mang hiệu kỳ soái hạm lên đường. Chia tay trên cầu tàu căn cứ Ðà Nẵng, ông Thoại viết lại rằng đôi mắt chiến hữu nhìn nhau, cùng cảm thấy sắp có biến cốÔ lịch sử. Lệnh phải bảo vệ đất nước được ghi rõ ràng từ tổng tư lệnh. Quân xâm lăng lần này đâu có dễ thuyết phục. Hoàng Sa là con đường đi xuống Trường Sa, mỏ dầu tương lai của cả Ðông nam Á. Hoa Kỳ lại xác nhận là không can thiệp. Giặc Tàu chắc chắn sẽ không bỏ đi. Lính thuỷ Việt Nam với 4 con tàu cũ sẽ lâm chiến trong hoàn cảnh hết sức cô đơn trên biển cả mênh mông. Từ tướng cho đến quân, ai nấy đều biết rằng phải khai hoả trước. Không thể bắn cảnh cáo doạ dẫm gì hết. Tiên hạ thủ vi cường. Ðiều quan trọng là khai hoả vào lúc nào và ai sẽ là người ra lệnh khai hoả. Ðại tá Hà Văn Ngạc xuống con tàu mang tên danh tướng Trần bình Trọng, phen này nếu chẳng may sa vào tay địch chắc lại phải làm quỉ nước Nam, còn hơn làm vương đất Bắc.
Khói Lửa Biển San Hô
Buổi sáng hôm đó trời trong sáng, vào lúc 10 giờ thì tàu hai bên đã gần nhau. Bên địch bên ta kèm nhau từng chiếc một. Ngẫu nhiên mỗi bên đều có 4 chiến hạm. HQ 16 có HQ 10 bên tay mặt làm thành phân đội số 2. Soái hạm HQ 5 đi với HQ 4 là phân đội 1 vòng xuống phía đông nam đánh vào đảo Quang Hoà. Lập tức 2 tàu địch tách ra ứng chiến. Hoả lực của hai bên tương đương, nhưng tàu địch tối tân hơn, chạy nhanh hơn, thân nhỏ sàn tàu thấp tạo thành mục tiêu di động và nhỏ bé hơn chiến hạm của Việt Nam. Các vị chỉ huy của bên ta đều dự trù sẽ nổ súng trước khai thác yếu tố bất ngờ. Vả lại, địch là kẻ xâm lăng, chiếm đất ta, ta có quyền nổ súng. Lúc đó Trung Uý Ất 24 tuổi, ngồi trấn thủ cạnh cây đại bác quyết định chiến trường 125 ly nòng dài. Phía trước mặt là 2 tàu chiến của TC chế ngự trước đảo Duy Mộng. Trung Tá Lê Văn Thự với con tàu Lý Thường Kiệt đã xoay trở mấy ngày qua nên quen thuộc với khu vực đầy bãi đá ngầm với san hô. Pháo đội trưởng rất tin tưởng vào dàn xạ thủ nhiều kinh nghiệm với những năm yểm trợ hải pháo cho bộ binh vùng duyên hải Trung phần. Các hạ sĩ quan đều vững tay nghề và tinh thần hết sức cao. Cũng có thể chưa thấy quan tài chưa đổ lệ. Thực sự thì cả hai bên đều chưa hề có kinh nghiệm hải chiến trên biển cả. Sách vở và chỉ thị dùng đạn xuyên phá nhưng Trung Uý Ất cho nạp toàn đạn chạm nổ. Gần thế này mà xuyên phá thì hỏng hết. Phải chạm nổ mới có kết quả. Lại có lệnh bắn yểm trợ cho bộ binh trên đảo trước. Mấy bác hạ sĩ quan thâm niên đến bên cạnh thì thào vào tai anh Trung Uý trẻ. Ta cứ nhằm vào đài chỉ huy mà ra tay trước. Nếu cứ phơi mình ra mà bắn yểm trợ lên đảo thì chết hết còn đâu mà yểm trợ bộ binh. Nhớ lại chuyện 34 năm trước, ông Ất kể rằng, chúng tôi cứ hướng vào đài chỉ huy của tàu địch. Ðịch di chuyển là các nòng súng 125 và 40 ly theo sát. Phía bên địch cũng quay súng hướng về chúng tôi như vậy. Giây phút nghẹt thở kéo dài. Lệnh từ soái hạm cho HQ 10 bắn trước. Nghe tiếng nổ là các tàu khai hoả đồng loạt. HQ 16 hạ được một tàu địch và phía bên phân đội 2 của HQ4 và 5 bắn cháy một tàu. Ngay sau đó thì HQ 10 bị địch bắn xập đài chỉ huy. Trong hải chiến, mục tiêu chính là đài chỉ huy, nơi tập trung bộ phận lái tàu, hệ thống điện, truyền tin. Kế tiếp là dàn pháo của tàu địch. Phần còn lại nằm dưới mặt nươcÔ, phải tấn công bằng thuỷ lôi nhưng chiến hạm không được trang bị. Súng bắn qua lại như mưa. Trung Uý Ất thấy rõ hai chiến hạm địch bốc cháy. Bên HQ 10 có lệnh bỏ tàu, tình thế rất bi thảm. Cùng lúc đó HQ 16 bị trúng thương nặng, lệnh bỏ tàu đã ban hành những sau đã kịp thu hồi và cố gắng xoay trở để rời khỏi chiến trường. Hai chiến hạm của phân đội 1 cũng đã trên đường triệt thoải khỏi vùng hải chiến. Hai chiến hạm địch còn lại cũng bị thương nặng nên không đủ sức truy kích. Nếu không chắc chắn HQ 16 không thể tiếp tục chiến đấu để tồn tại. Con tàu chỉ còn một máy, không có điện phải vận chuyển bằng tay, cố lết ra khỏi quần đảo Hoàng Sa. Rời khỏi trận địa khoảng 11 giờ sáng, Đại Uý Ất còn nhớ lúc 3 giờ chiều chưa ra khỏi chiến trường. Nhìn về phía sau thật xa vẫn còn thấy chiến hữu trên đảo vẫy tay gọi tàu vào đón. Con tàu không còn khả năng tự xoay trở nên đã đành đoạn bỏ lại đoàn viên tuyệt vọng mỗi lúc một xa dần. Sang ngày hôm sau toàn thể hạm đội Hải Nam của TC mới ào ạt tiến đến và bắt tất cả các quân nhân của ta đem về lục địa. Sau đó trao trả tại Hồng Kông. Còn các chiến binh thả trôi trên bè cấp cứu đã nhờ ngọn gió Ðông thổi vào đất liền, trôi giạt cho đến khi tàu buôn và ghe chài vớt được trả về cho đơn vị.
Giấc Mơ Của Ðại Uý Ất
Trung Uý Ðoàn Viết Ất với chiến công trên HQ 16 trong trận Hoàng Sa đã được đặc cách lên Đại Uý. Chính vì cấp bậc này, cộng thêm khả năng lái tàu Mỹ, ông được cộng sản gia tăng thêm 3 năm thành 6 năm cải tạo. Khi ra tù, lại nhờ khả năng lái chiến hạm nên bà con móc nối cho lái ghe vượt biên mới có cơ hội trở lại vịnh Cựu Kim Sơn quen biết từ năm 70.
35 năm sau, bác Ất quê Nam Ðịnh ngồi nhớ lại hình ảnh con tàu HQ 10 nằm trên biển san hô. Biết rằng bây giờ ta đánh thì không lại quân Tàu, những vật đổi sao rời, cũng có ngày nước Tàu chia năm xẻ bảy. Việt Nam hậu sinh lấy lại được Hoàng Sa sẽ trục con tàu anh hùng lên làm thành một đài kỷ niệm như người Mỹ đã làm ở Trần Châu Cảng xứ Hạ Uy Di. Ai mà biết giấc mộng đó sẽ không phải là thực. Trong khi chờ đợi, Đại Uý Ðoàn Viết Ất sẽ cùng Đại Uý Hải Quân Phạm Bách Phi làm một sa bàn Hoàng Sa cho Viện Bảo Tàng để con cháu thuyền nhân tỵ nạn Việt Nam đến xem ông cha ta ngày xưa châu chấu đá voi ra làm sao.
Lệnh Khai Hoả
Khi đặt bút viết bài này có tựa đề là Lệnh Khai Hoả. Tác giả là một chiến binh lục quân chân đất, hoàn toàn không có kiến thức Hải Quân nên chỉ xin lạm bàn chút đỉnh. Lệnh khai hoả thực sự bắt đầu từ đâu và vào lúc nào? Ðô Đốc Kỳ Thoại viết trong chương sách về trận Hoàng Sa có ghi rằng đại tá Ngạc chỉ huy hạm đội xin ông lệnh khai hoả. Qua máy truyền tin tiếng súng bắn tại Hoàng Sa, đại tá Ngạc mở lớn cho ông Thoại nghe thấy. Bút ký của sĩ quan truyền tin trên HQ 5 cũng ghi rõ đoạn này. Tài liệu bằng Anh ngữ của đại tá Ðỗ Kiểm thuộc bộ tư lệnh Hải Quân Sài Gòn lại ghi rằng đại tá Ngạc điện thoại về xin lệnh khai hoả của đề đốc tư lệnh Hải Quân. Lúc đó tư lệnh đang trên đường bay ra Vùng I. Vì chuyện khẩn cấp nên đại tá Kiểm xin lệnh của đô đốc Diệp Quang Thuỷ có mặt tại bộ tư lệnh Sài Gòn. Nhận lúc họp bạn với anh em Hải Quân để viết lại câu chuyện làm phim, chúng tôi có dịp nói chuyện thêm chi tiết với đô đốc Thuỷ. Bây giờ đại tá Hà Văn Ngạc không còn nữa. Người viết chuyện tò mò muốn tìm hiểu đành phải suy nghĩ rằng trước khi nổ súng ông đã gọi bộ tư lệnh Hải Quân để xin phép trước. Qua Đô Đốc Diệp Quang Thuỷ ông được lệnh Sài Gòn. Sau đó ông cẩn thận xin lệnh Ðà Nẵng qua đô đốc Hồ Văn Kỳ Thoại, và lệnh khai hoả bắt đầu. Tuy nhiên dù lệnh ra sao thì cũng chỉ qua giấy tờ và máy truyền tin. Lệnh khai hoả đích thực sau cùng trên chiến hạm bằng khẩu lệnh là của cấp uý như ông Trung Uý Ðoàn viết Ất. Lúc đó Trung Uý Ất mới 24 tuổi, dân Nam Ðịnh. Ông là người tin vào những chuyện số mệnh linh thiêng huyền bí. Dù rằng lệnh xuống theo hệ thống quân giai từ tổng thống, tư lệnh Hải Quân, tư lệnh Vùng, chỉ huy hạm đội, hạm trưởng rồi mới đến tai ông. Nhưng theo tiếng gọi từ nơi xa thẳm thì cái lệnh khai hoả đã bắt đầu từ vua nhà Trần. Bẩy trăm năm về trước Ðức Trần Nhân Tông đã ra lệnh bắn quân Tàu. Tư lệnh quân đội thời đó là Ðức Hưng Ðạo Đại Vương, Trần Quốc Tuấn. Có phải ngẫu nhiên hay không, vua quan nhà Trần thời đó cũng là người quê ở Nam Ðịnh, chẳng khác gì ông tỵ nạn vô danh Ðoàn Viết Ất ngày nay đang lưu lạc ở San Jose. Mỗi sáng vào sửa vài cái máy điện toán, bữa ăn trưa là lần cuối trong ngày. Chiều chiều ghé vào nhà con trai kèm bài cho cháu nội. Ông pháo thủ Hải Quân bỏ lại dàn đại bác từ hơn 30 trước ở cuối chân trời. Từ ngày đó đến nay chẳng bao giờ còn nghe thấy lệnh khai hoả của các cấp chỉ huy.
Bài trả lời lại bài: LỘ DIỆN KẺ ĐÁNH MẤT HOÀNG SA SAU 33 NĂM đã đăng trên Tạp chí Xưa và Nay của Hội Lịch sử Việt Nam số 301 + 302, 2/2008, tr 25; bài viết đã được Blog của Phạm Viết Đào đưa lại nguyên văn ...
Tác giả: Đại tá Hải quân Việt Nam Cộng hòa HÀ VĂN NGẠC
Lời Tòa Soạn:
Chúng tôi vừa nhận được hung tin: Hải Quân Ðại Tá Hà Văn Ngạc, Hải Ðội Trưởng Hải Ðội III Tuần Dương HQVNCH, người chỉ huy trận hải chiến tại quần đảo Hoàng Sa vào năm 1974, đã đột ngột từ trần tại Dallas, Texas vào hồi 10 giờ 30 sáng Thứ Sáu ngày 12 tháng 2 năm 1999, hưởng thọ 64 tuổi.
Trong khoảng 10 năm vừa qua, chúng tôi liên lạc rất thường xuyên với Ðại Tá Ngạc để yêu cầu ông viết về trận hải chiến Hoàng Sa, nhưng vì nhiều lý do, ông vẫn do dự. Mãi tới cuối năm 1998, vào dịp Lễ Giáng Sinh, ông mới gửi tới Tòa Soạn Nguyệt San Ðoàn Kết bài "Tường Thuật Về Trận Hải Chiến Hoàng Sa" do chính ông viết nhân dịp kỷ niệm 25 năm trận đánh lịch sử này. Ngoài ra, ông cũng đã cho phép chúng tôi phỏng vấn và cung cấp nhiều hình ảnh hiếm có cùng những chi tiết qúi báu về vị trí của các chiến hạm tham chiến để Tòa Soạn có thể sửa lại các phóng đồ về trận hải chiến cho thêm chính xác.
Ðúng 25 năm trước, vào mùa Xuân Giáp Dần năm 1974 , Hải Ðội Trưởng Hà Văn Ngạc đã anh dũng chỉ huy các chiến hạm Hải Quân VNCH chận đánh quân xâm lăng Trung Cộng tại Hoàng Sa. Giờ đây, hương linh chiến hữu Hà Văn Ngạc vừa trở lại với Hoàng Sa để tiếp tục bảo vệ chủ quyền chính đáng của Tổ Quốc Việt Nam tại Biển Ðông.
Trân trọng.
Ðôi lời trước khi viếtÐã 25 năm kể từ ngày tôi tham-dự trận hải-chiến Hoàng-Sa, tôi chưa từng trình bầy hay viết mô-tả lại về trận đánh này, ngay cả có nhiều lần tôi đã thất hứa với các bậc tiên-sinh yêu-cầu tôi thuật lại chi-tiết của cuộc đụng-độ. Dù thắng hay bại, chỉ có một điều duy-nhứt không thể chối cãi được là các chiến-hữu các cấp của Hải-quân Việt-Nam Cộng-Hòa trong trận hải-chiến đã anh-dũng chiến-đấu bằng phương-tiện và kinh-nghiệm có trong tay để chống lại một kẻ xâm-lăng truyền-kiếp của dân-tộc hầu bảo-vệ lãnh-thổ của Tổ-quốc. Trước một thù-địch có sức mạnh gấp bội, dù cuộc-chiến có hạn-chế hay kéo dài hoặc mở rộng, phần cuối là chúng ta vẫn phải tạm lùi bước trước các cuộc cường-tập của đối-phương để tìm-kiếm một cơ-hội thuận-tiện khác hầu khôi-phục lại phần đất đã bị cưỡng-chiếm.
Hôm nay nhân ngày Tết Kỷ-Mão, tôi viết những giòng này để tưởng-niệm anh-linh các liệt-sĩ đã hy-sinh khi cùng tôi chiến-đấu chống kẻ xâm-lăng trên các mảnh đất xa vời của Quốc-Tổ, một số đã vĩnh-viễn nằm lại trong lòng biển Hoàng-Sa như để thêm một chứng-tích lịch-sử của chủ-quyền quốc-gia, một số khác đã bỏ mình trên biển cả khi tìm đường thoát khỏi sự tàn-bạo của người phương bắc.
Có nhiều chiến-hữu Hải-quân đã từng hăng-say viết lại một trang-sử oai-hùng của Hải-quân và toàn Quân-lực Việt-Nam của nền Ðệ-Nhị Cộng-Hòa, nhưng đã thiếu-xót nhiều chi-tiết chính-xác mà vào những năm trước 1975 chưa được phép phổ-biến, và cũng vì phải lưu-lạc khắp thế-giới tự-do nên các chiến-hữu đó đã không thể liên-lạc để tham-khảo cùng tôi.
Nhiều chi-tiết về giờ-giấc và về vị-trí bạn và địch, cũng như tên họ của các cấp có liên-hệ tới biến cố, vì không có tài-liệu truy-lục, nên chỉ có thể viết vào khoảng gần đúng nhất. Tôi chỉ tường-thuật trung-thực những chi-tiết theo khía-cạnh của một người chỉ-huy chiến-thuật được biết và cũng mong-mỏi các chiến-hữu nào còn có thể nhớ chắc-chắn các chi-tiết quan-trọng khác, tôi sẽ sẵn-sàng tiếp-nhận qua tòa-soạn này, để sửa lại tài-liệu này cho đúng.
Đại tá Hà-Văn-Ngạc
"Tân xuân Giáp-Dần Hoàng-Sa-chiến
Nam-ngư hải-ngoại huyết lưu hồng"
"Tân xuân Giáp-Dần Hoàng-Sa-chiến
Nam-ngư hải-ngoại huyết lưu hồng"
Hai câu thơ với lối hành-văn vận theo sấm Trạng-Trình đã được truyền-khẩu rất nhanh khi Hải-đội Ðặc-nhiệm Hoàng-Sa trở về tới Ðà-nẵng vào sáng sớm ngày 20 tháng 4 năm 1974. Và câu thơ này do chính Hải-quân Ðại-Tá Nguyễn-Viết-Tân (thủ-khoa Khóa 5 của tôi) lúc đó đang giữ chức-vụ Chỉ-huy-trưởng Sở Phòng-Vệ Duyên-hải, đọc cho tôi nghe. Từ ngày đó tới nay đã đúng 25 năm, và do sự khuyến-khích của các bậc thượng-trưởng của Hải-quân Việt-Nam, những chi-tiết về diễn-tiến chưa tùng tiết-lộ của trận hải-chiến cần được ghi lại để làm chứng-liệu lịch-sử.
Sau trận hải-chiến, những ưu và khuyết điểm về chiến-thuật và chiến-lược của Hải-quân Việt-Nam Cộng-Hòa đến nay nếu nêu ra thì sẽ không còn một giá-trị thực-tiễn nào để có thể làm những bài học cho những biến-cố kế-tiếp. Vì vậy một vài điều nếu có nêu ra tại đây thì chỉ để ghi lại tình-trạng và khả-năng khi Hải-quân Việt-Nam Cộng-Hòa khi đã phải đương đầu với Trung-cộng, là một quốc-gia vào thời-điểm đó, đã sẵn có một lực-lượng hùng-hậu về hải-lục-không-quân gấp bội của Việt-Nam Cộng-Hòa.
Một điểm hãnh-diện cho Hải-quân Việt-Nam Cộng-Hòa lúc bấy giờ là đã không những phải sát-cánh với lực-lượng bạn chống lại kẻ nội-thù là cộng-sản miền bắc trong nội-địa, lại vừa phải bảo-vệ những hải-đảo xa-xôi, mà lại còn phải chiến-đấu chống kẻ xâm-lăng, đã từng biết bao lần dầy xéo đất nước trong suốt lịch-sử lập-quốc và dành quyền độc-lập của xứ sở.
So-sánh với các cuộc hành-quân ngoại-biên vào các năm 1970-71 của Quân-lực VNCH sang đất Kampuchia va Hạ-Lào, thì quân-lực ta chỉ chiến đẵu ngang ngửa vơi cộng-sản Việt-Nam ẩn náu trên đất nước láng-giềng mà thôi. Phải thành-khẩn mà nhận rằng Hải-quân Việt-Nam Cộng-Hòa ngoài nội-thù còn phải chống ngoại-xâm mà đã rất khó tiên-liệu để chuẩn-bị một cuộc chiến chống lại một lực-lượng hải-quân Trung-cộng tương-đối dồi-đào hơn cả chúng ta về phẩm cũng như lượng. Hải-quân Việt-Nam ta đã có những gánh nặng về hành-quân để yểm-trợ lực-lượng bạn và hành-quân ngăn-chận các vụ chuyển-quân lén-lút của Việt-cộng qua biên-giới Miên-Việt trong vùng sông ngòi cũng như các vụ tiếp-tế quân-dụng của chúng vào vùng duyên-hải.
Trước khi đi vào chi-tiết của trận hải-chiến lịch-sử này, chúng ta thử nhắc sơ-lược lại cấu-trúc nhân-su của thượng-tầng chỉ-huy và của các đơn-vị tham-chiến của Hải-quân vào lúc biến-cố:
- Tư-lệnh Hải-quân: Ðề-Ðốc Trần-văn-Chơn
- Tư-lệnh-phó Hải-quân: Phó Ðề-Ðốc Lâm-ngươn-Tánh
- Tham-mưu-Trưởng Hải-quân: Phó Ðề-Ðốc Diệp-quang-Thủy
- Tư-lệnh Hạm-đội: HQ Ðại-tá Nguyễn-xuân-Sơn
- Tư-lệnh HQ Vùng 1 Duyên-hải: Phó Ðề-Ðốc Hồ-văn Kỳ-Thoại
- Chỉ-huy-trưởng Hải-đội tuần-dương: HQ Ðại-tá Hà-văn-Ngạc, (Hải-đội 3) và là Sĩ-quan chỉ-huy chiến-thuật trận hải-chiến.
- Hạm-trưởng Khu-trục-hạm HQ4: HQ Trung-Tá Vũ-hữu-San
- Hạm-trưởng Tuần-dương-hạm HQ5: HQ Trung-Tá Phạm -trọng- Quỳnh
- Hạm-trưởng Tuần-dương-hạm HQ16: HQ Trung-Tá Lê-văn-Thự
- Trưởng toán Hải-kích đổ-bộ: HQ Ðại-Úy Nguyễn-minh-Cảnh.
- Hạm-trưởng Hộ-tống-hạm HQ10: HQ Thiếu-Tá Ngụy-văn-Thà tử chiến trong trận 1/1974 (truy-thăng HQ Trung-Tá)
Lý-do tôi đã có mặt tại Hoàng-Sa
Rất nhiều chiến-hữu trong Hải-quân đã không rõ nguyên-cớ nào mà tôi đã có mặt để đích-thân chỉ-huy tại chỗ trận hải-chiến Hoàng-Sa. Sự có mặt của tôi bắt nguồn từ khi tôi được Hội-đồng Ðô-đốc chỉ-định tôi tăng-phái cho Vùng I duyên-hải khoảng từ cuối năm 72 đầu 1973. Lý do tăng-phái của tôi đến Vùng I duyên-hải tôi không được biết trước cho đến khi tôi tới Quân-Khu 1, tôi mới được biết nhiệm-vụ chính của tôi là chuẩn-bị một trận thư-hùng giữa Hải-quân VNCH và hải-quân Bắc-Việt mà lúc đó, tin tình-báo xác-nhận là cộng-sản đã được viện-trợ các cao-tốc-đĩnh loại Komar của Nga-sô trang-bị hỏa-tiễn hải-hải (surface to surface). Vào thời-gian đó Hải-quân VNCH chỉ có khả-năng chống-đỡ thụ-động loại vũ-khí này. Cuộc hải-chiến tiên-liệu có thể xẩy ra khi lực-lượng hải-quân cộng-sản tràn xuống để hỗ-trợ cho quân-bộ của chúng khi chúng muốn tái-diễn cuộc cường-tập xuất-phát từ phía bắc sông Bến-Hải như vào ngày cuối tháng 3 năm 1972 để khởi phát các cuộc tấn-công suốt mùa hè đỏ lửa 1972.
Tôi lưu lại Vùng I duyên-hải chừng hai tuần lễ hầu nghiên-cứu để thiết-kế. Kế-hoạch chính của cuộc hải-chiến này là xử-dụng nhiều chiến-hạm và chiến-đỉnh (WPB và PCF) để giảm bớt sự thiệt-hại bằng cách trải nhiều mục-tiêu trên mặt biển cùng một lúc. Song-song với việc này là các chiến-hạm và chiến-đĩnh phải xử-dụng đạn chiếu-sáng và hỏa-pháo cầm-tay như là một cách chống hỏa-tiễn thụ-động. Ngoài ra Hải-quân cũng cần đặt ra sự yểm-trợ của pháo-binh của Quân-đoàn I để tác-xạ ngăn-chặn và tiêu-diệt lực-lượng hải-quân cộng-sản tại phía bắc Cửa Việt trước khi họ tràn xuống phía nam để đủ tầm phóng hỏa-tiễn.
Sau khi đã thuyết-trình tại Bộ-Tư-Lệnh Hải-quân Vùng I duyên-hải cùng các Chỉ-huy-trưởng các đơn-vị duyên-phòng và duyên-đoàn, Tư-lệnh HQ Vùng I duyên-hải chấp-thuận kế-hoạch và đưa kế-hoạch lên thuyết-trình tai Bộ-Tư-Lệnh Quân-đoàn I và Quân-Khu I. Buổi thuyết-trình tại BTL/Quân-đoàn I do đích-thân Trung-Tướng Ngô-quang-Trưởng chủ-tọa, ngoài Tư-lệnh HQ Vùng I duyên-hải còn có Ðại-Tá Hà-mai-Việt Trưởng Phòng 3 Quân-đoàn, Ðại-tá Khiêu-hữu-Diêu, Ðại-Tá Nguyễn-văn-Chung Chỉ-huy-trưởng pháo-binh Quân-đoàn và một số rất ít các sĩ-quan phụ-tá. Nhu-cầu yểm-trợ pháo-binh cho cuộc hải-chiến được chấp-thuận ngay và Chỉ-huy-trưởng pháo-binh quân-đoàn hứa sẽ phối-trí pháo-binh, đặc-biệt là pháo-binh 175 ly để thỏa-mãn kế-hoạch của Hải-quân, khi được yêu-cầu.
Kể từ khi được chỉ-định tăng-phái, tôi thường có mặt tai Vùng I duyên-hải mỗi tháng chừng hai tuần tùy theo công-việc của tôi tại Hải-đội, nhưng chưa lần nào Bộ-Tư-lệnh HQ, Bộ-Tư-lệnh Hạm-đội hoặc Vùng I Duyên-hải chỉ-thị tôi phải có mặt trong vùng. Khi có mặt tại vùng tôi thường tìm-hiểu tình-hình tổng-quát tại Quân-Khu I cũng như đi hoặc tháp-tùng Tư-lệnh HQ vùng I duyên-hải thăm-viếng các đơn-vị lục-quân bạn cấp sư-đoàn, lữ-đoàn hay trung-đoàn.
Trở lại trận hải-chiến Hoàng-Sa, vào khoảng ngày 11 tháng giêng năm 1974, chỉ khoảng vài ngày sau khi Ngoại-trưởng Hoa-Kỳ Kissinger rời Trung-cộng, thì đột-nhiên Ngoại-trưởng Trung-cộng lại một lần nữa tuyên-bố về chủ-quyền của họ trên các quần-đảo Hoàng và Trường-Sa. Tôi rất lưu-ý tin này vì tôi đã chỉ-huy công-cuộc đặt quân trú-phòng đầu tiên trên đảo Nam-Yết vùng Trường-Sa vào cuối mùa hè 1973. Vài ngày sau, vì Ngoại-trưởng VNCH Vương-văn-Bắc còn bận công-cán ngoại-quốc, thì phát-ngôn-viên Bộ Ngoại-giao VNCH bác-bỏ luận-cứ của Trung-cộng và tái xác-nhận một lần nữa chủ-quyền của VNCH trên các quần-đảo đó.
Ngày 16 tháng giêng năm 1974, tôi từ Sàigòn đi Vũng-Tầu để chủ-tọa lễ trao-quyền chỉ-huy Tuần-dương-hạm HQ5 Trần-bình-Trọng đang neo tại chỗ, cho tân-hạm-trưởng là Hải-quân Trung-tá Phạm-trong-Quỳnh (tôi không còn nhớ tên cựu hạm-trưởng). Khi trở về Sàigòn, lúc theo dõi bản tin-tức hàng ngày của đài truyền-hình thì thấy Ngoại-trưởng Vương-văn-Bắc hùng-hồn và nghiêm-trọng khi tuyên-bố chủ-quyền của VNCH trên 2 quần-đảo Hoàng và Trường-Sa. Tôi thấy có chuyện bất-ổn có thể xẩy ra tại Vùng I duyên-hải nhất là Việt-cộng có lẽ được Trung-cộng hỗ-trợ tạo ra tình-thế rắc-rối ngoài hải-đảo để thu-hút lực-lượng của Hải-quân Việt-Nam, và đương nhiên cộng-sản sẽ lợi-dụng để tràn-xuống dưới vĩ-tuyến 17 như đã dự-liệu.
Nên sáng sớm ngày 17, không kịp thông-báo đến Tư-lệnh Hạm-đội; tôi lên phi-trưởng Tân-sơn-Nhứt và đến thẳng ngay Trạm hàng-không quân-sự. Tôi gặp ngay một vị Thượng-sĩ không-quân trưởng-trạm và nói là tôi cần đi gắp ra Ðà-nẵng. Vị Thượng-sĩ trình với tôi là danh-sách hành-khách đã đầy-đủ cho chuyến bay và giới-thiệu tôi gặp vị Trung-úy phi-công-trưởng phi-cơ C130. Sau khi trình-bầy lý-do khẩn-cấp đi Ðà-nẵng của tôi, vị phi-công-trưởng trang-trọng mời tôi lên phi-cơ ngồi vào ghế phụ trong phòng phi-công.
Ðến Ðà-nẵng khoảng 9:00 sáng, tôi mới kêu điện-thoại cho HQ Ðại-tá Nguyễn-hữu-Xuân, Tư-lệnh-phó Vùng cho xe đón tôi tại phi-trường. Ðến BTL/HQ Vùng I duyên-hải tôi mới được biết chi-tiết những gì đang xẩy ra tại Hoàng-Sa, và được biết thêm là chiếc tuần-dương-hạm HQ5, mà tôi vừa chủ-tọa trao quyền chỉ-huy ngày hôm qua tại Vũng-Tàu sẽ có mặt tại quân-cảng vào buổi chiều tối cùng với biệt-đội hải-kích.
Tư-lệnh HQ vùng I duyên-hải cũng cho tôi hay và giơ một tờ giấy nhỏ nói là ông có thủ-bút của Tổng-thống vừa tới thăm bản-doanh trước đây, nhưng tôi không hỏi về chi-tiết cũng như xin xem thủ-bút vì tôi nghĩ đó là chỉ-thị riêng tư giữa Tổng-Thống và một vị Tướng-lãnh. Vị Tư-lệnh này còn cho tôi hai chọn-lựa: một là chỉ-huy các chiến-hạm ngay tại Bộ-Tư-lệnh Vùng, hai là đích-thân trên chiến-hạm. Tôi đáp trình ngay là: Tôi sẽ đi theo các đơn-vị của tôi. Từ ngày được thuyên-chuyển về Hạm-đội, không như các vị tiền-nhiệm, tôi thường xa Bộ-chỉ-huy để đi theo các chiến-hạm trong công-tác tuần-dương. Mỗi chuyến công-tác, sự hiện-diện của tôi đã mang lại cho nhân-viên chiến-hạm niềm phấn-khởi sau nhiều ngày phải xa căn-cứ. Tôi thường lưu ý các vị hạm-trưởng đến việc huấn-huyện nội-bộ hoặc thao-dượt chiến-thuật với chiến-hạm khác khi được phép.
Ðến khoảng buổi chiều thì Tư-lệnh vùng I duyên-hải còn hỏi tôi có cần thêm gì, tôi trình xin thêm một chiến-hạm nữa vì cần hai chiếc khi di-chuyển trong trường-hợp bị tấn-công trên hải-trình, chứ không phải vì số lượng chiến-hạm Trung-cộng đang có mặt tại Hoàng-Sa. Chiếc Hộ-tống-hạm (PCE) HQ10 Nhựt-Tảo đựơc chỉ-định xung vào Hải-đoản đặc-nhiệm, với lý-do chính là chiếc Hộ-tống-hạm này đang tuần-dương ngay khu-vực cửa khẩu Ðà-nẵng nên giảm bớt thời-gian di-chuyển, chiến-hạm chỉ có một máy chánh khiển-dụng mà thôi. Ngoài ra vị Tư-lệnh HQ vùng còn tăng-phái cho tôi HQ Thiếu-Tá Toàn (Ghi chú của Trần Ðỗ Cẩm: HQ Thiếu Tá Nguyễn Chí Toàn, Khóa 11 SQHQ/Nha Trang), mà tôi chưa biết khả-năng nên trong suốt thời-gian tăng-phái tôi chỉ trao nhiệm-vụ giữ liên-lạc với các Bộ Tư-lệnh cho vị sĩ-quan này. Tôi dùng cơm chiều gia-đình cùng Tư-lệnh HQ Vùng tại tư-thất trong khi chờ đợi Tuần-dương-hạm HQ5 tới. Sau bữa ăn, Tư-lệnh HQ Vùng đích-thân đi bộ tiễn-chân tôi ra cầu quân-cảng. Sau trận-chiến, vị Ðô-đốc này có thổ-lộ cùng tôi là ông đã tưởng đó là bữa cơm cuối cùng của ông với tôi. Như vậy là trận hải-chiến đã dự-liệu là sẽ có thể xẩy ra, và chắc vị Ðô-đốc đã mật-trình về Tư-lệnh Hải-quân thường có mặt tại Bộ-Tư-lệnh.
Tuần-dương-hạm HQ5 rời bến khoảng 09:00 tối và tôi trao nhiệm-vụ đi tới Hoàng-Sa cho Hạm-trưởng HQ5 là vị hạm-trưởng thâm-niên hơn (Ghi chú của Trần Ðỗ Cẩm: HQ5 và HQ10 cùng đi Hoàng Sa, Hạm Trưởng HQ5 là Trung Tá Quỳnh thuộc khóa 11 SQHQ Nha Trang, thâm niên hơn Hạm Trưởng HQ10 là Thiếu Tá Thà thuộc khóa 12 SQHQ Nha Trang). Sự hiện-diện của tôi trên chiến-hạm này đã làm tân-hạm-trưởng, vừa nhậm-chức 2 ngày trước, được vững-tâm hơn vì chắc tân-hạm-trưởng chưa nắm vững được tình-trạng chiến-hạm cũng như nhân-viên thuộc-hạ. Các chiến-hạm đều giữ im-lặng vô-tuyến ngoại trừ các báo-cáo định-kỳ về vị-trí.
____________________________________________
Những diễn-tiến ngày hôm trước trận hải-chiến
Khoảng 8 hay 9:00 giờ sáng ngày 18, hai chiến-hạm HQ5 và HQ10 đã đến gần Hoàng-Sa, và trong tầm âm-thoại bằng máy VRC46 (hậu-thân của máy PRC25 nhưng với công-xuất mạnh hơn) để liên-lạc bằng bạch-văn, vì tầm hữu-hiệu của máy chỉ ở trong vùng Hoàng-Sa mà thôi, tôi nói chuyện với Hạm-trưởng HQ4 HQ Trung-tá Vũ-hữu-San, lúc đó đang là sĩ-quan thâm-niên hiện-diện, để được am-tường thêm tình-hình cũng như thông-báo về sự hiện-diện của tôi, vừa là Chỉ-huy-trưởng Hải-đội vừa là để thay-thế quyền chỉ-huy mọi hoạt-dộng, theo đúng thủ-tục ghi trong Hải-quy. Sau khi được trình bầy chi-tiết các diễn-tiến, tôi có lời khen ngợi Hạm-trưởng này và chia sẻ những khó-khăn mà vị này đã trải qua trong những ngày trước khi tôi có mặt tại vùng.Vào khoảng xế trưa, thì cả 4 chiến-hạm (Ghi chú của Trần Ðỗ Cẩm: HQ4, HQ5, HQ10 và HQ16) đều tập-trung trong vùng lòng chảo của quần-đảo Hoàng-Sa và Hải-đoàn đặc-nhiệm được thành hình. Nhóm chiến-binh thuộc Tuần-dương-hạm HQ16 và Khu-trục-hạm HQ4 đã đổ-bộ và trương quốc-kỳ VNCH trên các đảo Cam-Tuyền (Robert), Vĩnh-Lạc (Money) và Duy-mộng (Drummond) từ mấy ngày qua vẫn được giữ nguyên vi-trí phòng-thủ để giữ đảo. Sau khi quan-sát các chiến-hạm Trung-cộng lởn vởn phía bắc đảo Quang-Hòa (Duncan), tôi quyết-định ngay là hải-đoàn sẽ phô-trương lực-lượng bằng một cuộc thao-diễn chiến-thuật tập-đội để tiến về phía đảo Quang-Hòa với hy-vọng là có thể đổ-bộ hải-kích như các chiến-hạm ta đã làm trước đây. Lúc này trời quang-đãng, gió nhẹ và biển êm. Tất cả chiến-hạm đều phải vào nhiệm-sở tác-chiến, nhưng các dàn hải-pháo và vủ-khí đại-liên phải ở trong thế thao-diễn. Khởi hành từ nam đảo Hoàng-Sa để tiến về đảo Quang-Hòa, 4 chiến-hạm vào đội-hình hàng dọc, dẫn đầu là Khu-trục-hạm HQ4, theo sau là tuần-dương-hạm HQ5 làm chuẩn-hạm đã có trương hiệu-kỳ hải-đội, thứ ba là tuần-dương-hạm HQ16 và sau cùng là Hộ-tống-hạm HQ10, tốc-độ chừng 6 gút, khoảng cách giữa các chiến-hạm là hai lần khoảng cách tiêu-chuẩn (tức 1000 yard), phương-tiện truyền-tin là kỳ-hiệu và quang-hiệu, và âm-thoại bằng VRC46 hoặc PRC25 chỉ xử-dụng để tránh hiểu-lầm ám-hiệu vận-chuyển chiến-thuật mà thôi.
Chừng nửa giờ sau khi hải-đoàn vận-chuyển vào đội-hình hướng về phía đảo Quang-Hòa thì hai chiến-hạm Trung-cộng loại Kronstad mang số-hiệu 271 và 274 bắt đầu phản-ứng bằng cách vận-chuyển chặn trước hướng đi của hải-đoàn, nhưng hải-đoàn vẫn giữ nguyên tốc-độ, trong khi đó thì hai chiếc chiến-hạm khác nhỏ hơn mang số 389 và 396 (Ghi chú của Trần Ðỗ Cẩm: đây là hai trục lôi hạm tức là tầu vớt mìn loại T43) cùng 2 chiếc ngư-thuyền ngụy-trang 402 và 407 (Ghi chú của Trần Ðỗ Cẩm: ngư thuyền số 402 mang tên Nam Ngư) của họ vẫn nằm nguyên vị-trí sát bờ bắc đảo Quang-Hòa. Tôi đã không chú-tâm đến 2 chiếc chiến-hạm nhỏ của địch vì cho rằng, hai chiếc này chỉ là loại phụ mà thôi (sau này, khi sưu tầm tài liệu về trận hải chiến Hoàng Sa, HQ Thiếu-Tá Trần-Ðỗ-Cẩm truy ra theo số-hiệu là loại trục-lôi-hạm và chắc trang-bị vũ-khí nhẹ hơn) còn hai chiếc tầu tiếp-tế ngụy-trang như ngư-thuyền thì không đáng kể. Hành-động chận đường tiến của chiến-hạm ta đã từng được họ xử-dụng trong mấy ngày trước đây khi các chiến-hạm ta đổ quân lên các đảo Cam-tuyền, Vĩnh-lạc và Duy-mộng để xua quân của Trung-cộng rời đảo. Chiếc Kronstad 271 bắt đầu xin liên-lạc bằng quang-hiệu để xin liên-lạc, Tuần-dương-hạm HQ5 trả lời thuận và nhận công-điện bằng Anh-ngữ: "These islands belong to the People Republic of China (phần này tôi nhớ không chắc-chắn) since Ming dynasty STOP Nobody can deny" (Phần này tôi nhớ rất kỹ vì tôi có phụ nhận quang-hiệu). Tôi cho gởi ngay một công-điện khái-quát như sau: "Please leave our territorial water immediately"
Công-điện của chiến-hạm Trung-cộng được lập đi lập lại ít nhất 3 lần sau khi họ nhận được công-điện của Hải-đoàn đăc-nhiệm VNCH, và chiến-hạm ta cũng tiếp-tục chuyển lại công-điện yêu-cầu họ rời khỏi lãnh-hải của VNCH.
Vì 2 chiến-hạm Kronstad Trung-cộng cố-tình chặn đường tiến của Hải-đoàn đặc-chiệm với tốc-độ khá cao, nếu Hải-đoàn tiếp-tục tiến thêm thì rất có thể gây ra vụ đụng tầu, tôi đưa Hải-đoàn trở về phía nam đảo Hoàng-Sa và vẫn giữ tình-trạng ứng-trực cũng như theo dõi các chiến-hạm Trung-cộng, họ cũng lại tiếp-tục giữ vị-trí như cũ tại phía bắc và tây-bắc đảo Quang-Hòa. Sự xuất-hiện thêm 2 chiến-hạm của Hải-quân Việt-Nam vào trong vùng chắc-chắn đã được chiếc Kronstad 271 của Trung-cộng, được coi như chiến-hạm chỉ-huy, báo cáo về Tổng-hành-dinh của họ, và việc tăng-viện có thể được coi như đã được chuẩn-bị.
Với hành-động quyết-liệt ngăn-chặn ta không tiến được đến đảo Quang-Hòa, tôi cho rằng họ muốn cố-thủ đảo này. Việc đổ-bộ quân để xua đuổi họ ra khỏi đảo, lúc đó tôi hy-vọng, chỉ có thể phải thực-hiện bất-thần để tránh hành-động ngăn-chặn của họ và có lực-lượng hải-kích với trang-phục người nhái, may ra họ có thể phải nhượng-bộ, như Tuần-dương-hạm HQ16 và Khu-trục-hạm HQ4 đã thành-công trong mấy ngày trước đó. Nếu họ tấn-công thay vì nhượng-bộ, Hải-đoàn đặc-nhiệm buộc phải sẵn-sàng chống-trả.
Vào khoảng 8 giờ tối, tôi yêu-cầu Tuần-dương-hạm HQ16 chuyển phái-đoàn công-binh của Quân-đoàn I sang Tuần-dương-hạm HQ 5 bằng xuồng. Phái-đoàn công-binh Quân-đoàn I do Thiếu-tá Hồng hướng-dẫn đã vào gặp tôi tại phòng ăn Sĩ-quan có theo sau Ông Kosh thuộc cơ-quan DAO Hoa-Kỳ tại Ðà-nẵng. Tôi cho cả hai hay là tình-hình sẽ khó tránh khỏi một cuộc đụng-độ nên tôi không muốn các nhân-viên không Hải-quân có mặt trên chiến-hạm và tôi sẽ đưa họ lên đảo. Tôi cũng yêu-cầu Tuần-dương-hạm HQ5 cấp cho tất cả một ít lưong-khô. Riêng ông Kosh thì tôi yêu-cầu Hạm-trưởng HQ5 đưa cho ông 1 bịch thuốc lá 10 bao Capstan. Tôi tiễn chân tất cả phái-đoàn xuống xuồng và vẫy tay chào họ khi xuồng bắt đầu hướng về đảo Hoàng-Sa. Kể từ giờ phút đó tới nay tôi không có dịp nào gặp lại ông Kosh để thăm hỏi ông và yêu-cầu ông cho trả lại Tuần-dương-hạm HQ5 bịch thuốc lá Capstan vì thuốc lá này thuộc quân-tiếp-vụ của chiến-hạm xuất ra ứng trước. Riêng Thiếu-tá Hồng thì tôi đã có dịp thăm hỏi ông tại Los Angeles vào năm 1996, cũng theo lời ông thì ông đã viết xong vào trước năm 1975, một cuốn ký-sự về thời-gian bị bắt làm tù-binh trong lục-dịa Trung-Hoa nhưng không được Tổng Cục Chiến-tranh Chính-trị cho xuất bản vì chưa phải lúc thuận-tiện.
Vào khoảng 10 giờ tối, tôi trực-tiếp nói chuyện bằng vô-tuyến với tất cả hạm-trưởng để cho hay là tình-hình sẽ khó tránh được một cuộc đụng-độ, và yêu-cầu các vị này chuẩn-bị các chiến-hạm và huy-động tinh-thần nhân-viên để sẵn-sàng chiến-đấu. Tôi biết rõ cuộc chiến nếu xẩy ra thì tất cả nhân-viên đều không đủ kinh-nghiệm cho các cuộc hải-chiến, vì từ lâu các chiến-hạm chỉ chú-tâm và đã thuần-thuộc trong công-tác tuần-dương ngăn-chặn hoặc yểm-trợ hải-pháo mà thôi, nếu có những nhân-viên đã phục-vụ trong các giang-đoàn tại các vùng sông ngòi thì họ chỉ có những kinh-nghiệm về chiến-đấu chống các mục-tiêu trên bờ và với vũ-khí tương-đối nhẹ hơn và dễ-dàng trấn-áp đối-phương bằng hỏa-lực hùng-hậu.
Vào khoảng 11:00 giờ tối ngày 18, một lệnh hành-quân, tôi không còn nhớ được xuất-xứ, có thể là của Vùng I duyên-hải, được chuyển mã-hóa trên băng-tần SSB (single side band) (Ghi chú của Trần Ðỗ Cẩm: đây là công điện Mật/Khẩn chiến dịch mang số 50.356, nhóm ngày giờ 180020H/01/74 do BTL/HQ/V1ZH gửi với tiêu đề: Lệnh Hành Quân Hoàng Sa 1) . Lệnh hành-quân vừa được nhận vừa mã-dịch ngay nên không bị chậm-trễ, và lệnh này ghi rõ quan-niệm hành-quân như sau: tái-chiếm một cách hòa-bình đảo Quang-Hòa. Lệnh hành-quân cũng không ghi tình-hình địch và lực-lượng trừ-bị nhưng những kinh-nghiệm từ trước tới nay nhất là trong hai năm tôi đảm-nhận trách-vụ Tham-mưu-phó hành-quân tại BTL/HQ, tôi dự-đoán Trung-cộng, vì đã thiết-lập một căn-cứ tiền-phưong tại đảo Phú-lâm thuộc nhóm Tuyên-đức nằm về phía đông-bắc đảo Hoàng-Sa sát vĩ-tuyến 17, nên họ đã có thể đã phối-trí tại đây lực-lượng trừ-bị, và hơn nữa trên đảo Hải-Nam còn có một căn-cứ Hải-quân rất lớn và một không-lực hùng-hậu với các phi-cơ MIG 19 và 21 với khoảng cách gần hơn là từ Ðà-nẵng ra. Việc Trung-cộng lấn-chiếm những đảo không có quân trú-phòng của ta trong vùng Hoàng-Sa, đã phải được họ chuẩn-bị và thiết-kế chu đáo từ lâu trước khi tái tuyên-bố chủ-quyền. Trong khi đó việc Hải-quân VNCH phát-hiện sự hiện-diện của họ chỉ có từ khi Tuần-dương-hạm HQ16 được lệnh đến thăm-viếng định-kỳ và chở theo phái-đoàn công-binh Quân-đoàn I ra thám-sát đảo để dự-kiến việc thiết-lập một phi-đạo ngắn.
Ngay sau khi hoàn-tất nhận lệnh hành-quân, tôi chia Hải-đoàn thành hai phân-đoàn đặc-nhiệm: Phân-đoàn I là nỗ-lực chính gồm Khu-trục-hạm HQ4 và Tuần-dương-hạm HQ5 do Hạm-trưởng Khu-trục-hạm HQ4 chỉ-huy; Phân-đoàn II là nỗ-lực phụ gồm Tuần-dương-hạm HQ16 và Hộ-tống-hạm HQ10 do Hạm-trưởng Tuần-dương-hạm HQ16 chỉ-huy. Nhiệm-vụ là phân-đoàn II giữ nguyên vị-trí trong lòng chảo Hoàng-Sa để tiến về đảo Quang-Hòa vào buổi sáng. Phân-đoàn I khởi hành vào 12:00 đêm đi bọc về phía tây rồi xuống phía nam sẽ có mặt tại nam đảo Quang-Hòa vào 06:00 sáng ngày hôm sau tức là ngày 19 để đổ-bộ biệt-đội hải-kích. Phân-đoàn I phải đi bọc ra phía tây quần-đảo thay vì đi thẩng từ đảo Hoàng-Sa xuống đảo Quang-Hòa là để tránh việc các chiến-hạm Trung-cộng có thể lại vận-chuyển ngăn-chặn đường tiến của chiến-hạm như họ đã làm vào buổi chiều, vả lại việc hải-hành tập-đội về đêm trong vùng có bãi cạn và đá ngầm có thể gây trở-ngại cho các chiến-hạm, nhất là Khu-trục-hạm còn có bồn SONAR (máy dò tiềm-thủy-đĩnh), hy-vọng hải-trình như vậy sẽ tạo được yếu-tố bất ngờ. Hơn nữa về mùa gió đông-bắc, việc đổ-bộ vào phía tây-nam sẽ tránh được sóng biển cho xuồng-bè. Nên ghi-nhận tại điểm này là kể từ năm 1973, toán cố-vấn HQ Hoa-kỳ tại Hạm-đội mà trưởng toán là HQ Ðại-tá Hamn (tên họ) đã nhiều lần yêu-cầu tháo gỡ máy Sonar trên các khu-trục-hạm. Phó Ðề-đốc Nguyễn-thành-Châu (lúc đó còn mang cấp HQ Ðại-tá) Tư-lệnh Hạm-đội đã trao nhiệm-vụ cho tôi thuyết-phục họ giữ máy lại để dùng vào việc huấn-luyện. Mãi đến khi HQ Ðại-tá Nguyễn-xuân-Sơn nhận chức Tư-lệnh Hạm-đội một thời-gian, tôi vẫn tiếp-tục liên-lạc với toán cố-vấn, và sau cùng họ mới bằng lòng giữ máy lại với tính-cách để huấn-luyện. Thực ra một khu-trục-hạm mà thiếu máy thám-xuất tiềm-thủy-đĩnh thì khả-năng tuần-thám và tấn-công sẽ giảm đi nhiều.
Diễn-tiến trận hải-chiến ngày 19 tháng giêng năm 1974
Ðúng 6:00 sáng ngày 19, trời vừa mờ sáng, Phân-đoàn I đã có mặt tại tây-nam đảo Quang-Hòa, thủy-triều lớn, tầm quan-sát trong vòng 1.50 đến non 2.00 hải-lý, trời có ít mây thấp nhưng không mưa, gió đông-bắc thổi nhẹ, biển tương-đối êm tuy có sóng ngầm. Phân-đoàn I tiến sát đảo khoảng hơn 1 hải-lý, Tuần dương-hạm HQ5 nằm gần bờ hơn một chút để thuận-tiện đổ-bộ hải-kích. Hai chiếc Kronstad 271 và 274 bị bất ngờ rõ-rệt nên thấy họ đã vận-chuyển lúng-túng và không thực-hiện được hành-động ngăn-cản như họ đã từng làm vào chiền hôm trước. Tôi cũng bị bất-ngờ là hai chiếc chủ-lực địch lại có mặt cùng một nơi để sẵng-sàng đối đầu mà tôi không phải tìm-kiếm họ, như tôi đã coi họ như là muc-tiêu chính. Họ đã phải luồn ra khỏi khu lòng chảo vào ban đêm, nhưng không hiểu là họ có theo dõi được đuờng tiến-quân của Phân-đoàn I hay không. Vào giờ này thì họ đã phải biết rõ là Tuần-dương-hạm HQ5 là chiến-hạm chỉ-huy của ta và cũng đã phải biết được hỏa-lực của chiếc khu-trục-hạm.
Biệt-đội hải-kích do HQ Ðại-úy Nguyễn-minh-Cảnh chỉ-huy đã được tôi chỉ-thị là không được nổ súng và lên bờ yên-cầu toán quân của họ rời đảo. Trong biệt-đội này có một chiến-sĩ hải-kích Ðỗ-văn-Long và luôn cả HQ Ðại-Úy Nguyễn-minh-Cảnh là những chiến-sĩ đã tham-dự cuộc hành-quân đầu-tiên Trần-hưng-Ðạo 22 (nếu tôi không lầm) cũng do tôi chỉ-huy để xây-cất doanh-trại và đặt quân trú-phòng đầu-tiên trên đảo Nam-Yết thuộc quần-đảo Trường-Sa vào cuối mùa hè năm 1973.
Một lần nữa, khi biệt-đội hải-kích xuồng xuồng cao-su, tôi đích-thân ra cầu thang căn-dặn và nhấn mạnh về việc đổ-bộ mà không được nổ súng, và khi bắt liên-lạc được với họ thì yêu-cầu họ rời khỏi đảo.
Tôi không chắc là cuộc đổ-bộ sẽ thành-công vì quân Trung-cộng trên đảo đã phải tổ-chức bố-phòng cẩn-mật tiếp theo sự thất-bại của họ trên các đảo khác đã nói ở trên, trong khi đó biệt-đội hải-kích lại không có được hỏa-lực chuẩn-bị bãi đổ-bộ. Một lần nữa tôi lại chỉ-thị cho các hạm-trưởng chuẩn-bị để chiến-đấu. Nếu cuộc đổ-bộ thất-bại thì với hỏa-lực của 2 khẩu 76 ly tự-động trên Khu-trục-hạm HQ4, một chiến-hạm chủ-lực của Hải-đoàn đăc-nhiệm, sẽ có đủ khả-năng loại ít nhất là hai chiến-hạm chủ-lực Trung-cộng ra khỏi vòng chiến không mấy khó-khăn, còn quân-bộ của Trung-cộng trên-đảo thì tôi tin chỉ là một mục-tiêu thanh-toán sau cùng. Tôi còn có ý-định là sẽ điều-động chiếc khu-trục-hạm vượt vùng hơi cạn trực-chỉ hướng bắc vào thẳng vùng lòng chảo để tăng-cường cho Phân-đoàn II nếu cần sau khi đã loại xong 2 chiếc Kronstad mà tôi luôn-luôn cho là mục-tiên chính. Tôi rất vững lòng vào hỏa-lực của chiến-hạm chủ-lực vì tôi đã được tường-trình đầy-đủ về khả-năng của hải-pháo 76 ly tự-động khi Khu-trục-hạm này yểm-trợ hải-pháo tại vùng Sa-hùynh trong nhiệm-kỳ hạm-trưởng của HQ Trung-Tá Nguyễn-quang-Tộ.
Biệt-đội hải-kích tiến vào đảo bằng 2 xuồng cao-su, từ chiến-hạm ta, việc quan-sát sự bố-phòng của Trung-cộng trên đảo không được rõ ràng. Các chiến-hạm Trung-cộng cũng không có phản-ứng gì đối với xuồng của hải-kích. Theo báo-cáo của Biệt-đội-trưởng hải-kích thì chiến-sĩ hải-kích Ðỗ-văn-Long là người đầu-tiên tiến vào đảo và vừa nổ súng vừa tiến vào trong nên đã bị hỏa-lực trong bờ bắn tử-thương ngay tại bãi-biển. HQ Trung-Úy Lê-văn-Ðơn (xuất-thân từ bộ-binh) tiến vào để thâu-hồi tử-thi của liệt-sĩ Long cũng lại bị tử-thương ngay gần xuồng nên tử-thi vị sĩ-quan này được thâu-hồi ngay. Việc thất-bại đổ-bộ được báo-cáo ngay về Bộ-Tư-lệnh HQ vùng I duyên-hải và chừng ít phút sau đó (vào khoảng 09:30 sáng) thì đích thân Tư-lệnh HQ VNCH hay Tư-lệnh Vùng I duyên-hải ra lệnh vắn-tắt có hai chữ: "khai-hỏa" bằng bạch-văn cho Hải-đoàn đặc-nhiệm và không có chi-tiết gì khác hơn. Tôi nhận biết được khẩu-lệnh trên băng siêu-tần-số SSB (single side band) không phải là của nhân-viên vô-tuyến mà phải là của cấp Ðô-đốc, nhưng từ đó đến nay tôi vẫn tin rằng là của Tư-lệnh Hải-quân mà tôi đã quen-thuộc giọng nói, nên tôi đã không kiểm-chứng thêm về sau. Tôi trở nên yên-tâm hơn vì khẩu-lệnh khai hỏa đã giải-tỏa trách-nhiệm của tôi ghi trong phần quan-niệm của lệnh hành-quân là tái-chiếm một cách hòa-bình. Tôi đích-thân vào máy siêu-tần-số trình ngay là chưa có thể khai-hỏa được vì phải chờ triệt-thối Biệt-đội hải-kích về chiến-hạm, họ còn trên mặt biển và ở vào vị-thế rất nguy-hiểm. Riêng tử-thi của liệt-sĩ hải-kích Ðỗ-văn-Long tôi lệnh không cho vào lấy vì có thể gây thêm thương-vong. Tôi tin rằng tử-thi của Liệt-sĩ Long sẽ không khó-khăn để thâu-hồi khi toán quân-bộ Trung-cộng được tiêu-diệt sau đợt các chiến-hạm của họ bị loại hoàn-toàn khỏi vòng chiến.
Vào khoảng gần 10:00 giờ sáng, biệt-đội hải-kích được hoàn-tất thu-hồi về Tuần-dương-hạm HQ5 với HQ Trung-Úy Lê-văn-Ðơn tử-thương. Trong khi đó thì tôi chỉ-thị cho các chiến-hạm chuẩn-bị tấn-công, mỗi chiến-hạm tấn-công một chiến-hạm địch, và bám sát địch trong tầm hải-pháo 40 ly (khoảng 3 cây-số), vì loại hải-pháo này có nhịp tác-xạ cao, dễ điều-chỉnh và xoay hướng nhanh hơn. Tôi không tin-tưởng nhiều vào hải-pháo 127 ly và khả-năng điều-khiển chính-xác của nhân-viên vì hải-pháo chỉ có thể tác-xạ từng phát một, nạp đạn nặng-nề và chậm xoay hướng nên tốt hơn là trực-xạ.
Tất cả các chiến-hạm phải cùng khai-hỏa một lúc theo lệnh khai-hỏa của tôi để tạo sự bất ngờ và sẽ gây thiệt-hại trước cho các chiến-hạm Trung-cộng. Vì tầm quan-sát còn rất hạn-chế, nên từ Tuần-dương-hạm HQ5 không quan-sát được Tuần-dương-hạm HQ16 và Hộ-tống-hạm HQ10 cũng như hai chiến-hạm khác và hai ngư-thuyền ngụy-trang của Trung-cộng nên tôi không rõ các chiến-hạm này bám-sát các chiến-hạm Trung-cộng được bao nhiêu, nhưng tôi đã tin rằng Phân-đoàn II không có bận tâm về việc đổ-bộ nên có nhiều thì-giờ hơn để thi-hành kế-hoạch tấn-công và sẽ dễ-dàng chế-ngự được hai chiến-hạm phụ của địch cùng hai ngư-thuyền. Riêng Tuần-dương-hạm HQ5 và Khu-trục-hạm HQ4 đã nghiêm-chỉnh thi-hành lệnh. Trước khi ban-hành lệnh khai-hỏa tôi lần nữa hỏi các chiến-hạm đã sẵn-sàng chưa và nhấn-mạnh một lần nữa là phải khai-hỏa đồng-loạt để đạt yếu-tố bất-ngờ. Các hạm-trưởng đích-thân trên máy VRC46 lần-lượt báo-cáo sẵn-sàng. Tôi rất phấn-khởi vì giờ tấn-công hoàn-toàn do tôi tự-do quyết-định, không phải lệ-thuộc vào lệnh của thượng-cấp và vào ý-đồ chiến-thuật của địch. Ðịch lúc này đã tỏ ra không có một ý-định gì cản-trở hay tấn-công chiến-hạm ta.
Hải-quân Ðại-Tá Ðỗ-Kiểm, Tham-mưu-phó hành-quân tại Bộ-Tư-lệnh Hải-quân còn đặc-biệt cho tôi hay là có chiến-hạm bạn ở gần, nhưng với sự hiểu-biết của tôi, tôi không có một chút tin-tưởng gì vào đồng-mình này vì kể từ tháng 2 năm 1972 khi Hoa-Kỳ và Trung-cộng đã chấm-dứt sự thù-nghịch nên Hải-quân của họ sẽ không một lý do gì lại tham-dự vào việc hỗ-trợ Hải-quân Việt-Nam trong vụ tranh-chấp về lãnh-thổ. Họa chăng họ có thể cứu-vớt những người sống-sót nếu các chiến-hạm HQVN lâm-nạn. Nhưng thực-tế cho thấy trong suốt cuộc tìm-kiếm những nhân-viên từ Hộ-tống-hạm HQ10 và các toán đã đổ-bộ lên trấn giữ các đảo đã đào-thoát để trở về đất liền, chúng ta không nhận thấy một hành-động nhân-đạo nào từ phía đồng-minh kể cả của phi-cơ không-tuần.
Khoảng 10:24 sáng thì lệnh khai-hỏa tấn-công được ban-hành và tôi vào trung-tâm chiến-báo trực-tiếp báo cáo bằng máy siêu-tần-số SSB, tôi đã cố ý giữ ống nói sau khi tôi chấm-dứt báo-cáo để tiếng nổ của hải-pháo cũng được truyền đi trên hệ-thống này. Cuộc khai-hỏa tấn-công đã đạt được yếu-tố bất ngờ cho các chiến-hạm địch vì tôi cho rằng họ vẫn tin là các hành-động của chiến-hạm cũng tương-tự như trong những vài ngày trước, khi Hải-quân Việt-Nam đổ-quân trên các đảo Cam-tuyền, Vĩnh-lạc và Duy-mộng và nhất là cuộc phô-diễn lực-lượng của hải-đoàn đặc-nhiệm ngày hôm trước Hải-quân Việt-Nam đã không có một hành-dộng khiêu-khích nào, mà còn chấp-thuận giữ liên-lạc bằng quang-hiệu.
Chiếc Kronstad 271 nằm về hướng tây gần đảo Quang-Hòa, hướng mũi về phía tây là mục-tiêu của Tuần-dương-hạm HQ5 đang hướng mũi vào bờ tức là phía đông, đặt mục-tiêu về phía tả-hạm (tức là phía bắc). Chiếc này bị trúng đạn ngay từ phút đầu, vận-chuyển rất chậm-chạp nên đã là mục-tiêu rất tốt cho Tuần-dương-hạm HQ5. Hỏa-lực của chiếc Kronstad 271 này không gây nhiều thiệt-hại cho Tuần-dương-hạm HQ5, nhưng có thể đã gây thiệt-hại nặng cho Hộ-tống-hạm HQ10 nằm về phía bắc. Khu-trục-hạm HQ4 nằm về phía tây-nam của Tuần-dương-hạm HQ5 đặt mục-tiêu là chiếc Kronstad 274 nằm về phía bắc tức là tả-hạm của chiến-hạm. Nhưng chẳng may, HQ4 báo cáo bị trở-ngại tác-xạ ngay từ phút đầu-tiên và phải chờ sửa-chữa. Việc này đã làm đảo lộn các dự-tính của tôi và làm tôi bối-rối. Sau vài phút thì chiến-hạm này xin bắn thử và kết-quả là vẫn bị trở-ngại và cần tiếp-tục sửa chữa thêm, nhưng tôi vẫn còn chút hy-vọng. Khu-trục-hạm HQ4 vài phút sau lại xin tác-xạ thử lần thứ ba nhưng vẫn không có kết-quả, tuy-nhiên chiến-hạm này vẫn phải tiếp-tục bám-sát mục-tiêu của mình trong tầm các loại đại-liên nên đã bị thiệt-hại nhiều bởi hỏa-lực của chiếc Kronstad 274, và đại-liên đã không áp-đảo được hỏa-lực của địch.
Trên Tuần-dương-hạm HQ5, tôi xử-dụng chiếc máy PRC 25 trước ghế hạm-trưởng bên hữu-hạm của đài chỉ-huy để liên-lạc với các chiến-hạm, tôi vừa rời ghế để ra ngoài quan-sát hai phía thì một trái đạn loại nổ mạnh gây một lỗ lủng khoảng nửa thước đường kính và làm nát máy PRC25, nên từ phút này trở đi tôi phải vào tận Trung-tâm chiến-báo để dùng máy VRC46. Hạm-trưởng Tuần-dương-hạm HQ5 đứng cạnh đài chỉ-huy bên tả-hạm với sĩ-quan hải-pháo để dễ quan-sát mục-tiêu được chỉ-định, nên tôi thường nói trực-tiếp với hạm-trưởng tại nơi này. Trung-tâm chiến-báo của chiến-hạm này chỉ quen-thuộc dùng radar vào việc hải-hành, vả lại trời mù, mây thấp, radar có nhiều nhiễu-xạ nên tôi không được rõ về vị-trí của Phân-đoàn II và các chiến-hạm của địch còn nằm trong khu lòng-chảo Hoàng-Sa.
Sau chừng 15 phút thì Tuần-dương-hạm HQ16 báo-cáo là bị trúng-đạn hầm máy, tầu bị nghiêng nên khả-năng vận-chuyển giảm-sút, buộc phải lui ra ngoài vòng chiến để sửa-chữa và cũng không còn liên-lạc được với Hộ-tống-hạm HQ10, không biết rõ tình-trạng và chỉ thấy nhân-viên đang đào-thoát. Tôi nhận thấy một tuần-dương-hạm đã vận-chuyển nặng-nề mà chỉ còn một máy và bị nghiêng, nếu tiếp-tục chiến-đấu thì sẽ là một mục-tiêu tốt cho địch, nên tôi đã không ra phản-lệnh. Khu-trục-hạm HQ4 đã bị thiệt-hại nhiều sau khi phải bám-sát chiến-hạm địch trong tầm đại-liên, nên tôi ra lệnh cho Khu-trục-hạm HQ4 phải rút ra khỏi vòng-chiến ngay và chỉ-thị cho Tuần-dương-hạm HQ5 yểm-trợ cho chiếc này khi tiến ra xa, vì tất-nhiên Hải-đội đặc-nhiệm không thể để bị thiệt-hại một khu-trục-hạm mà Hải-Quân VNCH chỉ có tổng-cộng 2 chiếc mà thôi.
Khi khu-trục-hạm HQ4 ra khỏi vùng chiến, lại không bị chiếc Kronstad 274 truy-kích hoặc tác-xạ đuổi theo, ngược lại chiếc này của địch có phần rảnh tay hơn để tấn-công Tuần-dương-hạm HQ5 vào phía hữu-hạm hầu giảm-bớt hỏa-lực của chiến-hạm ta như để cứu vãn chiếc 271 đang bị tê-liệt. Vào giờ này thì tin-tức từ Bộ-Tư-lệnh Hải-quân tại Sàigòn do chính Tham-mưu-phó hành-quân cho hay là một phi-đội khu-trục-cơ F5 đã cất-cánh để yểm-trợ cho Hải-đoàn đặc-nhiệm. Do sự liên-lạc từ trước với Bộ-Tư-lệnh Sư-đoàn I Không-quân tại Ðà-nẵng, tôi hiểu là phi-cơ F5 chỉ có thể yểm-trợ trong vòng 5 tới 15 phút mà thôi vì khoảng-cách từ Ðà-nẵng tới Hoàng-Sa quá xa so với nhiên-liệu dự-trữ. Tôi vẫn tin rằng loan tin việc phi-cơ cất-cánh, Bô-Tư-lệnh Hải-quân đã cho rằng tin này có thể làm cho tôi vững-tâm chiến-đấu. Một điều nữa là từ trước tới giờ phút đó tôi chưa được thấy có cuộc thao-dượt hỗn-hợp nào giữa Không-quân và Hải-quân nên tôi rất lo-âu về sự nhận-dạng của phi-công để phân-biệt giũa chiến-hạm của Hải-quân Việt-Nam và chiến-hạm Trung-cộng, nhất là lúc có mây mù thấp, nên phi-cơ có thể gây tác-xạ nhầm mục-tiêu. Máy VRC 46 trong Trung-tâm chiến-báo phải chuyển sang tần-số không-hải và đích thân tôi dùng danh-hiệu để bắt liên-lạc với phi-cơ. Một viên đạn xuyên-nổ trúng ngay Trung-tâm chiến-báo từ hữu-hạm, sát gần ngay nơi tôi đứng, làm trung-tâm bị phát-hỏa. Các nhân-viên trong trung-tâm còn mải núp sau bàn hải-đồ thì tôi nhanh tay với một bình cứu-hỏa gần chỗ tôi đứng dập tắt ngay ngọn lửa. Tôi bị té ngã vì vấp chân vào bàn hải-đồ, bàn chân trái bị đau mất vài ngày. Tôi vẫn vẫn tiếp-tục liên-lạc với phi-cơ nhưng sau chừng 5 tới 10 phút vẫn không thấy đáp-ứng nên tôi phải ngưng và chuyển tần-số về liên-lạc với các chiến-hạm khác vì cuộc giao-tranh đã đến độ khốc-liệt hơn. Sau phút này thì Tuần-dương-hạm HQ5 bị trúng nhiều đạn làm sĩ-quan trưởng-khẩu 127 ly tử-thương và hải-pháo bị bất-khiển-dụng vì phần điện điều-khiển pháo-tháp tê-liệt, và máy siêu-tần-sớ SSB không còn liên-lạc được vì giây trời bị sập rớt xuống sàn tầu, hiệu-kỳ hải-dội bị rách nát phần đuôi. Tôi ra ngoài quan-sát phía tả-hạm và được nghe báo cáo là hầm-đạm phát-hỏa. Tôi nói ngay với hạm-trưởng là cằn phải làm ngập hầm-đạn. Khẩu hải-pháo 40 ly đơn tả-hạm bị bất khiển-dụng vì bị trúng đạn vào khối nạp-đạn và khẩu 40 ly hữu-hạm bị hư-hại nhẹ. Tôi yêu-cầu hạm-trưởng là chỉ nên cho tác-xạ từng viên mà thôi, vì nhu-cầu phòng-không rất có thể xẩy ra trong một thời-gian ngắn.
Bất thần về phía đông vào khoảng 11:25 sáng cách xa chừng 8 đến 10 hải-lý, xuất hiện một chiến-hạm của Trung-cộng loại có trang bị mỗi bên một dàn phóng kép hỏa-tiễn loại hải-hải (Ghi chú của Trần Ðỗ Cẩm: đây là loại khinh tốc đĩnh Komar) đang tiến vào vùng giao-tranh với một tốc-độ cao, quan-sát được bằng mắt viễn-kính và không một chiến-hạm nào báo-cáo khám-phá được bằng radar từ xa. Tôi dự-đoán loại chiến-hạm này ít khi được điều-động từng chiếc một, và tin là có thể thêm ít nhất một chiếc theo sau. Với tình-trạng của Hải-đội đăc-nhiệm: một hộ-tống-hạm bị loại khỏi vòng-chiến; một tuần-dương-hạm bị thương nơi hầm máy; một khu-trục-hạm và một tuần-dương-hạm chỉ còn hỏa-lực rất hạn-chế; cộng với nguy-cơ bị tấn-công bằng cả hỏa-tiễn hải-hải cũng như bằng phi-cơ rất có thể xẩy ra, nên tôi triệt-thoái phần còn lại của lực-lượng là Khu-trục-hạm HQ4 và Tuần-dương-hạm HQ5 ra khỏi vùng Hoàng-Sa tiến hướng đông-nam về phía Subic Bay (Hải-quân công-xưởng của Hoa-Kỳ tại Phi-luật-tân). Tôi cũng cầu-nguyện Ðức Thánh Trần, Thánh-Tổ của Hải-quân VNCH ban cho tôi một trận mưa để giảm tầm quan-sát và khả-năng tấn-công của phi-cơ địch. Sau khi hai chiến-hạm còn lại rút ra khỏi vùng giao-tranh chừng 10 phút thì một trận mưa nhẹ đã đổ xuống toàn vùng quần-đảo Hoàng-Sa. Các chiến-hạm ta đã không bị truy-kích và phi-cơ địch cũng chưa xuất-hiện. Mục-đích tôi hướng về phía đông-nam là để tránh bị phục-kích của tiềm-thủy-đĩnh Trung-cộng tại hải-trình Hoàng-Sa Ðà-nẵng, và khi ra ngoài xa lãnh-hải thì nếu còn bị tấn-công bằng phi-cơ hoặc tiềm-thủy-đĩnh thì may ra đồng-minh Hải-quân Hoa-Kỳ có thể cấp-cứu chúng tôi dễ-dàng hơn theo tinh-thần cấp-cứu hàng-hải quốc-tế. Nếu chúng tôi không còn bị tấn-công thì việc đến Subic Bay Phi-luật-tân để xin sửa-chữa trước khi hồi-hương là một điều khả-dĩ được thượng-cấp chấp-thuận.
Tuần-dương-hạm HQ5 phải mất gần một giờ mới kéo lên được giây trời khẩn-cấp để tái-lập sự liên-lạc bằng máy siêu-tần-số SSB. Hầm đạn phía mũi của chiến-hạm đã bị làm ngập, mũi bị chúc xuống nên tốc-độ có bị thuyên-giảm. Chính trong thời-gian mất liên-lạc, Bộ Tư-lệnh tại Sàigòn cũng như tại Ðà-nẵng rất bối-rối cho sự an-toàn của hai chiến-hạm và bản-thân tôi. Chính Tư-lệnh Hạm-đội tại Sàigòn cũng đã đưa tin mất liên-lạc đến với gia-đình tôi.
Vào khoảng 01:00 trưa, hai chiến-hạm HQ4 và HQ5 đã cách Hoàng-Sa chừng 10 hải-lý, trời nắng và quang-đãng. Tư-lệnh Hải-quân đích thân ra lệnh cho cả hai chiến-hạm phải trở lại Hoàng-Sa và đánh chìm nếu cần, tôi nhận được giọng nói của Ðô-đốc. Lệnh đã được thi-hành nghiêm-chỉnh ngay tức khắc. Sau khi liên-lạc vô-tuyến siêu-tần-số được điều-hòa trở-lại thì mọi báo-cáo chi-tiết về tổn-thất và tình-trạng lúc bấy giờ của các hai chiến-hạm được chuyển đầy-đủ. Trên Tuần-dương-hạm HQ5 tôi cũng được thông-báo về Tuần-dương-hạm HQ16 sẽ được Tuần-dương-hạm HQ6 tới hộ-tống về Căn-cứ Hải-quân Ðà-nẵng.
Ðến khoảng 02:30 chiều, khi cả hai chiến-hạm đang trở về Hoàng-Sa, quá ngang Hòn Tri-Tôn, nghĩa là còn cách đảo Hoàng-Sa chừng 1 giờ rưỡi hải-hành nữa, thì hai chiến-hạm được phản-lệnh trở về Ðà-nẵng. Lúc này trời đã nắng, mây cao nên rất dễ-dàng cho việc hải-hành. Trong một cuộc đến thăm Tư-lệnh Hải-quân VNCH tại tư-dinh vào khoảng tháng 2 năm 1974, thì vị Ðô-Ðốc này đã tiết-lộ rằng nếu biết được sớm tình-trạng của Hải-đoàn đặc-nhiệm thì Tư-lệnh đã cho lệnh trở về căn-cứ trước sớm hơn. Trên đường về, tôi vẫn ra lệnh cho các chiến-hạm giữ nguyên nhiệm-sở tác-chiến và nhất nhất các nhân viên không ở trong nhiệm-sở phòng máy phải túc-trực trên boong để tránh tổn-thất về nhân-mạng trong trường-hợp bị tiềm-thủy-đĩnh Trung-cộng phục-kích bằng ngư-lôi. Nhưng may-mắn là điều tôi dự-liệu đã không xẩy ra. Các chiến-hạm đã khởi-sự ngay thu-dọn các tổn-thất về vật-liệu và thu-hồi các dư-liệu tác-xạ.
Tôi tò-mò mở đài phát-thanh BBC vào sáng sớm ngày 20, thì họ chỉ vỏn-vẹn loan tin một trận hải-chiến đã xẩy ra trong vùng quần-đảo Hoàng-Sa giữa Hải-quân Việt-Nam Cộng-Hòa và Cộng-Hòa Nhân-dân Trung-Hoa, mỗi bên thiệt-hại 1 chiến-hạm và không thêm một chi-tiết nào khác. Tôi tỏ ra khâm-phục đài nay về sự loan-tin nhanh chóng và xác đáng.
Tôi đã không hút thuốc từ nhiều tháng qua, nhưng tôi muốn hút một vài điếu thuốc cho tinh-thần bớt căng-thẳng sau gần 48 tiếng đồng-hồ liên-tục không được nghỉ-ngơi, tôi yêu cầu Hạm-trưởng dùng hệ-thống liên-hợp để loan-báo xem có nhân-viên nào còn thuốc lá cho tôi xin một ít để hút. Tôi không ngờ là các nhân-viên tuần-tự mang đến cho tôi hơn 2 chục bao cả loại trong khẩu-phần C của đồng-minh và các loại thuốc trong thương-trường lúc bấy giờ, tôi lấy làm cảm-động về sự ưu-ái của các nhân-viên trên chiến-hạm này. Vào khoảng 2 giờ đêm tôi soạn-thoản một sơ-đồ hành-quân và các chi-tiết về tổn-thất để chuẩn-bị thuyết-trình khi về tới căn-cứ.
Khoảng 7:00 sáng ngày 20 tháng giêng thì hai chiến-hạm của Phân-đoàn I về tới căn-cứ an-toàn. Tuần-dương-hạm HQ16 cũng đã về bến trước đó ít lâu. Một điều mà các nhân-viên của các chiến-hạm và riêng tôi rất cảm-động là trên cầu Thương-cảng Ðà-nẵng là nơi đã được chỉ-định cho các chiến-hạm cặp bến, đã có sự hiện-diện của các vị Ðô-Ðốc Tư-lệnh và Tư-lệnh-phó HQ VNCH, Ðô-Ðốc Tư-lệnh HQ Vùng I Duyên-hải, một số đông sĩ-quan cùng nhân-viên của các đơn-vị HQ vùng Ðà-nẵng cùng các trại gia-binh đã túc-trực đón đoàn chiến-hạm trở về với rừng biểu-ngữ :
"Hải-quânViệt-Nam quyết-tâm bảo-vệ lãnh-thổ đến giọt máu cuối cùng".
"Một ý-chí : chống cộng.Một lời thề : bảo-vệ quê-hương".
"Hoan-hô tinh-thần chiến-đấu anh-dũng của các chiến-sĩ Hải-quân tham-dự Hải-chiến Hoàng-Sa".
"Hoan-hô tinh-thần bất-khuất của các chiến-sĩ Hải-chiến Hoàng-Sa".
Sau khi di-tản các chiến-sĩ thương-vong và tử-vong lên căn-cứ thí chỉ có 3 vị Ðô-Ðốc cùng HQ Ðại-tá Nguyễn-viết-Tân Chỉ-Huy-Trưởng Sở Phòng-vệ Duyên-hải lên Tuần-dương-hạm HQ5 và vào phòng-khách của Hạm-trưởng để dự cuộc thuyết-trình về trận đánh. Ba vị Hạm-trưởng đều có mặt để trình bầy chi-tiết về chiến-hạm của mình. Các vị Ðô-đốc cũng không hỏi thêm tôi về những yếu-tố đã đưa đến những quyết-định chiến-thuật của tôi, nhất là quyết-định triệt-thoái phần còn lại của Hải-đoàn đặc-nhiệm ra khỏi vùng Hoàng-Sa. Sau phần thuyết-trình các vị Ðô-Ðốc đã đi quan-sát sự thiệt-hại của các chiến-hạm và úy-lạo nhân-viên các cấp. Tôi cũng được nghe Ðô-đốc Tư-lệnh-phó đề-nghị với Tư-lệnh HQ là sẽ không có thuyết-trình cho Tư-lệnh Quân-đoàn I.
Sau chừng một giờ thì Trung-tướng Tư-lệnh Quăn-đoàn I/Quân-Khu I cũng tới thăm-viếng và được hướng-dẫn quan-sát một vòng các chiến-hạm để nhận-định sự thiệt-hại....
______________________________________________
Những người lính của quân đội Việt Nam cộng hòa đã hy sinh trong trận giao chiến với Hải quân Trung Quốc 1/1974
Kết-quả của trận-hải-chiến
Một cách tổng-quát thì sự thiệt hại của hai đối-thủ được kể như tương-đương trong trận hải-chiến. Mỗi bên bị tổn-thất một chiến-hạm, như đài BBC loan tin vào sáng sớm ngày 20 tháng giêng, phía VNCH là Hộ-tống-hạm HQ10, phía Trung-cộng là chiếc Kronstad 271(được coi là chiến-hạm chỉ-huy) còn một số khác thì chịu một sự hư-hại trung-bình hoặc trên trung-bình. Hai chiếc nhỏ hơn 389 và 396 cùng hai ngư-thuyền ngụy-trang theo tôi ước-lượng chỉ hư-hỏng hơi nặng mà thôi vì tầm hỏa-lực của ta trội hơn. Riêng chiếc Kronstad 271 có thể bị tổn-thất nhiều nhân-viên hơn vì trúng nhiều hải-pháo của Tuần-dương-hạm HQ5 vào thương-tầng kiến-trúc, trong khi đó chiếc 274 thì tổn-thất được coi là nhẹ hơn cả vì chỉ bị tấn-công nhiều bằng đại-liên và ít hải-pháo về sau này. Tuy-nhiên trong các trận hải-chiến thì người ta thường kể về số chiến-hạm bị loại khỏi vòng chiến hơn là số thương-vong về nhân-mạng. Riêng trên Hộ-tống-ham HQ10, theo các nhân-viên đã đào-thoát về được đất liền, thì vị Hạm-trưởng và Hạm-phó đều bị thương-nặng, nhưng Hạm-trưởng đã từ-chối di-tản và quyết ở lại tuẫn-tiết cùng chiến-hạm của mình theo truyền-thống của một sĩ-quan hải-quân và một nhà hàng-hải. Hạm-phó được nhân-viên dìu đào-thoát được nhưng đã phải bỏ mình trên mặt biển vì vết thương quá nặng. Vụ này làm tôi nhớ lại, theo lời kể của các bậc tiên-sinh, thì khi hải-quân Pháp hành-quân trên sông (nếu không lầm thì là Sông Ðáy) một chiến-hạm loại trợ-chiến-hạm (LSSL) hay Giang-pháo-hạm (LSIL) đã bị trúng đạn đài-chỉ-huy, làm tử-thương cả hai hạm-trưởng và hạm-phó cùng một lúc, sĩ-quan cơ-khí đã phải lên thay thế tiếp-tục chỉ-huy. Sau kinh-nghiệm này, hải-quân Pháp không cho hạm-trưởng và hạm-phó có mặt cùng một nơi khi lâm-trận. Cá-nhân tôi lúc đó đã không có chút thì giờ để nhớ tới kinh-nghiệm mà các bậc tiên-sinh đã truyền lại tôi mà áp-dụng.
Một điều lạ là Trung-cộng có đủ khả-năng tuy khiêm-nhượng, vào lúc cuối trận-chiến, vì có thêm tăng-viện đến kịp thời, nhưng đã bỏ rơi cơ-hội truy-kích khi lực-lượng ta triệt-thoái, hay xử-dụng hỏa-tiễn hải-hải vì lực-lượng ta vẫn còn nằm trong tầm hữu-hiệu của loại vũ-khí này. Tôi cho rằng có thể họ đã bận-tâm vào việc cứu vãn chiếc Kronstad 271 và quân bộ trên đảo Quang-Hòa, hoặc họ đã không nhận được lệnh tấn-công, và chỉ đương-nhiên chống-trả tự-vệ mà thôi. Tôi nhận rằng ước-tính của tôi về phản-ứng của địch đã cao hơn như thực-tế đã xẩy ra. Việc Hải-quân Viêt-Nam khai-hỏa tấn-công sau khi thất-bại đổ-bộ đã tạo cho Trung-cộng có nguyên-cớ vì bị tấn-công mà phải hành-động, nên đã dùng cường-lực cưỡng-chiếm các đảo vào ngày sau.
Theo các quân-nhân trú-phòng trên đảo Hoàng-Sa thì sáng sớm ngày hôm sau tức là ngày 20 tháng giêng, Trung-cộng đã huy-động một lưc-lượng hùng-hậu kết -hợp hải-lục-không-quân đổ-bộ tấn-chiếm đảo Hoàng-Sa và các đảo kế-cận mà các chiến-binh hải-quân đang chiếm-giữ. Theo ký-giả Lê-Vinh, một cựu sĩ-quan hải-quân, đã từng đảm-trách chức-vụ thư-ký cũa ủy-ban nghiên-cứu trận hải-chiến cho biết, thì vào thời-gian trận hải-chiến, Hải-quân Hoa-Kỳ đã chuyển cho Hải-quân Việt-Nam một tin-tức về 42 chiến-hạm Trung-cộng với 2 tiềm-thủy-đĩnh đang tiến xuống Hoàng-Sa. Dù nhiều hay ít thì lực-lượng của họ sễ trội hẳn lực-lượng Hải-quân Việt-Nam có thể điều-động tới. Nếu hai chiến-hạm còn lại của Hải-đoàn đặc-nhiệm phải lưu-lại Hoàng-Sa như lệnh ban ra lúc đầu, với khả-năng chiến-đấu đã bị giảm-sút nhiều thì sự bảo-tồn của hai chiến-hạm này rất mong-manh. Thế cho nên phản-lệnh cho hai chiến-hạm phải trở về căn-cứ được kể như là đúng lúc và sát với thực-tế hơn.
Trung-cộng đã bắt giữ tất cả quân-nhân và dân-chính Việt-Nam trên đảo Hoàng-Sa và toán hải-quân đổ-bộ thuộc Khu-trục-hạm HQ4 trên đảo Vĩnh-Lạc (sát phía nam đảo Hoàng-Sa) mà trưởng toán là HQ Trung-Uý Lê-văn-Dũng (sau được vinh-thăng HQ Ðại-Uý tại mặt-trận), làm tù-binh đưa về giam-giữ đầu tiên tại đảo Hải-nam. Riêng ông Kosh là nhân-viên của cơ-quan DAO Hoa-Kỳ tại Ðà-nẵng thì được trao trả cho Hoa-Kỳ sớm nhất tại Hồng-Kông. Còn các nhân-viên Việt đã bị họ nhồi-sọ về chủ-nghĩa của họ trong suốt thời-gian tại Quảng-Ðông, và trao trả về Việt-Nam tại ranh-giới HồngKông và Trung-cộng. Ðô-đốc Tư-lệnh-phó HQ đã được đề-cử đích-thân đến HồngKông tiếp-nhận. Các chiến-sĩ từ Trung-cộng hồi-hương đều được đưa vào Tổng-Y-viện Cộng-Hòa điều-trị về các bệnh-trạng gây ra do các hành-động ngược-đãi trong khi bị giam-cầm trên lục-địa Trung-Hoa.
Thế là cuối cùng thì Việt-Nam Cộng-Hòa đã mất nốt nhóm đảo Nguyệt-Thiềm phía nam của cả quần-đảo Hoàng-Sa cho tới ngày hôm nay.
Các chiến-sĩ Hải-quân đào-thoát từ Hoàng-Sa, sau nhiều ngày trôi-dạt trên mặt biển, một số đã được chính các tuần-duyên-đĩnh của Hải-quân cứu vớt, một số đã được các thương-thuyền trên hải-trình Singapore HồngKông bắt gặp. Tất cả các chiến-sĩ thoát-hiểm được đưa về diều-trị tại các Tổng-y-viện Duy-Tân (Ðà-nẵng) hay Cộng-Hòa, và còn được Thủ-tướng chính-phủ, các vị Tư-lệnh Quân-đoàn, và các vị Ðô-đốc Hải-quân đến thăm hỏi và úy-lạo.
Công-cuộc chuẩn-bị tái-chiếm Hoàng-Sa
Khi phần thăm-viếng của thượng-cấp kết-thúc, thì tất cả các chiến-hạm bắt tay ngay vào việc sửa-chữa và tái tiếp tế đan-dược đề chuẩn-bị tấn-kích tái-chiếm Hoàng-Sa. Một toán thợ thượng-thặng của Hải-quân công-xưởng cũng đã được điều-động từ Sàigòn ra để phụ-lực với chuyên-viên của Thủy-xưởng Ðà-nẵng. Riêng Tuần-dương-hạm HQ16, tuy không bị hư-hại nhiều trên thượng-tầng kiến-trúc, nhưng các chuyên-viên đã tháo-gỡ được đần viên đạn đã xuyên lủng hầm máy. Viên đạn này là một loại đạn xuyên-phá và không nổ 127 ly của Tuần-dương-hạm HQ5 bị lạc. Kinh-nghiệm cho thấy là loại đầu đạn không nổ nếu trúng nước thì đạn-đạo sẽ thay đổi rất nhiều vì đầu đạn nhọn bị nước làm chuyển hướng đi rất xa. Tin này do đích thân Tư-lệnh phó Hải-quân mang đến cho tôi. Ðó là một điều không may-mắn cho Hải-đoàn đặc-nhiệm Hoàng-Sa, nhưng trong bất cứ một cuộc chiến-tranh nào, sự nhầm-lẫn về mục-tiêu, về bạn và địch, về vị-trí tác-xạ đều đã xẩy ra ít nhất là tại chiến-trường Việt-Nam. Hơn nữa trong cuộc hải-chiến này, Tuần-dương-hạm HQ5 đã tác-xạ cả trăm đại-pháo 127 ly, mà chỉ có một viên bị lạc, nên vẫn còn là điều may-mắn. Việc chiến-hạm bị trúng 1 viên đạn của bạn cộng với việc hai khẩu hải-pháo 76 ly tự-động trên khu-trục-hạm HQ4 đã bị trở-ngại kỹ-thuật ngay từ phút đầu của cuộc chiến, là hai nhược-điểm chiến-thuật mà Hải-quân VNCH chỉ muốn phổ-biến hạn-chế vào đầu năm 1974 là thời điểm, mà nhiều sự phân-tích đáng tin cho rằng Tổng-Thống Nguyễn-văn-Thiệu đã lợi-dụng biến-cố Hoàng-Sa để tránh-né sự chỉ-trích của các phần-tử đối-lập lúc đó đang rất-mạnh.
Sau ít ngày sửa chữa, thì Tuần-dương-hạm HQ16 chỉ đủ khả-năng tự hải-hành về quân-cảng Sàigòn và được đón-tiếp trọng-thể. Khu-trục-hạm HQ4 không sửa chữa tại chỗ được hai khẩu 76 ly tư-động. Tuần-dương-hạm HQ5, sau khi tái tiếp-tế đạn và hàn vá các hư-hại đã cùng HQ6 ra khơi tìm-kiếm các nhân-viên đào-thoát khỏi vùng Hoàng-Sa. Các phi-cơ C130 đã bay lượn trong một vùng duyên-hải hạn-chế để tránh sự hiểu nhầm về hành-động khiêu-khích của Việt-Nam đối với Trung-cộng. Các phi-cơ hướng-dẫn các chiến-hạm xem xét các vật trôi trên mặt biển nhưng vẫn chưa cấp-cứu được nhân-viên nào ngoại trừ vỏ một thùng xăng dự-trữ . Tôi vẫn có mặt trên Tuần-dương-hạm HQ5 để tham-dự cuộc tìm-kiếm. Riêng hộ-tống-hạm HQ10, vì mất liên-lạc nên tôi đã không biết được tình-trạng cuối cùng của chiến-hạm, nhưng chúng tôi vẫn còn một hy-vọng tuy mong-manh là chiến-hạm này chưa chìm hẳn và có thể trôi dạt về phía duyên-hải miền Trung trong mùa gió đông-bắc.
Với Tuần-dương-hạm HQ6 đã có mặt trong vùng và vừa hoàn-tất hộ-tống Tuần-dương-hạm HQ16 từ nửa đường Hoàng-Sa Ðà-nẵng về bến, cộng với HQ17 (Hạm-trưởng HQ Trung-Tá Trần-đình-Trụ) điều-động từ Trường-Sa tới tăng-cường đã kết-hợp với Tuần-dương-hạm HQ5 thành một Hải-đoàn đặc-nhiệm mới với nhiệm-vụ chuẩn-bị tái-chiếm Hoàng-Sa. Mặc dầu nhiều sĩ-quan thâm-niên hơn tôi có mặt tại chỗ, nhưng tôi vẫn được chỉ-định tiếp-tục chỉ-huy. Một cuộc thao-dượt chiến-thuật và thực-tập tác-xạ đã diễn ra trong vòng một ngày tại vùng một đảo nhỏ nằm về phía bắc vùng Cù-lao Chàm phía đông-nam Ðà-nẵng. Sau cuộc thao-dượt, tôi trình bầy kết-quả việc huấn-luyện trong các buổi thuyết trình hành-quân tại Bộ-Tư-lệnh Hải-quân vùng, vẫn được Tư-lệnh-phó Hải-quân chủ-tọa.
Nhưng cuối cùng thì công-cuộc tái-chiếm Hoàng-Sa được hủy-bỏ. Tuy vẫn được tín-nhiệm để chỉ-huy, nhưng tôi tin rằng cuộc phản-kích tái-chiếm sẽ thất-bại ngoại trừ đó là một chiến-thuật thí-quân nằm trong một chiến-lược cao hơn. Với các tuần-dương-hạm cũ-kỹ (WHEC) xử-dụng trong lực-lượng phòng-vệ duyên-hải Hoa-Kỳ (US Coast guard) từ lâu, được trang-bị vào công-tác tuần-tiễu hơn là để chiến-đấu, vừa chạm-chạp và vận-chuyển nặng-nề, nên khó chống trả lại với các chiến-hạm chiến-đấu tối-tân hơn. Loại này chỉ có một hải-pháo 127 ly, còn 2 hải-pháo 40 ly đã được Hải-quân Việt-Nam đặt thêm vào lái tầu là nơi đã được dùng làm sàn đáp trực-thăng.
Trong thời-gian tại căn-cứ, Tư-lệnh-phó HQ ít nhất đã hai lần tập-hợp nhân-viên tất cả các chiến-hạm có mặt tại chỗ để chỉ-thị không được có hành-động kiêu-ngạo về chiến-tích của Hải-quân VNCH. Ðể làm gương cho tất cả nhân-viên thuộc quyền, tôi đã giữ một thái-độ rất khiêm-nhượng và im-lặng. Tôi chưa bao giờ thảo-luận hoặc trình bày chi-tiết với bất cứ một ai hay một tổ chức nào, về những yếu-tố đã đưa đến các quyết-định chiến-thuật của tôi trong trận đánh.
Tôi lưu-lại Vùng I duyên-hải chừng hơn một tuần-lễ, đã được cùng Phó Ðề Ðốc Tư-lệnh HQ vùng I Duyên-hải xuất-hiện trên đài chỉ-huy cũng của Tuần-dương-hạm HQ5 để thực-hiện một phóng-sự cho đài truyền-hình quân-đội. Sau đó tôi trở về nhiệm-sở chính tại Sàigòn. Tôi còn được đến phòng thâu-hình của quân-đội cùng các vị hạm-trưởng và một vài hạ-sĩ-quan trưởng pháo-khẩu để trình bầy các chiến-tích. Tuy nhiên tôi không đề-cập nhiều chi-tiết và nhường lời lại nhiều hơn cho các hạm-trưởng vì tôi nghĩ rằng các vị này đáng được đề-cao vì đã đích-thân huy-động tinh-thần nhân-viên và can-dảm trực-tiếp chiến-đấu. Ít lâu sau tôi phải theo học Khóa Chỉ-huy Tham-mưu đặc-biệt tại Long-Bình, đặc-biệt vì khóa gồm nhiều các sĩ-quan đang đảm-trách những vai-trò then-chốt của quân-lực và các đại-đơn-vị. Khi Phó-Ðề-đốc Phụ-tá hành-quân biển của Tư-lệnh-Hải-quân đến thuyết trình tại trường về tổ-chức của Hải-quân Việt-Nam, thì một câu hỏi đầu-tiên của khóa-sinh là về hải-chiến Hoàng-Sa. Ðô-đốc đã chuyển câu hỏi này cho tôi đang ngồi trong hội-trường, quả thật vị này đã trao cho tôi một trái banh khó đỡ. Tôi đáp lại câu hỏi vỏn-vẹn ngay là: Các quí-vị đã nghiên cứu về trận đánh Ấp-Bắc, thì trận hải-chiến Hoàng-Sa cũng gần tương-tự. Sau câu trả lời của tôi thì không một câu hỏi nào về trận Hoàng-Sa được nêu ra thêm. Xin ghi thêm vào nơi này, trận Ấp-Bắc đã làm cho quân-lực bị bất ngờ về chiến-thuật cửa địch, có sự sai lầm về ước-tính tình-báo và nhầm-lẫn về chiến-thuật điều-quân.
Vào những năm tháng cuối cùng của cuộc-chiến Việt-Nam tôi được biệt-phái giữ chức-vụ Phụ-Tá Hải-quân cho Trung-tướng Chỉ-Huy-trưởng Trường Chỉ-huy Tham-mưu Liên-quân đồn-trú tại Long-Bình
Phần sau trận hải-chiến
Sau trận hải-chiến, Hải-quân được nhiều vinh-danh nhờ trận-chiến đã nêu cao và nối-tiếp được tinh-thần chống bắc-xâm của dân-tộc. Trận hải-chiến được liên-tục ca-ngợi hàng ngày trên các phương-tiện truyền-thông của quân-đội cũng như ngoài dân-sự để thêm vào với: Bình-long anh-dũng, Kontom kiêu-hùng v.v....
Hoàng-Trường-Sa với Việt-Nam là một
Cũng nhờ trận hải-chiến mà phần đông nhân-dân Việt-Nam mới được biết đến phần lãnh-thổ nằm xa vời trong Biển-Ðông mà Hải-quân VNCH từ ngày thành-lập đã âm-thần bảo-vệ và tuần-tiễu.
Nói về trận hải-chiến, dù Hải-quân VNCH giả thử có thắng được trận ngày đầu, thì chúng ta khó lường được sự tổn-thất nếu Hải-quân còn ở lại để cố-thủ Hoàng-Sa. Phó Ðề-Ðốc Chủ-tịch Ủy-Ban nghiên-cứu về trận hải-chiến khi vị này đích thân thăm-viếng Khu-trục-hạm HQ4, khi đang nằm trong ụ lớn sửa chữa đã nói riêng với tôi: thế là vừa đủ, ý của vị này nói là không nên tiếp-tục chiến-đấu thêm ít nhất là vào thời-điểm đó Hải-quân còn phải đảm-nhận nhiều công-tác tiễu-trừ cộng-sản trong đất liền. Ðó là chưa kể việc tấn-chiếm phần còn lại của quần-đảo Hoàng-Sa có thể đã nằm trong các đường lối đi-đêm chiến-lược của các cường-quốc. Tôi nghĩ rằng nếu chiếc khu-trục-hạm HQ4 không bị trở-ngại kỹ-thuật và trận-chiến đã xẩy ra gần như tôi đã dự-liệu và mong-muốn, nghĩa là ta thắng trận đầu, thì cường-lực hải-lục-không quân của chúng huy-động ngày hôm sau không những đủ sức tràn ngập quân trú-phòng và lại còn đủ sức truy-kích Hải-quân VNCH trong một vùng rộng lớn hơn. Tôi đã tin-tưởng rằng Quân-đoàn I/Quân-khu I đã phải đặt trong tình-trạng báo-động đề-phòng sự tấn-công của Trung-cộng ngay sau khi trận hải-chiến diễn ra. Một phi-tuần chiến-đấu-cơ F5 của Sư-đoàn I Không-quân tại Ðà-nẵng đã sẵn-sàng trên phi-đạo nhưng không được lệnh cất cánh từ cấp cao để yểm-trợ cho Hải-quân vì có thể là e-ngại sẽ châm ngòi cho một cuộc chiến mới, hoặc chỉ hạn-chế trận-chiến tới mức có thể chấp-nhận được trong một thế chính-trị.
Một lần nữa, giả-dụ rằng ta cứ để Trung-cộng có mặt trên đảo Quang-Hòa, trận hải chiến đã không xẩy ra thì chúng ta vẫn có thể tiếp-tục hiện-diện trên đảo Hoàng-Sa, tuy nhiên có thể phải trải thêm quân trên các đảo Cam-Tuyền, Vĩnh-Lạc và Duy-Mộng, để tránh sự lấn-chiếm, cộng thêm là Hải-quân Việt-Nam phải thường-xuyên tuần-tiễu với một hải-đoàn tương-đối mạnh. Nhưng dần dà họ cũng sẽ lấn chiếm theo kế hoạch bành trướng thế lực của họ trong vùng Ðông Nam Á. Có thể Trung-cộng đã trả đũa hay dập theo khuôn-mẫu Việt-Nam Cộng-Hòa khi ta đã đặt quân trú-phòng trên đảo Nam-Yết và Sơn-Ca nằm phía nam và đông cùng trên một vòng-đai san-hô với đảo Thái-Bình, đã bị Trung-Hoa Dân-quốc (Ðài-Loan) chiếm-đóng từ khi Nhật-Bản thua trận đệ-nhị thế-chiến. Người Trung-Hoa dù là lục-địa hay hải-đảo, đã từng nhiều lần tuyên-bố là lãnh-thổ của họ, không những vùng này mà thôi mà cả toàn vùng Hoàng-Sa Trường-Sa. Phải thành-khẩn mà nhận rằng, khi Việt-Nam Cộng-Hòa đặt quân trú-phòng trên các đảo còn bỏ trống trong vùng Trường-Sa như Nam-Yết, Sơn-Ca, Song-Tử-đông, Song-Tử-tây, Trường-Sa v.v.., chúng ta đã không gặp một hành-động đối-kháng về quân-sự nào từ phía Trung-Hoa Dân-quốc hoặc Phi-Luạt-Tân hay Mã-Lai-Á.
Một suy-luận nữa là có thể trận hải-chiến là một cuộc điều-chỉnh sự nhường quyền chiếm-giữ từ một nhược-tiểu đến một cường-quốc theo một chiến-lược hoàn-cầu mà vài cường-quốc đã ngầm thỏa-thuận trước. Chúng ta có thể nhớ lại cuộc tấn-công hùng-hậu của Anh-quốc trong cuộc tranh-chấp đảo Falkland (Nam Mỹ-Châu) vào thập-niên 80, mà Á-căn-đình (Argentina) vẫn luôn coi như lãnh-thổ của họ. Họ đã chiến-đấu mạnh-mẽ trên mặt ngoại-giao và buộc phải chiến-đấu trên mặt quân-sự sau khi ngoại-giao thất-bại. Về mặt quân-sự, họ biết trước là khó chống lại Anh-quốc với lực-lượng khá dồi-dào, nhưng họ đã phải chiến-đấu trong khả-năng của họ, họ biết tự kiềm-chế cường-độ chiến-tranh để giảm-thiểu tổn-thất. Kết-quả là đảo Falkland đã về tay Anh-quốc. Tuy đảo Falkland rộng lớn hơn về diện-tích và nguồn-lợi cũng như dân-số, quân-lực hai đối-thủ đưa vào cuộc đụng-độ hùng-hậu hơn, mức-độ chiến-tranh nặng hơn, nhưng hai trận Falkland và Hoàng-Sa đã gần tương-tự nhau về tính-chất của một cuộc chiến.
Người Pháp, trong chiến-tranh tại Ðông-dương sau 1945, vì chiến-cuộc gia-tăng tại nội-địa, đã phải bỏ-ngỏ hoàn-toàn nhóm đảo Tuyên-đức phía bắc, và bỏ-ngỏ nhóm Nguyệt-thiềm phía nam trong vài năm. Riêng nhóm Tuyên-đức phía bắc đã do Trung-Hoa Dân-quốc cưỡng-chiếm trong ít lâu, nhưng sau đó họ đã phải rút về vì sự thất-trận củu họ trong lục-địa. Về sau, hiệp-định Balê 1954 lại đề ra khu phi-quân-sự dọc theo vĩ-tuyến 17, đã làm cho Việt-Nam Cộng-Hòa đã không thể tích-cực hiện-diện tại nhóm Tuyên-Ðức bắc đảo Hoàng-Sa thuộc nhóm Nguyệt-thiềm.
Xét về sự phòng-thủ, so sánh với đảo Thái-Bình trong vùng Trường-Sa thì thế bố-trí trên đảo Hoàng-Sa của VNCH đã thua kém rất xa, và không thể đủ sức để cố-thủ chống lại một cuộc cường-kích thủy-bộ. Trên đảo không có công-sự nặng, chỉ có khỏang một trung-đội địa-phương-quân với vũ-khí cá-nhân và một vài quan-sát viên khí-tượng. Trong khi đó Ðảo Thái-Bình, khi Nhật chiếm-đóng trong đệ-nhị thế-chiến, họ đã xây-cất nhiều công-sự nặng. Sau này khi Trung-Hoa dân-quốc (Ðài-Loan) chiếm-đóng, chắc-chắn họ đã tăng-cường mọi cơ-cấu phòng-thủ, lại có trang-bị các khẩu đại-pháo chống chiến-hạm, đưa quân-số trú-phòng có thể tới cấp hơn tiểu-đoàn và do một vị Ðại-tá Thủy-quân lục-chiến chỉ-huy.
Ngoài ra việc tuyên-bố chủ-quyền của Trung-cộng trên cả hai quần-đão Hoàng-Sa và Trường-Sa được nhận-xét chỉ diễn ra sau cuộc thăm-viếng Trung-cộng của Ngoại-trưởng Hoa-Kỳ Kissinger. Ít nhất là Hoa-Kỳ và Trung-cộng đã ngầm có nhiều thỏa-thuận về chiến-lược hay ít nhất cũng đồng-ý là Hoa-kỳ sẽ không can-thiệp vào các hành-động của Trung-cộng trong vùng. Ðối với Việt-Nam Cộng-Hòa, Hoa-Kỳ đã không muốn can-dự vào sự bảo-vệ lãnh-thổ. Trong ngày hải-chiến thì các đối-tác-viên tại Bộ-Tổng-Tham-mưu đã khẳng-định đó là công chuyện riêng của Việt-Nam .
Quan-niệm của Hoa-Kỳ trong việc mở-rộng lưc-lượng Hải-quân chỉ là vừa đủ để hành-quân yểm-trợ hỏa-lực và ngăn-chặn trong vùng sông-ngòi và duyên-hải mà thôi. Cộng-cuộc xây-cất một hệ-thống thám-báo liên-tục từ Bến-Hải đến Vịnh Thái-lan là một công-tác cao, cả về kỹ-thuật lẫn tài-chánh với mục-tiêu duy-nhất là kiểm-soát hữu-hiệu sự xâm-nhập lén-lút bằng đường-biển của cộng-sản Bắc-Việt vào vùng duyên-hải. Việc viện-trợ hai chiếc khu-trục-hạm, vì là loại tấn-công, nên sau 1973 họ đã nhiều lần đòi tháo gỡ máy dò tiềm-thủy-đĩnh như đã trình-bầy, làm như vậy là sẽ giảm khả-năng của loại này một nửa. Vũ-khí tấn-công trên mặt biển và trên không của khu-trục-hạm là hai dàn hải-pháo 76 ly tự-động với nhịp tác-xạ khỏang 60 viên một phút. Với hỏa-lực tấn-công mạnh-mẽ như vậy, Hải-quân Hoa-Kỳ, vào những năm cuối của cuộc chiến, song-song với kế-hoạch rút lui, đã không bỏ sót cơ-hội cắt đứt hay ít nhất cũng trì-hoãn việc tiếp-tế cơ-phận thay-thế cho loại hải-pháo tối-tân này.
Sau trận hải-chiến, để nêu gương hy-sinh của các chiến-sĩ bỏ mình trên đại-dương, Bộ-Tư-lệnh HQ đã có nghiên-cứu một kiến-trúc dự-định xin phép Ðô-thành Saigòn Chợ-lớn xây cất trong khu-vực cột-cờ Thủ-Ngữ bên sông Sàigòn. Riêng Hội-đồng Ðô-thành đã đồng-ý trên nguyên-tắc là sẽ có một đường-phố mang tên Ngụy-văn-Thà. Một buổi lễ kỷ-niệm lần thứ nhất trận hải-chiến Hoàng-Sa đã được tổ-chức vào ngày 19 tháng giêng năm 1975 do Tư-lệnh Hải-quân, Ðề-Ðốc Lâm-ngươn-Tánh chủ-tọa nhưng tôi không được thông-báo để đến tham-dự.
Hàng năm cứ mỗi Tết nguyên-đán đến, dù vào tháng giêng hay không, tôi luôn luôn có ít phút tưởng-niệm dành cho các liệt-sĩ đã hy-sinh và cũng tưởng nhớ tới chiến-sĩ đã anh-dũng cùng tôi chiến-đấu trong trận-hải-chiến Hoàng-Sa, mà số đông đang lưu-lạc trong vùng đất tự-do. Họ là những anh-hùng đã xả-thân để bảo-vệ lãnh-thổ của tiền-nhân xây-dựng từ bao thế-kỷ. Mong rằng tài-liệu này sẽ mang lại niềm hãnh-diện cho toàn-thể các chiến-sĩ Hải-quân đã tham-dự trận đánh mà tôi đã có vinh-dự chỉ-huy.
Dallas, Texas , mùa Xuân Kỷ-Mão
Hà Văn Ngạc
(Trích Nguyệt San Ðoàn Kết, Austin Texas)
Ông Nguyễn Hữu Hạnh, nguyên là chuẩn tướng, phụ tá Tổng Tham trưởng mưu quân đội Sài Gòn năm 1975, hiện nay là uỷ viên UBTƯ Mặt trận Tổ quốc Việt Nam – Ông là một nhân chứng lịch sử trong thời điểm xảy ra những xung đột giữa chính quyền Sài Gòn và Trung Quốc năm 1974, dẫn đến sự chiếm cứ quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam. Ông tâm sự:
Cuối năm 1973, tôi nhận lệnh ra Đà Nẵng với chức danh là Chuẩn tướng, Tổng Thanh tra Quân đoàn I và Quân khu I.
Quần đảo Hoàng Sa lúc ấy thuộc nhóm đảo Nguyệt Thềm trực thuộc tỉnh Quảng Nam, nằm ngoài khơi phía Đà Nẵng. Nhóm này gồm có đảo lớn nhất là Hoàng Sa, phía đông Hoàng Sa có 4 đảo, phía nam có 1 đảo. Các đảo nhỏ chung quanh Hoàng Sa đều không có người ở. Dưới thời Ngô Đình Diệm, có một tiểu đoàn Thuỷ quân lục chiến đóng tại đây. Thuỷ quân lục chiến ngày đó đặt dưới quyền của Hải quân nên có đầy đủ phương tiện đi kiểm soát các đảo nhỏ không người ở. Trên đảo Hoàng Sa lúc ấy có đài khí tượng Thuỷ văn, có mấy mã lính từ thời Gia Long, có một ngôi Miễu Bà… Nghĩa là nó mặc nhiên thuộc về chủ quyền người Việt. Đến thời Nguyễn Văn Thiệu thì nơi này được giao cho một trung đội địa phương quân của Tiểu khu Quảng Nam (Thuỷ quân lục chiến đã trở thành sư đoàn Tổng trù bị của quân đội Sài Gòn) nên điều kiện để bảo vệ và chống trả lực lượng Hải quân Trung Quốc lúc đó là không có.
Đầu năm 1974, Tổng thống Thiệu ra Đà Nẵng. Tại buổi tiệc chiêu đãi Tổng thống, một đại tá tư lệnh Hải quân Quân khu I (Quân đội Sài Gòn) cho biết người của Trung Quốc đã chiếm 3 hòn đảo nhỏ ở phía đông Hoàng Sa. Tổng thống Thiệu bảo ngay ngày mai ông ta sẽ tới Bộ Tư lệnh Hải quân để nghe trình bày rõ hơn. Hôm sau nữa, văn phòng quân khu có cho tôi đọc một bản viết tay của ông Thiệu ra lệnh cho Đề đốc Chơn, Tư lệnh Hải quân của quân đội Sài Gòn, tổ chức hành quân đuổi người Trung Quốc ra khỏi ba đảo đã bị chiếm. Và có lẽ, đó là một sai lầm quan trọng của ông Thiệu: phát động chiến tranh với nước ngoài mà không hề thông qua Quốc hội.
Những gì diễn ra trong chiến dịch này thật là thê thảm: Bên Hải quân quân đội Sài Gòn có 4 tàu chiến đi thành hai cặp: gồm các chiếc HQ4 và HQ5, HQ10 và HQ16. Trong phút chốc 4 chiếc tàu này đã dễ dàng đuổi hết những cư dân Trung Quốc trên 3 hòn đảo Quang Ảnh, Quang Hoà và Duy Mộng. Nhưng giống như có chuẩn bị sẵn, ngay lập tức, 11 tàu chiến Trung Quốc xuất hiện, trong đó có chiếc tàu Koma trang bị vũ khí điện tử. Đó là những chiếc tàu nhỏ, vũ khí mạnh hơn, di chuyển nhẹ nhàng và linh động hơn tàu chiến của quân đội Sài Gòn. Tàu Trung Quốc khiêu khích gây sự rồi cuộc chiến đã xảy ra. Hai chiếc HQ10 và HQ16 từ phía bắc bọc phía tây đảo Hoàng Sa và khi đến phía nam thì đụng độ dữ dội. Phía Trung Quốc bị chìm một tàu, phía Sài Gòn chìm chiếc HQ10 còn chiếc HQ16 bị thương nặng, nghiêng một bên không chạy được. Hai chiếc HQ4 và HQ5 cũng bị thương nhưng còn kịp kè được chiếc HQ16 thoát chạy về phía Đà Nẵng, bỏ lại toàn bộ người trên đảo Hoàng Sa. Lúc đó, trên đảo còn lại tổng cộng 41 người, có cả cố vấn Mỹ Gerald Kosh và một thiếu tá tên Hồng, trưởng phòng 2 (tình báo) của Quân khu I. Điều ngạc nhiên nhất là tàu Trung Quốc lại không hề đuổi theo tấn công hoặc chiếm tàu của phía Sài Gòn, họ chỉ đổ bộ lên đảo, bắt toàn bộ tù binh đem về. Quần đảo Hoàng Sa rơi vào tay Trung Quốc. Số phận 41 tù binh được giải quyết đơn giản sau hai tuần giam giữ (từ 18-1 đến 31-1-1974), họ được Mỹ đưa máy bay rước về từ… Hồng Kông.
Phía Sài Gòn, Tổng thống Thiệu rình rang tổ chức “mừng chiến thắng” ở Hoàng Sa.
Tôi lúc đó cảm thấy tức giận vô cùng, không hiểu được người ta ăn mừng cái gì: Tàu ta chìm, lính ta bị bắt, đất ta mất.. mà hô hào chiến thắng? Tôi cất công đến thăm người bạn là phó Đề đốc Tánh (Tư lệnh phó Hải quân) để nắm tình hình. Ông Tánh cho vị đại tá trực tiếp chỉ huy chiến dịch này kể cho tôi nghe toàn bộ câu chuyện, thậm chí, cho xem cả những tấm hình tàu Trung Quốc khiêu chiến trước mũi tàu của quân đội Sài Gòn. Tôi cũng không hiểu được vì sao hai nước giao tranh, người ta lại có thể thả tù binh một cách êm thấm như vậy? Không hiểu sao người ta lại tổ chức ăn mừng và Tổng thống Thiệu thì lên đài tuyên bố vài câu huyênh hoang nào đó.
Cuối cùng, những thông tin tình báo và tâm lý chiến cho tôi hay: Hạm đội 7 của Mỹ ở ngoài khơi đã rút khỏi miền Nam, tình hình chính trị của Liên Xô và Trung Quốc có cảnh không êm thấm và Mỹ muốn giao Hoàng Sa lại cho Trung Quốc để chặn đường vào Bắc Việt của hạm đội Liên Xô… Mất Hoàng Sa, tại Sài Gòn, Bộ Ngoại giao và nhiều tổ chức báo chí bắt đầu lên tiếng, tuy nhiên trách nhiệm lớn nhất, tôi nghĩ, thuộc về ông Thiệu. Lẽ ra, nếu khéo một tí, tổ chức phòng thủ trên đảo Hoàng Sa, còn 3 đảo bị chiếm đóng thì dùng nhiều giải pháp khác, ít nhất, cũng không bị rơi vào tình trạng bị khiêu khích khi lực lượng Hải quân không đủ mạnh…
Đó là câu chuyện 33 năm trước mà tôi chứng kiến, như một người trong cuộc, về sự kiện Hoàng Sa bị mất!
33 năm qua, lòng tôi đau đớn về sự kiện này. Ngày ấy, Việt Nam chỉ là một con cờ trong tay nước lớn. Vị Tổng thống có thể bình yên mà huênh hoang chút ngẫu hứng anh hùng cá nhân trong khi nước mất nhà tan…
Còn giờ đây, sau 33 năm, một nước Việt Nam thống nhất, một nhà nước Việt Nam đủ mạnh và là thành viên không thường trực của Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc, tôi nghĩ nên khéo léo và cương quyết giải quyết chuyện này bằng con đường ngoại giao, nếu không hiệu quả, chúng ta nên đưa việc này ra Liên Hiệp Quốc. Dẫu biết là không dễ dàng gì, có thể kéo dài 50 năm thậm chí 100 năm đi nữa thì chúng ta cũng phải làm.
Thế hệ chúng tôi là người chứng kiến sự kiện chúng ta mất Hoàng Sa mà không làm được điều gì. Còn ngày nay, nếu chúng ta cứ tiếp tục để như 33 năm về trước, thì thế hệ con cháu sau này sẽ nói sao với chúng ta đây?
Có thể, con đường để giành lại Hoàng Sa, Trường Sa là tính bằng hàng thập kỷ hay hơn nữa, thậm chí, thế hệ chúng ta nhiều khi chỉ làm nên một tiền đề để con cháu còn có cơ sở mà tiếp tục cuộc hành trình giành lấy công bằng cho quyền lợi của Tổ quốc mình… Có khó khăn bao nhiêu đi nữa, chúng ta cũng phải làm!
(Nguồn: Xưa & Nay, số 301 + 302, 2/2008, tr 25 )
Xảo ngôn Dinh_Kim_Phuc
Mới đây trên trang blog của Nhà văn Phạm Viết Đào có đăng bài: “Lộ diện kẻ đánh mất Hoàng Sa sau 33 năm” của Nguyễn Hữu Hạnh, trong đó có đoạn viết:
“Và có lẽ, đó là một sai lầm quan trọng của ông Thiệu: phát động chiến….
Phía Sài Gòn, Tổng thống Thiệu rình rang tổ chức “mừng chiến thắng” ở Hoàng Sa.
Tôi lúc đó cảm thấy tức giận vô cùng, không hiểu được người ta ăn mừng cái gì: Tàu ta chìm, lính ta bị bắt, đất ta mất.. mà hô hào chiến thắng? Tôi cất công đến thăm người bạn là phó Đề đốc Tánh (Tư lệnh phó Hải quân) để nắm tình hình. Ông Tánh cho vị đại tá trực tiếp chỉ huy chiến dịch này kể cho tôi nghe toàn bộ câu chuyện, thậm chí, cho xem cả những tấm hình tàu Trung Quốc khiêu chiến trước mũi tàu của quân đội Sài Gòn. Tôi cũng không hiểu được vì sao hai nước giao tranh, người ta lại có thể thả tù binh một cách êm thấm như vậy? Không hiểu sao người ta lại tổ chức ăn mừng và Tổng thống Thiệu thì lên đài tuyên bố vài câu huyênh hoang nào đó.tranh với nước ngoài mà không hề thông qua Quốc hội”.
Không ngờ ông Hạnh mang hàm chuẩn tướng mà có phát ngôn như vậy. Các nhân chứng vẫn còn (Chuẩn tướng Hồ Văn Kỳ Thoại, Vũ Hữu San…)và có thể sau khi đọc bài này họ sẽ lên tiếng.
Riêng tôi TT Thiệu không sai trong cuộc chiến đánh đuổi Trung Quốc ra khỏi Hoàng Sa.
Thưa Chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh,xin Chuẩn tướng gọi tên dùm cho chiến sự tại Hoàng Sa năm 1974.
Để rộng đường dư luận xin mời Quí vị đọc lại bài phỏng vấn sau đây:
PHÓ ĐỀ ĐỐC HỒ VĂN KỲ THOẠI NÓI VỀ HẢI CHIẾN HOÀNG SA
Tuyết Mai
Lúc đó, năm 1974, Phó Đề Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại là Tư Lệnh Hải Quân Vùng I Duyên Hải, chịu trách nhiệm bảo vệ Vùng Duyên Hải của Quân Khu I, bao gồm Quần Đảo Hoàng Sa. Cựu Phó Đề Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại đã nhận báo cáo tình hình có thuyền bè Trung Cộng xuất hiện ở vùng Đảo này từ đầu và đã trực tiếp trình lên Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu. Chính Cựu Phó Đề Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại là người trực tiếp nhận thủ bút từ Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu ra lệnh đối phó với tình trạng xâm nhập bất hợp pháp của Trung Cộng và cũng chính Cựu Phó Đế Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại ra lệnh cho Cựu Đại Tá Hà Văn Ngạc, Sĩ Quan Chỉ Huy Chiến Thuật khai hỏa trong trận Hải chiến Hoàng Sa.
Kính mời quý vị theo dõi câu chuyện giữa Tuyết Mai và Phó Đề Đốc Hồ Văn
Tháng Giêng 1974 và kéo dài hơn ba mươi phút.
TUYẾT MAI: Thưa Đô Đốc (khi nói chuyện Tuyết Mai gọi Phó Đề Đốc là Đô Đốc cho ngắn gọn) giới thiệu sơ qua về Quần Đảo Hoàng Sa. Trước 1974 Trung Cộng có hành động nào gây chiến ở vùng Đảo này không ?
Phó Đề Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại: Trên Đảo không có dân cư sinh sống, chỉ có Đài Khí Tượng Quốc Tế với bốn nhân viên làm việc. Hai mươi bốn Địa Phương Quân thuộc Tỉnh Quảng Nam trú đóng trên bốn Đảo, họ di chuyển bằng xuồng cao su. Theo tôi biết thì trước năm 1974 không có sự đụng chạm nào đáng kể với Trung Cộng. Đến đầu năm 1974 Trung Cộng thấy Mỹ rút quân ra khỏi Miền Nam thì họ có kế hoạch xâm chiếm rõ ràng, như cấm cờ hay ồ ạt đổ bộ một số người lên Đảo. Khi chúng ta bắt đầu dùng biện pháp đối phó thì họ đưa hạm đội rất mạnh mẽ ra đây.
TUYẾT MAI: Thưa Đô Đốc khi Đô Đốc được tin có tàu lạ trong vùng lãnh hải của chúng ta, Đô Đốc có trình lên Tổng Thống Thiệu, lúc đó Tổng Thống Thiệu đang ở đâu ?
Phó Đề Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại: Đêm 16 Tháng 1, trong công tác Hải Quân thường lệ, tôi được báo cáo có nhiều ngư thuyền lạ và có dấu hiệu của một vài hoạt động trên Đảo. Lúc đó tôi đang dùng cơm với Tổng Thống Thiệu và một số Tướng lãnh ở Mỹ Khê, Đà Nẵng. Tôi có trình cho Tư Lệnh Quân Khu I , tức là Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, cũng có mặt tại bữa cơm đó. Trung Tướng Trưởng bảo tôi tới trình ngay với Tổng Thống Thiệu. Tổng Thống Thiệu ra lệnh tôi sáng ngày mai tức
17 Tháng 1 đến Bộ Tư Lệnh Hải Quân Vùng I Duyên Hải để thuyết trình rồi Tổng
Thống Thiệu sẽ cho chỉ thị.
TUYẾT MAI: Thưa Đô Đốc trong cuốn ‘’Can Trường Trong Chiến Bại’’ Đô Đốc có kể Tổng Thống Thiệu viết thủ bút trong vòng 15 phút, ra lệnh Hải Quân Việt Nam đối phó với tình hình căn thẳng với Trung Cộng ở Quần Đảo Hoàng Sa. Theo Đô Đốc Tổng Thống Thiệu có cân nhắc kỹ trước khi ra lệnh đối đầu với Trung Cộng, Hải Quân Trung Cộng rất hùng mạnh.
Phó Đề Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại: Tổng Thống đã nghe tôi tường trình tình hình đêm trước, tôi tin chắc là Tổng Thống đã suy nghĩ kỹ. Sáng hôm sau, trong vòng 45 phút, trước khi quyết định, Tổng Thống có hỏi rất nhiều câu hỏi, và có bàn với các vị Tướng lãnh hiện diện trước khi lấy giấy mực ra viết thủ bút cho tôi thi hành. Hơn nữa tôi cũng xin nhắc lại là quyết định của Tổng Thống không phải cho nổ súng để tấn công, tiêu diệt hạm đội của Trung Cộng. Chỉ thị của Tổng Thống là mời các ngư thuyền cũng như chiến hạm lạ ra khỏi lãnh hải của chúng ta. Lúc đó tôi cũng chưa chắc những chiến hạm hiện diện đó là của Trung Cộng. Tổng Thống chỉ thị là làm thế nào để chứng minh cái chủ quyền quốc gia của chúng ta trên các Hải Đảo bằng mọi biện pháp ôn hòa. Nếu họ không tuân lệnh thì bắt buộc mình phải dùng võ lực để mời họ ra. Trước khi cho nổ súng chúng tôi cũng đã cho chiến hạm của chúng tôi đuổi họ ra, nhưng sự khiêu khích của họ càng ngày càng nhiều hơn, cho nên Cựu Đại Tá Hà Văn Ngạc có bàn với tôi là phải đi tới quyết định ‘’khai hỏa’’.
TUYẾT MAI: Thưa Đô Đốc như vậy thì trận chiến Hoàng Sa lúc đầu dự tính chỉ đuổi những ngư thuyền và chiến hạm ra khỏi lãnh hải, chứ không dự tính trước sẽ có một cuộc hành quân, một trận hải chiến dữ dội giữa Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa và Hải Quân Trung Cộng ?
Phó Đề Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại: Không, không. Tôi nhấn mạnh là không có một cuộc hành quân gì cả. Hôm 18.1 tôi có ra lệnh bằng giấy trắng mực đen cho Đại Tá Hà Văn Ngạc có thể thi hành nhiệm vụ có giấy tờ, nhưng đó không phải là cuộc hành quân mà chỉ là việc làm rất là thường xuyên.
TUYẾT MAI: Thưa Đô Đốc nói rõ những sự kiện trước khi quyết định khai hỏa, lúc đó Đô Đốc ở đâu ?
Phó Đề Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại: Lúc đó tôi đang ở Đà Nẵng.Trước khi khai hỏa, Cựu Đại Tá Hà Văn Ngạc cũng đã trình cho tôi rất chi tiết mọi hành động, mọi sự di chuyển của chiến hạm Trung Cộng cũng như của các ngư thuyền cùng mọi chuyện xảy ra trên Đảo. Tôi đã ra lệnh mỗi chiến hạm cho một toán đổ bộ lên Đảo để thám sát, cho nên chúng tôi nắm rất vững tình hình. Trước khi khai hỏa thì Đại Tá Ngạc có nói với tôi rằng, sự khiêu khích đã đến cái độ thế nào rồi cũng phải nổ súng. Nếu để Trung Cộng nổ súng trước thì bên Hải Quân Việt Nam sẽ bị thiệt hại nặng nề vì chiến hạm của họ rất tối tân, trong lúc chiến hạm của Hải Quân Việt Nam to và chậm, lúc đó sẽ không xoay xở kịp. Đại Tá Ngạc có bàn với tôi và tôi đồng ý là khi tình hình không thể nào làm khác được thì chúng ta phải nổ súng trước, và chúng ta nổ súng đồng loạt thì địch phải phân tán hải pháo của họ ra.
TUYẾT MAI: Thưa Đô Đốc lực lượng hai bên lúc đó như thế nào ?
Phó Đề Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại: Không kể những ngư thuyền có trang bị vũ khí, lúc đầu họ có hai chiến hạm lớn, sau có tăng viện thêm hai chiếc là bốn, cho thấy rõ ràng là họ còn một lực lượng trừ bị, sẵn sàng tăng cường trong vài giờ. Về phía Việt Nam thì có hai chiến hạm và mất cả ngày mới có thêm hai chiến hạm nữa là bốn chiến hạm. Khi giao chiến thì mỗi bên có bốn chiến hạm.
TUYẾT MAI: Thưa Đô Đốc diễn tiến trận chiến như thế nào ?
Phó Đề Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại: Buổi chiều 18 Tháng 1, khi bên Hải Quân Việt Nam đã ra dấu hiệu bật đèn cũng như ra nhiều dấu hiệu để mời họ ra, Tàu Trung Cộng đã không ra khỏi lãnh hải mà có hành động gây hấn như dọa nạt, chỉa súng vô chiến hạm Hải Quân Việt Nam và chạy rất gần. Lúc đầu Hải Quân Việt Nam làm theo chỉ thị của Tổng Thống, nghĩa là ôn hòa mời họ đi ra, nhưng họ nhất dịnh không chịu ra. Cho đến sáng ngày 19 Tháng 1.1974 tình hình rất căng thẳng, không thể kéo dài hơn được nữa thì trên soái hạm Hải Quân Việt Nam Đại Tá Ngạc ra lệnh khai hỏa và chiến hạm Trung Cộng phản pháo, bắn trả lại. Sau đó chiến hạm Trung Cộng thấy Nhật Tảo nhỏ nhất và chạy chậm nhất vì hư một máy nên Trung Cộng đã dồnhải pháo vào chiếc Nhật Tảo, chiếc này chìm trong thời gian rất ngắn. Hạm Trưởng là Thiếu Tá Ngụy Văn Thà đã hy sinh theo chiến hạm.
TUYẾT MAI: Thưa Đô Đốc là người ra lệnh cho Đại Tá Ngạc khai hỏa ?
Phó Đề Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại: Đại Tá Ngạc có đề nghị rằng ‘’Tới lúc nào đó thì phải nổ súng, vì họ không chịu ra, mình phải dùng võ lực theo chỉ thị của Tổng Thống Thiệu, tức là vị Tổng Tư Lệnh Quân Đội’’. Tôi có nói với Đại Tá Ngạc: ‘’Khi nào ông sẵn sàng thì khai hỏa’’. Lúc các chiến hạm ở trong vị thế không thuận lợi thì Đại Tá Ngạc cho khai hỏa. Khi nổ súng thì tôi có nghe trong máy truyền tin, lúc đó khoảng 10 giờ sáng ngày 19 Tháng 1.1974.
TUYẾT MAI: Thưa theo Đô Đốc, chúng ta không có chuẩn bị, không có kế
hoạch trước, lúc đó Hải Quân Việt Nam có kêu cứu với các Cố Vấn Mỹ ?
Phó Đề Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại: Trong cương vị của cấp chỉ huy tôi đã biết và tôi phải biết là Hoa Kỳ sẽ không tham dự cuộc chiến dù nguy kịch đến đâu. Đó là điều tôi đã biết trước, tuy nhiên tôi cũng có điện thoại về Bộ Tư Lệnh Hải Quân, để hỏi vị trí của Đệ Thất Hạm Đội của Hoa Kỳ thì được biết là lúc nào họ cũng hoạt động vùng biển Đông. Bộ Tư Lệnh cho biết Đệ Thất Hạm Đội có mặt tại đó. Tôi không hy vọng họ tham gia, nhưng tôi cần họ cứu vớt người trên biển. Khi sự việc xảy ra rồi, không có chiến hạm nào của Mỹ đến cứu vớt.
TUYẾT MAI: Thưa Đô Đốc sự thiệt hại của hai bên, cũng như Hải Quân Việt Nam hy sinh như thế nào ?
Phó Đề Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại: Sau nửa tiếng đồng hồ giao tranh thì hai bên đều rút lui vì hai bên đều thiệt hại nặng cả. Bên Hải Quân Việt Nam chiếc Nhật Tảo bị chìm, tử thương 58 người (đa số thuộc chiến hạm Nhật Tảo và số còn lại thì gồm có hai người nhái trên Đảo). Mỗi chiến hạm có một số bị tử thương. Phía Trung Cộng cũng bị thiệt hại nặng nề, một chiếc bị chìm, về nhân mạng có một số sĩ quan cao cấp bị tử thương, thành ra không thể nói bên nào chiến thắng hay chiến bại. Tuy nhiên tôi được tin từ Cố Vấn Hoa Kỳ cho biết một lực lượng hùng hậu gồm 17 chiến hạm khác từ Hải Nam đang hướng về hướng Hoàng Sa, trong đó có 13 chiến hạm với bốn chiếc tiềm thủy đỉnh loại tàu ngầm.
Với một lực lượng như vậy, tôi biết mình không thể nào đối đầu được. Bên Hải Quân Việt Nam có tăng cường thêm hai chiếc nữa tức là sáu chiếc, nhưng khi hai chiếc sau đang trên đường tới thì Cố Vấn Hoa Kỳ cho biết nếu mà thêm hai chiến hạm Việt Nam tham chiến thì sẽ có phi cơ phản lực của Trung Cộng từ Đảo Hải Nam đến dội bom. Tôi nghĩ, nếu bên Trung Cộng dùng phi cơ phản lực để dội bom, mà phi cơ Việt Nam không ra tham chiến được thì các chiến hạm Việt Nam sẽ bị lâm nguy, nên tôi cho các hạm đội trở về.
TUYẾT MAI: Mỗi Quân Binh Chủng có những trận chiến lẫy lừng làm cho người lính rất hãnh diện về tinh thần chiến đấu anh dũng của Quân Binh Chủng mình, có lẽ trận Hải chiến Hoàng Sa là niềm hãnh diện của những ‘’Chiến sĩ áo trắng’’. Quân Chủng Hải Quân đã chọn ngày 19.1 làm ngày tưởng niệm và vinh danh các chiến sĩ Hải Quân đã hy sinh. Đây cũng là ngày để ung đúc, nuôi dưỡng tinh thần chiến đấu anh dũng của các Chiến Sĩ Quân Chủng Hải Quân.
Phó Đề Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại: Vâng, tôi thấy đó là chuyện phải làm để vinh danh những Chiến Sĩ đã hy sinh để bảo vệ Tổ Quốc. Tổ chức những Lễ Vinh Danh hay lập Tượng Đài để tưởng nhớ là điều phải làm. Từ năm 1975 luôn có tổ chức ngày giỗ ở Sài Gòn. Sau 1975 rải rác nhiều nơi trên toàn thế giới, nơi nào có Hải Quân đều có tổ chức ngày giỗ để tưởng nhớ đến những tử sĩ. Chúng tôi cũng tìm gia đình của những Chiến Hữu đã hy sinh trong trận Hoàng Sa để giúp đỡ và ở San Diego cũng cố gắng xây Đài Tử Sĩ Hoàng Sa.
TUYẾT MAI: Để kết thúc cuộc nói chuyện này, kính xin Đô Đốc nói vài lời cuối cùng.
Phó Đề Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại: Ngày nào tôi còn sống, tôi vẫn nhớ tới những Chiến Sĩ đã hy sinh trong trận hải chiến Hoàng Sa. Có một điều chắc chắn là đối với thế hệ mai sau, sự hy sinh đó không phải là sự hy sinh oan uổng. Chúng ta sẽ tìm mọi cách để đòi lại những Hải Đảo đó. Đây là một nỗi đau buồn cho một số gia đình Hải Quân nhưng cũng là niềm hãnh diện chung cho dân Việt Nam. Đây là một hành động rất anh hùng của các Chiến Sĩ Hải Quân, tôi mong nhân dân Việt Nam, những thế hệ mai sau sẽ nhớ mãi.
- Việt Nam luôn ám ảnh giới lãnh đạo Mỹ (RFI).Ba mươi lăm năm sau chiến tranh, cuộc chiến Việt Nam tiếp tục đè nặng lên nước Mỹ, lên các quyết định của những nhà lãnh đạo nước Mỹ. Đó là nhận định của đặc phái viên Le Figaro tại Washington, trong bài viết mang tựa đề « Việt Nam luôn ám ảnh các nhà lãnh đạo Hoa Kỳ ».
-Hoàng Sa, Trường Sa thời VNCH-
Ông Nguyễn Đình Đầu có nhiều công trình nghiên cứu về lãnh thổ Việt Nam
Vấn đề chủ quyền đối với các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là một trong các mối quan tâm lớn của người Việt, nhất là trong bối cảnh căng thẳng gia tăng tại Biển Đông.
Hoàng Sa đã hoàn toàn thuộc về Trung Quốc sau trận hải chiến 19/01/1974, khi 50 chiến sỹ Việt Nam Cộng hòa thiệt mạng trong lúc bảo vệ chủ quyền của Việt Nam trên quần đảo này.
Đài BBC nói chuyện với nhà sử học lão thành Nguyễn Đình Đầu về chính sách của Việt Nam Cộng hòa đối với Hoàng Sa - Trường Sa:
Ông Nguyễn Đình Đầu: Thời VNCH, Hoàng Sa - Trường Sa nằm ở miền Nam nên thuộc chủ quyền của VNCH, cho tới năm 1975.
Từ mấy trăm năm về trước, Hoàng Sa-Trường Sa là của Việt Nam. Khi người Pháp tới, thì quản lý là nhân danh Việt Nam, do vậy chủ quyền đối với hai quần đảo này vẫn thuộc về Việt Nam.
Tôi biết là trên cả hai nơi này, đều đã có các nghiên cứu, khảo sát khí tượng học từ rất lâu rồi. Riêng Hoàng Sa, là đảo có nhiều chim, nhiều phân chim, nên người Việt Nam trong những năm 60-70 còn khai thác phân chim khối lượng lớn ở đó.
Tuy nhiên, như chúng ta đã biết, năm 1974 Trung Quốc đã có hành động quân sự để chiếm Hoàng Sa.
BBC: Hồi đó, ông đang sống và làm việc tại Sài Gòn. Phản ứng của chính quyền và dư luận lúc đó ra sao ạ?
Ông Nguyễn Đình Đầu: Ngay lập tức chính phủ VNCH đã lên tiếng phản đối, đưa vấn đề Hoàng Sa ra quốc tế. Lúc đó họ có quan hệ với Liên Hiệp Quốc và các nước mà người ta gọi là các nước tự do.
Lúc ấy ở miền Nam, tôi cứ tưởng rằng Trung Quốc lấy Hoàng Sa để giao lại cho Việt Nam Dân chủ cộng hòa, cho Bắc Việt. Nhưng không ngờ, họ chiếm là chiếm đứt luôn đất của mình.
Mà tôi cho rằng vào thời điểm ấy, nhiều người cũng nghĩ như tôi, là Trung Quốc lấy Hoàng Sa cho VNDCCH.
Một điều lạ, là trong khi dư luận phản ứng như thế ở miền Nam, mà VNDCCH không có phản ứng gì.
BBC: Thưa ông, có cáo buộc là chính quyền ông Nguyễn Văn Thiệu đã "làm mất Hoàng Sa", không hiểu ông nghĩ sao?
Ông Nguyễn Đình Đầu: Không đơn giản như thế. Lúc ấy, có quân đội VNCH được giao nhiệm vụ giữ Hoàng Sa, và đã có kháng cự mãnh liệt (với quân Trung Quốc).
Bên VNCH bị chìm một số tàu, thương vong thì cả hai phía đều bị nhiều.
BBC: Để khẳng định lại chủ quyền với các quần đảo đã mất, theo ông Việt Nam cần phải làm gì?
Ông Nguyễn Đình Đầu: Có hai vấn đề - đối với các chuyên gia, nhà nghiên cứu, sử học... như chúng tôi, thì chúng tôi đưa ra những bằng chứng, tư liệu về chủ quyền của Việt Nam đối với Hoàng Sa và Trường Sa.
Chúng tôi có nhiều tư liệu bản đồ của cả Trung Quốc và các nước, trong đó nói Hoàng Sa-Trường Sa là của Việt Nam, và Việt Nam có chủ quyền ở Biển Đông. Tất nhiên tài liệu của Việt Nam trong các thời kỳ cũng nói như vậy. Đó là trách nhiệm của chúng tôi công bố những tài liệu đó.
Còn vấn đề giải quyết tranh chấp trên thực tiễn ra sao thì lại thuộc về phạm vi chính trị.
Hoàng Sa, Trường Sa thời VNCH
---------------
VIT - Ngày 29/4, Ấn Độ đã biên chế khinh hạm tàng hình nội địa đầu tiên được trang bị hệ thống phòng thủ chống các cuộc tấn công bằng vũ khí hóa học, sinh học và hạt nhân.
(TNO) Hôm nay (29.4), tại đình làng An Vĩnh - nơi năm xưa các binh phu đã tế tự trước khi xuống thuyền ra Hoàng Sa, 13 tộc họ trên đảo Lý Sơn (Quảng Ngãi) đã long trọng tổ chức lễ Khao lề thế lính Hoàng Sa.
>> Bi hùng Hoàng Sa
>> Bi hùng Hoàng Sa