Thứ Hai, 20 tháng 12, 2010

Xác lập tinh thần Nguyễn Trãi trong quan hệ kinh tế Việt – Trung

 Việt Nam trước dòng thác công nghiệp của Trung Quốc (VEF 19-12-10) -- Bài GS Trần Văn Thọ
Nền công nghiệp Việt Nam quá mỏng manh, phụ thuộc nhiều vào sản phẩm trung gian nhập từ Trung Quốc - GS Trần Văn Thọ trăn trở.
Với qui mô dân số và với tốc độ phát triển nhanh kéo dài hàng chục năm, kinh tế Trung Quốc đã tác động mạnh đến kinh tế thế giới trên nhiều phương diện. Sự tác động đó lớn hay nhỏ, nhất thời hay làm ảnh hưởng sâu sắc đến con đường phát triển của nước khác là tùy theo trình độ phát triển và cơ cấu kinh tế của nước chịu tác động.

Tại Đông Á, Nhật và Hàn Quốc cũng bàn đến sự trỗi dậy của Trung Quốc và tác động của hiện tượng này đến con đường phát triển của nước họ. Nhưng trình độ phát triển của hai nước này cao hơn Trung Quốc nhiều, GDP đầu người còn lớn hơn Trung Quốc 9-10 lần (Nhật) hoặc 5-6 lần (Hàn Quốc), về chất lượng thể chế, tiềm năng khoa học, công nghệ của họ còn đi trước Trung Quốc nhiều chục năm. Do đó, Nhật và Hàn Quốc ý thức về sự trỗi dậy của Trung Quốc để vừa nỗ lực hơn trong việc củng cố lợi thế hiện tại và lợi dụng cơ hội từ thị trường Trung Quốc.
Cũng là nước lân cận với Trung Quốc nhưng vị thế của Việt Nam hoàn toàn tương phản. Nhìn từ nhiều mặt, Việt Nam ở trình độ phát triển thấp hơn Trung Quốc. GDP đầu người của Việt Nam năm 2009 chỉ bằng 1/3 của Trung Quốc, chất lượng giáo dục, trình độ phát triển khoa học, công nghệ cũng đi sau nước này. Thêm vào đó, về qui mô, kinh tế Trung Quốc lớn áp đảo, tốc độ phát triển cũng nhanh hơn Việt Nam. Từ nhận định này ai cũng thấy thách thức của sự trỗi dậy của Trung Quốc đối với con đường phát triển của Việt Nam là vô cùng lớn. Việt Nam cần nghiên cứu sâu tác động của sự trỗi dậy của Trung Quốc để có chiến lược, chính sách phát triển thích hợp.

Câu hỏi được đặt ra ở đây là: sự trỗi dậy của Trung Quốc trong sản xuất và xuất khẩu hàng công nghiệp đang và sẽ tác động như thế nào đến con đường công nghiệp hóa của Việt Nam?
Dòng thác công nghiệp Trung Quốc
Từ đầu thập niên 1980 đến nay, kinh tế Trung Quốc phát triển trung bình gần 10%. Kết quả là hiện nay nước này vươn lên vị trí thứ hai thế giới về GDP và mậu dịch và có lượng dự trữ ngoại tệ nhiều nhất thế giới.
Sự trỗi dậy của Trung Quốc có một số đặc điểm sau: thứ nhất, đó là quá trình công nghiệp hóa tiến nhanh trên quy mô lớn. Nhiều ngành trong công nghiệp chế biến, chế tác (manufacturing) phát triển trên dưới 20% mỗi năm như đồ điện gia dụng, xe hơi, máy tính cá nhân và nhiều loại máy móc khác. Trong nhiều mặt hàng thuộc các ngành này, Trung Quốc chiếm tới trên dưới 40% sản lượng thế giới. Vì vậy mà Trung Quốc  được xem là công xưởng của thế giới.
Thứ hai, phát triển của Trung Quốc ngày càng dựa vào xuất khẩu. Xuất khẩu ngày càng giữ vai trò chủ đạo trong qúa trình công nghiệp hóa của nước này. Tỉ trọng của xuất khẩu trong GDP chỉ có 7 % vào năm 1980 nhưng đã tăng lên 33% năm 2008. Xuất khẩu của Trung Quốc hiện nay cũng hầu hết là hàng công nghiệp. Vào những năm mới mở cửa, tỉ trọng của hàng công nghiệp trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Trung Quốc chưa tới 50% nhưng từ năm 2001 con số đó đã lên trên 90%. Như vậy trong quá trình phát triển, Trung Quốc ngày càng hướng ngoại và chiếm lĩnh thị trường thế giới bằng hàng công nghiệp.
Thứ ba, phát triển của Trung Quốc còn có đặc tính là dựa nhiều vào đầu tư. Trước năm 1992 tỉ lệ của đầu tư trên GDP vào khoảng 30% nhưng năm 2002 tăng lên 40% và mấy năm gần đây lên tới 50%. Các tỉnh cạnh tranh đầu tư và sản xuất hàng công nghiệp, gây nên hiện tượng đầu tư trùng lặp và sản xuất thừa làm kém hiệu suất của toàn nền kịnh tế. Nhưng đối với Việt Nam và các nước có nền kinh tế còn nhỏ ở Đông Nam Á, hiện tượng sản xuất thừa của Trung Quốc là một trong những nguyên nhân chính làm tràn ngập hàng công nghiệp giá rẻ vào thị trường các nước này.
Thứ tư, cơ cấu công nghiệp của Trung Quốc ngày càng chuyển dịch lên cao. Khuynh hướng này phản ảnh rõ trong cơ cấu xuất khẩu.
Biểu 1 chia các mặt hàng thành 5 nhóm, trong đó 3 nhóm được chia theo 3 trình độ liên quan đến kỹ năng (skill) của lao động. Những sản phẩm có hàm lượng công nghệ càng cao càng cần nhiều lao động có kỹ năng cao và do đó để sản xuất và xuất khẩu được những mặt hàng này đòi hỏi nền giáo dục, đào tạo, nghiên cứu khoa học phải cung cấp đủ nguồn nhân lực có trình độ tương ứng.

Biểu 1 cho thấy hiện nay (2008) có tới trên 30% kim ngạch xuất khẩu của Trung Quốc thuộc nhóm hàng công nghiệp có kỹ năng cao (high skill) như máy tính, máy móc về viễn thông, về y tế, dược phẩm, v.v..  Nếu kể cả nhóm hàng dùng nhiều kỹ năng vừa phải (medium skill) như xe hơi, xe máy, đồ điện gia dụng, kim khí, v.v.. thì tỉ trọng của 2 nhóm hàng này chiếm tới 50% tổng kim ngạch xuất khẩu của Trung Quốc.
Một điểm đáng chú ý là các mặt hàng có hàm lượng  kỹ năng thấp như may mặc, giày dép, dụng cụ lữ hành, v.v.. vẫn còn chiếm một tỉ trọng lớn. Tỉ trọng trong xuất khẩu của Trung Quốc chỉ giảm đáng kể trong hai lãnh vực nông sản và nguyên liệu.
Điều này cho thấy các loại hàng công nghiệp, từ trình độ thấp đến trình độ cao Trung Quốc đều hiện diện trên thị trường thế giới với số lượng lớn.
Nhìn ở một khía cạnh khác, sự trỗi dậy của Trung Quốc không phải chỉ tạo ra thách thức đối với khu vực Á châu và thế giới. Trung Quốc phát triển mạnh không phải chỉ nhập khẩu tài nguyên, năng lượng mà còn trở thành một thị trường tiêu thụ hàng công nghiệp nhập khẩu từ nước ngoài.
Như Biểu 2 cho thấy, từ năm 1990 đến 2008, nhập khẩu của Trung Quốc tăng 18 lần. Trong 983 tỉ USD nhập khẩu năm 2008, hàng công nghiệp chiếm trên 60%, đặc biệt riêng các loại máy móc chiếm khoảng 40%. Từ cùng nguồn tư liệu như trong Biểu 2, ta tính thử tỉ trọng của các loại máy móc trong tổng xuất khẩu của Trung Quốc thì thấy con số đó là 47.5%.

Nhìn từ hàm lượng kỹ năng trong hàng xuất khẩu, Biểu 1 cũng cho thấy khuynh hướng tương tự. Máy móc là các loại sản phẩm có nhiều bộ phận, linh kiện, công đoạn nên trong nội bộ mỗi ngành, các công ty đa quốc gia (MNCs) triển khai phân công lao động trên qui mô toàn cầu, hình thành các chuỗi cung ứng (supply chain).[1]
Từ đầu thập niên 1990, Trung Quốc đã thành công trong việc thu hút đầu tư nước ngoài (FDI) tập trung trong các ngành chế tạo các loại máy móc từ trung cấp (như đồ điện gia dụng) đến cao cấp (như máy tính, máy chụp hình kỹ thuật số) làm thành các cụm công nghiệp ở các tỉnh ven biển, nhất là ở tam giác sông Châu Giang tỉnh Quảng Đông. Qua đó, Trung Quốc tham gia mạnh mẽ vào chuỗi cung ứng toàn cầu, vừa xuất khẩu vừa nhập khẩu các mặt hàng thuộc nội bộ các ngành này. Hiện nay có hơn 50% kim ngạch xuất và nhập khẩu của Trung Quốc do MNCs thực hiện, nhất là MNCs có gốc Nhật, Hàn Quốc và Đài Loan.
Phân tích ở trên cho thấy Trung Quốc đẩy mạnh xuất khẩu hàng công nghiệp trên quy mô lớn và triển khai hầu như toàn diện trong các lãnh vực, từ sản phẩm có hàm lượng công nghệ thấp đến các sản phẩm có hàm lượng kỹ năng cao, công nghệ cao; đồng thời Trung Quốc triển khai phân công hàng ngang (horizontal trade), phân công nội ngành (intra-industry trade) với các nước khác trong các mặt hàng chế tạo các loại máy móc, là những lãnh vực chủ đạo trong mậu dịch quốc tế hiện nay.
Với tính chất này, các nước phát triển ở trình độ cao hơn Trung Quốc như Nhật, Hàn Quốc, hoặc các nước đã thành công trong việc tham gia chuỗi cung ứng toàn cầu (như Malaysia, Thái Lan,...) có thể đẩy mạnh xuất khẩu sang Trung Quốc những mặt hàng có hàm lượng kỹ năng cao hoặc trung bình.
Nhưng đối với các nước ở trình độ phát triển thấp hơn, sự trỗi dậy của Trung Quốc là một thách thức lớn vì vừa bị Trung Quốc cạnh tranh mạnh trong những mặt hàng có hàm lượng kỹ năng thấp nhưng lại chưa có năng lực triển khai phân công hàng ngang với Trung Quốc trong những nhóm hàng công nghiệp có kỹ năng trung và cao cấp.
Việt Nam với nền công nghiệp mong manh, phụ thuộc
Hiện nay trong cơ cấu xuất khẩu của Việt Nam tuy hàng công nghiệp chiếm khoảng 60% nhưng chủ yếu là những ngành dùng nhiều lao động giản đơn. Thêm vào đó, sản xuất các mặt hàng này phải phụ thuộc vào nguyên liệu và sản phẩm trung gian nhập khẩu. Các loại máy móc, những sản phẩm có hàm lượng kỹ năng lao động cao, chỉ chiếm độ 10% tổng xuất khẩu.
Trở lại Biểu 1, so sánh cơ cấu xuất khẩu của Việt Nam với Trung Quốc ta thấy Việt Nam còn phụ thuộc nhiều vào nông sản, nguyên liệu, và trong các sản phẩm công nghiệp thì Việt Nam phải cạnh tranh với Trung Quốc trong những mặt hàng dùng công nghệ thấp và dùng nhiều lao động kỹ năng thấp. Tỉ trọng các mặt hàng đòi hỏi lao động có kỹ năng cao chỉ bằng Trung Quốc vào năm 1990.
Riêng mậu dịch với Trung Quốc, cơ cấu của Việt Nam còn yếu hơn nữa.
Mậu dịch hai nước tăng nhanh từ năm 2000 nhưng ngày càng mất quân bình. Từ năm 2000 đến năm 2009, đối với Trung Quốc, nhập khẩu của Việt Nam tăng 11 lần nhưng xuất khẩu chỉ tăng 5 lần. Từ năm 2003 Trung Quốc vượt Nhật trở thành nước có thị phần lớn nhất trong tổng nhập khẩu của Việt Nam và sau đó ngày càng bỏ xa Nhật Bản. Do nhập khẩu tăng nhanh, nhập siêu của Việt Nam đối với Trung Quốc ngày càng mở rộng. Năm 2009, riêng nhập siêu vơi Trung Quốc (11,5 tỉ USD) chiếm tới 90% tổng nhập siêu của Việt Nam.
Nhìn cơ cấu xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường Trung Quốc ta thấy nguyên liệu và nông sản phẩm chiếm vị trí áp đảo. Theo Biểu 3 (Biểu này dựa trên thống kê nhập khẩu của Trung Quốc), 7 mặt hàng (SITC 3 con số) [2] xuất khẩu sang Trung Quốc có kim ngạch cao nhất (năm 2007) đều nằm trong 2 nhóm nguyên liệu và nông phẩm. Riêng than đá đã chiếm gần 30%. Hàng công nghiệp chỉ chiếm 12% (năm 2007).

Cơ cấu này hầu như không thay đổi trong 10 năm qua. Các loại máy móc (và linh kiện) dùng cho văn phòng, cho công nghệ thông tin, cho điện lực,... gần đây bắt đầu xuất khẩu sang Trung Quốc do kết quả của chiến lược triển khai chuỗi cung ứng của các công ty Nhật như Canon, Sumiden, Hitachi (các công ty này đầu tư vào miền Bắc Việt Nam để bổ sung vào mạng lưới sản xuất của họ ở vùng Hoa Nam Trung Quốc). Tuy nhiên, những sản phẩm này mới chỉ chiếm một tỉ trọng nhỏ trong tổng xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường Trung Quốc.
Nhìn sang cơ cấu nhập khẩu của Việt Nam từ Trung Quốc ta thấy hàng công nghiệp chiếm vị trí áp đảo (chiếm tới 75% vào năm 2007). Tất cả 20 mặt hàng có kim ngạch nhập khẩu nhiều nhất đều là hàng công nghiệp (Biểu 4).

Các loại hàng này có thể chia ra thành 3 nhóm: thứ nhất là nguyên vật liệu hoặc sản phẩm trung gian như thép để chế biến thành phẩm tiêu dùng, hai là các loại máy móc (và bộ phận, linh kiện) như xe hơi, khí cụ  dùng cho bưu chính viễn thông, và nhóm thứ ba là các loại sản phẩm trung gian ngành dệt may như tơ sợi tổng hợp, vải bông, vải may nội y,...
Điều này cho thấy nền công nghiệp Việt Nam quá mỏng manh, phụ thuộc nhiều vào sản phẩm trung gian nhập từ Trung Quốc. Nếu xét đến quá trình phát triển kinh tế, Việt Nam lẽ ra phải có lợi thế cạnh tranh trong lĩnh vực vải sợi (trừ loại sợi cao cấp chủng loại đặc biệt như tơ sợi tổng hợp). Tuy nhiên trên thực tế, các sản phẩm như vải dệt may hay dệt kim hầu hết Việt Nam phải nhập từ Trung Quốc.Trong vài ngành nằm trong dây chuyền cung ứng toàn cầu của các công ty đa quốc gia (các loại máy dùng cho văn phòng như máy tính xách tay, máy in,...). Việt Nam có xuất khẩu sang Trung Quốc nhưng kim ngạch còn rất nhỏ.
Mậu dịch ở biên giới qua 3 cửa khẩu chính cũng mang tính chất tương tự. Tại cửa khẩu Lào-Cai-Hà Khẩu (Vân Nam), Việt Nam xuất khẩu nông lâm thủy sản và nhập phân bón, thuốc trừ sâu, v.v.. Lạng Sơn-Bằng Tường (Quảng Tây) là cửa khẩu chuyên nhập các loại máy móc, thiết bị từ Trung Quốc vào Việt Nam. Tại của khẩu Mông Cái-Đông Hưng (Quảng Tây) Việt Nam xuất khẩu than và nhập hàng công nghiệp tiêu dùng.
- - -
Chú thích:
[1] Hiện tượng này gần đây được phân tích bằng lý luận về sự phân khúc hoặc phân đoạn  (fragmentation theory). Xem, chẳng hạn Kimura and Ando (2005), Ando (2006). Từ góc độ này, phân tích của Athukorala (2008) cho thấy sự trỗi dậy của Trung Quốc đẩy mạnh phân công nội ngành với các nước Á châu khác.
[2] SITC: Mã số tiêu chuẩn phân loại của thống kê Liên Hiệp Quốc.

Xác lập tinh thần Nguyễn Trãi trong quan hệ kinh tế Việt – Trung (VEF) bài của GS Trần Văn Thọ
Trong thời đại ngày nay, về phương diện phát triển kinh tế, khí phách Nguyễn Trãi được thể hiện ở quan hệ ngoại thương hàng ngang giữa hai nước Việt Trung. Việt Nam phải từng bước thoát ly khỏi tính chất bắc nam trong quan hệ mậu dịch với Trung Quốc.
LTS: Nhân cuộc bàn thảo về làm thế nào để Việt Nam phồn vinh bên cạnh "cái bóng của Trung Quốc", Diễn đàn Kinh tế Việt Nam trân trọng giới thiệu lại cùng bạn đọc bài viết của GS Trần Văn Thọ.
Bài viết này đã đăng tải trên Diễn Đàn Tết Kỷ Sửu và trên Thời báo kinh tế Sài Gòn vào tháng 3 năm 2009. Trong bản này, tác giả cập nhật một số thống kê và sửa đổi vài nội dung liên quan đến thời sự.
Bài viết thể hiện quan điểm riêng của tác giả, mời độc giả cùng tranh luận. Mọi ý kiến trao đổi xin gửi về Diễn đàn tại địa chỉ email: vef@vietnamnet.vn hoặc tham gia trao đổi trực tiếp ở cuối bài.
Từ khoảng năm 2000 cán cân thương mại của Việt Nam ngày càng nhập siêu. Quy mô nhập siêu lớn đến nỗi gây bất ổn trong kinh tế vĩ mô từ năm 2007. Một trong mấy nguyên nhân chính của hiện tượng nhập siêu này có thể thấy trong cơ cấu xuất nhập khẩu của Việt Nam đối với Trung Quốc.
Quyết tâm thay đổi cơ cấu này không những cải thiện được cán cân thương mại bất quân bình trầm trọng hiện nay mà còn là con đường để Việt Nam phát triển, tiến lên ngang hàng với trình độ phát triển của nước láng giềng phương bắc.
Tính chất "Bắc - Nam" trong quan hệ kinh tế Việt Trung
Từ thập niên 1950, một tiêu điểm nổi lên trong quan hệ kinh tế quốc tế là vấn đề Bắc - Nam. Các nước phát triển hầu hết là ở bắc bán cầu, các nước chậm tiến ở phía nam. Vấn đề ở chỗ là khoảng cách phát triển giữa Bắc và Nam ngày càng mở rộng. Làm sao để các nước phía Nam phát triển nhanh, thu hẹp khoảng cách với các nước phía Bắc là quan tâm chung của cộng đồng thế giới trong hơn nửa thế kỷ qua.
Sự cách biệt kinh tế giữa các nước phía Bắc với các nước phía Nam phản ảnh rõ nét trong quan hệ ngoại thương. Các nước phía Bắc xuất khẩu hàng công nghiệp còn các nước phía Nam xuất khẩu nguyên liệu, các hàng nông, lâm, thuỷ sản ở dạng thô hoặc sơ chế.

Quan hệ buôn bán giữa Bắc với Nam với đặc tính như vậy còn được gọi là ngoại thương theo hàng dọc (vertical trade). Do đó, quá trình thu hẹp khoảng cách phát triển để giải quyết vấn đề Bắc Nam cũng là quá trình chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu của các nước phía Nam để các nước nầy ngày càng xuất khẩu hàng công nghiệp sang phía Bắc, chuyển từ ngoại thương hàng dọc sang ngoại thương hàng ngang (horizontal trade).
Trong khoảng 35 năm qua, một số nước ở phía Nam đã làm được một kỳ tích là nhanh chóng rút ngắn khoảng cách phát triển với phía Bắc, thay đổi hẳn quan hệ ngoại thương từ hàng dọc sang hàng ngang với các nước phía Bắc.
Hiện tượng này diễn ra ngoạn mục nhất là tại các nước Đông Bắc Á và Đông Nam Á, gọi chung là Đông Á. Tại đây, ngoài Nhật Bản, một nước vừa thuộc phía Bắc vừa là nước nghèo tài nguyên thiên nhiên, hầu hết các nước Đông Á khác cho đến thập niên 1970 điển hình là những nước ở phía Nam mà quan hệ của họ với Nhật, Mỹ và các nước phía Bắc khác mang nặng tính chất ngoại thương hàng dọc.
Chẳng hạn, mới gần 30 năm trước đây, vào năm 1980, cơ cấu xuất khẩu của các nước ASEAN còn nghiêng về các mặt hàng nguyên liệu và nông lâm thuỷ sản: Tỉ lệ của các mặt hàng này trong tổng xuất khẩu của Thái Lan và Phi-li-pin còn chiếm tới 60%, Malaysia 70% và Indonesia hơn 90%. Nhưng chưa đầy 20 năm sau, vào năm 1999, các tỉ lệ đó chỉ còn 23% tại Thái Lan, 18% tại Malayxia, 7% tại Phi-li-pin và 47% tại Indônêxia. Hiện nay các nước này đã trở thành những nước xuất khẩu hàng công nghiệp đáng kể trên thế giới.
Quan hệ Nhật Bản và Trung Quốc mới 20 năm trước đây còn là quan hệ Bắc - Nam. Trước năm 1990, hàng nguyên liệu và các sản phẩm nông lâm thuỷ sản còn chiếm trên 50% tổng nhập khẩu từ Trung Quốc vào thị trường Nhật Bản. Tuy nhiên tỉ lệ này giảm nhanh trong thập niên 1990, còn 23% vào năm 1995 và chỉ còn 17% vào năm 2000.
Nói khác đi, hiện nay hàng công nghiệp chiếm tới hơn 80% tổng xuất khẩu của Trung Quốc vào thị trường Nhật (trong tổng xuất khẩu của Trung Quốc ra tất cả thị trường thế giới, tỉ lệ của hàng công nghiệp hiện nay đã tăng lên trên 90%).
Có thể nói trong một thời gian ngắn, Trung Quốc đã thành công trong việc chuyển đổi quan hệ ngoại thương với một nước công nghiệp tiên tiến có quá trình phát triển hơn 100 năm và là một nước vốn phụ thuộc vào tài nguyên của các nước phía Nam.
Bây giờ chúng ta xét quan hệ ngoại thương hiện nay giữa Việt Nam và Trung Quốc. Có ba đặc tính đáng chú ý:
Thứ nhất, Việt Nam ngày càng nhập siêu với Trung Quốc. Kim ngạch nhập siêu của Việt Nam với Trung Quốc tăng từ khoảng 200 triệu USD năm 2001 lên 1,4 tỉ năm 2003, gần 7 tỉ năm 2007 và độ 11 tỉ USD năm 2008. Năm 2008, nhập siêu với Trung Quốc chiếm tới 60% tổng nhập siêu của Việt Nam đối với toàn thế giới. Do đó, cải thiện quan hệ ngoại thuơng với Trung Quốc là biện pháp hữu hiệu để giải quyết tình trạng mất quân bình trầm trọng hiện nay trong cán cân thương mại quốc tế của Việt Nam.
Thứ hai, so với quy mô ngoại thương giữa hai nước Việt - Trung, kim ngạch nhập siêu nói trên cũng quá lớn, lớn một cách dị thường. Chẳng hạn vào năm 2008, Việt Nam xuất sang Trung Quốc 4,3 tỉ trong khi nhập từ Trung Quốc tới 15,1 tỉ USD. Nhập khẩu lớn gấp 4 lần xuất khẩu và nhập siêu lên tới mức bằng 3 lần kim ngạch xuất khẩu. Xuất khẩu của Việt Nam sang Trung Quốc tăng rất chậm, từ năm 2001 đến 2008 chỉ tăng 3 lần (từ 1,4 tỉ tăng lên 4,3 tỉ USD), trong khi nhập khẩu từ Trung Quốc vào Việt Nam tăng ồ ạt, từ 1,6 tỉ lên 15,1 tỉ trong cùng thời gian.
Ngoài ra, mậu dịch ở biên giới chưa được quản lý chặt chẽ. Nhiều điều tra sơ bộ cho thấy hàng lậu nhập từ Trung Quốc rất nhiều. Nếu mậu dịch biên giới được phản ảnh, có lẽ kim ngạch nhập siêu của Việt Nam đối với Trung Quốc còn lớn hơn nhiều.
Thứ ba, quan sát mặt cơ cấu ta thấy nổi cộm lên tính chất bắc nam trong quan hệ ngoại thương giữa Việt Nam và Trung Quốc. Trung Quốc chủ yếu xuất khẩu hàng công nghiệp sang Việt Nam trong khi Việt Nam chủ yếu xuất khẩu sang Trung Quốc sản phẩm thô hoặc sơ chế khai thác từ các quặng mỏ. Năm 2007, riêng dầu thô, than đá đã chiếm gần 40% tổng xuất khẩu của Việt Nam sang Trung Quốc và nếu kể thêm cao su, gỗ, rau quả, trà, cà phê và những sản phẩm thô sơ khác, tỉ lệ đó lên tới 80%. Hàng công nghiệp chỉ chiếm độ 20%.
Cơ cấu ngoại thương Việt Trung như vừa thấy gợi ta nhiều suy nghĩ. Đây là một quan hệ ngoại thương Bắc - Nam điển hình, một quan hệ mậu dịch hàng dọc thường thấy giữa một nước tiên tiến và một nước chậm phát triển.
Cần xác lập tinh thần Nguyễn Trãi
Phân tích ở trên cho thấy vấn đề của Việt Nam hiện nay là phải làm sao tiến lên giai đoạn phân công hàng ngang trong quan hệ ngoại thương với Trung Quốc.
Nói khác đi, Việt Nam phải sản xuất ngày càng nhiều các mặt hàng công nghiệp đủ sức cạnh tranh để thay thế nhập khẩu từ Trung Quốc và thâm nhập được vào thị truờng rộng lớn này. Có như vậy mới thoát khỏi tính chất Bắc - Nam hiện nay và cải thiện được cán cân mậu dịch.
Về chiến lược và biện pháp cụ thể liên quan đến việc phát triển công nghiệp Việt Nam, tôi đã có dịp trình bày trong cuốn sách xuất bản vài năm trước đây (Biến động kinh tế Đông Á và con đường công nghiệp hoá Việt Nam, NXB Chính trị Quốc gia xuất bản năm 2005, NXB Trẻ tái bản năm 2006).
Ở đây tôi muốn kết nối kết quả phân tích này với một vấn đề thời sự đang được chú ý ở Việt Nam. Gần đây, dự án khai thác bô xít ở Tây Nguyên đã được chính phủ quyết định tiến hành khai thác thí điểm. Nhìn từ góc độ gìn giữ môi trường, hiệu quả kinh tế và sự phát triển bền vững ở Tây Nguyên, nhiều nhà nghiên cứu, nhà văn hoá, Đại tướng Võ Nguyên Giáp và cựu Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Bình đã có ý kiến không đồng tình với việc khai thác này.
Theo tôi, dự án bô-xít Tây Nguyên, sau giai đoạn thí điểm, nếu thực hiện trên quy mô lớn sẽ bất lợi cho con đường phát triển của Việt Nam. Không kể đến những điểm đã được các nhà nghiên cứu, nhà văn hoá bàn đến, việc khai thác tài nguyên để xuất khẩu không phải là chính sách khôn ngoan.
Xưa nay những nước phát triển được đều là những nước biết dùng tài nguyên chứ không phải biết khai thác và xuất khẩu tài nguyên. Khôn ngoan nhất (như Nhật hoặc Hàn Quốc) là khai thác hoặc mua nguyên liệu ở nước ngoài mang về nước mình chế biến thành những sản phẩm công nghiệp có giá trị. Các sản phẩm dùng nhiều tài nguyên càng về hạ nguồn càng có giá trị tăng thêm cao nên những nước đó phát triển nhanh. Chí ít là khai thác và chế biến tài nguyên, dùng ngay tại nước mình để sản xuất và xuất khẩu các mặt hàng công nghiệp có giá trị tăng thêm cao (như kinh nghiệm của Mỹ và nhiều nước Tây Âu).
Dự án khai thác bô-xít ở Tây Nguyên còn có một đặc tính nữa là trong quá trình khai thác có sự tham gia của các công ty Trung Quốc và sản phẩm bô xít khai thác ra sẽ được bán sang Trung Quốc. Như vậy thì dự án này sẽ làm mạnh thêm tính chất Bắc - Nam trong quan hệ ngoại thương giữa hai nước, một khuynh hướng hoàn toàn bất lợi cho Việt Nam.
Sau khi thắng giặc Minh, giành lại chủ quyền cho đất nước, trong Bình Ngô Đại Cáo, Nguyễn Trãi nhấn mạnh thực thể độc lập, hiên ngang của nước Đại Việt, một đất nước đã sánh vai được với cường quốc phương bắc:
Trải Triệu, Đinh, Lý, Trần nối đời dựng nước
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên đều chủ một phương...
Trong thời đại ngày nay, về phương diện phát triển kinh tế, khí phách Nguyễn Trãi được thể hiện ở quan hệ ngoại thương hàng ngang giữa hai nước Việt Trung. Việt Nam phải từng bước thoát ly khỏi tính chất bắc nam trong quan hệ mậu dịch với Trung Quốc.
Cũng theo Nguyễn Trãi, so với Trung Quốc, nước Đại Việt trước đây "tuy mạnh yếu có lúc khác nhau, mà hào kiệt không bao giờ thiếu". Rất mong Việt Nam ngày nay cũng không thiếu "hào kiệt".
Phồn vinh với Trung Quốc: Chuyện “kiến đốt voi”
"Hãy nhìn sự trỗi dậy của Trung Quốc như một cơ hội"
Việt Nam làm gì để phồn vinh cạnh "cái bóng" Trung Quốc?

Tổng số lượt xem trang