Thứ Năm, 16 tháng 12, 2010

Để gọi tên sự vật một cách rõ ràng

Thư ngỏ gửi bạn đọc và nhà báo Huy Đức – phần cuối
Dương Thu Hương - viết riêng cho DCVOnline

Phần cuối bài viết sau cùng của nhà văn Dương Thu Hương về vấn đề dân chủ cho Việt Nam, bà cũng gửi lời chào từ biệt vì sẽ không trở lại viết về đề tài này nữa. 
Nếu độc giả lật lại mớ báo cũ từ những năm 80, sẽ gặp mục “Thư bạn đọc”. Thời ấy, dù không phải người đọc báo thường xuyên nhưng cũng đã hai lần tôi bắt gặp tại mục trên, thư của các đảng viên kì cựu. Họ than thở, họ phàn nàn về tình trạng tham nhũng, về sự hà hiếp dân chúng của đám cán bộ sở tại, họ tha thiết đề nghị đảng sửa đổi chính sách, chấn chỉnh nội bộ và sau khi cầu khẩn bề trên dòm ngó lại đạo đức, họ cam kết lòng trung thành của mình bằng câu “Con không chê cha mẹ khó, chó không chê chủ nghèo”.

Khi đọc những dòng chữ này, tôi lặng đi vì kinh hoàng và mặt tôi nóng như hơ lửa vì nhục nhã. Dù đã biết từ lâu rằng dân ta bị ràng trói bởi các quan niệm phong kiến (điều này xảy ra trong chính gia đình tôi và tôi là nạn nhân đầu tiên), nhưng dẫu sao, tôi cũng không hình dung được cái di sản thối rữa kia còn khiến con người u mê đến thế.

Sau khi suy ngẫm, tôi đành công nhận rằng đạo Khổng đã trở thành khối u di căn trong xã hội Việt Nam, một căn bệnh nan y mà các con bệnh hoàn toàn không hay biết. Trong thâm tâm, các đảng viên coi đảng là vua hoặc thay thế vua nên họ phải thề thốt lòng trung với đảng. Rủi ro là vua cũng như chế độ phong kiến đã bị chính những người cộng sản tiêu diệt, nên sự dịch chuyển này lặp lại lần thứ hai: từ đảng trở thành cha mẹ hoặc ông chủ. Trong bối cảnh đó, các đảng viên cũng như các công dân nghiễm nhiên sắm vai con hoặc vai chó. Quá trình hoán chuyển trên xảy ra một cách hoàn toàn vô thức. Đa phần các đảng viên cộng sản mở miệng là tuôn ra những từ sáo rỗng như dân chủ, cộng hoà... nhưng thực chất họ chẳng có một mảy may hiểu biết về những điều họ nói. Đó là sự mỉa mai của lịch sử mà giờ đây nhìn lại, mỗi chúng ta không tránh khỏi đắng cay.

Ngày ấy, để có thể tiếp tục sống và đấu tranh, tôi đã tự an ủi “Những đảng viên này đều sinh vào những năm 1920-1930, họ bị trói buộc bởi đạo Khổng. Đạo Khổng dạy con người làm nô lệ một cách thành công. Ta hy vọng ở các thế hệ tiếp nối”.


Dương Thu Hương, cuộc sống của bà là một cuốn tiểu thuyết. Màu đỏ và đen.
Nguồn ảnh: Stephan Gladieu / Le Figaro Magazine
Tuy nhiên, hơn hai mươi năm sau, tôi biết mình nhầm. Sự mê muội này không chi phối riêng các thế hệ sinh vào những năm 20, 30 của thế kỉ XX mà nó có ảnh hưởng rộng lớn hơn tôi dự tưởng. Vào khoảng 2002, hay 2003 gì đó, khi chúng ta đã bước sang thế kỉ XXI, tôi được xem cuộc phỏng vấn ghi hình của một nhà báo nước ngoài, trong đó có sự hiện diện của bà Nguyễn Thị Hồng Ngát.

Bà Ngát vốn là biên kịch cùng xưởng phim truyện số 4 Thụy Khê với tôi, sau nhờ sự nâng đỡ của ông Nguyễn Khoa Điềm mà lên làm cục phó, trong cuộc phỏng vấn ghi hình nói trên, bà Ngát cũng tuyên bố: “Con không chê cha mẹ...”.

Tới đó, tôi rùng mình. Bà Ngát sinh năm 1950 hoặc 1951, đã từng học trường điện ảnh Vờ-gich ở Nga bốn năm, được liệt vào loại văn nghệ sĩ (tầng lớp tinh hoa của xã hội). Một người ở vào lứa tuổi ấy, nghề nghiệp ấy, mà điềm nhiêm coi quan hệ của mình với kẻ cầm quyền là con đối với cha mẹ hoặc là chó đối với chủ thì tình trạng thối nát hiện hành của Việt Nam là không tránh khỏi.

Một đất nước muốn phát triển phải có các công dân hiểu biết về phận sự và quyền lợi của mình, đảm nhận trách nhiệm của mình trước bản thân, gia đình và xứ sở. Người ta không thể xây dựng một nền văn minh với những kẻ có trí não con sen và tư cách thằng ở. Không ai có thể tạo nên một quốc gia hùng mạnh với những kẻ đi bằng hai chân nhưng trong thâm tâm lại chấp nhận mình là chó.

Bởi một khi đã chấp nhận mình là chó thì chẳng bao giờ có thể hiểu và đạt được cuộc sống thực sự của con người.

Không phải ngẫu nhiên mà nhân loại đã rút ra kết luận này “Dân chúng nào, chính phủ ấy”.

Tôi là người Việt Nam, tôi không sung sướng gì khi nói ra những điều cay đắng, nhưng tôi cũng lại biết rõ rằng nếu không dám đối mặt với sự thật, con người sẽ tự giết mình theo cách thức loài đà điểu: nhắm mắt, rúc đầu vào cát, chờ kẻ thù đến kết liễu mạng sống.

Nếu có thể mở mắt được, thì trước hết chúng ta nên mở mắt và nhìn vào cơ quan đại diện cao nhất, Quốc hội. Bởi vì về mặt chính danh, quốc hội được coi là cơ quan có quyền lực đối chất, giám sát và phủ quyết các đề nghị của chính phủ, như thế quốc hội cũng là bộ phận tinh tuý nhất của dân tộc vì các thành viên của nó đeo biển hiệu người đại diện, người lãnh phận sự nói lên sở nguyện của dân chúng.

Ông Nguyễn Trần Bật đã có bài viết rất hay về thân phận của các nghị sĩ trong xã hội Việt Nam hiện nay. Ông phân tích một cách rành mạch cái cơ chế độc đảng độc quyền khiến họ chỉ có thể tồn tại như những con rối, một thứ trang trí trong ngôi nhà quốc gia, một thứ thuốc giảm đau làm nguôi cơn phẫn nộ của đồng bào và một mánh khoé sân khấu nhằm tạo ấn tượng dân chủ giả hiệu để lừa dối dư luận quốc tế. Bài viết của ông là một đóng góp đáng kể để nâng cao trình độ nhận thức cho đám đông cũng như thúc đẩy sự phát triển tư duy dân chủ.

Tôi chỉ xin bày tỏ nỗi băn khoăn về hiện thực đương thời: Giờ đây, liệu có bao nhiêu phần trăm nghị sĩ dám đứng lên thật sự chất vấn, thật sự giám sát hành vi của chính phủ, nói cách khác dám chống lại sự lộng hành của bộ máy cầm quyền? Bao nhiêu phần trăm cay đắng ngậm ngùi về thân phận bù nhìn trong cam chịu và câm lặng? Còn lại, bao nhiêu phần trăm an nhiên chấp nhận vai trò Nghị gật với nụ cười... dã nhân?”

Từ vài chục năm nay, nỗi băn khoăn này là nỗi băn khoăn lớn nhất đối với những người đang đấu tranh cho dân chủ. Sơ đồ phân loại các đại biểu quốc hội sẽ được coi như biểu đồ diễn đạt sự tiến bộ xã hội, nói cách khác cuộc tập dượt dân chủ ở nước ta.

Theo như tin tức của VNexpress và BBC ngày 2 tháng 11 năm nay (2010) thì trong phiên họp ngày mồng 1 tháng 11 năm 2010, nhóm đại biểu quốc hội đứng lên chất vấn chính phủ về vụ Vinashin gồm các ông bà Nguyễn Minh Thuyết, Vũ Quang Hải, Lê Văn Cuông, Huỳnh Ngọc Đáng, Lê Thị Nga, Phạm Thị Loan, Nguyễn Văn Sỹ, Dương Trung Quốc. Tám người trên tổng số bao nhiêu? Và ý kiến của họ có được chính phủ giải đáp không? So với nhiều năm trước, đây là một dấu hiệu đáng lạc quan. Chỉ có điều, sự lạc quan của chúng ta vô cùng nhỏ bé bởi sau khi các đại biểu trên lên tiếng thì ông Nguyễn Đức Kiên, phó chủ tịch quốc hội lại dằn mặt họ “Vinashin thực chất đã phá sản chỉ có điều mình chưa tuyên bố mà thôi và đây là hình thức phá sản đặc thù của Việt Nam” rồi thì “Trong các lý thuyết về kinh tế thị trường thì phá sản là sự tàn phá sáng tạo, phá cái cũ để tạo ra cái mới, phù hợp với quy luật kinh tế ở thời điểm đó, thì hiện nay mình đang làm. Đừng vì vụ Vinashin mà kéo lùi tư duy đổi mới doanh nghiệp...”

Ông Kiên là tiến sĩ, uỷ viên uỷ ban kinh tế quốc hội, phó chủ tịch tỉnh Sóc Trăng. Tôi không hiểu ông nhặt cái bằng tiến sĩ này ở đâu?

Có thời, người ta tổng kết: Dắt một con bò qua biên giới khi trở về nó cũng trở thành tiến sĩ.

Ấy là vì nước đàn anh Liên Xô xưa kia sẵn sàng thí mảnh bằng này cho bất cứ công dân da vàng, da đen nào được cử đến Mạc Tư Khoa theo tinh thần “vô sản quốc tế” để họ có thể vênh vang quay về bản xứ thực hiện cuộc “cách mạng đỏ”. Hà Nội là mảnh đất đầu tiên được nếm các kinh nghiệm cay đắng với đám Tiến sĩ bò này.

Sau đó nhiều năm, đến lượt đảng cộng sản Việt Nam vinh quang có cảm hứng “trở thành trí thức” nên yêu cầu các cán bộ nòng cốt phải đủ bằng cấp. Vậy là các quan đầu tỉnh lũ lượt kéo về trường Nguyễn Ái Quốc học, kẻ học thật tính chưa đầy mười phần trăm, số còn lại nhét chữ không vào nên theo nhau nhậu nhẹt, chơi gái chán chê rồi khi hết thời gian “nâng cấp chất lượng đảng” thảy ra vài lượng vàng để đổi lấy tấm bằng vác về tỉnh lẻ.

Mặt khác, trong niềm kiêu hãnh cộng sản, các quan lớn nghĩ rằng họ đủ sức làm tất cả, kể cả việc lấy đá vá trời. Vì vậy, sự cư xử của họ nhiều khi ngây ngô đến mức thiên hạ khó hình dung nổi. Tôi nhớ rất nhiều lần, trong các buổi gặp gỡ tay ba, ông Trần Độ, ông Nguyễn Kiến Giang và tôi, tướng Trần Độ kể đi kể lại rằng ông Đỗ Mười đã hạ quyết tâm trở thành đại trí thức nên rủ ông Trần Độ “Tôi với anh bỏ ra hai năm học để lấy bằng tiến sĩ”.

Tướng Trần Độ liền đáp “Chúng ta học hai năm để hiểu được một phần những điều các tiến sĩ nói, thế cũng đã là tốt lắm rồi”.

Thứ hoang tưởng của trẻ mục đồng có thể khiến ta mỉm cười nếu đứa bé mơ mộng ấy ngồi trên lưng trâu nhưng một khi nó đã trở thành ý nghĩ thật sự của kẻ cầm quyền thì đó là tai họa tầy trời cho quốc dân, và lúc đó, chúng ta không còn cười mà phải khóc.

Sự “hạ quyết tâm hai năm giật mảnh bằng tiến sĩ” của ông Đỗ Mười khiến tôi nhớ lại cơn phẫn nộ thành thực của vua Tự Đức khi nghe Nguyễn Trường Tộ mô tả ngọn “đèn treo ngược” ở nước Pháp. Ông quan này suýt bị chém đầu vì cơn phẫn nộ thành thực và ngu xuẩn của nhà vua.

Khi óc hoang tưởng ngu ngơ kèm theo một quyền lực độc tôn không bị kiểm soát, ai hiểu các quan lớn cộng sản có thể làm những gì để vãi ra những tấm bằng tiến sĩ như mấy bà già nhà quê vãi thóc ra sân cho gà mổ? Bởi vì, chưa ai quên lời tuyên bố xanh rờn của ông Đinh Đức Thiện khi ông đương chức bộ trưởng bộ công nghiệp dẫn đoàn cán bộ lên tham quan nhà máy giấy Bãi Bằng “Cần bằng cấp hả? Thì in ra mà phát. Chúng tao đẻ ra bằng.”

Căn cứ vào lời phát biểu của ông Nguyễn Đức Kiên được BBC tiếng Việt trích lời mà tôi vừa nhắc lại trên thì hẳn ông đã nhặt mảnh bằng “giấy lộn” này ở biên giới nước Nga hoặc moi nó ra từ túi quần ông Đinh Đức Thiện.

Một đất nước không có đội ngũ trí thức thật sự, thì bọn lưu manh giả danh trí thức sẽ lên ngôi. Một đất nước không có những đại biểu quốc hội do chính dân bầu và bị dân bãi, do đó phải gánh trách nhiệm trước dân, đất nước ấy phải biến thành thứ bột nhão trong tay một nhóm cầm quyền tự coi mình là Thượng đế.

Một người đầy tự tin vì trí não sáng suốt và quá trình khổ học của mình như ông Nguyễn Trần Bật mà khi nói một điều hay phải kèm theo một lời dối láo thì đất nước ấy không thể coi là có tầng lớp trí thức thật sự. Ông Bật sau khi đã phân tích vô cùng chính xác tính bù nhìn và tình trạng bù nhìn bắt buộc của các đại biểu quốc hội Việt Nam lại phải chêm vài lời ca tụng ông Đỗ Mười, một trong những kẻ cầm quyền ngu dốt nhất, một con bệnh tâm thần (các bác sĩ viện Việt-Xô đã chỉ cho tôi xem cái cây mà ông Đỗ Mười thường trèo lên hô hét khi lên cơn điên), và chưa ai quên rằng chính sách của ông ta đã phá hoại nền kinh tế đất nước một cách không thể tính đếm.

Tôi biết ông Nguyễn Trần Bật đã lựa chọn “Chống đối một cách khôn ngoan” vì ông không muốn ngồi tù, không muốn con cái ông bị gạt ra lề xã hội, bị đe doạ, bị quấy nhiễu như con cái những anh em đấu tranh cho dân chủ. Nhưng, một khi ông Nguyễn Trần Bật đã uốn lưỡi hai chiều thì chưa thể định danh ông là trí thức thật sự dù ông khoe rằng mỗi tháng đọc sách mất bao nhiêu lít dầu.

Tôi cũng xin nhắc để ông Bật hiểu rằng ở nước ta không thiếu người đọc sách như ông hoặc hơn ông, có những người biết bốn thứ tiếng mà ngồi rũ trong tù vài thập kỉ đến khi ra thân tàn lực kiệt, gần như một phế nhân. Ông là trường hợp vô cùng hãn hữu, một con ruồi bay vọt khỏi cái vỉ đập của kẻ cầm quyền, ông chớ nên lấy sự may mắn của bản thân làm thước đo chung cho xã hội, trước hết là lớp người “muốn là trí thức thật sự mà bị dìm chết trong bóng tối ngục tù” ở Việt Nam.

Người trí thức thật sự là người chỉ tin và chỉ quy hàng chân lý mà thôi. Xã hội nào tạo được một lớp trí thức thật sự, xã hội ấy phát triển. Xã hội nào dùng nòng súng chọc vào họng người có chữ buộc họ uốn lưỡi hai chiều, xã hội ấy còn ở trong trạng thái man rợ, vì ở đó con người không thể sống xứng đáng với chính mình.

Chúng ta có thể tóm tắt tình trạng này bằng công thức:

Nhị Thể thì Nhất Tâm
Nhất Thể ắt Nhị Tâm.

Một xã hội dân chủ (gọi nôm na là nhị thể) nơi tồn tại các đảng đối lập, mỗi cá nhân mới có thể trung thực với chính họ và trung thực với đồng bào, bởi pháp luật đảm bảo cho nhân cách của họ được tồn tại. Xã hội nhất thể, tức xã hội độc tài, buộc con người phải nhị tâm, bởi pháp luật không đảm bảo cho họ được sống trung thực. Trong xã hội ấy, trừ những người ôm bom ba càng, liều mình như chẳng có, toàn thể đều nhị tâm, toàn thể đều bị nỗi sợ hãi làm biến hình, và sự dối trá ắt phải là món ăn thường nhật.

Phần trên, tôi có nhắc tới ông Tố Hữu và ông Phạm văn Đồng, họ quả là những kẻ tham quyền cố vị, vô năng, vô trách nhiệm nhưng theo sự hiểu biết của tôi họ không phải quân ăn cắp và ăn cướp. Nói cho đúng hơn, vào những năm đó chưa nhiều quân ăn cắp và ăn cướp trong chính phủ như bây giờ.

Ông Phạm Văn Đồng không xây nhà thờ họ năm bảy tỷ đồng như Nguyễn Tấn Dũng. Ông Tố Hữu cũng không trù dập báo chí như việc hạ lệnh tống giam hai nhà báo phanh phui vụ PMU18 mà ông Nông Đức Mạnh đã làm để che chắn tội tham nhũng của người thân.

Kể cả ông tổng bí thư “Đổi mới”, người đã kêu gọi các nhà văn “đừng uốn cong ngòi bút” rồi hơn một năm sau chính ta ông lại uốn cong lưỡi, người đã chửi tôi là “Con đĩ chống đảng” và đã tống giam tôi vào ngục năm 1991, ông ta – Nguyễn Văn Linh, cũng không phải thằng ăn cắp, hạng khốn nạn về nhân cách. Vợ và con gái ông ấy không nhảy lên nắm thị trường chứng khoán như ái nữ của ông Dũng xỉn. Khi thị trường này đổ bể, hàng bao nhiêu gia đình phá sản, vỡ nợ, ái nữ của ông Nguyễn Tấn Dũng vẫn nhơn nhơn chường mặt ra đó, cô ta không vào tù, không mất chức, không nói một lời xin lỗi đối với dân. Bố đẻ cô ta cũng vậy.

Vậy phải chăng dân Việt đích thị là một con gà để kẻ cầm quyền tha hồ vặt lông vặt cánh? Hay dân Việt là lũ trâu bò mà bao nhiêu ngọn roi quất lên lưng họ cũng... như không? Tuỳ theo cách nhìn của độc giả.

Tuy nhiên, dân tộc Việt đã từng chiến đấu một nghìn năm với Bắc phương để giữ được nền độc lập, vì lẽ ấy, tôi không muốn tin rằng họ tiếp tục câm lặng, tiếp tục cam chịu những khổ nhục này. Dân tộc Việt đã sản sinh ra những người lặn xuống lòng sông Bạch Đằng để cắm cọc sắt. Dân tộc ấy đã đẻ ra những chiến sĩ ôm bom ba càng. Cuộc cách mạng tháng tám năm Ất Dậu là cuộc cách mạng hào hùng để giải phóng dân tộc. Trước cuộc cách mạng ấy, khi chưa bị quyền lực làm hủ hoá nhân cách, ông Tố Hữu là người khởi nghĩa đầy can đảm. Ông đã mượn ý nhà cách mạng Pháp Jean-Paul Marat mà làm bài thơ Hãy đứng dậy (tháng 4 năm 1938):

Người ta lớn bởi vì ngươi quỳ xuống
Hỡi nhân dân, hãy đứng thẳng lên! (1)

Ý tưởng của Jean-Paul Marat mạnh như roi quất, loé như ánh chớp soi đường cho đám đông. Nhưng Jean- Paul Marat không chỉ khích lệ dân chúng can đảm đứng lên nắm vận mệnh trong đôi tay của chính mình, ông còn là người bạn đích thực và chân thành của dân chúng như ông thường tự nhận “L’ami du peuple”.


(Từ trái) Đông Trình, Nguyễn Duy, Dương Thu Hương, Nguyễn Quang Lập. tại Đại hội Nhà Văn Việt Nam 1995 tại Hà Nội.
Nguồn ảnh: Tư liệu văn học của gia đình Nguyễn Hữu Hồng Minh
Ông chỉ ra cho dân chúng thấy rõ những cạm bẫy mà bất cứ kẻ cầm quyền nào cũng sẽ giăng ra: ru ngủ dân chúng; giam hãm họ trong ngu dốt và truỵ lạc; khích động họ bằng sự khoe khoang xuẩn ngốc và sau rốt, buộc họ phải ngoan ngoãn tuân phục.

Jean-Paul Marat cảnh báo rằng “Sự tuân phục mù loà của quần chúng được coi như sự ngu xuẩn của chính họ”

Nguyên văn: “Toujours une aveugle obéissance suppose une ignorance extrême.”

Tuy nhiên, sự cảnh báo đó cũng chưa quan trọng bằng định nghĩa sau đây: “Chính phủ là kẻ thù của dân chúng.”

Nguyên văn: “Le gouvernement est l'ennemi du peuple.” (2)

Định nghĩa này chiếu rọi ánh sáng vào sự vật, vô hiệu hoá mọi trò lừa đảo, loè bịp và mị dân của kẻ thống trị, đem lại xác tín cho dân chúng về quyền hành động chính đáng của họ.

Tại sao chính phủ lại là kẻ thù của dân chúng?

Đơn giản thôi, vì cái Ngã của con người là con quỷ vô cùng khủng khiếp, thường xuyên chiến thắng trong cuộc tranh đấu với lương tâm. Vì thế, bất cứ bộ máy cầm quyền nào cũng tìm mọi cách để thụ hưởng tối đa, tức là ngoạm phần bánh to nhất và buộc dân chúng gánh chịu mọi rủi ro, tổn thất. Lời hứa hẹn của kẻ cầm quyền là thứ thực phẩm dễ bị hư hại, nó sẽ thiu thối ngay sau phút cuộc bầu cử khoá hòm phiếu, xếp trống kèn.

Vì lẽ đó, ở các nước dân chủ người ta mới cần các hình thức biểu tình, bãi công, các đại nghị để bộc lộ sự bất bình của dân chúng và cứ năm năm hoặc bốn năm (tuỳ theo quốc gia) lại phải có một cuộc bầu cử để dân chúng thực thi quyền lựa chọn của mình.

Nhưng muốn có bầu cử thực sự phải có đảng đối lập, còn ở các nước độc tài như xứ Việt Nam ta, bầu cử là trò hề mà cả kẻ bầy trò lẫn kẻ buộc phải tham dự đều biết tỏng tòng tong. Những năm sống ở Hà Nội, mỗi lần bầu cử, tôi lại nghe các bà bán rau bán thịt ở chợ Khương Thượng gọi nhau oang oang: “Cứ mười quầy cử một đại diện đi bầu cho xong. Các ông ấy đã sắp xếp hết rồi, còn đâu mà chọn lựa”.

Có thể các độc giả sẽ nói rằng dân châu Á đã quen với ách thống trị độc tài, họ không cần nền dân chủ. Rằng dân chủ là thứ táo thứ lê chỉ có thể trồng ở châu Âu và châu Mỹ, còn ở xứ ta chỉ có rau muống rau cải mà thôi. Nếu thế, làm sao giải thích được tình trạng hai nước Bắc Hàn và Nam Hàn?

Cùng một dân tộc, cùng một văn hoá, cùng bị chi phối bởi một quá khứ, tại sao giờ đây hai xứ sở đó cách nhau một trời một vực? Phải chăng một thiết chế dân chủ có thể biến một công dân Hàn Quốc đang ăn cỏ dại ở miền Bắc trở thành một người văn minh, sung túc ở phương Nam? Phải chăng, một nửa dân nước Hàn là người tự do, nửa còn lại, cũng như người Việt chúng ta, bị loại khỏi vũ đài bởi họ không đủ tư cách ấy?

Xin độc giả tự trả lời.

Phần tôi, tôi không nghĩ rằng dân tộc chúng ta tót vời thông minh, nhưng tôi cũng chẳng tin rằng người Việt thuộc loại ngu dốt. Vấn đề cơ bản là thiết chế xã hội đã trói buộc họ trong sự thiếu hiểu biết, trong sợ hãi, trong đói nghèo. Một con chim bị buộc chặt hai cánh chỉ có thể nhảy lò cò trên sân mà không bao giờ bay lên được. Sự thành công của các thế hệ người Mỹ gốc Việt hiện nay chứng minh điều đó.

Cũng vì cái thực tiễn vô cùng cám dỗ ấy mà giờ đây biết bao gia đình bán nhà, bán đất, thắt lưng buộc bụng cho con cái ra nước ngoài học. Trong thâm tâm, ai cũng mong “Thoát Việt!”, ra khỏi mảnh đất bùn lầy tối tăm này bằng mọi giá.

Cũng tốt thôi, nhưng liệu bao nhiêu người sẽ thoát được Việt nếu tính trên tổng số dân chúng? Và liệu các thế hệ sau này có thể được sống một cách đàng hoàng với đầy đủ sự tự tin và lòng tự trọng hay không khi mà các cánh cửa ở biên cương càng ngày càng khép chặt, khi người da mầu bị lục soát một cách nhục nhã khắp nơi, và khi cánh Hữu đang dậy lên như sóng ở châu Âu cũng như các nước khác?

Đừng quá nhiều ảo tưởng. Ảo tưởng nào cũng sẽ dẫn đến sự đổ vỡ, không sớm thì muộn. Đời là dòng sông trôi chảy và nước không dừng lại dưới chân cầu. Những thuận lợi mà người Việt nhập cư được hưởng vào những năm Thuyền nhân không còn nữa. Cũng không còn nữa cái nhìn thiện cảm của thế giới đối với người Việt sau những năm Thuyền nhân và sau rất nhiều thất vọng qua quá trình chung đụng.

Rượu vang đang ở quá trình biến thành dấm. Bởi vậy, dù có muốn đại đa số người Việt cũng không thể thực hiện được giấc mơ đổi đời của họ ở xứ người. Điều họ có thể làm được là thay đổi cuộc đời của chính họ trên quê hương, là đấu tranh để xây dựng một thiết chế xã hội tiến bộ hơn, để họ có thể thực sự làm công dân, được sống với đầy đủ Quyền con người.

Nếu sự ù lỳ, sự cam chịu đã trở thành căn tính khiến người dân Việt tê liệt thì trong một tương lai gần, chắc chắn họ sẽ không còn là người Việt nữa. Với toàn bộ các căn cứ quân sự đã và đang tiếp tục xây dựng trên Tây Nguyên cũng như các khu vực biên giới dưới mọi thứ trá hình: khai thác mỏ, thuê đất trồng trọt..., con mãnh hổ Trung Hoa càng ngày càng cắm sâu móng vuốt của nó vào bờ cõi của chúng ta, tạo một vành đai chiến lược mà khi cần, các quân đoàn sẽ trùng trùng đổ xuống như thác.

Một sáng thức dậy, người dân Việt sẽ thấy lính Trung Hoa đứng đầy các phố phường, làng xóm, nương bản mà họ chưa kịp dụi mắt. Chính phủ của họ, chính quyền Hà Nội đã tiếp tay cho cuộc chuẩn bị này. Đảng thân yêu của họ từ lâu đã trở thành con chó của ông chủ Bắc Kinh, dùng tất thảy mọi biện pháp để bịt mắt đám đông, bóp mồm những ai dám lên tiếng. Bộ máy công an được huy động tối đa để dập tắt các sites internet, để bắt giữ những người dám đưa tin và đưa hình về các khu vực mà lính Tầu đang ồ ạt đổ xuống xây cầu đường, thiết lập doanh trại, lập làng mới để di dân Trung Hoa.

Cuộc tái chiếm Giao Chỉ đang được thực thi một cách quy mô và khẩn trương mà các thái thú Tô Định tân thời, những kẻ ngồi quanh bàn họp Bộ chính trị, trừ Tô Huy Rứa, đều mang tên Việt.

MỘT NGHÌN NĂM BẮC THUỘC LẦN THỨ HAI đang chờ đợi dân tộc chúng ta.

Nếu dân Việt không đứng lên hành động vào lúc này, nền độc lập chắc chắn sẽ tiêu vong. Họ sẽ trở thành người Tây Tạng của thế kỉ XXI. Thần Kim Quy không còn hiện ra lần nữa dù họ cầu khẩn ngàn lần.

“Hãy tự cứu mình trước khi Chúa trời cứu!”

Câu châm ngôn ấy không chỉ dành cho dân công giáo mà dành cho toàn bộ loài người. Trước thế kỉ XVI, nước Pháp là một trong các xứ mộ đạo, nơi quyền lực của Giáo hoàng lấn át quyền lực của nhà Vua, vậy mà nước Pháp ấy đã biến thành nước Pháp cộng hoà, nước Pháp thế tục sau một cuộc cách mạng long trời lở đất. Cũng chính cuộc cách mạng ấy đã khai sinh ra cái ý tưởng mà nhân loại phải biết ơn mãi mãi: Quyền con người.

Từ cuộc các mạng ấy đến nay hơn hai thế kỉ đã trôi qua, nhưng lời kêu gọi của Jean-Paul Marat vẫn luôn luôn là ánh sáng rọi đường cho các dân tộc yếu kém, các dân tộc bị dìm trong bóng tối của sự thiếu hiểu biết, bị tê liệt vì khiếp nhược.

Lời kêu gọi của nhà cách mạng này cũng còn nguyên hiệu lực đối với một dân tộc đang đứng trước nguy cơ tái nô lệ như người Việt giờ đây:

NGƯỜI TA LỚN BỞI VÌ NGƯƠI QUỲ XUỐNG
HỠI NHÂN DÂN! HÃY ĐỨNG THẲNG LÊN!

Lần cuối cùng, xin chân thành cảm ơn các độc giả. Xin lượng thứ cho những nhầm lẫn của tuổi già. Xin chào vĩnh biệt.

© DCVOnline



DCVOnline:
(1) Nguyên văn bài thơ "Hãy đứng dậy" của Tố Hữu

Người ta lớn bởi vì ngươi cúi xuống
Hỡi nhân dân hãy đứng thẳng lên!
(Ma-rat)

Người ta lớn bởi vì ngươi quỳ xuống
Có gì đâu ta cầu khẩn van lơn?
Có gì đâu ta ôm mối căm hờn?
Hãy đứng dậy, ta có quyền vui sống!

Ai đi gõ vào cửa lòng lạnh ngắt
Và thiết tha năn nỉ với hồn say
Trên muôn thây, tiệc rượu máu tràn đầy?
Không! Không thề sống như bầy hành khất!
Hãy đứng dậy! Ta có quyền vui sống!
Cứ tan xương, cứ chảy tuỷ, cứ rơi đầu!
Mỗi thây rơi sẽ là mỗi nhịp cầu
Cho ta bước đến cõi đời cao rộng.

Huế, tháng 4/1938

DCVOnline: Tuy Tố Hữu và nhiều người khác cho tác giả ý hai câu Người ta lớn bởi vì ngươi cúi xuống / Hỡi nhân dân hãy đứng thẳng lên! là Jean-Paul Marat nhưng chưa khi nào trích dẫn nguồn và nguyên văn "ý tưởng của Marat" đã viết khi nào đăng ở sách, báo nào.

(2) Là bài viết thứ bẩy trong Tập (I) của tờ "L'ami du peuple"

L'ami du peuple (I)

Dénonciation contre Necker
Il faut créer un tribunal d'état
Les subsistances
Discours au peuple
Profession de foi de Marat
Réflexions sur les dettes du gouvernement devenues nationales
Le gouvernement est l'ennemi du peuple
Protestation contre la loi martiale
Sur le plan du comité militaire
Évasion d'une religieuse de l'abbaye de Pantemon

Trích, "Il est une vérite éternelle dont il est important de convaincre les hommes: c'est que le plus mortel ennemi que les peuples aient à redouter est le gouvernement." (Le gouvernement est l'ennemi du peuple)

Nguồn: Journal "L'Ami du Peuple"; Charles Simond, Marat. Ed. L. Michaud, Paris 1906.





Thư ngỏ gửi bạn đọc và nhà báo Huy Đức – phần 1
Dương Thu Hương - viết riêng cho DCVOnline

Nhà văn Dương Thu Hương gửi đến bạn đọc bài viết sau cùng về vấn đề dân chủ cho Việt Nam, và gửi lời chào từ biệt vì bà sẽ không trở lại viết về đề tài này nữa.
Trước hết, tôi xin lỗi độc giả vì hai nhầm lẫn trong bài viết “Để gọi tên sự vật một cách rõ ràng”:

1. Nguyễn Văn Hưởng tức Trần, sinh năm 1945, thứ trưởng bộ nội vụ, tổng cục trưởng tổng cục I không phải là đại biểu quốc hội.

2. Cha đẻ của công chúa Mỵ Châu là An Dương Vương Thục Phán chứ không phải Triệu Đà.

Sự nhầm lẫn thứ nhất do nhà báo Huy Đức phát hiện nên tôi phải cảm ơn ông cũng như phải chân thành xin lỗi ông nghị Trần Văn Hưởng (không là thứ trưởng bộ nội vụ, không có biệt danh Trần, và không nhảy lên bụng cô Hồ Thu Hồng).

Sự nhầm lẫn thứ hai được phát hiện do một người bạn đang sống tại Pháp và đối với tôi sự phát hiện này là vô cùng quan trọng vì nó là hồi còi báo động cho tôi biết đã đến lúc tôi phải rút khỏi vũ đài: tuổi già đã tấn công tôi.

Do đó, bài báo này sẽ là bài cuối cùng tôi viết để tham góp vào cuộc đấu tranh chung. Tuy nhiên, trước khi chia tay vĩnh viễn, tôi sẽ có đôi lời với độc giả, trước hết là đối với các anh em đang tiếp tục cuộc đấu tranh dầu sôi lửa bỏng này.

Sự nhầm lẫn gán ghép chức ông nghị cho Thứ trưởng Bộ Nội vụ Nguyễn Văn Hưởng tuy đáng tiếc nhưng còn có thể tha thứ vì sự trùng lặp cả tên lẫn họ là vô cùng hiếm hoi. Bản thân tôi cũng từng chịu cảnh này. Tôi vốn coi chính phủ Việt Nam là ổ tham nhũng bẩn thỉu mà trong đó, người lương thiện không có chỗ đứng. Vậy mà lại có một bà Dương Thu Hương chẳng những trùng tên mà còn trùng cả tuổi làm thống đốc ngân hàng, nghĩa là một chức quan không nhỏ trong cái hệ thống những kẻ đục khoét ấy. Khi mẹ bà thống đốc ngân hàng này chết, bạn hữu và anh em dân chủ mang hương hoa đến... viếng mẹ tôi trong khi bà cụ đang ngáy khò khò trên gác. Tôi ngỡ rằng trò chơi cắc cớ này chỉ xảy ra như là sự duy nhất, ai dè còn có trường hợp thứ hai.

Trái lại, sự nhầm lẫn giữa Triệu Đà với An Dương Vương là không thể và không đáng tha thứ. Đó là một sai lầm không thể biện minh: Không ai có thể biện minh cho tuổi già.

Ông tướng Charles De Gaulle có một định nghĩa “Tuổi già là sự chìm tầu”.

Đối với tôi, tuổi già là cây cầu thang dẫn từ ngôi lầu của cuộc sống xuống tầng trệt, nơi nấm mồ đang chờ sẵn. Ta trượt từng nấc trên cây cầu thang định mệnh, rụng rơi dần. Rụng tóc, rụng răng, da dẻ nhăn nheo dăn rúm, hình hài méo mó đi: hoặc nó teo tóp lại như con mắm lẹp, hoặc nó phì ra từ từ để biến thành một cái bị gạo rồi sau rốt, lăn tòm xuống huyệt.

Nhưng sự huỷ hoại thể chất cũng chưa đáng kể bằng sự mất mát này: chúng ta mất dần trí nhớ và sự sáng suốt. Não chúng ta sẽ vận hành với một tốc độ chậm chạp, khật khưỡng như bước đi của người thọt, bởi vì với tháng năm, rất nhiều lỗ hổng xuất hiện trong trí nhớ.

Cổ Loa là nơi tôi qua lại không biết bao nhiêu lần, Mỵ Châu và An Dương Vương là những cái tên từng gây biết bao xúc động trong tâm hồn tôi, vậy mà trong bài báo vừa rồi, tôi lại nhầm tên ông bố chí tình và rủi ro của nàng Mỵ Châu với ông vua Triệu Đà, kẻ thù của Thục Phán An Dương Vương, bố đẻ Trọng Thủy, kẻ đã dùng nam nhân kế để cướp nước Âu Việt.

Một sự nhầm lẫn kì cục đến như vậy chỉ có ông Trời mới tạo ra được thôi, và biết rằng không ai có thể chống lại luật trời, tôi sẽ thực hiện mệnh lệnh của thiên nhiên với sự ngoan ngoãn tuyệt đối: rút lui.

Các đồng đội, những người đấu tranh cho dân chủ sẽ chất vấn:

- Chị đã hứa sẽ đứng cùng chúng tôi cho đến hơi thở cuối cùng, bây giờ chị bỏ cuộc, chị nuốt lời?

Tôi trả lời:

- Tôi không nuốt lời, tôi cũng không bỏ cuộc, nhưng tôi sẽ góp sức vào cuộc đấu tranh bằng cách khác, tương hợp với khả năng, trừ phi tôi mắc bệnh Alzheimer.

Có thể họ sẽ nói:

- Chỉ có những lão già tham quyền cố vị mới bị người đời nguyền rủa, chị không quyền không chức, hà cớ chi phải rút lui? Dù già lão, dù bước đi khập khễnh chị cũng còn giúp được đôi chút, không nhiều thì ít trong cuộc đấu tranh này.

Tôi xin trả lời rằng:

- Những kẻ quyền cao chức trọng bám lấy cái ghế của họ vì những cái ghế ấy làm nảy ra những thỏi vàng, còn tôi, khi dấn thân vào tranh đấu, chỉ được hưởng tù đầy, đe dọa, tước đoạt, nhục mạ và vu khống. Họ và tôi đứng hai bên chiến tuyến. Nhưng chúng tôi có một điểm chung: thân phận người. Đã là con người thì phải suy tàn với thời gian. Hành động thuận theo lẽ trời thì không gây tổn thất cho đời mà cũng không đem lại sự hổ thẹn cho mình. Xứ sở chúng ta đã có quá nhiều người già chống lại lẽ trời, hành động không tính đến liêm sỉ, nói theo lối dân dã: già mà không biết nhục, tôi không thể làm thêm một con số cộng để đứng chung với bọn họ.

Như vậy, mọi sự đã rõ ràng.

Bây giờ, tôi xin trả nốt món nợ cuối cùng, trước khi đặt dấu chấm hết.

Nhà báo Huy Đức có trách tôi, đại ý là tại sao lại bàn quá nhiều về cô gái bao Hồ Thu Hồng, con người này không đáng để tốn nhiều bút mực.

Có thể ông Huy Đức đúng, theo cách suy nghĩ cổ truyền của các nhà nho Việt Nam, nhưng cũng có thể ông Đức sai, nếu tính theo hiệu quả.

Khi chúng ta mô tả một con cái ghẻ nó có mấy cái chân, nó hút máu theo cách nào, nó đào hang và sinh đẻ ra sao... không phải vì chúng ta quan tâm đến bản thân con cái ghẻ mà vì chúng ta quan tâm đến làn da đang bị ghẻ. Làn da ấy chính là hiện trạng của xã hội chúng ta đang sống giờ đây.

Bất cứ xã hội nào cũng được xem xét dưới hai góc độ: thành phần tinh hoa và đại bộ phận dân chúng. Hai bộ phận này không nhất thiết phải liên quan theo cùng một tỷ lệ trong mọi xã hội và mọi thời đại. Nhưng để hiểu một quốc gia, một xứ sở, một dân tộc, bắt buộc ta phải phẫu tích hai thành phần nói trên.

Tôi không cho cô Hồng là một trí thức đích thực, bởi có cố gán cho cô ta chức danh ấy cũng chẳng ai tin, nhưng sự thực là cô Hồng đang giữ chức tổng biên tập của tờ báo Thể Thao TpHCM, vậy thì muốn hay không cô Hồng cũng được xếp vào hạng tinh hoa xã hội. Cứ cho rằng cái ghế này cô có được là nhờ uy lực của tình nhân Nguyễn Văn Hưởng tức Trần, nhưng bấy lâu nay thiên hạ vẫn chấp nhận vị trí này theo cách chính danh, vậy qua đó, liệu ta có thể nhận thức được chất lượng xã hội hay không?

Hồ Thu Hồng là gái bao. Gái bao và gái điếm là nghề bán dâm, hoặc theo thời hạn dài, hoặc theo từng cú. Theo lẽ thường, đã hành nghề này thì phải náu mình trong bóng tối, bởi kẻ mua dâm có một gia đình với tất cả các mối liên hệ chằng chéo xung quanh nó. Y có một người vợ mà y không thể bỏ, bởi bà ta là những cơn si mê ân ái đầu đời, người đã chia xẻ với y những ngày cơm rau muối và là mẹ của những đứa con y, y có những đứa con và những đứa này sẽ phải lấy vợ lấy chồng, sinh con đẻ cái. Không một ai muốn thấy chồng mình, bố mình, ông nội hay ông ngoại mình chường mặt ra ở nơi nhà thổ, bởi hình ảnh đó sẽ gieo những tổn thất không thể cứu vãn.

Vì những lý do cổ truyền ấy mà ngay ở nơi tự do tình ái có thể trượt quá đà như nước Pháp, cũng chẳng có một thứ gái bao nào kêu ổng ổng lên khoe khoang “chiến lợi phẩm” như cô Hồ Thu Hồng. Sự khoe khoang này chỉ có thể xảy ra do hai duyên cớ:

- Hoặc một sự vô liêm sỉ ngoại hạng, ca tối ư đặc biệt.

- Hoặc một bộ não vô năng mà sự vận hành hoàn toàn tuân theo chỉ thị của cái dạ dày và phần dưới rốn. Tôi định nghĩa vắn tắt hơn: suy nghĩ bằng dạ dày và hai quả cật.

Tôi không rõ cô Hồng thuộc loại nào, nhưng tôi đề nghị nhà báo Huy Đức suy nghĩ lại: Thứ nhân cách như vậy được xếp vào bộ phận tinh hoa thì xã hội của chúng ta được xếp vào loại nào, và điều ấy liệu có khiến mọi người hổ thẹn hay không?

Sự hổ thẹn là một trong các phẩm tính của con người, theo nghĩa chân chính của từ này. Nó là kết quả của quá trình giáo dục và sự tự nhận thức, là rào cản vô hình để nhắc nhở con người dừng lại một khi các ham muốn không lành mạnh thúc đẩy họ. Khi cái bộ phận kiềm chế dục vọng này bị mất đi, con người sẽ trượt xuống dốc như chiếc xe không phanh, vô thức hay hữu thức.

Vô thức, nếu họ không đủ trí khôn để hiểu sự việc. Hữu thức, khi họ không chống nổi bản thân: quyền, tiền, tình dục trở thành các ông chủ tuyệt đối khống chế họ. Theo sự quan sát của tôi từ mấy chục năm nay, sự hổ thẹn là thứ thiếu vắng nhất trong xã hội Việt Nam, điển hình ở tầng lớp lãnh đạo. Xin nhắc lại ba sự kiện gây ấn tượng đặc biệt đã khắc sâu vào trí não tôi.

Một.

Trước khi bị bắt (1991) vài năm, tôi giao du với một số đại biểu quốc hội. Một lần, họ kể rằng ông Đỗ Mười lên đọc diễn văn, nửa chừng, bỗng nhiên sửa gọng kính chăm chú cúi xuống nhìn văn bản rồi dõng dạc nói: “A! Chỗ này chúng nó bảo nghỉ”.

Không cần giải thích, bạn đọc cũng sẽ hình dung ra sự việc. Diễn văn do thư kí viết, người này hẳn biết rõ trình độ ngôn từ của thượng cấp, với nhã ý giúp cho nghệ thuật hùng biện của nhà cầm quyền được nâng cao nên ông ta chua dấu “(nghỉ)” để nhắc nhở đấng bề trên. Chẳng ngờ đức vua dốt đến mức đọc oang oang “A! Chỗ này chúng nó bảo nghỉ” trên diễn đàn.

Nghe xong chuyện, tôi hỏi “Thế lúc ấy, mọi người phản ứng ra sao?” Hai nghị sĩ này cười bảo “Cúi đầu bấm bụng cười chứ còn biết làm sao”. Tôi hỏi tiếp “Vua ngu thế mà các quần thần không biết hổ thẹn à?” Họ im lặng.

Chúng ta biết danh từ “nghị gật” vốn đã có từ lâu, không cần đợi đến thứ “đại biểu quốc hội” của chế độ này. Nó là sản phẩm ở những xã hội mà nền dân chủ thực sự chưa hiện diện.

Hai.

Năm 1986, ông Tố Hữu bay mất chức phó chủ tịch thứ nhất phụ trách kinh tế, bởi trong năm năm cầm quyền (1981-1986) ông đã dẫn đất nước đến tình trạng lạm phát, cơn lạm phát này khiến toàn dân phẫn nộ bởi trong chốc lát họ trở thành kẻ trắng tay.

Hồi đó, một bà già khóc lóc bảo tôi “Mấy chục năm trước bán nhà, nghe chính phủ dụ dỗ gửi tiền vào ngân hàng, đổi tiền đi đổi tiền lại, giờ cả cái nhà gỗ năm gian chỉ còn đủ mua một gói mì chính 500 gram”.

Tuy nhiên, mất chức cũ ông Tố Hữu lại chuẩn bị để leo lên chức cao hơn: tổng bí thư, theo thông lệ đá hất lên của đảng.

Thế nào là đá hất lên? Tôi sẽ giải thích vắn tắt vì biết rằng các thế hệ sinh sau không hiểu nổi ý nghĩa của cụm từ này.

Đá hất lên nghĩa là bổ nhiệm một kẻ vừa bị huyền chức do các lý do vô năng hoặc vô đạo đức (ăn cắp, ăn cướp, giả mạo giấy tờ, ngủ với vợ người khác...) ở một chức cao hơn, quan trọng hơn, nhiều lợi nhuận hơn chức vừa mất.

Ví dụ: Vụ phó tại bộ văn hoá vì hủ hoá mà mất ghế thì sau đó vài tháng sẽ được bổ nhiệm làm Vụ trưởng tại Bộ Giao thông vận tải. Hoặc là, cục trưởng thuộc bộ Y tế phạm tội tham nhũng thì sau thời gian “kỷ luật đảng” sẽ được đẩy lên thành thứ trưởng Bộ Ngoại thương, vân vân và vân vân...Vì sao?

Vì mọi thay đổi nhân sự đều nằm trong tay Ban tổ chức đảng, trực tiếp dưới sự chỉ huy của ông Lê Đức Thọ, mà ông Thọ, như mọi người đã biết, để củng cố quyền lực bản thân nên chỉ bổ nhiệm những kẻ tuyệt đối trung thành với ông ta. Vì thế, dù phạm tội nặng đến đâu, nhưng sau vài tháng làm kiểm thảo, đám cán bộ phạm tội đều được Anh Lớn đưa lên bệ phóng để tiếp nhận các chức vụ quan trọng hơn, nắm trong tay nhiều quyền lực hơn. Lối bổ nhiệm kiểu này tiếp thu từ các triều đình xưa (thuật dụng Nhân) và từ các băng mafia thời hiện tại.

Như thế, ông Tố Hữu sau khi ngã ngựa, liền hăm hở bắt tay vào việc chuẩn bị một cú “đá hất lên” bởi lúc ấy ông Lê Duẩn tỏ ra vô cùng sủng ái nhà thơ Huế. Để bày tỏ lòng trung thành với ông Lê Duẩn, ông Tố Hữu hạ lệnh cho ban tuyên giáo dẹp những lời ca ngợi “ông cụ” (Hồ Chí Minh) mà chuyển sang ca ngợi anh Ba (Sáng suốt như “nghìn ngọn nến” là biệt danh ông Lê Đức Thọ đặt cho ông Lê Duẩn từ đầu thập kỉ 60 để đánh dấu mối liên minh nhằm hạ bệ ông già họ Hồ).

Cùng với việc thay đổi thần tượng, ông Tố Hữu liên tục đi thăm các tỉnh để mở chiến dịch vận động cho mình. Một trong các địa điểm đầu tiên ông đến thăm là Hải Phòng, lúc đó ông Đoàn Duy Thành đang giữ chức bí thư thành uỷ. Trong chuyến du ngoạn thành phố Hoa phượng đỏ nhà thơ lớn khoan khoái công bố bài thơ mới, trong đó có câu:

“Làm ăn” – hai chữ, à ra thế!

Bài thơ ấy được ngâm đi ngâm lại không nghỉ trên đài phát thanh với giọng thánh thót của các nghệ sĩ ưu tú nhất quốc gia. Mỗi lần nghe, một lần tôi sởn gai ốc. Tôi đang sống trong một chế độ mà những kẻ có quyền định đoạt số phận non sông là hạng người hoàn toàn vô năng và vô sỉ. Một ông quan đầu triều, kẻ nắm trong tay nền kinh tế quốc gia nghiễm nhiên công bố rằng ông ta không có chút hiểu biết nào về kinh tế, và sự ngu dốt này lại được trưng bầy một cách vô cùng duyên dáng qua con đường...nghệ thuật.

Thêm nữa, sau các tổn thất tầy trời gây cho dân chúng, ông quan này không mảy may hổ thẹn, không một ly sám hối, tiếp tục cuộc vận động để leo lên một chiếc ghế cao hơn. Nếu các công dân Việt Nam có ý thức, ắt họ phải rùng mình vì bấy lâu nay họ đang lênh đênh trên một con tầu mà các hoa tiêu là một đám người nham nhở suốt đời không hề đặt tay lên bánh lái.

Hoàn toàn vô năng và biết mình vô năng mà nhơn nhơn nắm quyền lực, hành xử đó vừa biểu đạt sự khinh bỉ dân chúng vừa chứng tỏ sự khinh bỉ chính mình. Nơi nào lòng hổ thẹn vắng mặt thì sự vô liêm sỉ lên ngôi. Sau các thất bại nghiêm trọng trên lĩnh vực tài chính, ông Tố Hữu không hề mở miệng nói một lời xin lỗi dân, đảng của ông ta cũng vậy.

Chỉ có ở một xứ sở điên như Việt Nam hoặc các nước trung phi vừa thoát thai từ tình trạng bộ lạc mới có loại lãnh đạo kiểu này. Chúng ta, những người được gọi là nhà văn nhà báo trong một quốc gia như thế, chúng ta có nên nhục hay không hở ông Huy Đức?

Ba.

Trước kia, cảng Hải Phòng là cảng quan trọng số một của đất nước, bởi hàng hoá xuất hay nhập đều dồn vào đó (đương nhiên, hàng nhập khẩu là chính). Khu vực nhà kho của cảng là khu vực được bảo vệ nghiêm cẩn nhất vì đó là tài sản quốc gia, đồng thời cũng là nơi tiếp nhận hàng viện trợ quân sự (vũ khí và quân trang).

Vào ngày mà hoả hoạn xảy ra tại Khu Nhà kho này, một cuộc hoả hoạn lớn chưa từng thấy, gây tổn thất vô cùng nghiêm trọng cho nhà nước, ông thủ tướng Phạm Văn Đồng đi xuống thực địa để quan sát. Hành động duy nhất của ông ta là khóc! Ông khóc ròng rã hồi lâu, chẳng nói một lời, trước sự im lặng của đám người tháp tùng và đám cán bộ phụ trách cảng.

Vì sao ông khóc? Chắc hẳn ông biết rằng vụ hoả hoạn này không thể xẩy ra do sơ sót ngẫu nhiên mà trái lại, nó được chuẩn bị một cách chu đáo trước khi thực hiện. Ai có thể làm được việc đó nếu không phải chính người của guồng máy quyền lực? Ăn cắp, sau đó gây hoả hoạn để phi tang.

Thủ đoạn này được nhắc lại nhiều năm sau tại Sài Gòn, nếu ai có trí nhớ tốt hẳn chưa quên vụ cháy ngôi lầu nhiều tầng, đó là khu trung tâm thương mại thành phố.

Sau khi khóc chán chê, trên đường về, ông Đồng thú nhận với các nhà báo tháp tùng rằng tuy là thủ tướng nhưng ông ấy chẳng có thực quyền, rằng ông ấy rất đau lòng nhưng chẳng biết làm gì cả...

Thông thường, các chính trị gia thích sắm vai khôn ngoan (sự khôn ngoan được chuẩn bị thường trực để trưng bầy) và đạo đức (đa phần là giả mạo). Họ cũng tìm mọi cách che dấu khuyết tật của mình. Ông Phạm Văn Đồng trong phút xúc động đột xuất bộc bạch tâm tư. Kể ra, về phương diện con người, thế cũng đáng khen. Chỉ tiếc rằng sau khi thú nhận mình sắm vai con rối, rằng mình nhu nhược, vô năng, ông ấy vẫn tiếp tục ngồi ghế thủ tướng hàng chục năm nữa mà không mảy may có ý định về hưu, tưới hoa hồng, vun gốc mai như nhiều vị quan có tư cách thời xưa.

Như thế, hàng chục năm đất nước tiếp tục bị điều hành bởi một đám nha lại núp sau áo ông thủ tướng bù nhìn, bị đục khoét bởi các vụ tham nhũng mà ông thủ tướng bất lực kia không hề hay biết và sự thối rữa của bộ máy quyền lực xảy ra một cách bạo hành mà chẳng một ai đứng ra giải quyết.

Thưa bạn đọc, ba ví dụ trên liệu đã đủ để chứng mình rằng sự hổ thẹn đã thường xuyên vắng mặt trên đất nước chúng ta? Rằng sự vắng mặt này đã xẩy ra từ lâu, từ rất lâu, mà không một ai để ý đến?

Vì sao có tình trạng này ?

Vì hai duyên cớ.

- Tính cường bá và lòng tham lam vô tận của kẻ cầm quyền.
- Sự cam chịu đến tê liệt của dân chúng.

Dân ta thường tự hào rằng mình đã thắng hai đế quốc lớn, mà quên rằng mục đích mọi cuộc tranh đấu đều chỉ nhằm mang lại tự do và hạnh phúc cho con người. Nếu không đạt được hai mục tiêu ấy, mọi cuộc đấu tranh chỉ là trò xẻo thịt, cắt đầu hoàn toàn vô nghĩa. Thế giới phương Tây quan sát xứ sở chúng ta, và họ liệt Việt Nam cũng như nhiều nước châu Phi vào loại nước hậu thuộc địa mà hiện tượng không tránh khỏi là hiệu ứng gương.

Thế nào là hiệu ứng gương?

Gương, theo nghĩa thông thường biểu hiện trung thành hình ảnh nó phản chiếu (loại trừ loại gương đặc biệt làm méo hình ở các nơi giải trí). Nếu mặt bạn tròn thì hình ảnh trong gương sẽ tròn, nếu bạn có chiếc nốt ruồi trên cánh mũi thì nốt ruồi đó sẽ hiện đúng vị trí ấy trên mặt bạn khi soi gương.

Hiệu ứng gương đối với các nước hậu thuộc địa là sau khi giành lại được độc lập từ tay các thực dân như Anh, Pháp, Tây Ban Nha... các chính quyền bản địa lại lặp đúng hình mẫu cũ. Có nghĩa là họ sẽ trở thành những tên thực dân cai trị dân tộc họ, nhiều khi còn độc ác hơn bọn thực dân chính thống do đặc tính cường hào, chánh tổng, tù trưởng bộ lạc (kẻ cầm quyền trong các cộng đồng nhỏ, cách biệt nền văn minh chung) thêm vào đó là lối hành xử dã man của những kẻ chưa có ý thức về quyền con người.

Anh em đấu tranh cho dân chủ đều biết tướng Trần Độ, khi còn sống đã nói “Nếu nhà tù Pháp thời xưa mà giống nhà tù cộng sản bây giờ thì bọn tớ chết lâu rồi, làm gì còn có người vượt ngục”.

Lời nhận xét này là một trong những lý do mà chế độ Hà Nội căm ghét ông, đương nhiên, cũng là lý do để chúng tôi cảm phục ông. Sự thành thật là điều vô cùng hiếm hoi dưới chế độ cộng sản.

Tại sao hiệu ứng gương xảy ra ở Việt Nam cũng như nhiều nước châu Phi?

Có nhiều lý do, nhưng lý do căn bản nhất là dân trí thấp. Để dễ dàng nô lệ hoá dân chúng, nhà cầm quyền Hà Nội đã áp dụng chính sách ngu dân một cách tối đa. Thời tôi còn trẻ, không một ai được nghe radio ngoại quốc, toàn dân chỉ được nghe đài Hà Nội, và lời lẽ của kẻ cầm quyền là nguồn thông tin duy nhất mà họ buộc phải chấp nhận. Chỉ các cán bộ cấp cao mới được ưu tiên nghe đài... Trung Quốc.

Về mặt vật chất, hẳn nhiều người còn nhớ những thập kỷ triền miên dân chúng sống với mớ tem phiếu, với các khẩu phần thức ăn của súc vật, với tình trạng bị đầy ải, bị hành nhục vì mỗi miếng ăn.

Khi con người bị vây hãm giữa nỗi thiếu thốn trường niên và một đời sống tinh thần ảm đạm, họ không thể trở thành con người thật sự, bởi toàn bộ nghị lực và thời gian của họ chỉ dùng để vật lộn với sự bần hàn. Họ không sống mà sống sót. Từ tình trạng sống sót lay lắt này, họ sẽ dễ dàng thoả mãn một khi cái bụng được đầy hơn, manh áo mặc được ấm hơn.

Ở châu Phi, nơi cái đói rình rập thường xuyên, điều này dễ dàng minh chứng. Ở Việt Nam, sau hai cuộc chiến tranh, sau rất nhiều chết chóc, thương vong, bệnh tật, người ta dễ dàng đi đến sự chấp nhận này: “Miễn là được sống!”, “Dẫu sao cũng còn hơn thời chiến tranh, sốt rét quanh năm, ăn rau rừng xanh rớt mặt”.

Đó là một hiện thực mà chúng ta dẫu muốn chối bỏ cũng không được. Hiện thực đó là một miếng mồi ngon, một mỏ vàng lộ thiên mà kẻ cầm quyền không bỏ lỡ cơ hội, họ đã khai thác triệt để tâm lý tiêu cực này. Sự thèm khát một đời sống an toàn luôn luôn dẫn dân chúng đến sự hèn nhát, từ hèn nhát đến hèn hạ là một khoảng cách không xa.

Từ những năm 1780, cách chúng ta hơn hai thế kỉ, nhà cách mạng Pháp Jean-Paul Marat đã nói rằng “La trop grande sécurité des peuples est toujours l’ avant-coureur de leur servitude”.

Dịch đại khái là “Sự an toàn thái quá của dân chúng là kẻ dẫn đường cho sự nô lệ của họ”.

Khi đọc những dòng này, tôi không khỏi chua xót. Chúng ta đang ở giai đoạn mà các dân tộc văn minh đã bỏ qua từ hai trăm năm trước.

Nhưng chấp nhận sự thực không có nghĩa là cam chịu sự thực đó như một hiển nhiên. Một dân tộc chậm tiến muốn thoát khỏi tình trạng ấy trước tiên phải đủ dũng khí nhìn thẳng vào sự nhục nhã của mình. Không biết hổ thẹn, không có cách nào thay đổi được số phận. Tình trạng thiếu vắng sự hổ thẹn của những người cầm quyền Việt Nam xảy ra lâu nay là do, trước hết, cơ cấu xã hội độc quyền tạo nên và dung dưỡng tâm lý tham lam, kiêu ngạo. Thêm nữa, bản thân họ không có khái niệm về tinh thần trách nhiệm, không được giáo dục đầy đủ để thấu hiểu lòng tự trọng cũng như tính liêm sỉ. Sau cùng, vì dân chúng im lặng cúi đầu. Sự im lặng này chỉ có thể giải thích bằng hai lý do: hèn nhát và ngu dốt.

Hèn nhát, bởi chính phủ cộng sản đã thế chân những tên thực dân Pháp mà cai trị họ, theo một hình mẫu còn khốc liệt hơn, tàn bạo hơn hình mẫu cũ. Sự cai trị này khiến dân chúng tê liệt vì sợ hãi. Người Việt Nam vốn là những người lính dũng cảm trong các cuộc chiến tranh chống ngoại xâm lại là những công dân hèn nhát trước sự hà hiếp của những tên thực dân cùng nòi giống, bởi vì họ chưa hiểu biết về quyền công dân cũng như quyền con người.

Ngu dốt, bởi từ hàng ngàn năm nay họ bị ảnh hưởng một cách sâu sắc đạo Khổng. Lý thuyết của Khổng tử là loại dây trói bằng mây, vô cùng dai, buộc họ vào một hệ thống giá trị lỗi thời, nói chính xác hơn, một hệ thống giá trị phản động.

© DCVOnline


Để gọi tên sự vật một cách rõ ràng – phần 1: Lợi quyền
Dương Thu Hươngviết riêng cho DCVOnline

Sáng ngày 27 tháng 10 năm 2010 toà án tỉnh Trà Vinh đã kết án ba nhà sáng lập công đoàn Tự do với mức án khiến công chúng kinh ngạc hoặc kinh hoàng.

- Anh Nguyễn Hoàng Quốc Hùng chịu án chín năm tù giam.
- Anh Đoàn huy Chương chịu án bẩy năm tù giam.
- Chị Đỗ thị Minh Hạnh chịu án bẩy năm tù giam.

Những người tù cộng sản
Nguồn: ©baovelaodong.com

Thấy dư luận xôn xao một cách thái quá, tôi xin góp đôi lời bình về nỗi kinh ngạc hoặc kinh hoàng của dân ta. Bởi vì, từ sự kiện này, chúng ta có cơ hội để phân tích hiện trạng đất nước một cách bao quát.


Hai tính từ “kinh ngạc” và “kinh hoàng” đều chỉ một hiện tượng: sự vật bất bình thường, hoặc chưa bao giờ thấy, hoặc phi logic, hoặc quá liều lượng cũng như chiều kích quen thuộc, và tất cả các đặc điểm trên khiến người ta ngờ vực.

Chúng có một điểm khác biệt: kinh ngạc chỉ trạng thái sửng sốt, bất tin một cách thuần tuý.

Kinh hoàng, bao gồm cả sự ngạc nhiên lẫn sự sợ hãi, sợ hãi đến tê liệt, và điều này đối với nhà cầm quyền quan trọng hơn. Nói một cách thẳng thừng, đây là hiệu ứng mà nhà cầm quyền Hà Nội cố tình tìm kiếm. Bất cứ chế độ độc tài nào cũng dùng các vụ xử án như một vũ khí đặc biệt hiệu nghiệm để trấn áp những kẻ đối lập và hù doạ dân chúng, biện pháp này tuy cổ điển nhưng chưa bao giờ lỗi thời.

Trở lại sự việc cụ thể là vụ xử án ba nhà sáng lập công đoàn Tự do: Tại sao họ lãnh án nặng đến như vậy? Phải chăng đây là cơn bốc đồng của một ông quan toà tỉnh lẻ vì bị vợ cắm sừng hay mắc chứng táo bón trầm kha nên trút nỗi oán hơn lên đầu kẻ khác, hoặc phải chăng đây là sự nhầm lẫn do lơ là, do vô ý, và một khi đã nhỡ nhầm thì các quan lớn không muốn rút lại lời?...

Tôi không tin vào những chuyện cắc cớ như vậy cho dù chúng vẫn thường xẩy ra trong cuộc đời. Đối với người cầm quyền Hà Nội, án của ba thanh niên sáng lập công đoàn tự do kia là xứng với tội danh của họ, thậm chí còn quá nhẹ. Nếu không e ngại sự phản ứng dội vào từ phía ngoài biên giới, ắt các án này còn cộng thêm nhiều năm cấm cố nếu chẳng phải là chung thân.

Hơn tất cả các thứ đảng phái đối lập, hơn mọi lời tuyên bố hùng hồn, văn vẻ của các bậc mũ cao áo dài, ba kẻ bình dân kia mới thực sự là mối đe doạ của họ, mối đe doạ sờ thấy được, ngửi thấy được, hình dung được một cách rõ ràng, mối đe doạ xác lập trên các nghiệm sinh.

Nghiệm sinh của con người vốn là phần cốt lõi nhất trong nhận thức của họ đối với thế giới xung quanh cũng như với chính bản thân, nghiệm sinh là kiến thức trực tiếp, yếu tố thứ nhất trong cấu tạo nền, mà yếu tố thứ hai là sự tổng hoà, sự điều tiết giữa bản năng với các kiến thức mà họ thâu nhận được trong quá trình sống theo cách gián tiếp (giáo dục, học hành, trao đổi với tha nhân).

Nếu như cuộc đời của một con người có các ngã rẽ, có các chuyển hướng căn bản thì những sự kiện trọng đại này thường xảy ra dưới áp lực của nghiệm sinh, vì lẽ các kiến thức trực tiếp luôn luôn là động năng tiên quyết điều khiển hành vi cũng như ứng xử của con người.

Nhà cầm quyền Hà Nội sợ hãi ba thanh niên đứng lên cầm ngọn cờ của những người lao động bởi vì ba người này là vọng âm, là hình ảnh phản chiếu, là bản sao lại của chính bản thân họ vào những năm tiền khởi nghĩa, những năm mà “quốc tế ca của những người lao động” vang vọng khắp nửa địa cầu:

Vùng lên, hỡi các nô lệ của thế gian,
Vùng lên, hỡi ai cực khổ bần hàn,
Đấu tranh này là trận cuối cùng...


Nói cho rõ ràng hơn, có thể ví hai chàng trai và cô gái đứng sau vành móng ngựa của toà án tỉnh Trà Vinh ngày hôm nay như đoạn phim chiếu lại hình ảnh người cộng sản những năm cuối thập kỉ 30 sang thập kỉ 40 khi họ đứng sau vành móng ngựa của các toà án thực dân, khi họ sôi sục nhiệt tình cách mạng và sẵn sàng quên mình vì độc lập của dân tộc.

Do tinh thần hy sinh và lòng can đảm cộng với các ưu thế đương thời, người cộng sản đã thành công trong khi rất nhiều chàng trai yêu nước dấn thân vào các xu thế chính trị khác, cũng đầy lòng hy sinh và thừa dũng khí, nhưng không đi đến được thắng lợi cuối cùng.

Hãy nhắc tên Nguyễn thái Học như biểu tượng của lớp người này, dù không đạt được vinh quang, nhưng họ vẫn sống mãi trong lòng dân tộc và bất cứ người Việt yêu nước nào cũng phải xây trong tim mình một đài tưởng niệm cho những anh hùng bất đắc chí.

Như thế, chính quyền cộng sản được dựng lên ngày 02/09/1945. Từ năm 1945 đến nay hơn nửa thế kỉ đã trôi qua, các chàng trai cộng sản năm ấy giờ ở đâu? Họ là ai?

Đương nhiên, nói theo nghĩa xác thực thì rất nhiều người trong số họ đã qua đời. Những người còn lại như ông Đỗ Mười, ông Lê Đức Anh và một số khác đã trở thành các tù trưởng bộ lạc, các lão trượng ngồi trên đống vàng, con cháu họ hàng của họ đoàn đoàn lũ lũ lúc nhúc chia nhau cầm nắm các vị trí then chốt, các rường cột của quốc gia, chia chác nhau các mối lời béo bở, tha hồ đục khoét ngân khố, đương nhiên thụ hưởng toàn bộ lợi quyền mà hàng chục triệu người dân Việt nam đã đổ xương đổ máu để giành lấy. Vậy thì bài ca “quốc tế lao động” khi dịch lời sang tiếng Việt đã ứng nghiệm một trăm phần trăm câu hát này:

Bao nhiêu lợi quyền ắt qua tay mình!

BAO NHIÊU LỢI QUYỀN ẮT QUA TAY MÌNH!

Đó là một ước muốn mãnh liệt nhưng kém phần phần thuận lý và hoàn toàn thiếu vắng tinh thần cao thượng.

Năm 1988, khi nói chuyện tại câu lạc bộ Trí thức Sài gòn, tôi đã chỉ ra đích danh câu hát này, nó phản chiếu một cách vô thức chí hướng cũng như tâm tư những người cộng sản Việt Nam mà ở đó, toát ra một cách không thể che giấu, lòng tham vô độ cũng như khát vọng thống trị tuyệt đối.

Trong bất cứ xã hội nào, khi một nhóm người đã chủ tâm thâu tóm toàn bộ lợi quyền vào tay mình thì xã hội đó ắt không thể tồn tại lâu dài bởi vì từ cổ chí kim, xã hội nào cũng hình thành trên sự cộng sinh, sự cộng sinh đòi hỏi sự tồn tại cùng một lần nhiều lớp người khác biệt và do đó phải có một đường lối chính trị thích hợp để cho mọi công dân đều có quyền lao động, sống, thụ hưởng cũng như có cơ hội phát triển. Điều này ở phương Tây người ta gọi là “Bình đẳng về cơ may cho mọi người”, còn ở nước Việt trong các triều đình thịnh vượng trước đây, tinh thần đó được phản chiếu một cách nôm na trong câu “Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân”. Nếu kẻ cầm quyền chỉ nghĩ đến mối lời của chính họ, ắt những nhóm người khác sẽ bị đẩy sang bên lề, bị tước đoạt, bị bần cùng hoá, nô lệ hoá, chịu đựng sự nhục mạ và nỗi đau khổ với các phương thức khác biệt, và như thế, con đường khởi loạn ắt không tránh khỏi.

Đừng quên rằng chính quyền Hà Nội hình thành được là nhờ ân sủng của cuộc cách mạng tháng tám. Cuộc cách mạng tháng tám thành công vì nó dựa trên hào khí của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, cảm hứng chủ yếu của phong trào này là ý chí tự chủ, sự kế tục truyền thống từ các khởi nghĩa Trưng Trắc, Trưng Nhị, Triệu Ẩu, Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung...

Một nghìn năm nô lệ giặc Tầu, tiếp đến một trăm năm nô lệ giặc Tây, trong vô thức dân tộc, đó là một dòng chảy không ngưng nghỉ của một cuộc kháng chiến không ngưng nghỉ, dẫu rằng có những giai đoạn chìm trong bóng tối lặng câm của máu và nước mắt. Nếu ông Hồ chí Minh không biết bắt chước (hoặc học hỏi, nói một cách văn chương hơn) các vua xưa để đoàn kết dân chúng, làm sao có chín năm kháng chiến thành công? Nếu những người dân Việt không quên thân vì tổ quốc, làm sao có thể xẻ dọc trường sơn đi cứu nước? Các cuộc chiến tranh này chẳng là gì khác hơn sự kéo dài các cuộc chiến tranh chống xâm lăng của Trần Hưng Đạo, Lý thường Kiệt, Nguyễn Huệ Quang Trung. Chiến thắng Điện biên Phủ chẳng là một công trình duy nhất, là hiện tượng đơn lẻ trong lịch sử Việt Nam mà nó chỉ là sự thay đổi địa dư và tên gọi của các trận thuỷ chiến Bạch Đằng, của trận chiến oanh liệt trên Gò Đống Đa.

Tuy nhiên, chế độ cộng sản Hà Nội đã núp dưới bóng ngọn cờ liềm búa, với chủ thuyết đấu tranh giai cấp của Mác như một người đàn bà Việt Nam cạo răng đen để lấy bộ răng có mầu cải mả và đổi bộ váy chùng sang chiếc quần. Phải nói rằng sự chọn lựa đó có tính định mệnh, kèm theo nó là các ưu thế tạm thời cùng những yếu tố phản động có tác hại lâu dài về mặt lịch sử.

Số phận một dân tộc cũng giống như số phận một con người, thường bị quyết định hoặc bị ảnh hưởng bởi các yếu tố nằm bên ngoài ý chí của chính họ. Vì thế, chúng ta không đặt lại vấn đề bằng những cụm từ “giả sử” hay “nếu như” bởi trong thực tiễn, các danh từ này là vô nghĩa. Điều chúng ta cần quan tâm là xã hội Việt Nam hiện nay, năm tháng này, bởi hiện tại và tương lai là các vấn đề khẩn cấp trong sinh tồn của một dân tộc.

Nếu coi chế độ cộng sản như một thứ triều đình, để tiện so sánh với các triều đình trong quá khứ như triều Lê, triều Lý, triều Trần, thì thứ chính trị mà chính quyền Hà Nội thực thi là thứ chính trị phi nhân, bất nghĩa, tham tàn nhất trong lịch sử Việt Nam. Sáu mươi lăm năm chỉ là một chớp mắt so với vĩnh hằng, nhưng quãng thời gian đó đã bộc lộ đầy đủ quá trình thối rữa của bộ máy quyền lực mà khởi thuỷ, ra đời được là nhờ sự ủng hộ của đại bộ phận dân chúng, bởi dân chúng tin vào các tiêu chí họ nêu lên:

Một chính quyền Nhờ dân, Do dân, và Vì dân.

Kiểm lại các sự kiện, ta thấy rằng:

Nếu sau chiến tranh, vua Trần đã quăng tráp đựng hồ sơ những người cộng sự với Tầu vào lửa để xoá đi một quá khứ nô lệ, để hoà giải mọi thành phần dân tộc, để có đủ hào khí viết nên trang sử mới cho đất nước thì ngược lại, sau năm 1975, nhà cầm quyền cộng sản đã bắt bớ, đàn áp, giam giữ, hành nhục hàng trăm ngàn binh sĩ của chính quyền miền Nam trong các trại tù khổng lồ, là tác nhân gây ra cuộc vượt biển tập thể chưa từng thấy trong lịch sử thế giới về mặt quy mô cũng như về tính tàn khốc.

Thuyền nhân!

Đó là danh từ độc đáo mà chính quyền Hà Nội đã sáng tạo ra. Danh từ này được dùng với một mật độ dày đặc trên các phương tiện thông tin toàn trái đất trong một quãng thời gian dài, từ những năm cuối thập kỉ 70, qua suốt thập kỉ 80, cho đến những năm đầu của thập kỉ 90. Danh từ này mô tả cuộc di dân kinh hoàng, bằng chứng sống động về tội ác của nhà nước cộng sản Việt Nam, gây phẫn nộ lẫn sự khinh bỉ một cách rộng rãi trên dư luận toàn thế giới.

Danh từ “Thuyền nhân” sẽ mãi mãi vĩnh định trong tất cả các cuốn tự điển của nhân loại, để ghi nhận khả năng độc ác và sự man rợ của con người đối với con người, một hiện tượng được liệt kê sau các lò thiêu Do Thái của Đức và quần đảo Goulag của Nga. Ở các nước châu Âu, nơi cuộc chiến tranh chống Mỹ được nêu lên như bằng cớ về tinh thần bất khuất của dân tộc Việt, thì tiếp theo đó, danh từ “Thuyền nhân” trở thành biểu tượng của thần tượng sụp đổ, của tội ác bị lộ diện, nói cách khác: mặt trái của tấm mề đay.

Thời xưa, sau các cuộc chiến tranh khi nhân tài, vật lực hao tổn, các vua Lý vua Trần đã ban hành chính sách khuyến khích sản xuất, cổ vũ dân cầy để tu tạo lại xã tắc giang sơn, do đó triều đình của họ mới bền vững.

Bất kể là ai, khi đã khoác long bào đều phải ghi xương khắc cốt câu “Chở thuyền cũng là dân mà lật thuyền cũng là dân”, cho nên sự vỗ về dân chúng không thời nào được lơi lỏng. Một khi triều đình quay lưng lại dân chúng, chỉ lo tham lam vơ vét cho đầy túi, chỉ lo thoả mãn lòng dục của bản thân, lúc ấy vua quan đã biến thành một lũ thú vật chỉ lo liếm láp bộ lông của chính mình, ắt giặc giã phải nổi lên khắp nơi và triều đình phải đi đến sự huỷ diệt.

Nhìn lại thời Mạt Trần là thấy rõ. Từ ngày khởi lập nhà Trần cho đến năm Hồ Quý Ly đoạt ngôi là bao nhiêu năm tháng? Từ 1225 đến 1400 là 175 năm. Một trăm bảy mươi lăm năm dẫn từ vàng son đến tro bụi, đó là thời gian cho quá trình thối rữa. Khá ngắn ngủi so với các triều vua phương Bắc nhưng lại quá dài so với chế độ Hà Nội.

Vào năm 1287, triều Trần tròn 62 tuổi, tướng Trần Hưng Đạo còn đủ uy tín, tài lực để làm cuộc kháng chiến vĩ đại chống quân Mông. Năm nay, chính quyền Hà Nội 65 tuổi, giả như bây giờ quân xâm lược kéo đến, liệu họ còn khả năng như tướng Trần Hưng Đạo năm xưa? Liệu trong đám các uỷ viên ngồi quanh bàn họp bộ chính trị, ai đủ nhân cách để đứng lên hô hào dân chúng?

Không cần đọc tin tức và các bình phẩm trên các site Internet, bởi những người sử dụng phương tiện này đã nghiễm nhiên được coi như “bộ phận tinh hoa” của xã hội, chỉ cần lắng nghe lời đám bình dân kháo nhau nơi quán xá một cách vô cùng hài hước và chua chát cũng có thể hiểu được thái độ của họ.

Nào là “bọn Vinashin thuộc phe thằng Dũng xỉn, chắc thằng khác muốn nhoi lên trong đại hội đảng kì tới nên lôi vụ này ra. Nếu tính đếm, còn bao nhiêu vụ Vinashin chưa bị lòi mặt?” Nào là “Con gái thằng Dũng xỉn nắm yết hầu ngành ngân hàng, liệu bố con nó có dưới hay trên một tỷ đô la?” Nào là “Đố các ông ai là tác giả vụ bô-xít ? Thằng Dũng xỉn kí nhưng kẻ giật dây lại chính là Tô Huy Rứa. Phải chăng thằng này là hậu duệ của lão Tô Định mấy ngàn năm xưa?” Nào là “Lão Nông Đức Mạnh đi đêm với bọn Tầu bao nhiêu lượt? Nghe đồn chúng nó ngầm bán đất cho Tầu lấy 5 tỷ đô la. Tất thảy các con số công bố trên báo chí đều là con số rởm”. Nào là “Trong mười năm vừa qua, mụ Trương Mỹ Heo và gia tộc nó đã cướp được bao nhiêu đất của dân cày?” Vân vân và vân vân...

Những lời bình phẩm quanh mâm cơm, quanh ấm trà thường nhật khá đủ để đo đếm mức độ khinh bỉ của dân đen đối với kẻ cầm quyền. Như thế, so với các triều đại cũ, quá trình băng hoại của chính quyền Hà Nội xảy ra một cách quá nhanh chóng, nói cách khác, quá trình thối rữa này được tính theo cấp số luỹ thừa. Nguyên nhân nào dẫn đến tình trạng này? Tôi cho rằng lý do đầu tiên là sự kiêu ngạo của nhà cầm quyền Hà Nội, lòng kiêu ngạo mà chính họ tự nhận là “Lòng kiêu ngạo cộng sản”.

Lòng kiêu ngạo cũng giống như lòng tham, làm mờ mắt con người. Mắt đã mờ thì tai cũng dễ điếc theo và trí nhớ trở nên cùn nhụt. Những người cộng sản Việt Nam mắc bệnh Alzheimer quá sớm. Họ ngửa mặt lên trời vênh vang hô không mệt mỏi “Chiến thắng Điện Biên Phủ”, đinh ninh rằng đó là thành công của riêng họ.

Họ đã quên rằng Điện Biên Phủ có được là nhờ hàng chục ngàn binh sĩ dũi đất, đào hầm, kéo pháo vượt núi đèo, hàng trăm ngàn dân công khắp các miền thồ lúa gạo ra tiền tuyến. Những con người này hy sinh vì nền độc lập của dân tộc, đương nhiên, nhưng cũng đồng thời hy vọng vào một ngày mai tươi sáng khi khẩu hiệu “Người cày có ruộng” trở thành hiện thực.

Kẻ cầm quyền cộng sản cũng lại quên rằng cuộc kháng chiến chống Pháp thành công là nhờ vào hàng nghìn gia đình hữu sản dốc vàng, đổ tiền nuôi tướng lẫn nuôi quân như ông bà Trịnh văn Bô, như giám đốc nhà máy in tiền Con Trâu Xanh, như bà Nguyễn Thị Năm, như cụ Cửu...

Ông Trường Chinh cũng như đa phần các đồng chí của ông ta từng ăn mòn bát tại nhà bà Nguyễn Thị Năm, các binh đoàn liên tục đến đó đóng quân vật hết đàn bò này đến đàn lợn kia ra ngả thịt. Thế nhưng, sự thật hiển nhiên cho thấy bà Năm là người đầu tiên bị bắn trong cải cách ruộng đất cùng cụ Cử, sau đó đến lượt hàng vạn người yêu nước khác, những người móc hầu bao lấy đến đồng xu cuối cùng để mua thóc gạo, thuốc men và quần áo gửi ra chiến trường.

Về phía những người nông dân, phần cay đắng cũng không thua kém. Hơn nửa thế kỉ đã trôi qua, nhưng khẩu hiệu “Người cày có ruộng” cho đến ngày hôm nay vẫn chỉ là một lời dối trá không e thẹn, và người cày, thay vì là nô điền cho chánh tổng, lý trưởng, địa chủ trở thành nô điền cho các cán bộ đảng.

Vậy thì, đối với tầng lớp hữu sản, người cộng sản cầm quyền là lũ vô ơn, ăn cháo đái bát, còn đối với đám nông dân cùng khổ thì họ là kẻ lừa đảo trắng trợn không mảy may áy náy lương tâm. Những chiếc răng chó sói luôn luôn là răng chó sói, dù chúng sơn đen hay để trắng, kẻ tham tàn dù nói lời lẽ nào vẫn là kẻ tham tàn. Hiện thực mạnh hơn mọi thứ xảo ngôn. Lá cờ búa liềm vẫn được kéo lên mỗi kì họp đảng, nhưng liệu còn ai tin rằng những kẻ đứng giơ tay chào lá cờ này còn là những người vô sản, đang nỗ lực tranh đấu cho các giai cấp bần cùng?

Câu trả lời sẽ là: Có! Vẫn còn những người tin vào điều đó, ấy là các con bệnh tâm thần, những ai đang sống trong trại điên Trâu Quỳ, đang ở nhà thương điên Đà Nẵng, hoặc các cơ sở chữa trị tâm thần khác trên đất nước. Tóm lại, những kẻ mất trí nhớ, những kẻ đập vỡ đồng hồ từ năm Con Ngựa (1954), hoặc những người bị bệnh Down.

Đại bộ phận dân chúng đều biết các quan chức cộng sản giờ đây đang sống ra sao. Họ đang xuỳ tiền mở các resorts, tức là các khu nghỉ mát cao cấp để hứng khách nước ngoài. Họ cưỡi máy bay sang Hồng Kông để đánh bạc và chơi gái. Họ có ngân khoản khắp các nhà băng trên thế giới, từ Thụy Sỹ đến Washington, từ Singapore đến Bangkok, từ Paris sang Berlin. Con cái họ đặt mua váy cưới tại các tiệm sang nhất trên đại lộ Champs Elysées, mỗi chiếc váy giá từ 130.000 đến 210.000 euros. Vợ lớn vợ bé hoặc gái bao của họ cưỡi các loại ô tô đắt tiền, các loại xe mà những người ngoại quốc làm việc tại Hà Nội hay Sài Gòn nhìn thấy phải tái mặt. Được như vậy là vì họ đã thực hiện một cách tuyệt vời câu ca “Bao nhiêu lợi quyền ắt qua tay mình”!

Chỉ một câu này thôi, đủ lý giải mọi chính sách được thực thi trên đất nước từ nửa thế kỉ nay.

Cho nên, xét trên phương diện tính thực dụng thì lá cờ liềm búa lúc này là thứ bùa hộ mệnh, tuy đã lợt mầu, nhưng vẫn còn hữu hiệu.

Trước hết, nó được sử dụng như loại thuốc an thần để dẫn đám dân đen vào giấc ngủ, đám dân bị tước đoạt và bị lùa ra bên lề xã hội, những nông dân bị đuổi khỏi đất đai, trở thành vô gia cư, vô điền địa, chen chúc quanh các kênh rạch bẩn thỉu của Sài Gòn hoặc các khu ngoại ô Hà Nội, làm đủ thứ nghề để tồn tại, mà trong các thứ nghề bấp bênh, khốn khổ nhằm mưu sinh, nghề làm điếm, ăn cắp là không thể tránh.

Lá cờ kia nhắc nhở một cách mơ hồ rằng các quan lớn cũng đã từng có thứ dây mơ rễ má nào đó, gần gũi họ, một thứ chủ nghĩa dân túy đặc biệt xảo quyệt và trữ tình.

Sau nữa, lá cờ này được coi là thứ khói độc, kiểu như lựu đạn cay của cảnh sát, để làm mù mắt (dù tạm thời) những công nhân lao động đến kiệt sức để lĩnh đồng lương trên dưới một triệu đồng Việt Nam, mà tiền thuê nhà trọ, nơi họ nằm xếp hàng như những con cá hộp, cũng đã mất năm trăm hoặc sáu trăm ngàn.

Không phải ngẫu nhiên mà người ta nói rằng, trong nhiều trường hợp, chính trị rất giống thứ nghề cổ truyền nhất trên trái đất: Nghề làm đĩ.

Xét trên khía cạnh bản chất của sự vật thì lá cờ búa liềm bây giờ là mảnh váy nát che đậy bộ phận sinh dục lầy lụa của những người cộng sản Việt Nam. Họ tiếp tục dùng nó dù trong thâm tâm, biết rằng tấm giẻ rách này không thể che kín thân xác họ một cách lâu dài.

Trong thâm tâm, họ sợ. Trong thâm tâm, họ biết rằng họ dối láo và không sự dối láo nào có thể đứng vững lâu dài. Già hay trẻ, ngu hay khôn, họ đều biết rõ rằng những năm tháng này là những năm tháng cuối cùng họ chen chúc trên chuyến tầu vét, mỗi kẻ tìm cách vơ cào vơ cấu, ngõ hầu lèn đầy túi, còn tương lai đất nước, vận mệnh dân chúng, lương tâm kẻ cầm quyền, trách nhiệm trước lịch sử, những khái niệm đó đã nằm bên ngoài mối quan tâm của họ. Hoặc là, họ chưa bao giờ với tới các ý tưởng đó, chúng là thứ quá xa xỉ đối với đời sống tinh thần của họ, những kẻ đang ngụp lặn trong tiền tài và khoái lạc. Hoặc là, khi nghĩ đến những điều đó, ngay lập tức họ sẽ hiểu rằng họ là kẻ bất khả và vì lòng tự ái luôn luôn mạnh hơn lý trí, họ sẽ cố tình lãng quên.

Nếu như trong đội ngũ quan chức, còn đôi kẻ biết giữ liêm sỉ, còn đôi kẻ biết lo âu khắc khoải cho vận mệnh non sông, những kẻ đó ắt bị vô hiệu hoá. Giữa một bầy chuột đang đục khoét, con chim sẻ lạc vào ắt bị cắn phòi ruột. Giữa đám chó sói, kẻ nào trái nòi, kẻ đó ắt bị phanh thây.

Bây giờ, để định danh giai cấp cầm quyền, ta cần lùi lại đôi bước trong quá khứ.

Thời cách mạng tháng tám, người cộng sản tự nhận là vô sản, dù rất nhiều người trong bọn họ xuất thân từ đám tiểu quan lại hay hào lý, bởi lẽ tấm môn bài vô sản lúc ấy vô cùng hiệu lực, nó là tiếng kèn đồng vang dội nhất với âm sắc tương hợp và nhạc cảm quyến rũ, đủ sức lôi cuốn, vẫy gọi và tập hợp tuyệt đại đa số nông dân bị bần cùng dưới chế độ thống trị của thực dân.

Những người dân cầy quả thực là động lực chủ của cuộc cách mạng này, bởi họ đã từng chứng kiến hai triệu đồng loại chết đói còng queo, xác rải dọc các con đường từ Thái Bình về Nam Định, từ Nam Định về Hà Nội, từ Thanh Hoá vào Vinh... Những xác chết này trở thành mối hù dọa đối với họ, bởi chính họ cũng sẽ có ngày gục xuống vì đói khát.

Tóm lại, sự tuyệt vọng và cái chết rình rập người dân cầy phía trước con đường. Để tự cứu mình, chỉ còn lối thoát duy nhất là vùng lên chiến đấu, lối thoát này được hình thành trong ngõ cụt, trong cơn tuyệt vọng của một đám đông. Đám đông ấy đã đi theo cách mạng để phá kho thóc, cứu đói, và cướp chính quyền. Trong con mắt dân chúng, người cộng sản lúc ấy thực sự là các anh hùng bởi họ đáp ứng một cách chính xác các khát vọng của một dân tộc nô lệ và đói khổ.

“Những anh hùng năm xưa, những người cầm cờ đỏ sao vàng vẫy gọi dân chúng làm cuộc cách mạng tháng Tám, giờ họ ở đâu? ”

Chúng ta cần lặp lại câu hỏi này vì điệp khúc bao giờ cũng là phần dễ nhớ nhất trong một bài hát. Câu trả lời sẽ là: Tuyệt đại đa số các chàng trai cộng sản năm xưa đã nằm trong nghĩa trang Mai Dịch. Còn người cộng sản bây giờ thực sự là các nhà tư sản đỏ, giai cấp tư sản được hình thành một cách đặc biệt trong hoàn cảnh đặc biệt nên chưa từ điển bách khoa nào trên thế giới tìm được định danh.

Giai cấp tư sản này được xác lập theo cách “truyền ngôi”, nói nôm na là được thâu tóm các vị trí quan trọng của guồng máy quốc gia một cách vô điều kiện để làm giầu, và quá trình làm giầu của họ được đặt trên các ưu thế tuyệt đối do quyền lực.

Tác giả Dương Thu Hương
Nguồn: i.telegraph.co.uk

Lấy một ví dụ cụ thể, nếu như trước cách mạng, ông Đỗ Mười dắt lợn rong qua các làng cho lợn nhẩy, hành nghề thiến lợn làm kế mưu sinh, thì con rể ông từ những năm cuối thập kỉ 80 đã trở thành chủ khách sạn Bảo Sơn. Để cho khách sạn này làm ăn thuận tiện, nhà nước đã mở đại lộ Nguyễn Chí Thanh, con đường được coi là đẹp nhất Hà Nội.

Chắc chắn không có gia đình tư sản nào ở Pháp được hưởng một thứ ân sủng hoàng gia theo kiểu đó. Điều này chỉ có thể xảy ra (dẫu rằng hiếm hoi) dưới các triều đại trước cách mạng tư sản, khi giai cấp quý tộc còn trong thời vàng son.

Hiện tượng sử dụng tài sản quốc gia vào mục tiêu kiếm lợi cho cá nhân được coi như đương nhiên và phổ biến trong chính quyền Hà Nội. Dưới các hình thức khác nhau, hiện tượng này xảy ra trên khắp các lĩnh vực, từ các vụ mua bán khí giới cho quân đội đến các vụ đấu thầu những công trình quốc gia như cầu, đường, điện lực, từ thương mại cho đến công, nông nghiệp, từ các hoạt động văn hoá, giáo dục cho đến các nghề nghiệp phục vụ khác.

© DCVOnline
-------
Để gọi tên sự vật một cách rõ ràng – phần 2: Sợ hãi
Dem Giua Ban Ngay
Dương Thu Hươngviết riêng cho DCVOnline

Với lịch sử cá biệt như thế, giai cấp tư sản đỏ Việt nam có ba đặc tính này:

Một: họ không tu tạo gia sản theo lối bình thường, cũng không phải cạnh tranh như các giai cấp tư sản ở các quốc gia khác vì được sự bảo trợ của bộ máy cầm quyền, do đó họ có thể đặc biệt giầu có dù đặc biệt ngu dốt.

Hai: họ thường xuyên dẫm đạp lên luật pháp vì hai lẽ:

- Luật pháp nằm trong tay cha chú họ và ở Việt Nam, bất cứ điều luật nào dù ghi trên giấy trắng mực đen cũng có thể bị bẻ queo vì các “lệnh mồm”.

- Đặc tính “Phép vua thua lệ làng” được truyền thụ một cách vô ngôn, vì thế bất cứ kẻ nào có quyền hành cũng áp đặt quyền lực bản thân lên trên các điều luật. Minh chứng gần đây nhất là hành vi của giám đốc tập đoàn Vinashin. Đặc tính này phổ biến trên toàn cõi Việt Nam, có thể gọi nôm na đó là đặc tính của bọn Chánh tổng.

Ba: vì hình thành và phát triển dưới bóng quyền lực độc tài, họ thường xuyên có mối quan hệ với bộ máy đàn áp. Bộ máy đàn áp, tới lượt nó, không thể tránh khỏi mối liên kết với thế giới tội phạm, công cụ đặc biệt hữu hiệu trong các lò sản xuất kim tiền tại các nước kém văn minh. Do đó, giai cấp tư sản đỏ chắc chắn mang tính chất mafia. Chỉ cần nhớ lại vụ án Năm Cam xảy ra năm 2001, với vai trò thứ trưởng bộ nội vụ, tổng cục trưởng tổng cục I, tức Tổng cục chống gián điệp, Bùi Quốc Huy, tên tục là Năm Huy, ta sẽ rõ tính mafia của chính quyền tư sản đỏ Việt Nam.

Với ba đặc tính trên, giai cấp tư sản đỏ Việt Nam là sản phẩm cá biệt, vừa mang tính chất chung của giai cấp này nhưng lại kèm theo rất nhiều yếu tố dị biệt mà nhân loại không hiểu nổi. Tôi tạm đặt cho sự dị biệt này hai tính từ: tính sân khấutính lưu manh.

Sân khấu, hay nói cách khác, đạo đức giả, vì ngoại trừ vài ba quốc gia đồng dạng như Trung Quốc, Bắc Triều Tiên và Cuba, chẳng ở nơi đâu giai cấp tư sản đứng chào cờ búa liềm và hát Quốc tế ca vô sản như đám quan lại đất Việt. Đương nhiên, ai cũng hiểu rằng họ hát theo kiểu con vẹt nhắc lại lời chủ dậy một cách máy móc, nhưng chẳng một ai đặt câu hỏi rằng “Họ nghĩ gì khi hát những lời ca ấy?”


Quốc tế ca
Nguồn: ctu.edu.vn

Phải chăng họ đã tự coi mình là loài vẹt nên không cần suy nghĩ? Phải chăng họ ngu đến mức không hiểu ý nghĩa của ngôn từ? Phải chăng họ đã quen đeo mặt nạ nên sự gian dối đối với họ trở thành tự nhiên như hơi thở? Phải chăng, từ những người lính dũng cảm năm xưa giờ họ đã rơi xuống vũng bùn của sự tham lam truỵ lạc, trở thành lũ người hoàn toàn vô sỉ và vô cảm, nói cách khác, một lũ lợn vục mõm xuống máng và chỉ còn biết duy nhất hành vi đó mà thôi?

Lưu manh, bởi vì họ đã chấp nhận thứ chính trị lừa đảo trên với sự trơ trẽn vô tiền khoáng hậu, thực thi cuộc dối trá tập thể này với các thủ đoạn tàn độc và hạ tiện, chẳng mảy may quan ngại công chúng. Nếu không hoàn toàn biến thành đám lưu manh, ắt họ phải hiểu rằng sự gian dối này là bất khả chấp nhận, rằng họ đang tiêu tiền giả, rằng họ đang phản bội lại nhân dân. Và sự phản bội nào cũng hứa hẹn những hiểm nguy theo luật nhân quả.

Hãy tạm đặt dấu chấm lửng ở đây, bởi sớm hay muộn thời gian cũng cho lời giải đáp. Lúc này, hãy nhìn thẳng vào thực tại và phân tích thực tại ấy vì điều đó khẩn cấp và thiết thực.

Hiện thời, nhà cầm quyền Việt Nam đang ngồi trên đống vàng, họ nhìn những đoàn người đói rách, bị bóc lột đến kiệt sức, bị dồn đến cùng đường tuyệt vọng với sự sợ hãi. Vì bất cứ sự sợ hãi nào cùng dễ dàng dẫn đến bạo lực nên họ thẳng tay đàn áp dân chúng.

Bộ máy đàn áp đang thuộc quyền sở hữu của họ, là vũ khí cốt lõi của nhà nước Stalin, nó được sử dụng một cách thường hằng. Bởi lẽ, họ biết chắc chắn rằng đám đông nghèo khổ kia chính là bản sao của họ hơn nửa thế kỉ trước, cũng như họ hơn nửa thế kỉ trước, đó là những kẻ nuôi mầm phản loạn và có ngày sẽ lật đổ ngai vàng.

Nhờ nghiệm sinh mà họ hiểu được ý nghĩ của đám người này, dù những ý nghĩ đó tồn tại trong thầm lén, trong câm lặng. Nghiệm sinh là phương tiện xác tín giúp họ nhận thức. Dẫu năm tháng qua, nhưng các nghiệm sinh cốt lõi không hề phai nhạt, bởi chúng được hình thành cùng một lần với các xúc động sâu sắc, những xúc động mãi mãi ghi khắc vào trí nhớ như những nhát đục trên đá của nhà tạc tượng, sẽ định hình cho đến phút lâm chung.

Họ đã trải nghiệm cùng một thứ tủi nhục, cùng nuôi cấy ý định lật đổ và trả thù, cảm thấy tận đáy sâu tâm hồn sức mạnh của hờn căm lẫn năng lượng tàn phá, cùng cảm thức về sự cám dỗ của ý muốn huỷ diệt, ý muốn nảy sinh bất cứ nơi đâu, khi con người bị đầy ải và bị tước đoạt mọi hy vọng. Họ hiểu rằng, chính đám đông phẫn nộ kia có thể làm một cuộc cách mạng khác, như họ từng làm năm 1945.

Tại sao không ? Cùng là người, cùng da thịt, cùng sự khắc khoải sinh tồn, ắt không thể không phản ứng trước đàn áp và bất công.

Vùng lên, hỡi các nô lệ ở thế gian,
Vùng lên, hỡi ai cực khổ bần hàn...


Bây giờ, Quốc tế ca đích thực sẽ cất lên trên môi những người khác, trên môi hàng triệu nông dân bị chính phủ cướp đất, hàng trăm nghìn công nhân bị bóc lột đứng dưới mưa và dưới nắng biểu tình.

Những công nhân này biết chắc chắn phần cay đắng họ sẽ phải chịu vì chính phủ luôn luôn đứng về phía các ông chủ. Các ông chủ Đại Hàn hay Trung Quốc, Pháp, Mỹ cũng như Tây Ban Nha, mũi lõ hay mũi tẹt đều là liên minh thắm thiết của nhà cầm quyền Việt Nam, bởi vì họ đem lại cho các quan lớn các tấm vé xanh, các tấm vé làm đầy ngân khoản tú ụ của các quan ông ở ngân hàng quốc ngoại hoặc đổi lấy những thỏi vàng ròng cho các quan bà gửi vào két tại ngân hàng quốc nội.

Ngược lại, dân chúng đã bị tách lìa khỏi khối “liên minh công nông” đường mật mà người cộng sản năm xưa từng hứa hẹn, hoặc nói chính xác hơn, hy vọng của họ đã tiêu biến như cát bụi cùng mớ danh từ sáo rỗng kia. Dân chúng giờ đây đã trở thành những kẻ đứng bên lề, nếu không gọi đích danh là những đàn bò để quan lại vắt sữa mà đôi khi, sự ương chướng của lũ bò làm rầy rà đám người chăn dắt.

Dân chúng, những người mà xưa kia cha ông họ lăn lưng vào chèn pháo hay lấy thân lấp lỗ châu mai, hoặc kĩu kịt đẩy xe thồ từ đồng bằng lên chiến trường Tây Bắc, những người mà xương cốt của cha anh họ đã rải trắng dãy Trường Sơn để ngày 30 tháng 4 năm 1975, lá cờ đỏ sao vàng có thể cắm lên trên dinh Độc Lập, những người ấy giờ đây là “kẻ bên ngoài” đối với các quan lớn, nói cách khác, họ là những kẻ đứng bên kia đường ranh giới phân biệt giai tầng.

Bởi vì điều đơn giản là các con rối cuộc đời đã thay vai.

Sự đổi thay này là lý do cơ bản khiến kẻ cầm quyền Hà Nội kết án ba nhà tổ chức công đoàn Tự do, hành động này không xảy ra đường đột hoặc hàm hồ mà được tính toán kĩ lưỡng và tuân theo logic. Nỗi kinh ngạc cũng như kinh hoàng của dân chúng chỉ là bằng cớ về sự thơ ngây hoặc khờ khạo của họ, những người đang huyễn hoặc bởi các ảo vọng hoặc bùi tai vì sự lừa mị của ngôn từ.

Tuy nhiên, khi trở thành giai cấp tư sản, kẻ cầm quyền Hà Hội quên rằng họ đã từng là học trò của ông Mác và ông tổ này dạy rằng “Ở đâu có áp bức, ở đó có đấu tranh”

Nếu như trước năm Con Gà (1945), họ nhai đi nhai lại câu này mỗi ngày, họ tuyên truyền, hò hét khẩu hiệu này đến hụt hơi, khan giọng, thì giờ đây, cổ họng họ đã lèn ứ vàng nên lưỡi họ cứng đơ và tai họ ù điếc. Họ quên hoặc làm ra vẻ đã quên. Nhưng dù kẻ cầm quyền quên hay nhớ thì cuộc sống vẫn tồn tại với các quy luật khách quan của nó.

Ở đâu có áp bức, ở đó có đấu tranh!

Câu nói này chẳng phải là một sáng tạo độc đáo mà chỉ đơn thuần là một nhận xét khách quan. Từ cổ chí kim, từ đông sang tây, nơi nào con người bị áp bức nơi đó họ phải đứng lên đòi quyền sống. Từ Spartacus đến Hoàng Sào, từ những đám “giặc châu chấu, giặc trâu trắng” xuất hiện ở đồng bằng Việt Nam nhiều thế kỉ trước đến các cuộc biểu tình của công nhân hầm mỏ ở Nam Mỹ thế kỉ XX, nơi nào và thời nào cũng có thể tìm được các bằng chứng của quy luật phổ biến.

Như thế, người cộng sản Việt Nam không thể tự cho họ độc chiếm quyền đấu tranh. Họ cũng không thể triệt tiêu khả năng tranh đấu của dân chúng một cách lâu dài bởi điều đó nằm bên ngoài khả năng của họ. Sự bắt bớ các nhà báo mới gần đây, cũng như vụ đẩy ba nhà sáng lập công đoàn Tự do về tỉnh Trà Vinh xét xử là các vết mụn mưng mủ mọc trên gương mặt kẻ cầm quyền Hà Nội, triệu chứng hiển nhiên của bệnh aids ở giai đoạn thứ ba.

SỢ HÃI!

Có nhiều định nghĩa về sự sợ hãi, nhưng chúng ta không liệt kê các định nghĩa mà chỉ phân tích một số triệu chứng lâm sàng của hiện tượng này.

Cảm thức sợ hãi nảy sinh khi con người nhận thấy cuộc sống của họ mất đi hoặc có nguy cơ mất đi sự an toàn, an toàn cho đời sống vật chất cũng như tình cảm.

Người ta sợ hãi khi giáp mặt cái chết, người ta sợ hãi khi có nguy cơ mất đi các tiện nghi, một chỗ làm béo bở, một ngôi nhà đẹp, một người tình. Người ta cũng sợ hãi trước nguy cơ bị phát giác các lỗi lầm và bị khinh bỉ: vụ án nổi tiếng ở Hà Nội nhiều năm trước đây là vụ án một phụ nữ ngoại tình dùng dao ăn đâm chết chồng khi anh này dò theo để bắt quả tang chị ta ngồi tình tự với tình nhân ở Hồ Tây. Con dao đem theo là để cắt bánh mì ăn, rút cục trở thành vũ khí sát nhân, do đó vụ án này được coi là án trọng điểm, được đưa vào các bài giảng luật pháp như điển hình về sự ngộ sát.

Sợ hãi là một cảm xúc thường hằng trong đời sống nhân loại, tuy nhiên cảm xúc ấy vô cùng phức tạp và trong phạm vi bài viết này, tôi không có tham vọng đề cập tới các khía cạnh khác nhau của nó. Vì khẳng định là động lực bắt bớ các nhà báo cũng như xử án nặng ba thanh niên sáng lập công đoàn Tự do của chính quyền Việt Nam là sự sợ hãi nên trong phần thứ hai của bài viết, tôi sẽ nêu lên một vài sự kiện có liên quan tới ý tưởng này.

Trước hết, có rất nhiều thứ sợ hãi.

Thứ sợ hãi đơn phương khi một đối tượng tuyệt đối mạnh, tuyệt đối ưu thế, có thể thực thi quyền lực trên đối phương một cách vô điều kiện. Thứ sợ hãi song phương xảy ra khi hai đối thủ ngang tài ngang sức lần đầu đọ găng trên võ đài, vì là lần đầu chưa ai hiểu biết ai nên sự sợ hãi được chia đều cho hai phía.

Theo luật tự nhiên, con người thường rơi vào tâm trạng khắc khoải hoặc hãi hùng khi đối diện với những gì nằm bên ngoài tầm hiểu biết của họ. Đây là thứ sợ hãi của con chuột khi rời khỏi hang, của con nai khi lạc rừng, của dân đô thị khi vào rừng sâu và ngược lại. Thứ sợ hãi nội tại, được coi như kết quả của quá trình tâm lý xảy ra trong một cá nhân, cũng có thể biểu hiện thành hành vi, cũng có khi âm ỉ như trạng thái ủ bệnh. Thứ sợ hãi này xác lập trên cuộc đấu tranh thầm kín, đối tượng thứ nhất là lương tâm, còn địch thủ của lương tâm là chính con người cùng các hành vi của anh ta. Các cụ xưa có câu

“Chưa đánh được người mặt đỏ như gấc
Đánh được người rồi mặt vàng như nghệ”

Cách ngôn đó diễn đạt một trạng thái của thứ sợ hãi này. Nhiều kẻ sát nhân cũng trải nghiệm thứ cảm xúc ấy, dù án mạng không bị lôi ra ánh sáng.

Vân vân và vân vân...

Chúng ta sẽ phân tích thứ sợ hãi đơn phương vì nó liên đới một cách chặt chẽ đến hiện trạng đất nước giờ đây.

Sự sợ hãi đơn phương có tính tập thể đã từng diễn ra nhiều lần trong lịch sử nhân loại.

Cuộc di dân xa xưa của người Do Thái khi vượt qua Biển Chết để đi tìm miền đất hứa đã xảy ra khi dân Do Thái bị đàn áp, bị tàn sát một cách đại trà, rơi vào ngõ cụt của sự sợ hãi và tuyệt vọng, rồi chính sự hãi hùng và tuyệt vọng này đã khiến họ đủ can đảm rời bỏ Ai Cập ra đi dù cuộc ra đi ấy phải đổi bằng những mất mát lớn lao cũng như phải chấp nhận muôn vàn nguy hiểm. Các cuộc tàn sát, săn đuổi phù thuỷ xảy ra ở châu Âu trước đây là ví dụ điển hình về sự sợ hãi đơn phương vì những nạn nhân không có cách phản ứng nào hơn là nhẫn nhục chịu đựng sự tra tấn của đám đông rồi sau cùng chết thiêu trên dàn lửa. Dưới chính quyền Stalin, hàng chục triệu người Nga bị đầy tới các trại tù ở Siberia cũng sống trong sự sợ hãi đơn phương trước mũi súng của chính quyền Xô viết. Sau năm 1975, hàng trăm nghìn binh sĩ miền Nam cũng như gia đình họ cũng có chung kinh nghiệm về sự sợ hãi này, bởi chính quyền Hà Nội lúc đó có sức mạnh tuyệt đối, hệt như sức mạnh của chính quyền Hitler những năm 1941, 1942, 1943, 1944 cho đến tận tháng 2 năm 1945.

Sự sợ hãi đơn phương xảy ra khi kẻ mạnh tự cho là Thượng đế, còn các nạn nhân bị tê liệt vì hãi hùng, nói cách khác họ bị tước đi toàn bộ vũ khí tuỳ thân, kể cả vũ khí tâm lý, nghĩa là niềm tin rằng mình vô tội, rằng mình có quyền sống.

Khi sự sợ hãi đơn phương đã thực thi một cách thành công quyền năng của nó trên một đám đông thì bao giờ nó cũng có một bạn đường, một trợ thủ đắc lực, ấy là một thứ tôn giáo để biện minh cho hành vi của kẻ mạnh đồng thời để nhào nặn các nạn nhân trong khiếp nhược. Thứ tôn giáo này có thể khoác áo, đội mũ của vua chúa Ai Cập cổ, có thể hiện hình dưới lý thuyết thanh trừng của Giáo hội châu Âu, có thể mang hình hài “người hùng” với dòng máu xanh của Hitler, có thể thổi toe toe kèn đồng biểu dương “niềm kiêu ngạo cộng sản” của đám cầm quyền da vàng mũi tẹt Việt Nam sau ngày 30 tháng 4 năm 1975.

Tóm lại, không có sự sợ hãi tập thể nào thiếu yếu tố thần bí, một trạng thái “nhập đồng” cho cả hai phía, theo nghĩa tiêu cực của ngôn từ. Kẻ sắm vai Thượng đế, trong cơn nhập đồng thật sự tưởng mình là Thượng đế toàn năng. Đám nạn nhân, trong cơn nhập đồng, mất hoàn toàn lý trí và dũng khí, bị đẩy vào trạng thái trầm uất, không còn tìm được các phản ứng cần thiết để tự bảo vệ mình. Giống như kẻ say, hoặc họ không đứng lên nổi, hoặc họ loạng choạng bước trên đường vì không nhìn rõ lối đi.

Tình trạng này sẽ kéo dài trong một khoảng thời gian nào đó, tuỳ theo hoàn cảnh cụ thể, cho đến lúc cơn nhập đồng chấm dứt, kẻ sắm vai Thượng đế chợt nhận ra họ thôi là Thượng đế, các nạn nhân ra khỏi cơn trầm uất, mở to cặp mắt để nhìn kẻ thống trị mình, chợt nhận ra rằng đó cũng chỉ là một con vật đi bằng hai chân sau, và cũng như họ, có đầy khả năng khiếp nhược. Thời khắc đó, người ta đặt tên là thoát nhập đồng. Thời khắc đó, sự sợ hãi được chuyển đổi vị trí, và căn cứ vào một số trường hợp đã xảy ra trong lịch sử, sự chuyển đổi này xảy ra như một nhu cầu tự nhiên để lấy lại thế cân bằng.

Ra khỏi cuộc chiến tranh, tôi may mắn hơn nhiều người khác vì đã thoát nhập đồng khá sớm.

Sự kiện có tính quyết định xảy ra vào mùa thu năm 1975. Trên các ngả đường từ Sài Gòn trở ra Quảng Bình, đặc biệt trên vùng đất Quảng Trị, tôi chứng kiến cảnh những người lính bị khám xét, lục soát, hạch sách, nhục mạ hệt như các nô lệ tại các khu vực được mệnh danh là “trạm kiểm soát quân nhân”. Ở các trạm này, lính phải tháo cởi ba lô, lục lọi hành lý để trình bày trước đám nhân viên kiểm soát.

Nhà nước ra lệnh cho mỗi người trong bọn họ chỉ được phép mang về miền Bắc một chiếc khung xe đạp, một con poupée nhựa, hai chiếc rổ rá nhựa và một chiếc chảo nhôm. Họ không được phép mang thêm các thứ hàng hoá khác bởi điều ấy sẽ là bằng chứng xác thực ca ngợi “chủ nghĩa phồn vinh giả tạo của chính quyền miền Nam”, và như thế, một cách tố cáo hiển nhiên sự nghèo khổ lầm than ngự trị bấy lâu nay trên đất Bắc.

Quan sát cảnh tượng ấy, tôi có hai cảm xúc trái chiều. Cảm xúc thứ nhất là nỗi xót xa. Nỗi xót xa đối với người thân. Tại sao lại là người thân? Điều này có vẻ khó tin với những người chỉ sống trong cảnh thanh bình nhưng hoàn toàn dễ hiểu với tất cả những ai đã trải qua cuộc chiến tranh chống Mỹ. Quảng Bình là yết hầu của đường dây 559, trong suốt những năm chiến tranh lính qua lại các binh trạm không ngưng nghỉ. Tôi luôn có dịp gần gũi, trò chuyện với các “đồng hương trẻ tuổi”, mối liên kết giữa chúng tôi nằm trong tình đoàn kết cổ truyền của người dân Việt, thứ tình cảm đã làm nên sức mạnh của các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm.

Những năm ấy, trước thế thượng phong của Mỹ trong một cuộc đối đầu không cân sức, trước tất thảy những mất mát kinh hoàng và sự gian khổ vô cùng tận, người ta phải thương nhau thực, yêu nhau thực, chia cơm xẻ áo thực mới sống nổi, người ta không thể lừa đảo lẫn nhau và đểu giả như bây giờ. Vì tình đồng loại thấm thía ấy, cái hiện thực phũ phàng xẩy ra mùa thu năm 1975 là một cú đấm nổ đom đóm mắt đối với tôi. Hoặc mắt tôi tối sầm vì phẫn uất, hoặc cái hiện thực kia không thể nuốt trôi.

Trước mặt tôi, những người lính từng được ngợi ca suốt các năm dài là các anh hùng vượt Trường Sơn, những con người đáng yêu đầy dũng khí đó trong phút chốc trở thành những kẻ thảm hại, khiếp nhược. Họ gãi đầu gãi tai xin xỏ đám nhân viên kiểm soát khi họ muốn mang thêm một con poupée bé tẻo tèo teo để làm quà cho cháu, hoặc chiếc rổ nhựa thứ ba để cho người chị ruột.

Nhìn những gương mặt khổ sở của họ, giọng nằn nì cầu khẩn của họ, tôi có cảm giác như máu đông lại giữa tim. Tôi biết rằng con người có thể bị phản bội một cách dễ dàng, và sự phản bội có thể đến ngay vào lúc người ta không ngờ tới. Chính quyền này đã phản bội lại nhân dân quá sớm, vì âm ba của tiếng súng chưa dứt hẳn bao lâu. Cơn say chiến thắng khiến họ tự cho phép mình làm tất cả mọi điều mà không tính đếm đến hậu quả của các hành vi đó.

Tôi cũng hiểu rằng các khái niệm như đạo đức, lương tâm, tinh thần vị tha không thể là bạn đồng hành với kẻ nắm quyền, nhất là khi quyền lực ấy đặt trên cơ sở độc đảng.

Trước đó vài tuần, khi đang còn ở Sài Gòn, do các mối quen biết mà tôi chứng kiến tận mắt các quan ông, quan bà dùng từng đoàn xe tải của nhà nước để chở hàng riêng về Hà Nội cho gia đình họ. Nào giường tủ, salon, tủ lạnh, máy điều hoà nhiệt độ, quạt máy, radio, loa thùng nghe nhạc, vải vóc quần áo và cho đến cả bát, đĩa, li tách... Cơn khát triền miên của những kẻ thiếu thốn tiện nghi trong chế độ Xã hội chủ nghĩa được thoả mãn thả phanh.

Không ai trách cứ họ vì điều ấy. Con người có quyền được sống sung sướng và mọi sáng tạo của nhân loại cũng chỉ nhằm mục đích làm cho cuộc sống tốt đẹp hơn. Điều đáng hổ thẹn là nếu họ tự cho phép mình thụ hưởng ê hề mọi tiện nghi, hà cớ gì họ ngăn cấm người lính, hạn mức cho họ ở một chiếc khung xe đạp và một con poupée ?

Ở đây, tính độc ác và sự đạo đức giả tự lột áo cùng một lần. Cái thể chế ra rả tuyên bố nhân nghĩa, ong ỏng ngợi ca sự công bằng bình đẳng té ra là một xã hội phân chia đẳng cấp khốc liệt và trắng trợn hơn bất kì thể chế nào khác.

Cuộc kháng chiến chống Pháp cũng như chiến thắng ngày 30/04/75 chẳng rơi từ trên trời xuống mà đó là các đài tưởng niệm xây trên xương cốt của lính và của dân. Tính kiêu mạn và sự độc ác của chính quyền cộng sản ngày ấy đã khởi dậy trong tim tôi cảm xúc thứ hai: sự khinh bỉ và lòng căm uất. Thứ tình cảm này, một khi đã nảy nở sẽ không ngừng phát triển theo chiều rộng cũng như theo bề sâu. Lẽ đương nhiên, con đường chống độc tài, đòi dân chủ đối với tôi là một hành trình logic.

Từ khi các ý tưởng trên nảy sinh cho đến lúc thực thụ bắt tay vào hành động đòi hỏi một quãng thời gian chuẩn bị khá dài. Tôi không sinh ra để làm nghề lật đổ, cũng không biết bắn súng hoặc sử dụng một vũ khí nào khác. Tôi không được đào tạo để có kiến thức về quân sự cũng như về chính trị. Tóm lại, tôi là kẻ vô năng khi dấn thân vào con đường đấu tranh. Tuy nhiên, tôi hiểu rằng nhà nước Việt Nam là nhà nước cảnh sát và sức mạnh của nó là chính ở đây, đúng theo định nghĩa của Lenin: chính quyền tựa trên nòng súng.

Vậy thì, để chống lại thể chế độc tài, đòi dân chủ, không có cách nào chuẩn xác hơn là đánh vào trụ cột của nó, tay chân của nó, bầy chó berger hung dữ của nó: công an.

Sách lược của tôi là: Muốn chống lại kẻ thù tốt hơn cả là học hỏi chính kẻ thù ấy.

Một con lươn bị ném vào giỏ cua ắt sẽ bị lũ cua kẹp nát. Muốn vào giỏ cua thì phải có hai cái càng cua. Do đó, văn chương đối với tôi trở nên trò chơi thứ yếu, tôi chú tâm vào học hỏi một nghề mới: nghề công an. Nghề dò la. Nghề thám tử. Nghề chó săn, nếu muốn gọi một cách khinh bỉ, cái nghề mà ông Vũ Ngọc Nhạ đã làm xưa kia trong chính quyền Diệm, giờ tôi làm trong xã hội miền Bắc, cái xã hội mà tôi biết chắc chắn rằng ông Vũ Ngọc Nhạ đã kịp nhận ra chân tướng của nó, sự tàn ác, lũng nhạm, bội bạc, ti tiện hiển nhiên của nó và ông đã mang theo một khối hận trong câm lặng cho đến lúc xuống mồ.

Trong Bộ Nội vụ, tổng cục quan trọng nhất là Tổng cục I, chính danh là Tổng cục Chống gián điệp, do đó, mục tiêu của tôi là ở đây.

Thời gian ấy, tướng Dương Thông đang giữ chức tổng cục trưởng. Tướng Dương Thông, biệt danh là “hung thần của chế độ”, người đã trấn áp hết sức thành công vụ Nhân văn giai phẩm, cũng như vụ Xét lại chống Đảng, đã đặt hàng loạt văn nghệ sĩ vào mạng lưới chỉ điểm, buộc những kẻ vốn được gọi là nhà văn, nhà thơ, nhạc sĩ, hoạ sĩ... hành nghề chó săn cho chế độ với các mức trợ cấp thường niên, thường quý hoặc các loại quà bánh, bổng lộc, tuỳ theo “thành tích chó săn”.

Vì tầm quan trọng của nhân vật này, tôi đã phải chuẩn bị khá lâu và chỉ nhờ sự giúp đỡ tận tình của một số anh em mới có thể dò tìm được vài nét đáng chú ý trong lý lịch quan lớn. Sự may mắn đã xảy ra khi việt kiều Bùi Duy Tâm tìm cách gặp tôi qua đạo diễn Trần Văn Thuỷ năm 1990.

Tôi biết rằng đây là cơ hội vàng để tìm ra sự thật. Đầu năm 1991, khi ông Bùi Duy Tâm quay lại Hà Nội, tôi chấp nhận đi chơi sông Đà cùng anh em Bùi Duy Tâm, Bùi Duy Tuấn.


Phó Tổng Cục trưởng Bộ Công an Dương Trọng Thông
Nguồn: wikipedia

Nhờ cuộc hành trình ngắn ngủi này, tôi đã thu được cuốn băng mà trong đó, Bùi Duy Tâm khẳng định rằng hai lần ông ta bị bắt và cả hai lần tướng Dương Thông can thiệp để trả lại tự do cho ông ta là vì ông ta đã trả Dương Thông rất nhiều tiền: “Đó chẳng phải quà cho không”. Rằng, mối quan hệ của ông ta với Dương Thông đã phát triển tốt đẹp và điều kiện thuận lợi này cho phép ông ta tiếp xúc nhiều lần với Bộ tổng tham mưu quân đội nhân dân Việt Nam, với đích danh đại tướng Nguyễn Thị Định, nhằm bàn với các nhà lãnh đạo tối cao ở Hà Nội về việc bán kho vũ khí Long Thành, việc bán dầu thô, việc khai khoáng...

Chuyến đi sông Đà kết thúc, tôi vừa kịp chuyển cuốn băng này ra nước ngoài thì bị bắt, tháng 4 năm 1991. Như mọi người đã biết, tội danh của tôi được hệ thống truyền thông của nhà nước tuyên bố là “tuyên truyền chống lại nhà nước Xã hội chủ nghĩa, ăn cắp tài sản quốc gia bán cho ngoại bang. Làm gián điệp cho ngoại bang”.

Với sự can thiệp của tổ chức nhân quyền quốc tế, đặc biệt là sự can thiệp của chính phủ Mitterrand, họ đã thả tôi ra sau gần tám tháng giam giữ, hành động vội vã đến mức không kịp làm bản tống đạt.

Sau đó, ông bộ trưởng Bùi Thiện Ngộ cử người đến nói rằng “Theo luật, nhà văn Dương Thu Hương có quyền khiếu kiện nhà nước, nhưng việc này chắc chắn sẽ bất lợi cho cả hai bên. Vậy, bộ trưởng đề nghị dàn xếp một cuộc thanh toán giữa nhà văn Dương Thu Hương với tướng Dương Thông, hy vọng điều kiện này có thể mang lại kết quả tốt đẹp”.

Tốt đẹp? Tôi nghi ngờ danh từ mĩ miều đó. Nhưng tôi cần cuộc thanh toán với tướng Dương Thông, tôi cần đối mặt với “hung thần chế độ”, tôi muốn khạc nhổ vào thứ đại diện của sự tham lam và thói đạo đức giả, vào con berger điển hình của đảng cộng sản Việt Nam. Tôi chấp nhận.

Cuộc gặp giữa quan lớn Dương Thông và tôi đã xảy ra tại căn phòng nhỏ giáp cổng vào 15 Trần Bình Trọng. Đương nhiên, tôi ghi âm và Bộ nội vụ cũng ghi âm. Đương nhiên, các đồng nghiệp của ông Dương Thông sẽ được nghe rõ ràng những lời tôi nói (bởi chắc chắn tôi đã nói rất to, nói theo kiểu chửi giữa hàng tổng, còn ngược lại, ông tướng công an lại cất tiếng nhẹ nhàng, nhẹ nhàng và run rẩy).


Bùi Duy Tâm
Nguồn: ykhoasaigon.com

Tôi nói rằng “Sau rốt, tôi biết ông cũng chỉ là một con đĩ, một kẻ bán mình. Nhưng trên đời có nhiều loại đĩ, thảm hại cho ông, ông là loại đĩ đứng vỉa hè, loại ngả thân dưới hàng rào công viên hoặc ven cống. Bán mình cho Bùi Duy Tâm, chứng tỏ ông thuộc loại điếm năm xu”.

Mặt hung thần chế độ thâm đen, cặp môi ông ta run lật bật. Khoảnh khắc ấy, tên đao phủ sợ hãi. Khi sợ hãi, y cũng thảng thốt, nhớn nhác, thất thần như những kẻ bị tra tấn trong nhà tù.

Tôi nhìn bộ mặt nhem nhuốc sần sùi của Dương Thông và nghĩ “Mày đã từng đẩy biết bao nhiêu người vào nhà tù, đã bầy ra trăm mưu ngàn kế để sát hại tha nhân, và bây giờ tới lượt mày run như cầy sấy. Phải chăng suốt đời mày chỉ là một con chó berger và đến lúc này đây, chỉ khi bị lột mặt nạ, chỉ khi bị đẩy vào chân tường, mày mới bắt đầu thấm thía nỗi thống khổ?”

Người thay thế tướng Dương Thông lãnh đạo tổng cục I là Bùi Quốc Huy tức Năm Huy, trước đây từng nhiều năm làm trưởng ty công an tỉnh Kiên Giang. Một trong các thành tích nổi bật của ông ta khi ở địa phương là bắt được băng cướp Bạch Hải Đường, băng cướp này vốn lộng hành nhiều năm dưới chính quyền Diệm và Thiệu.

Ông Bùi Quốc Huy được lệnh của ông Bùi Thiện Ngộ gặp tôi để thoả thuận về cuộc thanh toán với tướng Dương Thông. Cuộc gặp này có sự hiện diện của đại tá Nguyễn Công Nhuận, quyền cục trưởng cục 24, tính danh là Cục điều tra xét hỏi. Ông Nguyễn Công Nhuận là người kí lệnh bắt tôi tháng 4 năm 1991, đồng thời là trưởng nhóm hỏi cung trong suốt thời gian tôi ở tù.

Tại cuộc gặp gỡ tay ba này, tôi chơi ngửa bài với hai quan chức bộ nội vụ. Tôi nói: “Trong cuộc đấu tranh đòi dân chủ, tôi biết rõ rằng chúng tôi là trứng còn các ông là đá. Tuy nhiên, một khi đã dấn thân, tôi phải tính toán sao cho cái chết của tôi được bù trả một cách xứng đáng. Từ nhỏ tôi đã thích câu ca này:

Trạng chết chúa cũng băng hà
Dưa gang đỏ đít thì cà đỏ trôn.


Vì lý do ấy, tôi đã quyết tâm học hỏi nghề nghiệp của các ông. Nếu các ông theo rõi tôi, tôi cũng theo rõi lại các ông. Nói cụ thể, tôi biết ông giao du với những ai trong hội Quý Mùi (Hội những người cùng sinh năm 1943 như ông Bùi Quốc Huy), tôi biết các ông kiếm thú vui ở nơi chốn nào (ổ điếm nào và nhậu nhẹt hành lạc ra sao) và tôi biết giá tiền mỗi chai rượu các ông uống. Về đám lãnh đạo các ông, những thái thượng hoàng đẻ ra cái chế độ này, tôi có các cuốn băng ghi lại những bằng chứng về các sự kiện chính trị ngầm ẩn cũng như các bí mật liên quan đến đời tư của họ, nói cách khác là những tấn tuồng diễn ra nơi hậu cung chưa ai hay biết. Tôi đã thực hiện các cuốn băng này vài năm trước đây, và đã gửi chúng ra ngoài biên giới. Tiện thể, tôi cũng công bố luôn các địa điểm cất giữ tài liệu: Mỹ, Pháp, Tiệp. Liệu các ông có đủ tài năng và tiền bạc để lục tung ba quốc gia ấy lên không? Tôi tin chắc là không.

Các ông mạnh đối với dân chúng trong nước, các ông bất lực ngay khi bước qua biên giới. Sứ quán của các ông lúc nhúc bọn buôn đi bán lại, chen chúc nhau kiếm tiền, đi hết chợ trời này sang chợ đen kia để nhặt xu, ngoài món lộc thường xuyên là bòn mót bóc lột đám công nhân xuất khẩu.

Thế nên, tôi hoàn toàn tin rằng ở các xứ khác, các ông là bọn người bất khả, các ông không thể làm những gì bọn KGB Nga đã làm trước đây ba bốn thập kỉ. Bức tường Berlin đổ sụp rồi. Ở đây, các ông có toàn quyền, các ông có thể tổ chức lần thứ ba, thứ tư, thứ năm tai nạn xe cộ để kẹp chết tôi, điều đó chẳng khó khăn với các ông, cũng chẳng lạ lùng với chính tôi. Thế nên, tôi đã chuẩn bị sẵn sàng để một khi tôi ngã xuống thì các tài liệu kia được bật mí, và điều đó người ta thường gọi là sự trả đũa. Cuộc chiến tranh nào cũng phải có vũ khí bí mật, đó là một trong các mưu chước tồn tại từ xửa từ xưa. Để chống lại các ông, tôi buộc phải học chính nghề của các ông. Vũ khí bí mật của tôi lấy được chính từ nghề nghiệp ấy”.

Tướng Bùi Quốc Huy không trả lời mà lảng sang chuyện khác.

Phải chăng, nhờ cuộc chơi ngửa bài này mà tôi được toàn thân? Vẻ như điều đó là hợp lý.

Cuộc nói chuyện trên xảy ra cuối năm 1991.

Mười năm sau, ông Năm Huy ra trình toà, được ưu tiên “mang thường phục”. Lần đầu tiên, người dân Việt Nam được biết một cách chính thức đại diện quyền lực nhà nước câu kết với lũ tội phạm để tham nhũng và để sự tham nhũng trôi lọt, ra tay tàn sát chính các đồng nghiệp của mình.

Do học mót được nghề “thám tử” từ trước đó khá lâu, tôi biết rằng quá trình mafia hoá là không thể tránh đối với bộ máy cầm quyền Hà Nội.

Tiện thể, cũng xin công bố rằng mới chỉ có một Năm Huy bị lộ, nhưng còn nhiều Năm Huy khác đang ẩn mình trong bóng tối. Và bóng tối đang tụ trên bầu trời Hà Nội khá dầy. Hãy nhớ lại vụ xử án đại uý công an Nguyễn Xuân Trường, một mắt xích trong đường dây buôn ma tuý xuyên quốc gia cũng như vụ thủ tiêu người lính canh gác ông ta là hiểu được một phần sự thật.

Bây giờ, đến nhân vật thứ ba, người thay thế ông Bùi Quốc Huy lãnh đạo Tổng cục I, trung tướng, thứ trưởng, đại biểu quốc hội Nguyễn Văn Hưởng tức Trần.

Cũng như ông Năm Huy, Nguyễn Văn Hưởng tức Trần vốn là sĩ quan công an Quảng Ninh, do thành tích nghề nghiệp được điều lên Bộ công tác. So với ông Dương Thông và ông Năm Huy thì đây là người kẻng trai nhất, có cặp mắt hết sức “Ất Dậu”, đúng như tuổi của ông ta.

Vào những năm xảy ra nạn Thuyền nhân, Bộ Nội vụ đã gài ít nhất là hàng trăm điệp viên vào làn sóng di tản. Các điệp viên này sinh cơ lập nghiệp tại Mỹ từ ngày ấy. Đa phần các bà đều lấy chồng Mỹ, trong những dịp “về thăm quê” họ phải báo cáo tin tức với ông tổng cục trưởng này.

Một trong các địa điểm ông Trần ưa sử dụng là nhà hàng “Cây sấu” nằm trên đường Bà Triệu, dãy bên phải, cách Trụ sở Việt kiều không xa. Nhà hàng này thuộc sở hữu của bác sĩ Thanh, đại uý quân đội, vợ đô đốc hải quân Khánh. Do công lao của đô đốc Khánh mà nhà nước chia cho họ ngôi nhà này. Để làm một hàng ăn bình thường thì “Cây sấu” thiếu các điều kiện không gian cần thiết, nhưng để làm nơi các cặp nhân tình tình tự một cách vụng lén thì đây là địa điểm tuyệt vời, vì có rất nhiều phòng riêng.

Ông Nguyễn Văn Hưởng chọn nơi này để nhận tin tức của các điệp viên là hợp lý: Họ vừa có thể nhậu nhẹt, vừa có thể làm việc một cách kín đáo. Khép cánh cửa lại, quán ăn biến ngay thành phòng riêng.

Vì các vị tổng cục trưởng tổng cục I được coi là rường cột quan trọng nhất của Bộ Nội vụ, nòng súng cho chính quyền tì vào nên tôi cố gắng chọn ở mỗi ông tướng một khía cạnh tiêu biểu, trước hết để trình bày tính đa dạng, khả năng phát triển nhân cách một cách phong phú của đám quan lớn cộng sản, sau nữa để người đọc đỡ nhàm chán vì phải chứng kiến mãi một nội dung.

Dẫu rằng, nhìn trên tổng thể, các ông tổng cục trưởng đều có các đặc tính chung của bọn hung thần chế độ, của đám người ngất nghểu trên đỉnh cao quyền lực, tự coi mình là Thượng đế, nhưng họ vẫn có các đặc điểm riêng, khá dễ dàng phân biệt.

Nếu như ông Dương Thông được coi như biểu tượng của sự tham nhũng và thói đạo đức giả, ông Năm Huy như một Bố trẻ mafia thì ông trung tướng Nguyễn Văn Hưởng có dáng dấp hào hoa hơn, ông ta có vẻ như một trai chơi (play boy) chính cống. Đó là đặc tính của Ất Dậu (Gà trống) hay cá tính riêng của ông nghị Trần? Ông tổng cục trưởng này có một đội ngũ gái bao, mà cô gái bao già nhất, kém mã nhất là Hồ Thu Hồng, sinh năm 1960, tuổi con Chuột.

Hồ Thu Hồng tuy là gái bao, nhưng lại có thẻ nhà báo, tờ báo cô ta đang điều hành là Thể Thao TpHCM. Như thế, cô Hồng là thứ gái bao có chữ, cao cấp hơn các chị em khác một cái đầu nên tuy kém mã nhất trong bọn cô vẫn được trai chơi sủng ái.

Cậy mình có chữ, cô Hồ Thu Hồng mở cả một site internet để chửi bới những người đấu tranh cho dân chủ và trước hết, để ca ngợi ông Nguyễn Văn Hưởng là “Người đàn ông tài cao, học rộng”, người đã “yêu chiều cung phụng hết lòng” mỹ nhân. Nỗi hân hoan cũng như sự tận tuỵ với người tình của cô Hồng là dễ hiểu.

Trước đây, khi còn là vợ nhà văn Trần Nhật Tuấn, cô ta chỉ là một phóng viên báo tầm thường, không đến nỗi túng thiếu nhưng cũng chưa bao giờ dư dả. Từ khi trở thành gái bao của ông Trần, cuộc đời cô Hồng đổi thay như có phép mầu, cô ta xây nhà lầu cho mình, xây nhà lầu cho bố mẹ và những người thân khác, cô ta mua hết lô đất này sang dãy nhà kia để cho thuê, rồi gửi các con sang Mỹ học... Niềm hạnh phúc lớn lao đó khiến cô ta không thể ngậm miệng, và hễ có cơ hội là phải rống lên vì sung sướng.

Nếu đọc lại các bài báo cô Hồng từng viết, ta dễ dàng nhận ra điều đó. Tiêu biểu là bài viết về cảm xúc trên vùng đất nung lửa Quảng Trị Đông Hà. Khi tới miền đất này, nhà báo Hồ Thu Hồng chứng kiến nỗi khổ sở của đám dân xung quanh trong thứ khí hậu khắc nghiệt, lại tận hưởng cảm giác mát lạnh của chiếc xe hơi sang trọng mà người tình mua cho, cô ta không thể nén lòng mà phải rên lên hừ hừ vì khoái cảm. Khi cơn khoái cảm lắng dịu, cô Hồng tiếp tục thốt lời tri ân nồng nhiệt với “chàng tài cao học rộng” Nguyễn Văn Hưởng tức Trần. Đọc bài báo này, tôi không khỏi mỉm cười vì liên tưởng đến hình ảnh một con gà mái đang chịu trống, con trống thì im lặng cong lưng, dướn cổ trong cơn khoái lạc, còn con mái lại kêu quang quác để khắp bốn bề rào dậu làng xóm cùng nghe.

Ở đây, cần phải nói rõ rằng tôi không thành kiến với nghề gái bao. Gái điếm và gái bao là những nghề cổ lỗ nhất trong lịch sử nhân loại. Đừng đóng vai đạo đức giả thì phải xác nhận rằng ở đâu có cầu, ở đó có cung. Nghề gái điếm cũng như gái bao tồn tại trong mọi thời đại và mọi nơi chốn vì thời nào và ở đâu cũng có những người đàn ông không đủ điều kiện thành lập gia đình, hoặc có gia đình nhưng bất hạnh với vợ, hoặc vợ họ không đủ sức giải phóng cái dung lượng nhục dục tồn tại trong cơ thể họ như một hoả diệm sơn. Vân vân... Tóm lại, tôi không quan tâm đến nghề gái bao, nhưng tôi quan tâm đến tiền bao gái.

Bởi ở đây, kẻ trả tiền là một bậc lương đống triều đình, kẻ có đầy đủ quyền năng và mánh khoé để rót các thứ quỹ quốc gia sang tài khoản đám mèo cái thoả mãn phần dưới rốn của y. Hồ Thu Hồng sinh năm 1960, đằng trước lắp hai túi bọt biển, đằng sau mông độn silicon, mắt một mí đi mỹ viện cắt thành hai mí, nói đích xác cô ta chưa bao giờ là một mỹ nhân, vậy mà còn được hưởng sự “yêu chiều cung phụng” thả phanh như chính cô ta thú nhận.

Vậy còn các cô khác, các em trẻ trung hơn, xinh đẹp hơn? Các em sinh năm 1970, 1973 và nhất là 1975, da thịt nõn nường hơn, xôi oản đều là của thật chứ không phải đồ giả, mắt hai mí long lanh do cha sinh mẻ đẻ chứ không nhờ dao kéo thẩm mỹ viện can thiệp vào, những em ấy ắt phải được “yêu chiều cung phụng trăm lần hơn”, bởi theo nghề chơi, thuyền nổi khi nước nổi. Để sòng phẳng với luật chơi, để không hổ mặt đấng mày râu, ắt trai chơi Nguyễn Văn Hưởng phải làm đầy hầu bao đám mỹ nhân.

Tiền ấy moi từ đâu ra? Phải chăng lương trung tướng cộng với lương ông nghị đủ trang trải tất thảy các chi phí, đủ xây hàng loạt nhà lầu cho đám mèo và bố mẹ họ, đủ mua hàng loạt ô-tô deluxe cho các cô nương? Trong các bạn đọc liệu có ai hành nghề kế toán hay không? Nếu có, xin nhờ các vị làm giúp bài toán. Môn toán, là môn điểm kém nhất trong học bạ của tôi, từ cấp một đến cấp ba.

Phần trên, tôi giới thiệu ba gương mặt quyền lực của Bộ Nội vụ để bạn đọc hiểu rõ vì sao các quan chức công an càng ngày càng biến thành bọn tội phạm, bọn trộm cướp, đúng như câu ca của các cụ xưa

Con ơi, mẹ bảo con này,
Cướp đêm là giặc, cướp ngày là quan


Tuy nhiên, tôi không có ý nói rằng toàn thể các sĩ quan công an đều là bọn mafia, đều là quân cướp. Bởi, nói như vậy là vu khống, là hàm hồ. Nói điêu thì trước hết, kẻ nói phải chịu hình phạt theo luật nhân quả. Trong đám công an, không thiếu những người trung thực, theo ngôn ngữ bình dân, người tử tế. Chỉ có điều họ đã trở thành thiểu số và họ gần như vô năng. Đó là những gì tôi trải nghiệm.

Năm 1991, nhà nước cộng sản bắt tôi. Người kí lệnh là đại tá Nguyễn Công Nhuận. Thời gian tôi ở tù cũng chính ông Nhuận điều hành nhóm ba người hỏi cung. Thời gian này được chia thành hai giai đoạn: Giai đoạn hỏi cung và giai đoạn xin cung.

Hỏi cung là việc thông thường đối với các tù chính trị. Mục tiêu nhằm tìm xem tôi liên lạc với ai, ai là kẻ chỉ huy tôi, ai là kẻ gây ảnh hưởng với tôi thậm chí khống chế tôi.

Điều này dễ hiểu.

Những người đàn ông Việt Nam, công an cũng như không công an, trong sâu thẳm tâm hồn, họ khinh bỉ đàn bà, họ coi đàn bà là bọn đầu óc nông nổi, chỉ hành động vì ngu ngốc và bị xui khiến. Công an, cái nghề của bạo lực, thứ định kiến này càng mãnh liệt hơn. Thế nên, các cuộc hỏi cung nhiều khi dẫn đến tay bo. Nói cụ thể là có lần, tôi chồm lên với ý định thoi vào giữa mặt ông đại tá này.

Tuy nhiên, giai đoạn hỏi cung thực sự kéo dài không quá lâu bởi sau rốt, dẫu đặt cả nghìn lần một câu hỏi thì họ cũng chỉ được nghe câu trả lời duy nhất của tôi là “Tôi là kẻ chủ tâm đòi dân chủ và tôi sẽ chống chính quyền cộng sản cho đến phút cuối cùng. Chính tôi rủ rê, tuyên truyền người khác đi theo tôi, tôi dạy họ căm thù và khinh bỉ đảng bởi đa phần những người lớn tuổi hơn tôi đã gắn bó với chính quyền này trong những năm kháng chiến chống Pháp nên họ không nỡ hoặc chưa nỡ dứt tình. Tôi không có mảy may chút tình nào với bọn cầm quyền, tôi chủ tâm tiêu diệt họ”. Như thế, chẳng còn lý do gì để nhai mãi một thứ bã trầu đã hết nước. Vả chăng, qua mấy tháng ròng rã, ông đại tá Nguyễn Công Nhuận đã hiểu tôi là ai, và vì thế, ông ta bèn chuyển sang giai đoạn xin cung.

Xin cung? Vì sao lại xin cung? Nghe có vẻ huyênh hoang khoác lác. Thực chất, tôi chưa tìm được danh từ nào tương hợp hơn. Tôi sẽ lý giải điều này ngay bây giờ.

Ngày họ bắt tôi, ông Mai Chí Thọ đang còn là bộ trưởng, nhưng khi tôi đang ở trong tù thì ông này mất chức và ông Bùi Thiện Ngộ lên thay.

Mai Chí Thọ hồi trẻ là trương tuần, đánh chết dân sợ Tây bỏ tù nên trốn đi làm cách mạng. Được anh là Lê Đức Thọ nâng đỡ nên nhẩy về nắm bộ nội vụ. Vốn không có nghiệp vụ, lại hống hách nên ông ta bị các sĩ quan công an các cấp vụ, cục vừa khinh bỉ vừa căm tức. Đã thế, Mai Chí Thọ ngang nhiên bổ nhiệm Lê Tẩu, lái xe riêng của ông ta lên vị trí Tổng cục trưởng Tổng cục Hậu cần.

Lê Tẩu là ai, về mặt chính danh, y là lái xe riêng của Mai Chí Thọ. Trên thực tế, y là kẻ tay chân tâm phúc, kẻ chuyên đưa ông ta đi săn, đi nhậu và dẫn gái về cho “thủ trưởng xài”. Tổng cục Hậu cần là tổng cục “quyền sinh quyền sát” trong lòng bộ nội vụ, chẳng những nó nắm các nguồn tài chính quan trọng liên quan đến nghề “cảnh sát” mà nó còn nắm hạ tầng cơ sở, mà khâu thiết thực nhất đối với đời sống các quan chức là nhà đất.

Từ các khu tập thể đắt tiền dành cho các sĩ quan cao cấp cho đến các khu cao tầng ít tiện nghi hơn dành cho sĩ quan cấp thấp đều nằm trong tay Lê Tẩu, một mình y có quyền phân phối. Vốn là tên lưu manh, vô học, bỗng chốc nhẩy lên đầu lên cổ mọi người, Lê Tẩu thực thi quyền lực dưới hai áp lực tâm lý: thói tàn ác của một thằng chánh tổng và mặc cảm của kẻ hèn hạ, ngu dốt mới được đổi đời.

Vì lẽ đó, ai nịnh nọt y, ai chịu cúi luồn đút lót y đều được phân phối các căn hộ đắt tiền, tại các khu sang trọng. Ngược lại, kẻ nào khiến y ngứa mắt, dù dày công hãn mã, dù hiển nhiên được ưu đãi theo chính sách cũng đều bị hất cẳng ra ngoài. Tóm lại, Lê Tẩu hành xử bất lề luật, ngang ngược đến mức đám sĩ quan trong bộ phẫn nộ đâm đơn khiếu kiện, đó cũng là một trong các nguyên nhân buộc Mai Chí Thọ rời võ đài.

Trong thời gian lãnh đạo tổng cục hậu cần, ngoài việc chèn ép các sĩ quan trong bộ, những người mà y biết rằng kiến thức văn hoá cũng như chuyên môn vượt hơn y năm bẩy cái đầu, Lê Tẩu còn lợi dụng chức quyền để chiếm đoạt công quỹ, chuyển thành các biệt thự và các lô đất của riêng y, bất động sản của y rải rác từ Sài Gòn cho tới Vũng Tàu không kể các cơ sở sẵn có tại Hà Nội.

Quá trình “bốc vàng” không thể thực hành một cách nhanh chóng nếu không có đội ngũ chân tay của y, bọn tội phạm được tuyển chọn và trả công hậu hĩ. Tài sản của Lê Tẩu không chỉ rút từ ngân quỹ quốc gia mà còn rút từ máu những người dân thường, những người dám cưỡng lại sự chiếm đoạt và các nhà báo theo rõi y.

Tôi cho rằng hiện tượng Lê Tẩu là hiện tượng đậm đà bản sắc chế độ cộng sản, nơi mà quyền lực được thực thi theo cách “bố thí”, bất kể lề luật hay sự thẹn thùng. Một tên lưu manh vô học chỉ nhờ công hầu hạ chủ nhân, chỉ nhờ thành tích tu tạo được mảnh vườn nuôi hổ, nuôi trăn và nuôi cá sấu cho quan thầy Mai Chí Thọ đã được trả công bằng một chức vụ có thể khuynh loát biết bao nhiêu người tài năng hơn, tất nhiên, những người cũng còn thực lòng tận tuỵ với chế độ hơn. Vì lẽ đó, khi Mai Chí Thọ ngã ngựa, đám sĩ quan cao cấp bộ nội vụ khao khát trả thù, họ muốn tìm chứng cớ để đưa Lê Tẩu ra toà, muốn thằng lưu manh từng nhục mạ họ phải ngồi bóc lịch trong nhà giam.

Đại tá Nguyễn Công Nhuận là một trong số các sĩ quan ấy. Biết tiếng Anh và tiếng Pháp, là người trực tiếp hỏi cung các phi công Mỹ trong chiến tranh, ông đại tá này được liệt vào loại trí thức dày công hãn mã trong Bộ Nội vụ. Bị một thằng ma cô thất học, viết tiếng Việt chưa chỉnh, nửa câu tiếng Tây bồi cũng không biết, ngồi trên đầu trên cổ hà hiếp mình nên ông ta “nuôi một khối căm hờn” trong dạ.

Vì lẽ đó, suốt mấy tháng ròng, ông Nhuận tìm cách thuyết phục tôi cho ông ta các chứng cớ để có thể buộc Lê Tẩu ra trước vành móng ngựa. Tôi dùng từ xin cung ở đây vì lẽ ấy.

Theo sự nhận định của tôi, ông Nguyễn Công Nhuận cũng như một số đồng liêu của ông ta là điển hình của giới công chức: trung thực nhưng bảo thủ, họ tin đinh ninh rằng phục vụ một lý tưởng tốt đẹp và chúi mũi vào làm việc theo các sơ đồ cho sẵn. Họ thiếu sự linh hoạt cũng như thiếu óc quan sát, họ không biết rằng thế giới đã đổi thay, rằng trong đám thượng cấp, hạ cấp và đồng cấp của mình biết bao kẻ đã thối rữa, đã biến hình, đã trở thành tội phạm. Khi họ mở được mắt ra nhìn sự vật thì đã muộn màng.

Thế nên, dù là những người có nghiệp vụ điều tra xét hỏi, mà họ chẳng có nổi một manh mún chứng cớ trong tay. Họ đã đánh mất cơ hội, họ quá chậm chân. Dù thành thục trong nghề, dù tài ba lỗi lạc mà lỡ thời cơ thì cũng bại. Cổ nhân dạy “Thời gian là vàng, cơ hội là kim cương” chẳng sai một ly.

Tôi nhìn thấy tóc ông đại tá bạc đi từng ngày trong cuộc đấu tranh vô vọng. Dù động cơ hành động của ông Nhuận là chính đáng, và trong lòng có sự đồng cảm nhưng tôi cũng không thể cho cung ông ta. Bởi tôi biết một cách đích xác rằng, ông Nhuận cũng như các sĩ quan cùng phe nhóm không đủ mạnh để chống lại băng mafia Mai Chí Thọ và Lê Tẩu. Vì không đủ mạnh, họ sẽ không thể bảo vệ được các nhân chứng. Nếu tôi mềm lòng mà cung cấp tin tức cho ông Nguyễn Công Nhuận, lũ tội phạm sẽ thủ tiêu họ như chúng đã từng thủ tiêu nhiều người khác trước kia.

Sau rốt, điều tôi có thể làm được là chấp nhận gặp Mai Chí Thọ. Trong cuộc gặp ấy, ông Nguyễn Công Nhuận ngồi im để nghe tôi sỉ nhục thượng cấp, kẻ thù của mình. Tôi có đủ chứng cớ, tôi có thừa lòng khinh bỉ, tôi lại không thiếu lời lẽ để khạc nhổ lên bộ mặt của tên sát nhân này. Ông đại tá hẳn rửa được một phần nỗi uất hận. Với tôi, đó là trò giải trí nhẹ nhàng. Nói theo giọng người dân Quảng Bình là “không mất gì của bọ mà lại được lòng lối xóm, bọ mần ngay!”

Nhìn toàn cục, trong chế độ cộng sản, sự thối rữa nhân cách của các quan chức là không thể tránh. Một khi đã trở thành quân ăn cắp, ăn cướp, kẻ truỵ lạc, tên sát nhân, ắt đám người này phải ra khỏi cơn nhập đồng. Họ biết rõ họ là ai. Thực hành quyền lực của Thượng đế trong khi biết rõ bản thân là con vật bẩn thỉu, họ phải sống một cách phân thân. Phức cảm của sự phân thân thường dẫn đến hai trạng thái:

- Sự cường điệu, sự khoa trương, sự lên gân khi đeo mặt nạ trước dân chúng.
- Sự sợ hãi một cách thầm kín, và cùng với sự sợ hãi này, các toan tính cho tương lai.

Năm 1989, tại đại hội nhà văn Việt Nam lần thứ V diễn ra tại nhà quốc hội Ba Đình, ông Dương Thông lên diễn đàn, tay giơ lên chém xuống, giọng oang oang hùng hổ, không nói mà hét để đe nẹt công chúng: “Có rất nhiều văn nghệ sĩ nhận tiền của bọn phản động nước ngoài. Rồi an ninh sẽ làm việc với họ”.

Ông Dương Thông không hiểu rằng những lời hù doạ một cách thậm xưng lẫn thái độ khoa trương của ông ta ngay lúc ấy đã khiến tôi ngờ vực. Nỗi ngờ vực ấy mau chóng biến thành xác tín dưới ảnh hưởng của linh cảm. Do đó, tôi quyết định thực hành cuộc ghi âm với việt kiều Bùi Duy Tâm. Bà ngoại tôi dạy tôi câu này “Gái đĩ thì già mồm”. Tôi tin lời dạy của bà tôi và nhờ thế, tôi đã tìm ra bộ mặt thật của Dương Thông.

© DCVOnline

Để gọi tên sự vật một cách rõ ràng – phần cuối: Dẫn hổ về thịt dê nhà
20 Nam Mien Nam
Dương Thu Hươngviết riêng cho DCVOnline

Đối với thế giới, uy tín của chính quyền cộng sản Việt Nam đã mất từ lâu, mất một phần khi xảy ra cuộc chiếm đóng Cambodia, mất toàn phần khi làn sóng thuyền nhân tràn lên các đại dương và xác chết của họ trôi khắp bãi bờ các quốc gia khác.

Với dân chúng trong nước, giờ đây họ thôi là nhà cầm quyền vĩ đại. Bởi sự thoát đồng đã xảy ra từ rất lâu, họ thôi là thượng đế và dân chúng thôi là những con nộm bị điều khiển bằng thứ tôn giáo do kẻ cầm quyền sáng tác. Dân chúng đã nhìn rõ bản mặt của họ: những con vật đi bằng hai chân, những con vật tham tàn, những con vật đang run sợ vì sự tham tàn của chúng không còn được bóng tối che đậy.

Nhà cầm quyền Hà Nội lúc này chỉ còn tin vào nòng súng. Nhưng bất kì kẻ cầm súng nào cũng có lúc chết vì chính thứ vũ khí mà họ sử dụng. Bởi vì, chẳng có thứ vũ khí nào tự động nhả đạn. Vũ khí nào cũng cần bàn tay của con người, dù là bàn tay bấm nút chiến tranh hạt nhân hay bàn tay cầm dao găm, súng lục. Khi con người đã nhìn rõ sự thật, khi họ không còn bị huyễn hoặc bởi các trò mị dân, khi họ hiểu họ là ai và họ có thể làm chủ số phận của họ bằng cách nào, lúc ấy, các nòng súng sẽ đổi hướng.



Tiếng nhạc ầm ĩ trong ngày hội “Ngàn năm Thăng Long” hẳn đã át đi tiếng nức nở của trên năm mươi gia đình nạn nhân chết vì bão lụt ở miền Trung. Các quan chức Hà Nội không bỏ ra một nửa giây để tưởng niệm những kẻ xấu số. Họ quên. Cũng như họ đã từng quên những người dân đánh cá tỉnh Thanh bị giặc Tầu giết ngoài khơi, như họ quên các chiến sĩ đã bỏ mình trên biên giới vào cuộc chiến tranh năm 1979...

Họ quên và họ quên. Vậy họ nhớ điều gì?

Khi con gái họ có nhu cầu mua một chiếc váy cưới xấp xỉ 200.000 euros tại đại lộ Champs Elysées thì họ phải nghĩ cách làm đầy thêm các ngân khoản ở ngân hàng ngoại quốc. Khi nhân tình của họ cần chiếc xe hơi sang trọng như xe của cô Hồ Thu Hồng thì họ phải nghĩ cách để kiếm cho bằng được chiếc xe ấy, để nàng khỏi tủi thân vì kém chị kém em. Khi ngôi lầu của họ chỉ đáng giá hai triệu đô la mà của kẻ khác giá gấp đôi thì họ phải tìm cách đuổi kịp và vượt hắn. Đó là mối quan tâm cốt lõi của giai cấp tư sản đỏ Việt Nam giờ đây, cái guồng quay cũ kĩ của đám mới giầu.

Ai đó từng nói câu này: “Trong giai đoạn tích luỹ tư bản, giai cấp tư sản có thể giết chết cha đẻ của họ để có tiền”.

Giai cấp tư sản đỏ Việt Nam cũng có chung một trạng thái tâm lý đó: khát tiền, làm mọi thứ để có tiền, bất kể phương tiện nào, dù đó là tội ác. Nhưng tư sản đỏ Việt Nam không cần giết bố, bởi họ có một đối tượng khác dễ giết hơn nhiều: dân đen. Họ không cần đốn ngã kẻ sinh thành bởi có thể hút máu dân đen một cách thoả thuê, vừa thoả mãn cơn khát tiền lại vừa yên ổn lương tâm vì không mắc tội giết cha.

Lấy ví dụ về tập đoàn Vinashin. Mua một vỏ tầu cũ nát, đáy nứt, không thể vận hành, lấy sơn quét lên rồi rút hàng triệu đô la trong công quỹ. Hàng triệu đô la ấy quan lớn bỏ túi, còn con tầu “bãi rác” sơn bóng loáng kia được đặt trên đất liền để làm “hiện vật bảo tàng”.

Nghe tưởng như chuyện đùa. Nghe như tiếu lâm. Thứ tiếu lâm cười ra nước mắt. Chỉ có ở Việt Nam, nơi kẻ cầm quyền coi dân là lũ trâu bò, mới dám làm điều ngang ngược đó. Chỉ có ở xứ Việt Nam, khi tất cả các cuộc kí kết, thương thuyết của chính phủ đều diễn ra trong bóng đêm và dân chúng không được quyền biết đến mới có thể xảy ra hiện tượng này.

Lấy ví dụ thứ hai: các vụ buôn người. Dưới chế độ độc đảng, độc tài, ai có thể làm được điều này nếu không là chính các thành viên trong chế độ ấy. Tại sao lại buôn người? Vì buôn người thu lời nhanh nhất, mà vốn đầu tư coi như zero nếu có quyền hành. Cho nên, buôn người là nghề mới của đảng cộng sản Việt Nam, đảng thừa thãi quyền hành vì không có đối trọng.

Đã là lái buôn, ắt phải tham. Lòng tham mà không bị điều tiết bởi các điều luật thì nó sẽ phát triển vô cùng tận. Do đó, món hàng hoá có tên gọi là “dân đen”của các quan chức Việt Nam sẽ được khai thác tối đa để làm đầy túi các bậc trị vì dân. Khi đã coi dân chúng là hàng hoá, ắt người cộng sản phải tìm mọi cách để đám dân đen trở thành vật vô tri, tức là các công cụ, thứ công cụ này có chức năng sản xuất nhưng phải câm và phải điếc. Khi mà các công cụ dân đen không chịu nổi đàn áp, buộc mở mồm thì lập tức họ có cách để bắt nó phải câm. Vũ khí đó có tên gọi “chuyên chính”, bộ máy đàn áp trứ danh lâu nay.

Hãy đọc báo Công an nhân dân đưa tin về vụ xử ba thanh niên sáng lập công đoàn Tự do ngày 27 tháng 10 năm nay:

“Được Trần Ngọc Thành, kẻ cầm đầu Uỷ ban bảo vệ người lao động Việt Nam đưa Hùng, Hạnh sang Malaysia đào tạo, huấn luyện, rồi từ ngày 28/1 đến ngày 9/2/10, Trần Ngọc Thành đã chỉ đạo Nguyễn Hoàng Quốc Hùng, Đỗ Thị Minh Hạnh, Đoàn Huy Chương thực hiện các vụ kích động biểu tình, rải truyền đơn ở Trà Vinh, Đồng Nai, Tp HCM, nội dung kêu gọi người dân chống lại Đảng, Nhà nước, kêu gọi đấu tranh để đòi dân chủ; lợi dụng các vấn đề còn thiếu sót trong chế độ lao động, tiền lương của công nhân ở một số khu công nghiệp để tổ chức tuyên truyền, kích động công nhân đình công, biểu tình, phá hoại máy móc, nhà xưởng, tài sản của doanh nghiệp...”


Thứ nhất, tác giả bài báo này quên rằng “Kích động công nhân đình công, biểu tình, phá hoại máy móc, nhà xưởng, tài sản của doanh nghiệp” là đích xác các hành động của người cộng sản Việt Nam những năm trước cách mạng. Các hành động này cũng đã từng xảy ra ở nhiều quốc gia trên thế giới, khi giai cấp lao động không chịu nổi sự áp bức và bóc lột của đám chủ nhân. Các phản ứng tiêu cực này chỉ xảy ra khi sự thoả thuận giữa người làm công với kẻ trả công bị vi phạm và cuộc sống của người lao động bị đe doạ.

Phải chăng tác giả bài báo này cho rằng chỉ riêng đảng cộng sản vĩ đại của ông ta là được quyền sử dụng chiêu thức ấy còn những người khác thì bị cấm vì họ không được là người mà chỉ là thứ phẩm của người, tức “dưới người”, nói cách khác: “người vượn Néandertal”?

Thứ hai, câu “lợi dụng các vấn đề thiếu sót trong chế độ lao động, tiền lương của công nhân...” chỉ là lối mỹ từ hoá sự vật. Nói một cách xác thực và dân giã, hiện nay các quan lớn cộng sản Việt Nam đang thực thi chính sách “bòn nơi khố quạnh, đãi nơi quần hồng”.

Tại sao lại “bòn nơi khố quạnh”? Vì ngu, vì tham, vì trước ngoại nhân thì dốt nát và khiếp nhược nên các quan lớn chỉ có lối kiếm tiền dễ nhất là bóc lột đồng bào mình, những người không có phương tiện để tự bảo vệ, những kẻ bị hà hiếp, bị tê liệt cùng một lần vì đói nghèo và sợ hãi.

Tại sao lại “đãi nơi quần hồng”? Vì người cộng sản lúc này thôi còn là cộng sản, họ đã trở thành đám tư sản dù vẫn giữ vẻ mặt ngô nghê và bộ điệu lố bịch của kẻ cách đây chưa lâu còn lo le sợi dây giong lợn giống hoặc lúc lắc cái ống bơ đựng xu lẻ ăn mày. Khi đã đổi vai thì họ phải bám vào cái giai cấp tương lai của họ, giai cấp mới này chính là đám quần hồng, thế nên họ phải đãi đám quần hồng để còn kiếm chác phần đường mật trong đũng cái quần hồng ấy.

Sự thật đơn giản, nếu người ta nhìn thẳng vào nó.

Đám cầm quyền hôm nay đã rơi từ đỉnh cao của sự “kiêu ngạo cộng sản” xuống vũng bùn của “các con lợn truỵ lạc phương Tây” mà trước đây họ thường sa sả chửi rủa, họ đang sống xả láng trong cảnh phồn vinh mà trước đây họ mỏi mồm lên án. Nói tóm lại, họ đang là thứ “khỉ khoác quần áo”, thứ “nhặt cái đuôi của bọn tiểu tư sản cắm vào lỗ mồm” như ông tổ hói đầu Lenin của họ từng cảnh báo trước đây.

Trong cuộc sống tối tăm, nhục nhằn của người nô lệ, các anh hùng đánh đuổi ngoại xâm chính là các bậc thánh sống, được tôn trọng, thần phục, ngưỡng mộ, và có toàn quyền trở thành các nhà sáng lập triều đình.

Nhìn lại lịch sử, ta dễ dàng chiêm nghiệm điều đó. Phải chăng triều Lý, triều Trần, triều Lê, triều Tây Sơn Nguyễn Huệ đều được khởi dựng sau các chiến thắng lẫy lừng chống kẻ xâm lăng? Ngoại trừ Đinh Bộ Lĩnh là viên tướng phất cờ khởi nghĩa dẹp loạn sứ quân, thống nhất đất nước, nói một cách dễ hiểu là viên tướng duy nhất xây dựng triều đình khi chiến thắng các cuộc nội chiến phân quyền, còn lại, những gương mặt sáng chói trong lịch sử đất Việt đều là những anh hùng chống Tầu và chống Nguyên – Mông. Các triều vua này từng tuyên bố “Sông núi nước Nam vua Nam ở”.

Và cuộc sống mái của họ là giành mục đích người Việt Nam là người Việt Nam, dẫu áo vải quần thâm nhưng đàn ông nhất quyết không cạo trọc, tết sam như gã A.Q, đàn bà không bó chân như các mợ Tầu.

Tuân theo logic ấy, triều cộng sản được hình thành là nhờ nó có công trong cuộc cách mạng chống giặc Tây. Và người ta còn khoan dung cho nó là vì tính đến cái công ấy, cái công “dành độc lập dân tộc”, cái khả năng nối tiếp truyền thống của các Vua nước Nam nhất thiết phải ở đất nước Nam, coi sự tồn tại của non sông quý hơn tròng mắt của chính họ.

Cái tinh thần bất khuất ấy, còn hay chăng?

Còn hay chăng, tinh thần dân tộc của những người đã đổ máu để cắm ngọn cờ hồng lên thành Hà Nội sáu mươi lăm năm trước, những cảm tử quân đã ôm bom ba càng vào mùa đông năm 1946 với lời thề “Quyết tử cho tổ quốc quyết sinh”?

Nếu những anh hùng vô danh ấy có linh hồn, hẳn các linh hồn ấy giờ đây đang nức nở.

Nếu những hiển linh của các vua xưa có thể cất lời, thì lời đầu tiên họ nói sẽ là “Lũ người này đã phản bội lại dân tộc, bọn sâu bọ này đã bôi nhọ mặt chúng ta!”

Ngày Hội Ngàn năm Thăng Long diễn ra vào đúng ngày 1 tháng 10, thằng mù cũng biết đó chính là ngày Quốc khánh Trung Quốc. Tại sao lại là con số này? Tại sao có sự lựa chọn này? Vô ý chăng? Nhầm nhỡ chăng? Mất trí nhớ chăng?

Cứ coi như Bộ trưởng Bộ Văn hoá dốt nát thì trên đầu ông ta còn mười một người trong bộ chính trị. Không lẽ cả mười một người này mắc chứng mất trí nhớ? Không lẽ cả mười một người này mắc bệnh thiểu năng?

Nếu để cho mười một kẻ thiểu năng đứng trên đầu trên cổ mình thì dân Việt xứng đáng là các bệnh nhân của trại tâm thần, một trại tâm thần khổng lồ chưa từng thấy mà trong đó các con bệnh bị tiêm thuốc ngủ liều cao liên miên nên đờ đẫn, không còn khả năng nhận thức sự vật xung quanh. Nếu không, họ đã bị bán đứng cho Tầu, và tương lai của họ, một tương lai không tránh được sẽ là bản sao lại sầu thảm của những người dân Tây Tạng hoặc Tân Cương một khi họ bó tay trước lũ bán nước.

Chọn ngày Quốc Khánh Trung Quốc để mở hội Ngàn năm Thăng Long là một biểu tượng hai mặt.

1. Với triều đình Bắc Kinh chính phủ Hà Nội đã làm bản tuyên bố “thành Thăng Long cũng chỉ là một bộ phận trong lịch sử mẫu quốc, nó phải được treo đèn kết hoa cùng một lần với đèn hoa của thủ phủ đại triều. Một khi thủ đô của một quốc gia đã định vị như vậy, có nghĩa quốc gia ấy tự xác nhận danh tính chư hầu một cách công khai. Sự kiện này là bản giao kèo bộc lộ lòng trung thành vô hạn và vô điều kiện của đám hàng thần Hà Nội.

2. Với dân chúng, đây cũng là lời tuyên bố thẳng thừng: Chúng tao bất chấp lịch sử, chúng tao có toàn quyền định đoạt vận mệnh đất nước. Kẻ nào chống lại, kẻ đó sẽ bị tiêu diệt.

Chọn ngày quốc khánh Trung Hoa để mở hội Ngàn năm Thăng Long là bằng chứng hiển nhiên để mảnh vải rách cuối cùng che thân chế độ cộng sản rơi xuống. Họ đã trở thành kẻ bán nước, công khai hoá hành vi bán nước của mình.

Nếu như năm 1945, cha anh họ là các anh hùng giải phóng dân tộc thì giờ đây, trái lại, họ là những tên phản tặc, sỉ nhục của tổ tiên, chẳng những cắt đất, cắt biển dâng cho giặc mà còn đương nhiên ném bùn lên lịch sử. Người Việt Nam ta có câu “hổ phụ sinh cẩu tử”. Mà bọn người này, không những là những con “cẩu tử” mà còn là “cẩu ghẻ”, “cẩu sida”.

Những người cầm quyền Hà Nội thừa thông minh để hiểu rằng họ là những con cẩu ghẻ. Rằng trong dòng máu của bất cứ người Việt nào cũng lưu cữu một thành tố có tên gọi “chống ngoại xâm”, mà thứ ngoại xâm thống trị lâu dài nhất, tàn độc nhất, để lại các kinh nghiệm đau thương sâu đậm nhất trong kí ức là “giặc phương Bắc”.

Cuộc thực dân hoá của Pháp 100 năm chỉ là cơn bão chóng qua so với thời kì bắc thuộc của giặc Tầu. Họ biết rằng bất cứ kẻ nào phản lại truyền thống đấu tranh dân tộc, kẻ đó mất chỗ đứng trong lòng dân chúng. Ngày hôm trước còn được tung hô hoàng đế, hôm sau đã biến thành “Thằng chó săn, thằng phản tặc, phường bán nước”.

Đó là trường hợp vua Lê Chiêu Thống đã phải chịu do hành vi bán nước của ông ta. Còn câu ca “Nguyễn Ánh cõng rắn về cắn gà nhà” mãi mãi là bài học lịch sử tố cáo tội ác của kẻ đặt lợi ích dòng họ trên quyền lợi dân tộc. Giờ đây, nhà cầm quyền Hà Nội biết rằng họ đã bị đẩy sang bên kia đường biên, họ rơi vào cùng một bè lũ với Lê Chiêu Thống và Nguyễn Ánh. Để đặt tên cho họ một cách rõ ràng và chính xác, tôi xin nhại lại câu “cõng rắn về cắn gà nhà” của các cụ xưa mà rằng nhà cầm quyền Hà Nội giờ đây là bọn “dẫn hổ về thịt dê nhà”

DẪN HỔ VỀ THỊT DÊ NHÀ.

Tại sao lại là hổ và dê?

Hổ, vì vương triều phương Bắc bây giờ mạnh hơn thực dân Pháp năm xưa nhiều lần, để so sánh một cách chính xác thì phải dùng hình ảnh con hổ chứ không thể là con rắn.

Dê, vì nhìn lại bản đồ, bạn đọc sẽ thấy rằng toàn bộ bán đảo Đông Dương có thể ví như một con dê mà Tây nguyên chính là phần sống lưng con dê đó. Một khi con hổ Trung Hoa cắm được móng vuốt lên chính giữa lưng con dê này, coi như số mạng con dê đã nằm trong hai hàm răng của nó.

Đế quốc Trung Hoa sẽ trải rộng khắp châu Á. Việt, Miên, Lào sẽ trở thành các tỉnh thành khác nhau của Trung Hoa, “công đầu” này thuộc về ai nếu không là nhà cầm quyền Hà Nội, kẻ dựng lên công trình bauxite Tây nguyên?

Bauxite ư? Trò lừa đảo!

Thiếu gì các quặng bauxite rải rác khắp miền Bắc Việt Nam, tại sao không là Lào Cai, Yên Bái hay Cao Bằng mà lại là Tây Nguyên? Vả chăng, khai thác bauxite để làm gì? Kiếm tiền chăng? Dối trá! Biết bao bài báo đã phân tích chán chê lợi hại về khai thác bauxite, kể cả các tài liệu trên thế giới cũng công bố rộng rãi tác hại của nó, mà vụ gần đây nhất là Vùng bùn đỏ Hungaria. Còn có thể nói thêm được điều gì khi mà sự bán nước hiển nhiên đã bầy ra trước mặt dân chúng, giữa thanh thiên bạch nhật?

Nhà cầm quyền Hà Nội hoàn toàn có ý thức về hành vi bán nước của họ, bởi con tính của họ là trở thành một thứ “Thái thú Tô Định hiện đại”, được hưởng đủ phần xôi thịt của Bắc triều.

Còn Việt Nam biến thành một tỉnh nào đó của Trung Quốc, mang tên Quảng Việt, Quảng Nam, Quảng Lạc... họ không cần quan tâm. Họ biết rõ rằng hành động của họ là đi ngược lại lợi ích của nhân dân, biết rằng không người Việt nào cam tâm làm nô lệ cho Tầu, rằng kinh nghiệm đau đớn của tổ tiên luôn luôn sống trong ý thức lẫn vô thức dân tộc, thế nên họ chủ trương đàn áp dân chúng, họ chủ trương dùng bàn tay sắt để bóp nghẹt cổ những ai muốn nói lời phản kháng. Không phải ngẫu nhiên mà năm 2009, thứ trưởng bộ nội vụ Nguyễn Văn Hưởng tức Trần đã công khai dọa nạt những người trí thức Việt Nam vào dịp viện IDS của tiến sĩ Nguyễn Quang A tuyên bố giải tán.

Ông nghị Trần nói rằng “Ở Việt Nam đảng độc quyền lãnh đạo nên không thể có phản biện. Phản biện tức là phản động. Các anh muốn phản biện hả? Nhà tù đang còn nhiều chỗ lắm. Nhưng chúng tôi cũng không cần đến nhà tù, chúng tôi có các phương tiện hữu hiệu hơn. Tai nạn xe cộ bây giờ tổ chức rất dễ dàng. Còn một biện pháp rẻ hơn và nhàn nhã hơn: đầu độc. Các anh uống cà phê rồi khi về đến nhà thì cứng đơ ra mà chết. Những bài bản này thế giới sử dụng đã lâu, chúng tôi cũng không thua kém họ...”

Những lời lẽ này nói lên điều gì nếu chẳng phải sự công khai triệt để của tính tội phạm và tư cách chó? Một chính thể không còn lý do chính đáng để tồn tại thì chỉ có thể duy trì bằng bạo lực, chỉ có thể sử dụng bọn tội phạm, bọn sát nhân, bọn cặn bã xã hội, tóm lại, bọn chó giữ nhà. Không còn lý tưởng, không còn đạo đức, ngập chìm trong tham lam, truỵ lạc, con người trượt từ chữ NGƯỜI sang chữ CON.

Vào những năm 1889, 1990, tôi có vinh hạnh làm quen và gặp gỡ ông Lê Giản, người công an đầu tiên của Việt Nam, người lãnh đạo bộ máy cảnh sát từ những năm đầu cách mạng. Ông Lê Giản đích thực là “Người công an nhân dân, từ nhân dân mà ra, do dân và vì dân”.

Tôi hiểu vì sao cuộc kháng chiến thành công. Kháng chiến thành công vì có những người như ông Lê Giản.

Nhưng ông Lê Giản đã chết và “Người công an nhân dân” cũng đã chết theo. Cái chết này xảy ra từ từ với thời gian, một cái chết âm thầm, nhưng không phải là vô hình vô ảnh.

Tôi chứng minh:

Cách đây ngót ba thập kỉ, khi những lượt hoa quả đầu tiên từ phương bắc tràn vào nước ta, các phòng phân tích thuộc Bộ Nội vụ đã báo cáo lên bộ chính trị rằng các thứ hoa quả này đều tẩm formaldéhyde (thuốc ướp xác chết) vô cùng độc hại cho người tiêu dùng vì nó phá huỷ mô liên kết của các tế bào và là tác nhân gây ra bệnh ung thư.

Bộ chính trị ra lệnh cấm phổ biến sự thực trên vì “sợ mất lòng nước bạn”. Các sĩ quan công an chỉ có thể ngăn cấm chính vợ con họ và rỉ tai những người thân cận nhất (anh em ruột, cha mẹ vợ chẳng hạn), đối với người ngoài, họ tuyệt đối tuân thủ mệnh lệnh cấp trên. Tuyệt đối im lặng. Tuyệt đối thản nhiên nhìn đồng bào mình ăn thứ đồ ăn nhiễm độc, biết chắc chắn rằng ngày một ngày hai họ sẽ ung thư và sẽ chết vì bệnh đó.

Tính kỉ luật của đám sĩ quan này mới cao thượng làm sao(!) Và cao thượng làm sao, những kẻ ngồi quanh bàn họp bộ chính trị, những bậc lương đống của triều đình, chịu trách nhiệm chăn dắt dân đen, đàng hoàng ra lệnh cấm rò rỉ sự thật vào tai dân chúng, bỏ mặc mấy chục triệu người bị đầu độc và chết dần chết mòn!

Đối với tôi, con đường bán mình cho giặc của chế độ Hà Nội đã khởi sự từ ngày ấy. Và ngày ấy cũng là cái mốc đánh dấu sự chuyển biến chất lượng này: từ người công an nhân dân, công an đã trở thành kẻ quay lưng lại với nhân dân.

Ba thập kỉ đã qua, những kẻ quay lưng lại với nhân dân đã trượt không ngừng trên con dốc, để trở thành kẻ thù của nhân dân.

Bây giờ, gương mặt nào là gương mặt đích thực của công an? Người hùng bảo vệ dân hay đám chó giữ nhà cắn cổ dân để bảo vệ ông chủ của nó?

Hãy xem lại các hình ảnh đưa lên internet năm 2008 về vụ nông dân bị cướp đất biểu tình ở Sài Gòn. Những người dân cầy gầy gò xơ xác, đa phần là người già và phụ nữ, từ các tỉnh Tiền Giang, An Giang, Bến Tre, Long An, Bình Thuận đổ đến trước văn phòng Quốc hội 2 với các khẩu hiệu “Trả đất cho dân”, “Chống cửa quyền, tham nhũng”. Những người dân ấy đã bị đám công an và dân phòng béo múp vì bia rượu, mặt hằm hằm sát khí đối xử ra sao? Mấy thế kỉ đã qua nhưng hình ảnh bọn người này vẫn là bản sao chính xác bọn nha lại mà Nguyễn Du đã mô tả trong Truyện Kiều: “Đầy nhà một lũ ruồi xanh” và “Đầu trâu mặt ngựa ào ào như sôi”.

Gần đây nhất, hãy nhìn hình ảnh anh Nguyễn Ngọc Quang, một giáo dân ở Định Quán, tỉnh Đồng Nai vì tham gia đấu tranh cho dân chủ mà bị công an Đà Lạt ba lần tổ chức tai nạn xe cộ để kẹp suýt chết.

Tôi tự hỏi, có lúc nào những người công an này tự vấn lương tâm? Tại sao họ không dùng sức lực, dùng khả năng hung bạo mà họ sẵn có để giết những tên giặc Tầu, lũ dã nhân tàn sát những người dân đánh cá Thanh Hoá?

Nếu là những người mà nghề nghiệp đặt trên bạo lực, bản năng hiếu chiến mạnh mẽ, tại sao họ không dùng khả năng đó để tiêu diệt ngoại xâm mà lại đi đàn áp những sinh viên yêu nước biểu tình đòi Trường Sa, Hoàng Sa trước sứ quán Tầu? Tại sao? Vì họ thiếu trí khôn hay vì họ là những kẻ mù loà, óc não bị khô cứng trong một cuộc sống mà ngoài việc tuân theo mệnh lệnh cấp trên không còn khả năng nghĩ đến điều gì khác ?

Vì chưa từng là công an, nên tôi dành những câu hỏi ấy cho họ trả lời. Tôi chỉ nêu lên nhận xét thứ hai, nhận xét khi tôi nhìn tấm ảnh đoàn biểu tình đòi mạng người xảy ra tại thị xã Bắc Giang ngày 25 tháng 7 năm nay.

Nhiều người biết rằng, ngày 23 tháng 7, hai công an huyện Tân Yên tỉnh Bắc Giang đã đánh chết anh Nguyễn Văn Khương, 21 tuổi, quê quán tại huyện Việt Yên vì tội danh không đội mũ bảo hiểm. Ngày 25 tháng 7, gia đình anh Khương đã chở xác chàng trai này lên thị xã Bắc Giang đòi đền mạng. Dân chúng xông lên ủng hộ gia đình nạn nhân, con số lên đến hàng ngàn người, làm thành một cuộc biểu tình rầm rộ chưa từng có trong lịch sử tỉnh Bắc Giang, mà theo bài phỏng vấn, các cụ già đã nói rằng còn đông hơn ngày theo Việt Minh cướp chính quyền năm Ất dậu.

Trong sự kiện này, tôi chú ý đến một chi tiết: công an đưa xe cứu hoả mang vòi rồng đến trấn áp dân chúng, nhưng trước khí thế căm hờn của đám đông, công an bỏ chạy, hàng chục người dân trèo lên xe đứng. Hiện tượng đó chứng tỏ không phải lúc nào công an cũng tê liệt vì mù loà, luôn hành động như đám robot hoặc lũ chó berger. Trong lúc nguy khốn, họ đã tính toán và đã chọn con đường bỏ chạy để thoát thân.

Có lẽ, con tính của họ cũng đơn giản thôi. Không phải công an nào cũng phú quý vinh hoa như ông nghị Nguyễn Văn Hưởng. Đa phần những người lính quèn chỉ đủ sức nuôi một vợ thôi mà để nuôi cô vợ này với hai, ba đứa con kèm theo cuộc sống của họ cũng không phải là “thiên đường nơi hạ giới”. Nếu máu đổ ra mà chỉ để bảo đảm cuộc sống ấy thì đó là một cuộc đổi chác ngu xuẩn. Thêm nữa, lớp lính bây giờ tương đối trẻ, họ biết chữ nên không hoàn toàn bị bưng bít thông tin, họ hiểu được số phận của đám công an ra sao khi các cuộc cách mạng dân chủ xảy ra ở Nga, ở Tiệp, ở Hung, ở Đức, và ở Ukraina mới rồi.

Thêm nữa, dù hổ thẹn hay cố tình bưng bít lương tâm, nơi thầm kín nhất của con tim, họ cũng hiểu rằng chết vì một lý tưởng cao cả thì đó là cái chết xứng đáng không làm hổ thẹn cho con cháu, chết chỉ vì miếng cơm thì đó là cái chết của con chó gác sân mà khi dân chúng nổi lên, họ sẽ lấy bắp cầy phang vỡ sọ hoặc dùng câu liêm cắt cổ.

Khi lòng dũng cảm và tinh thần hào hiệp không còn nữa, cái còn lại là sự tính toán vị kỉ của mỗi con người. Sự vị kỉ này cũng có mặt tốt của nó, nó là rào cản để chủ nghĩa cuồng tín không thể đặt chân vào mảnh sân của mỗi căn nhà.

Một người công an, nếu chưa mất toàn bộ sự sáng suốt, ắt phải biết tính toán họ được bao nhiêu và mất bao nhiêu, liệu số lương bổng họ được có trang trải nổi phần tiêu phí cho đám tang của họ và nuôi nổi cô vợ với lũ con còn lại, hay sự hy sinh của họ chỉ để làm nặng thêm túi tiền các quan lớn, khiến các quan thêm rửng mỡ để đi hiếp trẻ con (như ông chủ tịch kiêm phó bí thư tỉnh Hà Giang tên Nguyễn Trường Tộ và các ông khác chưa bị lộ mặt), hay máu họ đổ xuống chỉ để đổi lấy các hộp kem đắt tiền nhằm bổ dưỡng làn da mịn màng cho các mỹ nhân của quan lớn (như đám mèo cái đang vờn quanh rốn ông nghị Nguyễn Văn Hưởng)? Vân vân và vân vân...

Sự tính toán luôn có lợi cho con người. Bởi thánh nhân thường hiếm mà kẻ trục lợi thường nhiều nên không thể đòi hỏi tất cả mọi người đều xả thân vì đất nước. Tuy nhiên, nếu không là thánh nhân thì họ cũng là dân Việt. Là dân Việt, họ phải hiểu rằng truyền thống chống Tầu là dòng máu sôi sục liên tục chảy trong tim dân tộc này. Bất cứ kẻ bán nước nào, sớm hay muộn, trước hay sau cũng sẽ nằm trước mũi súng của nhân dân.

Dân Việt!

Ai là dân Việt?

Phải chăng đó là tộc người duy nhất trong hàng trăm tộc Việt (Bách Việt) xưa kia sống ở phía nam sông Dương Tử còn giữ lại được bản sắc mà chưa bị đồng hoá như chín mươi chín tộc Việt kia?

Phải chăng vì sự cứng đầu này mà đất Việt luôn luôn là con mồi trong tâm thức Bắc triều?

Ngoài các lý do về nhu cầu bờ biển với các hải cảng, nhu cầu khoáng sản, còn một nhu cầu thầm kín nữa mà quan lại phương Bắc không nói ra, đó là nhu cầu đồng hoá nốt cái phần còn lại của Bách Việt.

Niềm kiêu hãnh Đại quốc là ở đó. Mối bực mình của Đại quốc cũng là ở đó. Một khi họ đã thâu tóm, đã chiếm lĩnh, đã áp đặt nền văn hoá và chữ Hán lên chín mươi chín tộc Việt kia, lẽ nào còn cái tộc cuối cùng họ phải chịu thua? Ở thế thượng phong mà mấy ngàn năm nay chưa nuốt trọn hòn xôi Việt Nam, mảnh đất cỏn con, dường như là một “vết thương lòng, một sự tự ái” mà vua chúa Trung Hoa không chịu được.

Cách đây vài năm, ai đó từng nói với tôi rằng “Mao Trạch Đông và Tưởng Giới Thạch là địch thủ, nhưng về chính sách đối với Việt Nam thì bọn họ sẽ ngồi cùng một bàn”.

Đó là một nhận định sáng suốt.

Năm trước, ông bộ trưởng bộ quốc phòng Trung Quốc tiến hành cuộc điều tra dư luận xem bao nhiêu phần trăm dân chúng ủng hộ xâm chiếm Việt Nam. Theo công bố của ông ta thì con số này lên đến trên 90%. Cứ cho rằng Trung Quốc là một nước cộng sản nên dân chúng còn sợ hãi, họ phải tuân theo thượng cấp nên có thể trừ đi 20 phần trăm, phần còn lại vẫn là trên 70 phần trăm. Và điều này là sự thật không ai có thể chối bỏ.

Năm nay đã là năm 2010, thế kỉ 21, Trung Quốc không còn sống dưới vương triều họ Mao, không còn phải đổi xác người thân cho nhau để chén thịt. Kinh tế phát triển, các phương tiện kĩ thuật phát triển, trình độ văn hoá được nâng cấp, sách báo lan tràn trong các đô thị, không thể cho rằng dân Trung Quốc hoàn toàn bị dắt mũi bởi họ ngu dốt, bởi thiếu thông tin, bởi sợ hãi nhà cầm quyền, ngược lại, họ đang dương dương tự đắc vì là dân của Cường quốc số 2 trên thế giới. Vậy thì, cái “hòn xôi Việt Nam chưa nuốt được” kia không chỉ làm ngáng họng đám cầm quyền mà cũng còn làm ngứa ngáy cổ họng vô số dân đen phương Bắc, một mặc cảm có mẫu số chung.

Vì lý do nào mà bộ trưởng bộ quốc phòng Trung Quốc làm cuộc điều tra này? Đó là một trò chơi ngẫu nhiên hay là sự thăm dò có chủ định?

Vì lý do nào mà trên các site internet Trung Quốc tung ra hàng loạt bài chửi bởi, nhục mạ “lũ chó Việt Nam, phải đánh bọn chúng. Lũ chó Việt Nam, lần này chúng ta sẽ thanh toán lịch sử”, và công bố một cách chi tiết chương trình thôn tính Việt Nam trong ba mươi mốt ngày, phần còn lại của bán đảo được quy định là một tuần, tóm lại là chương trình con hổ Trung Quốc nuốt trọn con dê Đông Dương?

Liệu nhà cầm quyền phương Bắc có thể ngang ngược làm những điều ấy chăng nếu như chính quyền Hà Nội còn là một chính quyền độc lập mà không tự nguyện biến mình thành đám gia nô cho vương triều Đại Hán?

Tôi dành những câu hỏi ấy cho bạn đọc trả lời.

Tôi chỉ xin nhắc họ rằng, chúng ta là tộc người cuối cùng sống sót mà không bị đồng hoá thành người Hán. Tổ tiên chúng ta đã đấu tranh không mệt mỏi để chống lại sự áp đặt của Bắc triều, bởi họ đã nhìn thấy sự đánh mất bản diện, sự lụi tàn của 99 tộc Việt kia.

Để tồn tại và được là chính mình, tổ tiên ta vừa chống chọi vừa lùi xuống phương Nam. Lịch sử của dân tộc Việt tóm gọn trong câu này: “Nam tiến”!

Nam tiến, nam tiến và nam tiến!

Cuộc Nam tiến thứ nhất khởi sự dưới triều Lê, từ năm 1428 đến năm 1527. Kể từ đây, cuộc khai khẩn và chinh phạt tiếp tục không ngưng nghỉ. Từ Thăng Long các đoàn quân xưa vượt qua đèo Ngang, sau lưng họ là những đoàn nông dân và thợ thủ công vào phá rừng, bạt núi, kiến tạo ruộng đồng và lập làng xây ấp. Rồi tiến đến châu Ô, châu Rí. Rồi, từ đèo Ngang vượt qua đèo Hải Vân là chặng đường thứ hai. Cứ thế mà hành trình này tiếp tục cho đến mũi Cà Mau.

Nam tiến, đó là sự nghiệp dựng nước của tổ tiên ta.

Bây giờ, chúng ta không còn cơ hội để tiếp tục sự nghiệp của họ. Chúng ta không thể Nam tiến. Trước mặt chúng ta đã là biển. Chúng ta tiến đi đâu?

Người Việt chỉ còn cách tồn tại cuối cùng là giữ lấy đất đai, đất đai ấy là xương máu của cha ông ngàn đời tích tụ lại, đất đai ấy là nơi cắt rốn chôn rau nhưng cũng là thành luỹ mà họ có thể nương tựa vào để duy trì cuộc sống cho mình và cho các thế hệ mai sau.

Để giữ được non sông, để có thể là người Việt mà không trở thành đám thiểu số khiếp nhược của một vương quốc khác, chúng ta không thể tiếp tục dung dưỡng một chính quyền bán nước, một chính quyền đã ngang nhiên cắt đất, cắt biển cống cho phương Bắc, đã nhục nhã biến ngọn cờ Thăng Long ngàn năm thành một mảnh vải vụn xén ra từ cái váy hồng Bắc Kinh. Chúng ta không thể bảo vệ được Tổ quốc nếu tiếp tục nuôi giữa lòng dân tộc mình một con rắn độc, cũng như Vua Triệu Đà xưa đánh mất non sông vì trót đẻ ra và trót yêu thương đứa con gái phản tặc có tên là Mỵ Châu. Với tất cả các hành vi nhục nhã mà họ đã làm, chế độ Hà Nội giờ đây đã chính thức trở thành một thứ Mỵ Châu.

Tuy nhiên, Mỵ Châu xưa là một người đàn bà xinh đẹp nhưng ngu dốt, kẻ luỵ tình nông nổi nên tội bán nước của cô ta còn được người đời khoan dung. Tại đền thờ Cổ Loa có hai tượng đá, tượng đá ngoài sân là biểu tượng Mỵ Châu nằm gục mặt xuống đất mà bất cứ ai đi qua cũng phải đạp một cái lên lưng và nhổ một bãi nước bọt để trừng phạt “con Mỵ Châu bán nước”. Còn tượng đá trong đền, tựa như một người đàn bà cụt cổ phủ vải đỏ thì lại được hương khói do lòng đồng cảm với “Mỵ Châu khờ dại và lụy tình”.

Dân Việt vốn không cuồng tín, họ phân biệt rõ ràng mọi sự, bên kia chữ lý còn đọng chữ tình.

Nhưng nàng Mỵ Châu ngây thơ, khờ dại đã chết từ mấy ngàn năm trước, còn chính quyền Mỵ Châu bây giờ không một chút khờ dại mà cũng chẳng luỵ tình ai, nó chỉ luỵ cái túi tiền của chính nó. Mọi tính toán của nó chỉ nhằm tu tạo, xây đắp quyền lợi bản thân, cũng như con thú chỉ có một đam mê duy nhất là liếm cho mượt bộ lông của chính nó mà thôi.

Mỵ Châu ngày nay là một con đĩ già trơ trẽn, trần truồng nằm dạng háng sẵn cho phương Bắc.

Người dân Việt phải chém cụt đầu con đĩ ấy, trước khi nó kịp trao hết nỏ thần vào tay giặc nếu chúng ta không muốn lặp lại số phận bi thảm của ông vua Triệu Đà.

Dân tộc Việt không thể làm được điều ấy, nếu quân đội không đứng lên cùng với họ.

Quân đội, những người lính của nhân dân, các anh còn ngủ đến bao giờ?


Binh lính của đoàn B80 pháo binh
Nguồn: quansuvn.net



© DCVOnline

Tổng số lượt xem trang