Thứ Bảy, 23 tháng 4, 2016

Lê Văn Tám: Lịch sử hay nghệ thuật?

-
-Trường học dùng ảnh tử tù làm anh hùng Lê Văn Tám
Công trình măng non "Trang sử hồng trường ta" của ngôi trường ở tỉnh Đồng Tháp dùng hình kẻ sát nhân làm ảnh anh hùng Lê Văn Tám.


Ngày 22/4, trao đổi với VnExpress, ông Lê Phước Hậu (Trưởng Phòng Giáo dục huyện Tam Nông, tỉnh Đồng Tháp) cho biết, việc nhầm lẫn xảy ra tại Công trình măng non của Trường Tiểu học - THCS Phú Xuân, xã Phú Đức.



Hiện, nhà trường đã gỡ bức ảnh khỏi công trình. Ảnh: A.X


Đầu năm 2015, trường Phú Xuân thực hiện Công trình măng non "Trang sử hồng trường ta" để giới thiệu với học sinh về tấm gương dũng cảm của các anh hùng, trong đó có Lê văn Tám. Lãnh đạo nhà trường thừa nhận, khi triển khai đã nhờ đơn vị in ấn ở địa phương hỗ trợ thực hiện rồi mang về trường treo mà thiếu xác minh lại ảnh anh hùng Lê Văn Tám.

Mới đây, một đoàn từ thiện đến thăm trường, tặng quà cho các học sinh nghèo hiếu học đã phát hiện sự nhầm lẫn này, phản ánh với nhà trường.

Qua xác minh, bức ảnh được dùng làm chân dung anh hùng Lê Văn Tám là Lê Văn Tấn (SN 1978, ngụ tại ấp Kênh 2A, xã Phước Lập, huyện Tân Phước, tỉnh Tiền Giang). Tấn là kẻ giết người, hiếp dâm bé gái 7 tuổi hồi tháng 1/1997 và phải nhận án tử hình.



Người thân của nạn nhân chỉ lại hiện trường mà Lê Văn Tấn (ảnh nhỏ, do công an cung cấp) gây án hồi năm 1997. Ảnh: A.X


"Chúng tôi đã yêu cầu nhà trường tháo công trình măng non xuống, kiểm tra và báo cáo toàn bộ quy trình thực hiện. Từ đó xác định nguyên nhân, trách nhiệm của các cá nhân liên quan và có hình thức xử lý nghiêm", ông Hậu nói.

Ngoài ra, Phòng Giáo dục huyện Tam Nông cũng đề nghị toàn bộ trường trên địa bàn kiểm tra lại công trình măng non của mình. Kết quả, có thêm 2 trường khác sử dụng ảnh chân dung một thanh thiếu niên làm anh hùng Lê Văn Tám nhưng chưa xác định có hay không phải hình của Tấn.






- Vụ đốt kho đạn Sài Gòn 8/4/1946 và hình tượng “đuốc sống” (TS) Nguyễn-bá Dũng.



Hồi ký của nhà báo lão thành Nam Đình (Nguyễn Kỳ Nam) có những tư liệu liên quan đến vụ quân dân Nam Bộ đốt kho đạn Sài Gòn ngày 8/4/1946 nhưng dường như chưa được trích dẫn trong các cuộc tranh luận gần đây về hình tượng “Em bé đuốc sống Lê Văn Tám”.

NXB Văn học vừa ra mắt tác phẩm “Nam Đình – Nhà văn, nhà báo kì đặc” với phần chính (437/786 trang) là trích hầu hết cuốn “Hồi ký 1925-1964” tập II “1945 - 1954” của Nguyễn Kỳ Nam (tức Nam Đình).

Cuốn “Hồi ký” này đã được học giả, nhà văn hóa lớn, cụ Vương Hồng Sển đánh giá:


“Tôi khuyên độc giả nên tìm đọc quyển “Hồi ký 1925-1964” tập II “1945 - 1954” của ký giả lão thành Nam Đình (Nguyễn Kỳ Nam), không bán, và dành riêng, do nhựt báo “Dân Chủ Mới” xuất bản năm Giáp Thìn (1964). Tôi nhìn nhận quyển “Hồi ký” ông Nguyễn Kỳ Nam này mới thật là tập sử liệu quí giá viết đúng phương pháp hồi ký vô tư và khách quan.”

(“Hơn nửa đời hư”, Văn Nghệ, Cal., 1995, tr. 350 – phần in đậm là do người trích nhấn mạnh).


Cuốn “Hồi ký” chứa nhiều tư liệu quí giá về Cách mạng Tháng Tám 1945 và cuộc kháng chiến chống Pháp tại Nam Bộ nhưng ít được trích dẫn trong các công trình lịch sử đương đại. Đọc “Hồi ký”, chúng tôi nhớ đến cuộc trao đổi gần đây về hình tượng “Em bé đuốc sống Lê Văn Tám” và nhận thấy có thể cuốn “Hồi ký” này chưa từng được trích dẫn trong quá trình trao đổi. Để giúp bạn đọc thêm tư liệu, chúng tôi xin trích dẫn phần nói về vụ quân dân Nam Bộ đốt kho đạn Sài Gòn ngày 8/4/1946 từ “Hồi ký 1925-1964” tập II “1945 - 1954” của Kỳ Nam, tr. 305-307, được in lại trong “Nam Đình – Nhà văn, nhà báo kì đặc” tr. 493-496: 



Đúng ngày kỳ hẹn – 20 tháng 3 năm 1946 – tại miếu Bà Cố, cách Biên-hòa mười cây số, hai bên hẹn gặp nhau.

Nguyễn-Bình [Khu trưởng Khu 7, chỉ huy quân sự cao nhất của chính phủ Việt Nam DCCH tại Nam Bộ] cử Phạm-ngọc-Thuần, Lê-đình-Chi và hai người nữa đến gặp phái-đoàn Pháp.

Đại-tá [Cédille, Ủy viên Cộng hòa Pháp tại Nam Đông Dương] đưa điều-kiện:
“Bên Việt-Nam phải giải-giới Dân-quân; nạp khí-giới cho Pháp. Pháp sẽ cho những người kháng-chiến về hợp-tác với Pháp.”

Điều-kiện hợp-tác như thế có nghĩa là đầu hàng không điều-kiện ! Hay là… bó tay nạp mình cho Pháp. 

Phái-đoàn Phạm-ngọc-Thuần không cần thảo-luận gì nữa, liền trở về căn-cứ.

Pháp muốn biểu-dương lực-lượng hùng-hậu của mình, nên ngày sau, liền ra lịnh cho máy bay dội bom tan nát vùng Lạc-an [trung tâm Khu 7 Nam Bộ và chiến khu Đ sau này].

Cố nhiên là nhà cửa, trâu bò, mùa-màng bị thiệt-hại nặng.

Dân chúng khóc trước cảnh điêu-tàn, người chết, nhà cửa bị thiêu hủy dưới trận mưa đạn.

Nguyễn-Bình thề sống chết với Pháp.

Đốt kho đạn Saigon

Để trả lời trận tấn-công nầy. Dân-quân kháng-chiến quyết gây thiệt-hại cho Pháp gấp mười lần mới nghe.

Tổ-chức đốt kho đạn Saigon.

Nếu thành-công vụ nầy, sẽ có 4 điều lợi:

-    Một là, ủng-hộ Hội-nghị Đà-lạt Việt – Pháp sẽ mở vào ngày 14 tháng 4 năm 1946.

-    Hai là, trả lời đề-nghị của Cédille.

-    Ba là, trả lời cho tướng Leclerc [Tổng chỉ huy quân đội Pháp ở Đông Dương] biết rằng: Nam-Bộ vẫn còn lực-lượng kháng-chiến, chớ không phải tan rã; như tướng Leclerc tuyên-bố đã bình-định xong.

-    Bốn, để đồng-bào khắp nơi biết lực-lượng kháng-chiến vẫn còn mạnh mẽ, nhứt là đồng bào về thành, để mưu sinh-kế.

Nhưng làm sao đốt kho đạn ?

Nguyễn-Bình có họa-đồ kho đạn Saigon rồi, nhưng làm sao tấn-công ?

Lúc đó dân-quân ở ngoại-ô Saigon tuyên-truyền rằng: có 2 cảm-tử-quân mình làm cây đuốc. Rồi tự đốt đuốc, chạy vào kho đạn…

Thật ra, việc phá-hủy kho đạn Saigon do một công-trình nghiên-cứu rất khoa-học của dân-quân tổ-chức lâu ngày. Hai cảm-tử-quân cùng với một sĩ-quan Nhựt đầu hàng dẫn đường.

Sĩ-quan Nhựt này trước kia có ở kho đạn, nên biết rõ địa-thế kho đạn.

Anh ta nói:

-    Pháp không giữ phía sau kho đạn tức là phía sông Thị-Nghè, có nghĩa là, họ để trống cửa hậu cho mình vào kho đạn rất dễ dàng. Tại đây, có 1 đường cống lớn, chun vào tận kho đạn. Một kho nổ tung, tức nhiên, bao nhiêu kho khác, sẽ cháy hết.

Bộ tham-mưu kháng-chiến liền xúc-tiến công việc.

Tối 8 tháng 4, viên sĩ quan Nhựt dắt 2 cảm-tử-quân ta, bọc theo mình những đồ nhạy lửa dây tim có thuốc súng, đốt cháy…, dẫn lửa vào hầm đạn.

Ba người lội sang sông Thị-Nghè; sĩ-quan Nhật chun vào lỗ cống, dẫn đường cho hai cảm-tử-quân ta.

Chất nhạy lửa đặt ngay hầm đạn, mối dây bắt lửa kéo trở ra miệng. Chừng lội trở ra, hai cảm-tử-quân cột một điếu thuốc ở đầu dây. Đốt điếu thuốc xong, cả ba lội qua sông Thị-Nghè, kiếm chỗ núp coi kết quả.

Điếu thuốc cháy tới dây dẫn lửa, tức thì dây dẫn lửa đem lửa vào tận hầm để đạn.

Tại đây, có sẵn chất nổ.

Một hầm đạn cháy, nhiều hầm khác nổ tung.

Sáng ngày 9 tháng 4, dân chúng Saigon nghe tiếng nổ liên tiếp, tưởng chừng kháng-chiến đã vào tận Saigon. Hai bên bắn nhau, nên mới gây tiếng súng long trời lở đất.

Những người ở gần kho đạn hay trước, nên bỏ nhà chạy… tản-cư về miệt Saigon.

Từ đây một đồn mười chẳng bao lâu cả Saigon đều hay tin kho đạn nổ.

Pháp định giấu không muốn thế-giới biết ai đốt kho đạn

Nhưng, tại sao… nổ ? 

Cédille định giấu dân-chúng, nên đưa tin cho ký-giả ngoại-quốc và thông-tấn-xã A.F.P rằng: có một chiếc cam-nhông vào kho đạn, nhảy lên một cục gạch, đạn trên xe vùng nổ… Nên những kho đạn gần đó bị vạ lây.

Đạn nổ trọn ngày 9 tháng 4, rồi suốt cả đêm, suốt ngày 10, trọn đêm 10, suốt ngày 11 và trọn đêm 11; sáng 12, nổ lai-rai… đến tối lại mới dứt hẳn.

Nguy hiểm nhứt là ngày 10. Có tin của nhà chức-trách cho hay: “phải tản-cư thật xa, vì những trái phá lớn mà nổ, thì những vùng ở gần kho đạn sẽ sập hết. Dân-chúng nên chú-ý”.

Thông-cáo đăng trên các báo.

Tiếng nổ liền liền; khói đen lên cao một vùng. Ai mà không sợ ?

Nhiều gia-đình ngủ ở vườn bông, vườn sân Tao-Đàn những nơi công-cộng…

Nhà cửa gần kho đạn đều sập một phần. Nhiều nhà thì “la phông” đổ, hoặc sập một hai mái hiên ở ngoài…

Một tuần nhựt sau, mới biết bị dân-quân phá-hoại. Một vài báo xuất bản ngoài bưng lại đưa tin rằng:

“Có hai cảm-tử-quân quấn vải vào mình, rồi tẩm xăng đốt lên chạy vào kho đạn… Lính gác cửa thấy vậy sợ quá không dám bắn. Hai người liều chết đốt 4 ngàn tấn đạn dược của Pháp ”.

(Cách viết của bản gốc được giữ nguyên. Các chú thich trong [ ] là của người trích dẫn)

Như phần trích dẫn, tư liệu này mô tả khá toàn diện một chiến công của quân dân Nam Bộ: Lý do và thời điểm của trận đánh, những người thực hiện trận đánh, hậu quả của vụ nổ được thông báo bởi nhà binh Pháp cũng như thông tin trong dân chúng và thông tin của các hãng truyền thông nước ngoài.

Đối chiếu với các thông tin đã đưa ra khi tranh luận về “Em bé đuốc sống Lê Văn Tám”, còn nhiều câu hỏi sẽ tiếp tục cần giải đáp.


 -255. Lê Văn Tám: Lịch sử hay nghệ thuật? anhbasam on 27/12/2010
Tạp chí Xưa & Nay Lê Văn Tám: Lịch sử hay nghệ thuật?
Số 342 – Tháng 10-2009 *
… Trước hết, chúng tôi cảm thấy khâm phục, cảm ơn sự chân thành và ý thức trách nhiệm của GS Phan Huy Lê (GS PHL) với tư cách một nhà sử học luôn đặt sự thật lên hàng đầu. Trong truyền thống văn hoá nhân loại, chúng ta biết không ít sử gia để bảo vệ sự thật họ đã sẵn sàng hy sinh cả những cái quí giá nhất của đời mình! Xin nhắc lại câu nói của của X. Antonop, nhà văn lớn Nga: “Tôi yêu quí nước Nga nhường nào nhưng sự thật còn quí giá hơn!”
Về cách ứng xử đối với biểu tượng “ngọn đuốc sống Lê Văn Tám (LVT)”, GS PHL có ý kiến:

  1. Không đồng ý quan điểm cho rằng “ngọn đuốc sống LVT” đã đi vào lòng dân rồi, các nhà sử học không cần xác minh nhân vật đó có thật hay không, làm ảnh hưởng tới một “biểu tượng”, một “tượng đài” yêu nước.
  1. Ông chủ trương “tất cả đường phố, trường học, công viên… mang tên LVT vẫn để nguyên, vẫn được tôn trọng” vì LVT “không phải là tên một nhân vật lịch sử có thật, nhưng phản ánh một sự kiện lịch sử có thật, một tinh thần hy sinh vì Tổ quốc có thật. Đó là một biểu tượng đã đi vào lịch sử mang tính phổ biến và thiêng liêng” nhưng cần giải thích đúng sự thật, ngăn chặn những ý đồ mờ ám dựng lý lịch giả LVT mong làm hậu duệ thật.
Về căn bản chúng tôi nhất trí với các ý kiến của GS, nhưng để thuyết phục độc giả một cách khoa học, chứ không phải chỉ dừng lại ở trách nhiệm đối với sự thiêng liêng mang tính phổ biến của biểu tượng, xin lưu ý thêm mấy vấn đề:
-         Việc tác giả Trần Huy Liệu (THL) tạo tác nên nhân vật LVT theo nguyên tắc nào? Ý nghĩa chính trị có được hỗ trợ bằng tinh thần khoa học không?
-         Nên khai thác và phát triển ý nghĩa biểu tượng LVT theo hướng nào cho thích hợp?
Về hình ảnh người anh hùng trong đời sống thường tồn tại dưới 3 dạng thức văn hoá: lịch sử, nghệ thuật và tín ngưỡng dân gian. Người anh hùng trong lịch sử được ghi lại bằng tri thức của sự hiểu biết (có thật), còn trong tín ngưỡng dân gian được tạo nên bằng đức tin (hư ảo). Từng dạng thức văn hoá khi thể hiện người anh hùng có những đặc điểm riêng.
Người anh hùng trong lịch sử được thể hiện bằng sự hiểu biết của nhà sử học. Nó chân thực 100%. Bất cứ sự thêm bớt dù lớn dù bé đều làm giảm sức thuyết phục. Người anh hùng trong loại hình nghệ thuật về đề tài lịch sử có đặc điểm khác trong cách thức thể hiện. Trên cơ sở những sự kiện có thực, nhà nghệ thuật bằng tưởng tượng có thể sáng tạo mới về người và việc hoặc bổ sung thêm những chi tiết để tô đậm hình tượng người anh hùng nhằm minh hoạ cho một tư tưởng hiện đại mà người nghệ sĩ muốn nhắn gửi với cộng đồng. Người anh hùng trong nghệ thuật bởi vậy gần giống “như thật”, có thể có hoặc không có nguyên mẫu trong lịch sử. Họ có cốt lõi, có cái bản chất lịch sử của người anh hùng thật nhưng có nhiều hiện tượng chi tiết đã thay đổi so với lịch sử. Người anh hùng trong lịch sử, trong nghệ thuật (viết hoặc truyền miệng) có thể trở thành những biểu tượng văn hoá của cộng đồng truyền từ đời này sang đời khác và có thể trở thành tín ngưỡng dân gian (Thánh Gióng, Hai Bà Trưng, Lý Ông Trọng, Đức Thánh Trần…)
Liên hệ đến câu chuyện LVT, chúng ta có thể tiếp cận và biện giải trên các phương diện sau: Trên cơ sở sự thực về chiến công các chiến sĩ yêu nước Sài Gòn (có thể là một dân quân hay một em bé) phá kho xăng (hay kho đạn) Thị Nghè tháng 10 – 1945 mà các báo đương thời như Cờ giải phóng, Thời mới, Kèn gọi lính, Quyết chiến… đã đưa tin, tác giả THL đã sáng tác nên câu chuyện em bé đuốc sống mà nhân vật chính là LVT, một “hư cấu nghệ thuật” mà thể loại văn chương – lịch sử cho phép thực hiện. Chúng tôi nghĩ rằng THL, một người am tường văn hoá Đông Tây, một nhà chính trị, một học giả, đưa ra hình ảnh LVT không phải là một việc làm vội vã mà ông đã suy nghĩ rất kỹ vấn đề trên cả hai phương diện cứu cánh lẫn phương tiện cũng như nguyên tắc của việc “bịa” này. Chắc ông đã nắm vững trong lịch sử Đông Tây về các sự kiện mà người ta dựng nên theo con đường hư cấu nghệ thuật nhằm cổ suý cho sự thành công của các anh hùng, các triều đại… Mượn cái phương thức phản ánh của nghệ thuật, nhà sử học THL đã thành công khi sáng tạo nên nhân vật LVT. Hình tượng nghệ thuật LVT quá thích hợp, được sự cộng hưởng của không khí lịch sử bấy giờ nên lan truyền nhanh chóng. Từ câu chuyện sáng tạo bằng “miệng” chuyển qua báo chí thành “viết” rồi lan ra khắp nước trở thành nguồn cổ vũ lớn lao tinh thần dân tộc không chỉ lúc bấy giờ mà cả sau này, sống lồng lộng qua hai cuộc kháng chiến. LVT trở thành một biểu tượng về lòng yêu nước của cộng đồng, in sâu trong tâm khảm nhân dân. Hình tượng LVT hiển hiện không chỉ trong sách báo mà cả trong các vườn hoa, trên các con đường, trong các nhà lưu niệm với những xúc cảm thiêng liêng và được cải biên khá đa dạng. Khi thì là cậu bé quấn chăn tự đốt cháy, khi thì là cậu bé ném chai xăng vào kho giặc. Có hoạ sĩ vẽ hình cậu bé LVT quấn cờ đỏ sao vàng toàn mình bốc lửa lao về phía trước bừng bừng sát khí Phù Đổng. Đó là một thành công của tác giả THL trên tư cách một nhà nghệ thuật chứ không phải là nhà sử học!
Sự tồn tại của hình tượng LVT là một thể hiện con đường đi của hình tượng người anh hùng được thăng hoa từ hiện thực đến nghệ thuật rồi tới văn hoá cộng đồng như là một huyền thoại dân gian vậy! Từ một sáng tác hữu danh ban đầu theo quy tắc dân gian hoá trở thành một sáng tác tập thể mang tính cộng đồng.
Hình tượng LVT đối với cộng đồng không nên để gián cách, vẫn nên tiếp tục phát huy cái ý nghĩa cao đẹp của nó nhưng với một nhận thức khoa học và thực tiễn hơn. Chúng ta nên ứng xử với hình tượng LVT như tiếp cận một biểu tượng nghệ thuật về lòng yêu nước trong văn hoá cộng đồng, chứ không là một nhân vật lịch sử. Tiếp cận hình tượng LVT theo cách thức như vậy mới thật  khách quan, tránh cực đoan thiên kiến xem chỉ là sự bịa đặt nên loại bỏ, hoặc giả tảng không biết gì cứ để nguyên hiện trạng, mong khỏi “làm mờ nhạt truyền thống yêu nước mà bấy lâu nay đã dày công vun đắp”; để rồi các thế hệ sau không phân biệt thật giả, tiếp cận LVT như một anh hùng có thực trong dãy dài các nhân vật lịch sử. Như vậy là có lỗi với lịch sử, với tiền nhân.
LVT vì không tồn tại như một sự thật lịch sử mà chỉ là một hình tượng nghệ thuật được sáng tạo bằng phương thức hư cấu, tưởng tượng. Bởi vậy nếu so sánh với Lý Tự Trọng chẳng hạn, ta thấy cả hai đều tiêu biểu cho lòng yêu nước của nhân dân ta, nhưng Lý Tự Trọng là một nhân vật lịch sử còn LVT là một nhân vật nghệ thuật. Đó là xét trên phương diện đặc tính, chứ trên phương diện tác động tình cảm, hiệu ứng thẩm mỹ thì cả hai biểu tượng đều có một sức tác động mạnh mẽ, và về lâu về dài khi đã thâm nhập sâu xa vào tâm hồn cộng đồng, cách điệu để trở thành tín ngưỡng dân gian thì cả hai đều là những biểu tượng bất tử về chủ nghĩa yêu nước Việt Nam.
Và nếu rồi đây có tượng LVT trong vườn hoa theo tưởng tượng của một nhà điêu khắc nào đó như người Nga dựng tượng Tatiana – nhân vật của Puskin tiêu biểu cho “nỗi buồn Nga”, nàng tiên cá nhân vật Anđecxen thể hiện mơ ước và lo âu của dân Bắc Âu (Đan Mạch), hay Thuý Kiều nhân vật của Nguyễn Du – nỗi đau người phụ nữ Việt trung đại… thì cũng theo quy luật nhân vật đi vào đời sống với dạng thức một biểu tượng văn hoá.
Hà Quảng
(Hội VHNT Hà Tĩnh)


-239. Sự thật về “anh hùng Lê Văn Tám”
Đăng bởi anhbasam on 21/12/2010



- GS Phan Huy Lê: Trả lại sự thật hình tượng Lê Văn Tám (Bee )  14/10/2009 10:02:08- "Theo quan điểm của tôi, mọi biểu tượng hay tượng đài lịch sử chỉ có sức sống bền bỉ trong lịch sử và trong lòng dân khi được xây dựng trên cơ sở khoa học khách quan, chân thực" - GS Phan Huy Lê nhấn mạnh sau khi giải thích về hình tượng nhân vật Lê Văn Tám.

GS Trần Huy Liệu căn dặn chúng tôi phải nói lại
"Lời dặn của GS Trần Huy Liệu là đến lúc đất nước yên ổn, cần phải nói lên sự thật về câu chuyện Lê Văn Tám" - GS Phan Huy Lê.
Bấy giờ là vào đầu những năm 60 của thế kỷ trước, tôi có nhiều dịp làm việc với GS Trần Huy Liệu trong công trình khoa học do GS chủ trì và tôi được mời tham gia. Lúc đó, GS Trần Huy Liệu là Phó chủ nhiệm Ủy ban Khoa học xã hội, kiêm Viện trưởng Viện sử học. Ngoài những buổi họp ban biên soạn ở cơ quan, tôi có một số buổi làm việc với GS tại nhà riêng.

Ngoài công việc biên soạn công trình, GS thường trao đổi một cách thân tình  những vấn đề thời sự sử học trong và ngoài nước, kể lại một số chuyện trong đời hoạt động cách mạng của mình. Trong những năm 1954 - 1956, khi tôi đang học ở trường Đại học Sư phạm/văn khoa Hà Nội, GS Trần Huy Liệu có đến giảng một số bài về cách mạng Việt Nam.

Về câu chuyện Lê Văn Tám, tôi xin được tóm lược một cách đầy đủ lời kể và lời dặn của GS Trần Huy Liệu mà tôi đã lĩnh hội như sau: Nhân vụ kho xăng của địch ở Thị Nghè bị đốt cháy vào khoảng tháng 10 - 1945 và được loan tin rộng rãi trên báo chí trong nước và đài phát thanh của Pháp, đài BBC của Anh; nhưng không biết ai là người tổ chức và trực tiếp đốt kho xăng nên tôi (GS Trần Huy Liệu) đã "dựng" lên câu chuyện thiếu niên Lê Văn Tám tẩm xăng vào người rồi xông vào đốt kho xăng địch cách đấy mấy chục mét.

GS Trần Huy Liệu còn cho biết là sau khi ta phát tin này thì đài BBC đưa tin ngay, và hôm sau bình luận: Một cậu bé tẩm xăng vào người rồi tự đốt cháy thì sẽ gục ngay tại chỗ, hay nhiều lắm là chỉ lảo đảo được mấy bước, không thể chạy được mấy chục mét đến kho xăng. GS đã tự trách là vì thiếu cân nhắc về khoa học nên có chỗ chưa hợp lý. Đây là ý kiến của GS Trần Huy Liệu mà sau này tôi có trao đổi với vài bác sĩ để xác nhận thêm.

Tôi nhấn mạnh là GS Trần Huy Liệu không hề “hư cấu” sự kiện kho xăng địch ở Thị Nghè bị đốt cháy mà trên cơ sở sự kiện có thật đó, chỉ “dựng lên”, theo cách nói của GS, chuyện thiếu niên Lê Văn Tám tẩm xăng đốt cháy kho xăng địch.

GS giải thích là thời Nam Bộ kháng chiến, có bao nhiêu tấm gương hy sinh vì Tổ quốc, nhưng “dựng” chuyện thiếu niên Lê Văn Tám là nghĩ đến biểu tượng cậu bé anh hùng làng Gióng (Phù Đổng Thiên Vương), còn việc đặt tên Lê Văn Tám là vì họ Lê Văn rất phổ biến ở nước ta và Tám là nghĩ đến Cách mạng tháng Tám.

Lúc bấy giờ, GS Trần Huy Liệu đang giữ chức Bộ trưởng Bộ Thông tin tuyên truyền trong Chính phủ lâm thời, nên GS nói rõ là muốn tạo dựng nên một biểu tượng anh hùng để tuyên truyền, cổ vũ tinh thần chiến đấu của quân dân ta.
Cũng xin lưu ý là GS Trần Huy Liệu giữ chức Bộ trưởng Bộ Thông tin tuyên truyền trong Chính phủ lâm thời từ ngày 28 - 8 - 1945 đến ngày 1 - 1 - 1946, rồi Bộ trưởng Bộ Tuyên truyền cổ động trong Chính phủ liên hiệp lâm thời từ ngày 1 - 1 - 1946 cho đến khi thành lập Chính phủ liên hiệp kháng chiến tại kỳ họp Quốc hội ngày 2 - 3 - 1946, nghĩa là trong thời gian xảy ra sự kiện Kho xăng Thị Nghè bị đốt cháy, chứ không phải trong thời gian “1946 - 1948?” sau sự kiện trên.

Điều căn dặn của GS Trần Huy Liệu là: Sau này khi đất nước yên ổn, các anh là nhà sử học, nên nói lại giùm tôi, lỡ khi đó tôi không còn nữa. Trong câu chuyện, GS còn tiên lượng là biết đâu sau này có người đi tìm tung tích nhân vật Lê Văn Tám hay có người lại tự nhận là hậu duệ của gia đình, họ hàng người anh hùng. Đây chính là điều lắng đọng sâu nhất trong tâm trí mà tôi coi là trách nhiệm đối với GS Trần Huy Liệu đã quá cố và đối với lịch sử.

GS Trần Huy Liệu là một con người rất trung thực, không muốn để lại một sự ngộ nhận trong lịch sử do mình tạo nên trong một bối cảnh và yêu cầu bức xúc của cuộc kháng chiến và tôi lĩnh hội lời dặn của GS như một trách nhiệm phải thực hiện một cách nghiêm túc.

Tôi kể lại câu chuyện này một cách trung thực với tất cả trách nhiệm và danh dự của một công dân, một nhà sử học.

Ngày nay, từ đầu thế kỷ XXI nhìn lại, trong hoàn cảnh chiến tranh đã lùi xa vào quá khứ hơn 30 năm, đất nước đã giành lại độc lập, thống nhất, tôi xin đặt ra hai vấn đề sau đây để thế hệ chúng ta cùng bàn luận.

- Xác minh rõ sự kiện Kho xăng địch bị đốt cháy trong tháng 10-1945.

- Thái độ ứng xử đối với biểu tượng Lê Văn Tám. 

Vấn đề thứ nhất là cần cố gắng sưu tầm tư liệu đáng tin cậy để xác định rõ hơn sự kiện Kho xăng địch ở Thị Nghè bị đốt cháy trong tháng 10-1945:

Tôi nói tư liệu đáng tin cậy trong trường hợp này không phải là các sách báo viết về sau này, mà là tư liệu gốc khai thác từ nhân chứng lịch sử hay những thông tin trực tiếp từ sự kiện thời bấy giờ và dĩ nhiên đều phải đối chiếu, xác minh một cách khoa học.

Nhân chứng lịch sử:

Tôi đã có dịp hỏi GS Trần Văn Giàu - lúc đó giữ chức Chủ tịch Ủy ban kháng chiến Nam bộ, thì GS khẳng định có sự kiện Kho xăng địch ở Thị Nghè bị đốt cháy và trong tình hình lúc đó là do ta đốt, nhưng không biết ai tổ chức và người nào thực hiện.

Nhà cách mạng lão thành Dương Quang Đông trong hồi ký viết rằng, người đốt Kho đạn Thị Nghè ngày 1-1-1946 không phải là Lê Văn Tám mà là tổ đánh mìn của công nhân nhà máy đèn Chợ Quán (tạp chí Xưa & Nay số 154).

Tư liệu báo chí:

Tư liệu báo chí lúc bấy giờ thì tại Thư viện quốc gia Hà Nội lưu giữ được rất ít, các số báo lại không đủ. Bước đầu tôi mới tìm thấy thông tin liên quan với Kho xăng Thị Nghè bị đốt cháy trong báo Quyết chiến là “cơ quan ủng hộ chính quyền nhân dân”, tòa soạn đặt ở phố Nguyễn Tri Phương, Thuận Hóa; báo Cờ giải phóng là “cơ quan tuyên truyền cổ động trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương” và báo Thời mới do Nguyễn Văn Luận làm Chủ nhiệm; nhưng các số không liên tục, không đủ. 

Báo Quyết chiến số ngày thứ sáu, ?- 10 - 1945 đưa tin dưới tít lớn Một chiến sĩ ta tẩm dầu vào mình đốt cháy kho dầu Simon Piétri với nội dung như sau: “Một gương hi sinh vô cùng dũng cảm. Một chiến sĩ ta tẩm dầu vào mình tự làm mồi lửa đã đốt được kho dầu Simon Piétri, lửa cháy luôn hai đêm hai ngày.

Đài Sài Gòn trong buổi truyền thanh tối 17 - 10 công nhận rằng kho dầu này đã hoàn toàn bị thiêu ra tro, sự thiệt hại đến mấy chục triệu đồng”.

Ngày phát hành số báo, in ngày “thứ sáu”, số ngày không rõ và có người viết thêm bút mực con số 7, tiếp theo là tháng “10 - 45”. Theo lịch năm 1945, trong tháng 10 có 3 ngày thứ sáu là ngày 12, 19 và 26. Trong bản tin có nhắc đến buổi phát thanh của Đài Sài Gòn ngày 17, vậy ngày thứ sáu của tờ báo phải sau ngày đó và có thể xác định là ngày 19 - 10 - 1945.

Báo Thời mới số 6 ngày 28 - 10 - 1945, nhân lễ khai mạc Ngày Cứu quốc do Tổng hội sinh viên cứu quốc tổ chức, đăng bài Những chuyện cảm động của dân ta trong cuộc kháng chiến ở Nam Bộ, có đoạn kể lại câu chuyện đốt kho xăng ở Sài Gòn theo lời kể của một người từ Nam Bộ ra Hà Nội ngày 21-10-1945 như sau: “Một người bạn tôi ở Nam Bộ vừa ra đây hôm hai mươi mốt kể cho tôi nghe nhiều điều tai nghe mắt thấy ở Nam Bộ để chứng cho cái tinh thần kháng chiến anh dũng đó. Thứ nhất là chuyện anh dân quân tẩm dầu vào người, đốt cháy kho ét-săng và cao su sống ở Sài Gòn.

Có người nói rằng nhà chiến sĩ tuẫn quốc này tự nguyện xin mặc áo bông giầy tẩm xăng rồi lấy lửa tự châm mình như một cây đinh liệu, xông vào kho cao su sống kia. Không phải thế. Làm thế thì cố nhiên giặc Pháp ngăn lại ngay từ khi chưa tới cửa kho.

Thực ra thì nhà chiến sĩ của chúng ta phải dùng mưu nhiều lắm. Trước khi vào, anh em mọi Pleiku của chúng ta đã phải lừa lúc giặc Pháp canh phòng không cẩn thận, trèo lên những cái cây to ở xung quanh kho cao su, bắn tên độc vào những người gác ở bốn bề. Nhà chiến sĩ, nhằm chính lúc cơ hội thuận tiện đã đến, tẩm dầu vào người, đeo súng liên thanh, bò qua tường vào trong kho cao su tìm bắn những người Pháp. Chúng bâu lại như đàn ruồi.

Chiến sĩ Việt Nam biết không thể làm hơn được nữa, bắn lia lịa vào những thùng ét-săng ở hai bên, ét-săng tràn ra cả nhà. Chiến sĩ ta châm một mồi riêm vào người, nhảy lên đám thùng rỗng, chửi rủa giặc Pháp tàn tệ.

Trong lúc đó, cả mình mẩy anh bừng bừng lên. Anh vẫn chửi rủa giặc Pháp cho đến khi gục nằm xuống như một đấng thiên thần hiện ra rồi mờ đi trong giấc mơ dữ dội. Những người đứng xa ngoài ba mươi cây số còn trông thấy ngọn lửa đám cháy này và trong hai ba ngày đêm liền, giặc Pháp và phái bộ Anh không thể nào rập tắt”.

Báo Cờ giải phóng số ra ngày 25-10-1945, đưa lên trang đầu hình ảnh một người đang bốc cháy xông về phía trước kèm theo lời “Tinh thần anh dũng của đồng bào Nam Bộ muôn năm”.

Báo Cờ giải phóng ngày 5-11-1945, trong mục Mặc niệm: "trích đăng một vài tấm gương xung phong anh dũng đã được nêu lên trên mặt báo chí miền Nam”, có đoạn đưa tin: “Trước kho đạn Thị Nghè có rất đông lính Anh, Ấn, Pháp gác nghiêm ngặt, khó bề đến gần phóng hỏa.

Một em thiếu sinh 16 tuổi, nhất định không nói tên họ, làng, tình nguyện ra lấy thân mình làm mồi dẫn hỏa. Em quấn vải quanh mình, tẩm dầu xăng, sau lưng đeo một cái mồi, đứng im đốt mồi lửa, miệng tung hô “Việt Nam vạn tuế”, chân chạy đâm sầm vào kho đạn. Lính Anh đứng trong bắn ra như mưa. Một lần trúng đạn, em ngã nhào xuống, nhưng rồi ngồi dậy chạy luồn vào.

Lính Anh khiếp đảm bỏ chạy ra ngoài. Một tiếng nổ. Em thiếu sinh tiêu tán cùng với kho đạn Thị Nghè của giặc”
.
Dưới bản tin có ghi chú “Kèn gọi lính, ngày 8 - 10 - 1945”. Như vậy báo đưa tin theo tin của báo Kèn gọi lính ngày 8 - 10 - 1945 và theo đó, kho đạn bị đốt cháy phải trước ngày 8 - 10 - 1945, ít ra là ngày  7-10-1945.  

Trên đây là một số thông tin lấy từ báo chí ở thời điểm gần nhất với sự kiện liên quan đến chuyện Lê Văn Tám. Tôi hi vọng là những người quan tâm đến chuyện này có thể tìm kiếm và thu thập thêm thông tin báo chí mà tôi chưa được tiếp cận.
Còn sự kiện quân ta phá nổ kho đạn của địch ở Sài Gòn ngày 8-4-1946 mà Đại tướng Võ Nguyên Giáp nói đến trong hồi ký "Những năm tháng không thể nào quên" thuộc giai đoạn sau, không liên quan đến chuyện Lê Văn Tám.

Trong những báo trên, thông tin sớm nhất là "Kèn gọi lính" do báo Cờ giải phóng trích đăng ngày 5-11-1945. Rất tiếc là tôi không tìm thấy báo Kèn gọi lính mà căn cứ theo đoạn trích của Cờ giải phóng. Theo thông tin này thì “một em thiếu nhi 16 tuổi” đốt kho đạn Thị Nghè trước ngày 8-10-1945, chứ không phải kho xăng Thị Nghè.

Báo Quyết Chiến ngày 19? - 10 - 1945 lại đưa tin “kho dầu Simon Piétri” bị “một chiến sĩ ta” đốt cháy vào trước ngày 17 - 10 - 1945. Kho đạn ở Sở thú và kho xăng ở Thị Nghè là hai địa điểm gần nhau. Như vậy theo những thông tin gần thời điểm xảy ra sự kiện thì vẫn còn phải tìm thêm cứ liệu để xác định là kho đạn hay kho xăng và thời điểm là ngày nào, chắc hẳn trước ngày 17 - 10 - 1945.

Rồi người thực hiện là “em thiếu nhi 16 tuổi” (Kèn gọi lính) hay “một chiến sĩ ta” (Quyết chiến) hay “anh dân quân tẩm dầu vào người” (Thời mới). Việc tẩm xăng vào người, lúc đó cũng đã gây ra sự bàn luận.
Thời mới đã bác bỏ chuyện người chiến sĩ tẩm dầu vào người xông vào kho xăng vì “không phải thế, làm thế thì cố nhiên giặc Pháp ngăn lại ngay từ khi chưa tới cửa kho” và cho rằng người chiến sĩ phải “dùng mưu nhiều lắm” để lẻn vào gần kho xăng rồi mới “tẩm dầu vào người”, dùng súng bắn thủng các thùng xăng và châm diêm vào người, nhảy vào đám thùng xăng. Không biết tác giả dựa trên căn cứ nào nhưng về khách quan, cách trình bày này hợp lý hơn.

Với những thông tin đã tập hợp, tuy chưa đủ và còn một số khía cạnh chưa xác minh được (kho xăng hay kho đạn, thời điểm, người đốt) nhưng sự kiện kho xăng (hay đạn) của địch ở Thị Nghè (hay gần Thị Nghè) bị ta đốt cháy là có thật.

Ngay lúc đó, trên báo chí đã xuất hiện những thông tin khác nhau về người đốt và cách đốt kho xăng, tuy nhiên có điểm chung là gắn với hình ảnh một chiến sĩ tẩm xăng đốt cháy kho xăng địch và không có tên Lê Văn Tám hay tính danh của người chiến sĩ đã hi sinh.

Điểm lại những tư liệu đã thu thập được thì càng thấy rõ, trên cơ sở sự kiện có thật và cả dư luận về hình ảnh người chiến sĩ tẩm xăng thời đó, GS Trần Huy Liệu tạo dựng nên biểu tượng “ngọn đuốc sống” gắn với tên tuổi thiếu niên Lê Văn Tám.  

Vấn đề thứ hai là cách ứng xử đối với biểu tượng “ngọn đuốc sống Lê Văn Tám”:

Trong bàn luận, cũng có người nghĩ rằng, “ngọn đuốc sống Lê Văn Tám” đã đi vào lòng dân rồi, các nhà sử học không cần xác minh nhân vật đó có thật hay không, làm ảnh hưởng tới một “biểu tượng”, một “tượng đài” yêu nước. Tôi quan niệm hoàn toàn khác.

Đối với sử học, tôn trọng sự thật, tìm ra sự thật, xác minh sự thật là một nguyên tắc cao cả thuộc về phẩm chất và chức năng của nhà sử học. Dĩ nhiên, với trách nhiệm công dân, có những sự thật trong một bối cảnh cụ thể nào đó liên quan đến bí mật quốc gia hay ảnh hưởng đến lợi ích sống còn của dân tộc, nhà sử học chưa được công bố.
Về nguyên lý, mọi kết quả nghiên cứu sử học càng khách quan và trung thực, càng có tác dụng tích cực xây dựng nhận thức lịch sử  đúng đắn và không có gì mâu thuẫn với các biểu tượng lịch sử, các tượng đài yêu nước có giá trị được nhân dân tôn vinh.

Ngay đối với những biểu tượng mang tính huyền thoại, truyền thuyết như Lạc Long Quân - Âu Cơ, Con Rồng-Cháu Tiên, Phù Đổng Thiên Vương, nỏ thần An Dương Vương, vua Lê trả Gươm thần ở hồ Hoàn Kiếm..., kết quả nghiên cứu khoa học chỉ góp phần làm sáng tỏ cơ sở khoa học, cốt lõi lịch sử của biểu tượng.
Ví dụ những phát hiện khảo cổ học về đồ sắt trong văn hóa Đông Sơn, kho mũi tên đồng ở Cổ Loa và gần đây, hệ thống lò đúc mũi tên đồng ngay trong thành Nội của thành Cổ Loa, giúp chúng ta hiểu sâu sắc hơn cốt lõi lịch sử của hình ảnh ngựa sắt của Thánh Gióng, vai trò của nỏ thần của An Dương Vương. Chuyện vua Lê trả Gươm thần ở hồ Hoàn Kiếm vẫn nguyên giá trị thiêng liêng, không hề bị ảnh hưởng bởi việc nghiên cứu giống rùa và tuổi thọ của rùa Hồ Gươm...

Biểu tượng “ngọn đuốc sống Lê Văn Tám” thực sự đã được quảng bá rộng rãi, đi sâu vào tâm thức của nhân dân, tiêu biểu cho tinh thần hi sinh anh dũng, ý chí xả thân vì nước của quân dân ta trong buổi đầu của Nam kỳ kháng chiến. Một số đường phố, trường học, công viên hiện nay đã mang tên Lê Văn Tám. Lời dặn của GS Trần Huy Liệu là đến lúc đất nước yên ổn, cần phải nói lên sự thật về câu chuyện Lê Văn Tám.

Đó không phải là tên của nhân vật lịch sử có thật, nhưng phản ánh một sự kiện lịch sử có thật, một tinh thần hi sinh vì Tổ quốc có thật. Đó là một biểu tượng đã đi vào lịch sử mang tính phổ biến và thiêng liêng. Trả lại nguồn gốc thật của biểu tượng này là để tạo lập một nền tảng nhận thức khoa học, khách quan về quá trình hình thành biểu tượng Lê Văn Tám.

Tôi nghĩ rằng tất cả các đường phố, trường học, công viên... mang tên Lê Văn Tám vẫn để nguyên, vẫn được tôn trọng như một biểu tượng với nội dung giải thích đúng sự thật và ngăn chặn mọi ý đồ dựng lên lý lịch Lê Văn Tám như một nhân vật có thật rồi có người lại nhận là hậu duệ của nhân vật này.

Đến đây, tôi đã làm tròn trách nhiệm đối với lời dặn của cố GS Trần Huy Liệu, kèm thêm một số đề xuất để xử lý câu chuyện Lê Văn Tám. Tôi hoàn toàn không coi đấy là việc làm trái với phẩm chất trung thực hay lương tâm của nhà sử học, cũng không ảnh hưởng đến uy tín của GS Trần Huy Liệu và càng không làm đổ một biểu tượng hay tượng đài yêu nước. Tôi nhấn mạnh, theo quan điểm của tôi, mọi biểu tượng hay tượng đài lịch sử chỉ có sức sống bền bỉ trong lịch sử và trong lòng dân khi được xây dựng trên cơ sở khoa học khách quan, chân thực.
* Title do Tòa soạn đặt lại
GS Phan Huy Lê (Bài đăng trên Tạp chí Xưa&Nay số ra tháng 10 năm 2009)
---------

- Bữa nay Ba Sàm đưa tiếp tin trường Nguyễn Văn Bé THCS Kỷ luật cô giáo tát học sinh (Đviệt) không phải để bàn về mức kỷ luật với cô giáo, mà là về cái tên của ngôi trường. Không biết thầy cô, các em học sinh ở đây có được học tập, thậm chí biết chút gì về người anh hùng mà ngôi trường được vinh dự mang tên? Còn BS hồi nhỏ đã được nghe rất nhiều, được coi những vở kịch diễn tả về hành động mưu trí cảm tử của anh khi bị bắt mà vẫn lừa được kẻ địch, cho nổ cả đống bom mìn, giết chết nhiều sĩ quan quân đội Mỹ và Sài Gòn. Giờ cố lục tìm trên mạng thì được biết một lai lịch rất lạ, cho biết là anh “mất” năm 2002 chớ không phải là đã “hy sinh” năm 1966, cũng không cho biết một con người ưu tú, nhiều công tích như vậy được thăng tiến ra sao, trong lúc có nhiều đồn đoán rất lạ về anh, cả bài viết trên báo chí nước ngoài. Hy vọng các sử gia góp phần làm rõ, cũng như Sự thật về “anh hùng Lê Văn Tám”, để góp phần giáo dục con cháu ta cái tính trung thực. Trong chiến tranh, lấy yếu đánh mạnh, ít địch nhiều, nên đôi khi phải dùng cả những màn tháu cáy chút mới được. Nhưng hòa bình, xây dựng đất nước mấy chục năm rồi, không thể vì thế mà che giấu mãi, không dám nói thật ra. Cứ cái lối vậy, làm sao trách con nít nó dối trá, nó khinh mình.
TIỂU SƯ ANH HÙNG NGUYỄN VĂN BÉ
Trích từ: http://nvbchannel.net
Nguyễn Văn Bé sinh ngày 03 tháng 02 năm 1941, mất ngày 24 tháng 03 năm 2002, dân tộc Kinh quê ở xã Phú Cường, huyện Châu Thành, tỉnh Sông Bé. Nhập ngũ tháng 7 năm 1961, là Đảng viên Đảng Cộng Sản Việt Nam, được tuyên dương anh hùng khi làm đại đội phó đại đội 304, tiểu đoàn bộ đội địa phương Phú Lợi, Thủ Dầu Một.
Trích từ: http://nvbchannel.net
Trong chiến đấu, anh Nguyễn Văn Bé luôn nêu cao tinh thần kiên quyết, dũng cảm tích cực chủ động tiến công, bình tĩnh, mưu trí trong mọi tình huống gay go ác liệt, nhiều lần bị thương vẫn không rời vị trí, ngoan cường chỉ huy đơn vị giữ vững trận địa, hiệp đồng chặt chẽ với đơn vị bạn, lập công xuất sắc.
Trích từ: http://nvbchannel.net
Từ năm 1961 đến năm 1967, đồng chí đã tham gia chiến đấu 60 trận, giết chết 85 tên địch (trong đó có 35 tên Mỹ), bắt sống 8 tên, thu 30 súng (trong đó có 1 đại liên và 2 trung liên).
Trích từ: http://nvbchannel.net
Nguyễn Văn Bé là một cán bộ xuất sắc toàn diện, không những huấn luyện giỏi, chỉ huy chiến đấu mưu trí, dũng cảm mà còn làm tốt công tác giáo dục chính trị, lãnh đạo tư tưỡng, chăm lo xây dựng đơn vị, hết lòng yêu thương, giúp đỡ đồng đội lúc thường cũng như khi chiến đấu, sống khiêm tốn, giản dị, được đồng đội yêu mến.
Trích từ: http://nvbchannel.net
Nguyễn Văn Bé đã được tặng thưởng 1 Huân chương Chiến công Giải phóng hạng nhì, là Chiến sĩ thi đua 2 năm liền (1965 - 1966), đạt danh hiệu Dũng sĩ diệt Mỹ cấp ưu tú.
Trích từ: http://nvbchannel.net
Ngày 17 tháng 9 năm 1967, anh đã được Uỷ Ban Trung Ương Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam và danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân giải phóng.
Trích từ: http://nvbchannel.net
[Trích sách "Anh hùng lực lượng vũ trang" & phòng truyền thống trường]
Trích từ: http://nvbchannel.net
Trích từ: http://nvbchannel.net
Trích từ: http://nvbchannel.net
Trích từ: http://nvbchannel.net
TRUYỀN THỐNG TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ
Trích từ: http://nvbchannel.net
NGUYỄN VĂN BÉ
Trích từ: http://nvbchannel.net
Trường THCS Nguyễn Văn Bé thành lập từ năm 1976, tính đến nay đã được 34 năm.
Trích từ: http://nvbchannel.net
Nhiều năm liền đạt thành tích Tiên tiến cấp Thành phố. Đã từng nhận bằng khen của Thủ tướng Chính phủ. Công đoàn, Chi đoàn nhà trường luôn giữ vững danh hiệu Công đoàn vững mạnh xuất sắc, Chi đoàn xuất sắc. Từ trước đến nay, các bạn, các anh chị đội viên đã tích cực tham gia các hoạt động Đội và phing trào thiếu nhi vì thế trường ta luôn đạt danh hiệu Liên đội xuất sắc.


Mấy ngày vừa qua, trên mạng có nhiều tin nói về trường Nguyễn Văn Bé THCS Kỷ luật cô giáo tát học sinh (Đviệt). ở đây không bàn về mức kỷ luật với cô giáo, mà là về cái tên của ngôi trường. Không biết thầy cô, các em học sinh ở đây có được học tập, thậm chí biết chút gì về người anh hùng mà ngôi trường được vinh dự mang tên? Còn hồi nhỏ những người sinh ra và lớn lên trong những năm chống Mỹ đã được nghe rất nhiều về người anh hùng liệt sĩ này cùng với hình tượng anh hùng Nguyễn Văn Trỗi. Thời đó được coi những vở kịch diễn tả về hành động mưu trí cảm tử của anh khi bị bắt mà vẫn lừa được kẻ địch, cho nổ cả đống bom mìn, giết chết nhiều sĩ quan quân đội Mỹ và Sài Gòn.
Giờ cố lục tìm trên mạng thì được biết một lai lịch rất lạ, cho biết là người Anh hùng liệt sĩ đó “mất” năm 2002 chớ không phải là đã “hy sinh” năm 1966, cũng không cho biết một con người ưu tú, nhiều công tích như vậy được thăng tiến ra sao, trong lúc có nhiều đồn đoán rất lạ về anh, cả bài viết trên báo chí nước ngoài. Hy vọng các sử gia góp phần làm rõ, cũng như Sự thật về “anh hùng Lê Văn Tám”, để góp phần giáo dục con cháu ta cái tính trung thực. Trong chiến tranh, lấy yếu đánh mạnh, ít địch nhiều, nên đôi khi phải dùng cả những màn tháu cáy chút mới được. Nhưng hòa bình, xây dựng đất nước mấy chục năm rồi, không thể vì thế mà che giấu mãi, không dám nói thật ra. Cứ cái lối vậy, làm sao trách con nít nó dối trá, nó khinh mình.
(Theo anhbasam.com) Sự thật về Anh hùng liệt sĩ Nguyễn Văn Bé?

Tổng số lượt xem trang