Thứ Sáu, 16 tháng 10, 2015

Năm nay 2015 không có mùa nước nổi

-Năm nay 2015 không có mùa nước nổi
Ngô Thế Vinh 15.10.2015
Cửu Long giang mở chín lần cửa rộng
Dòng sông dài dữ dội bản trường ca
                                       Nguyên Sa
Gửi Nhóm Bạn Cửu Long
Mùa nước nổi ĐBSCL
Như nhịp điệu ngàn năm của con sông Mekong, hệ sinh thái vùng châu thổ sông Cửu Long được cân bằng một cách tự nhiên với "mùa nước nổi" và "mùa nước giựt".  Theo anh Dohamide Đỗ Hải Minh, một học giả gốc người Chăm, một cây bút quen thuộc của báo Bách Khoa trước 1975, sinh ra và lớn lên ở miệt Hậu Giang Châu Đốc rất am tường về hệ sinh thái của Đồng Bằng Sông Cửu Long, thì trong bao thập niên qua, người dân Miền Tây đã quen sống với nạn ngập lụt hàng năm, hay còn gọi là mùa nước nổi, như là một hiện tượng thiên nhiên đến đều đặn theo chu kỳ. [2]

Ngày xưa, cũng chỉ cách đây hơn 300 năm thôi, các thế hệ tiền nhân thời kỳ Nam Tiến, khi mới đến khai phá vùng ĐBSCL thường chọn sống lập nghiệp trên các khu đất cao hay còn gọi là “đất giồng” nên đến mùa nước nổi, cho dù những cánh đồng thẳng cánh cò bay biến thành biển nước mênh mông, các khu đất giồng này vẫn là vùng cư trú an toàn cho người dân và cả vô số các loài rắn. Sau này do dân số gia tăng, không còn đủ các khu "đất giồng" nên những di dân mới tới phải chọn định cư ngay trên những vùng đất mà họ có thể canh tác. Và để thích nghi, nhà cửa dọc hai bên sông rạch được cất theo kiểu nhà sàn, với chiều cao của các cây cột sàn được tính toán sao cho đến Mùa Nước Nổi, con nước đổ về không ngập lụt đến sàn nhà.
Mùa Nước Nổi hay còn gọi là Mùa Nước Lên thường rất hiền hoà khác hẳn với các mùa lũ lụt tàn phá dữ dội như ở miền Bắc hoặc miền Trung. Dấu hiệu "mùa nước nổi" tại vùng ĐBSCL chủ yếu là vào khoảng tháng tám Âm lịch [tháng 9 tháng 10 Dương lịch], thường được báo trước bằng những "giề" hay bè lục bình từ các cánh đồng trên đất Campuchia bị nước ngập, cuốn bật rễ nối đuôi nhau trôi theo dòng xuống đến phần đất Nam Việt Nam. [2]
Mực nước hai con sông Tiền sông Hậu trong "mùa nước nổi" có đặc tính dâng cao lên từ từ rồi tràn qua các bờ sông rạch, làm ngập các cánh đồng. Nước lũ có công dụng không chỉ rửa đất rửa phèn mà còn thêm lượng phù sa như một thứ phân bón thiên nhiên "trời cho" khiến đất đai thêm phần màu mỡ, biến ĐBSCL thành vựa lúa của cả nước và Việt Nam đã từng đứng thứ hai trên thế giới về xuất cảng lúa gạo, chỉ đứng sau Thái Lan. Trước đây vùng ĐBSCL còn có một loại lúa thiên nhiên có tên là lúa mù/ lúa sạ hay người Pháp gọi là lúa nổi/ riz flottant, có đặc tính "phóng ống" mọc rất nhanh theo mực nước dâng cao có khi đến 7, 8 mét, và khi đến mùa nước giựt thì thân cây lúa nằm rạp mình trên đất chờ gặt. Từ ngày có giống lúa Thần Nông/ HYV với năng xuất cao, lúa nổi không còn được nông dân quan tâm tới nữa.
Thông thường, đến "mùa nước nổi", người dân Miền Tây vẫn phải canh chừng đo mực nước lên từng giờ để phản ứng kịp thời trong trường hợp con nước vượt cao quá mức bình thường hơn các năm trước. Khi áp lực nước từ thượng nguồn bớt đi, thì mực nước liền đứng lại và rồi hạ xuống rất nhanh và giới bình dân gọi là “nước giựt”. Người ta nói nước giựt, vì mực nước hạ xuống trông thấy rõ từng giờ.
Cũng vẫn theo anh Dohamide thì hiện tượng nước nổi và nước giựt không diễn ra đồng đều cùng một lúc trên toàn vùng sông nước Cửu Long. Trên dòng nước cuồn cuộn chảy ra các cửa biển, hễ ở vùng Tân Châu, Châu Đốc nước giựt xuống thì vùng Cần Thơ, Vĩnh Long ở hạ lưu nước lại bắt đầu dâng lên, ngập tràn bờ, tràn đồng, rồi cũng lại hạ xuống, giống như hiện tượng xảy ra trong bình thông nhau. [2]
Cùng với con nước đỏ ngầu mang đẫm phù sa, là các loại cá lội theo vào ruộng đồng đẻ trứng, cho đến thời kỳ nước giựt thì loại nước cỏ vàng xậm từ trong các đồng ruộng chảy ra, cùng với vô số cá lúc nhúc từng đàn, nhất là loại cá linh, ùa theo nhau tràn vào các kinh rạch để ra sông lớn. Cho nên đến mùa nước giựt, chưa bận mùa cấy trồng, người nông dân đóng đáy bắt cá suốt dọc theo các kinh rạch này, có thời điểm trong mấy thập niên trước đây cá nhiều tới mức lưới không chịu nổi phải giở lên thả cho đi bớt; bằng không thì sẽ bị rách lưới. [Hình I]
Hình I: Sinh hoạt trong Mùa Nước Nổi 2000. (Photo: Ngô Thế Vinh)
Hình I: Sinh hoạt trong Mùa Nước Nổi 2000. (Photo: Ngô Thế Vinh)

Nhưng rồi hiện tượng cân bằng sinh thái tự nhiên đó hầu như không còn nữa. Và "mùa nước nổi" nếu chưa hoàn toàn biến mất thì cũng đã giảm rất nhiều cả về tần suất lẫn cường độ. Hiện tượng đó không phải do thiên tai mà là "nhân tai" một thứ thảm hoạ môi sinh/ ecological disaster do chính con người gây ra.  
Năm nay không có mùa nước nổi
Mới đây thôi, từ eMail một người bạn gửi cho, khi anh ấy đọc thấy trên facebook của nhà văn Nguyễn Đình Bổn, ghi nhận năm nay không có "mùa nước nổi" khiến những ai từng theo dõi con sông Mekong không thể không quan tâm. Nguyễn Đình Bổn không phải gốc gác dân ĐBSCL mà sinh quán tại Quảng Nam, sau 1975 từ tuổi nhỏ 13 theo gia đình vào sống tại một vùng quê của Miền Tây ngót 20 năm và đã nảy sinh bao nhiêu tình cảm gắn bó với vùng đất mới này. Mới đây trên trang facebook cá nhân anh viết:
"Gần hết tháng 8 âm lịch, cậu em vợ lên chơi, hỏi nước có ngập không, lắc đầu. Vậy là năm nay miền Tây không có mùa nước nổi! Mưa giữa chiều. Nhớ một nơi không phải là quê hương nhưng thương như thương người thân thiết. Nhớ gần 40 năm trước, lần đầu biết mùa nước nổi là gì. Nước phù sa miệt Hậu Giang bỗng trong xanh, dòng chảy trên các kinh lững lờ, không có nước ròng. Và đủ loại cá tràn về, cá linh, cá thiểu, cá vồ... và đặc biệt là cá trê trắng, nấu canh chua bông súng hay bông so đũa ngon lạ lùng...Miền Tây còn đó nhưng môi trường đã quá nhiều thay đổi theo chiều hướng xấu. Hết Tàu đến Thái Lan, Lào, Miên thay nhau xây đập trên dòng Mekong. Và thực tế nghiệt ngã mất mùa nước nổi đã hiện tiền. Không có mùa nước nổi, miền Tây mất phân nửa bản sắc của mình, đáng sợ hơn không có lũ tràn về, ruộng đồng sẽ nhanh chóng bị nước biển xâm nhập, và vựa lúa sẽ còn không? "Hết trích dẫn.
Ngày hôm sau, người viết nhận được thêm một eMail của một bạn trẻ từ vùng Thất Sơn Châu Đốc cho biết: "mùa nước năm nay nhỏ đến thất thường", rồi anh ấy tự hỏi: "phải chăng các con đập thượng nguồn sông Mekong đang tích nước?"
Những gốc rễ 'nhân tai'
Từ Nạn Phá Rừng:
Những khu rừng mưa (rainforest) từ xa xưa vẫn mang chức năng điều hợp, giữ lại trong lòng đất một lượng nước mưa quan trọng từ thượng nguồn thì nay không còn nữa, khi cơn mưa đổ xuống thì không những nước mưa xói mòn làm trơ đất và nước mưa thì cứ chảy thẳng ra ngoài dòng sông, tức thời làm tăng khối lượng nước và trong ngắn hạn mực nước sông đột ngột dâng cao khi có mưa nhiều ở thượng nguồn.
Những năm gần đây do ảnh hưởng nạn phá rừng tự sát (suicidal deforestation) của các quốc gia lưu vực sông Mekong: của người Tàu trên Vân Nam, của người Lào người Campuchia ở vùng Hạ lưu Sông Mekong với hai đồng lõa dấu mặt là Thái Lan và Việt Nam, khiến cho người dân Việt nơi ĐBSCL càng thêm khốn khổ: tới mùa mưa lũ đổ về sớm hơn, nhanh hơn lại lớn hơn khiến nhà nông trở tay không kịp gây tổn hại nặng mùa màng và cả về nhân mạng. Và tiếp đến mùa khô do không còn những khu rừng mưa như những tấm bọt biển khổng lồ giữ nước nên hậu quả tất yếu là hạn hán.
Tin Reuters gửi đi từ Nam Vang, “Nhóm Môi Sinh Anh Global Witness tố cáo các nhà lãnh đạo quân sự Việt Nam đã dính líu đến vụ đốn rừng lậu đại quy mô, đe dọa hủy hoại các khu rừng cấm của Cam Bốt. Những cây gỗ quý bị đốn bừa bãi ấy được đưa qua ngả Gia Lai, Sông Bé để chuyển xuống cảng Quy Nhơn hay Sài Gòn trước khi xuất cảng.” Bản tin ấy viết tiếp, “Một vụ làm ăn buôn bán lớn lao như thế, bất chấp luật pháp phải là kết quả của sự tham ô và đồng lõa ở cấp chánh quyền cao nhất của hai nước.” Một tình huống tương tự không kém nguy hại cũng đã diễn ra trong các khu rừng mưa trên đất nước Lào. [3]
Đồng lõa phá rừng mưa, nhà cầm quyền Cộng sản Việt Nam đã và đang trực tiếp “tự gây ra một thảm họa môi sinh (self-inflicted ecological disaster)” với hậu quả lâu dài không chỉ ở đồng bằng châu thổ mà trên khắp các ngả sông rạch và nguồn nước của cả một quốc gia.
Đến Những Hồ Chứa Đập Thuỷ Điện:
Với những hồ chứa khổng lồ từ chuỗi các con đập bậc thềm Vân Nam (Mekong Cascades) mà Trung Quốc đã và đang xây trên thượng nguồn sông MK, cộng thêm những con đập Lào và Campuchia đang xây thì "mùa nước nổi" ở ĐBSCL có thể rồi ra sẽ hoàn toàn biến mất.
Chức năng của những hồ chứa thủy điện khổng lồ, trên lý thuyết, là tích trữ nước trong mùa mưa lũ để sử dụng trong mùa khô.  Nhưng khi các hồ chứa ở thượng lưu tích nước thì lưu lượng lũ đổ về hạ nguồn sẽ ít hơn. Không còn lũ đổ về có nghĩa là không còn "mùa nước nổi". Với hậu quả là Biển Hồ Tonle Sap trên Campuchia sẽ không được làm đầy, và vào mùa khô nước từ Biển Hồ chảy về ĐBSCL ít đi và đồng thời với mực nước biển ngày một dâng cao (Sea Level Rise) thì nạn nhiễm mặn ngày càng gia tăng trầm trọng.
Để tự bào chữa cho các con đập thuỷ điện Vân Nam, các công trình sư thuỷ điện Trung Quốc đã lý luận rằng các hồ chứa đập thuỷ điện ở thượng lưu mang chức năng điều hoà dòng chảy con sông Mekong: giữ nước trong Mùa Lũ làm giảm lũ lụt hạ nguồn và rồi trong mùa khô cũng vẫn những con đập ấy xả nước xuống hạ lưu nhiều hơn lưu lượng tự nhiên do có sẵn lượng nước ở những hồ chứa tích từ mùa lũ năm trước, nhưng hiện thực thì không đơn giản như vậy.
Bởi vì chính những con đập thuỷ điện thượng nguồn đã phá huỷ chu kỳ điều hợp thiên nhiên vô cùng kỳ diệu của con sông Mekong. Khi mà các hồ thuỷ điện ngăn chặn nguồn nước lũ trong Mùa Mưa từ thượng nguồn cũng chính là nguyên nhân triệt tiêu "mùa nước nổi" nơi ĐBSCL. Để rồi sang Mùa Khô, nguồn nước ấy lại bị chính Trung Quốc, Thái Lan, Lào và Campuchia cùng chuyển dòng (diversion) lấy nước từ con sông Mekong cho nhu cầu nông nghiệp nên Cửu Long càng thêm cạn dòng. Nhà nông học Võ Tòng Xuân đã từng ghi nhận:
"Chúng tôi đã chứng kiến những cánh đồng lúa lan rộng trong mùa khô trên khắp các vùng Đông Bắc Thái, Nam Lào và Cam Bốt, đã rút đi một lượng nước sông rất đáng kể trong vùng. Nhiều năm qua, nguồn nước cung cấp cho các vụ lúa mùa khô nơi ĐBSCL đã bị sút giảm nghiêm trọng, hậu quả là nạn nhiễm mặn tiến sâu vào đất liền xa tới 80 km và gây tổn hại cho mùa màng.” [26-10-2013]
Và như vậy, theo kỹ sư thuỷ học Đỗ Văn Tùng từ Canada thì ĐBSCL đã và đang chịu "tai họa kép" thiếu nước cả trong mùa lũ lẫn mùa khô! Cũng vẫn theo anh, thì bắt đầu từ giữa tháng 8/2015 mực nước ở Biển Hồ trụt khoảng 1.3 mét trong vòng 10 ngày là một điều bất thường. Đối với một Biển Hồ lớn như Tonle Sap thì ngay cả khi không có nước chảy vào hồ thì mực nước hồ cũng thay đổi rất ít vì chỉ bị mất nước do bốc hơi, nên phải kể thêm yếu tố chuyển dòng (diversion) lấy nước ra khỏi hồ tiêu tưới cho những cánh đồng lúa lan rộng trong mùa khô trên Campuchia, như vậy đã rút đi một lượng nước sông rất đáng kể nơi cuối nguồn là ĐBSCL.
Theo KS Phạm Phan Long của Viet Ecology Foundation, tình trạng mực nước Biển Hồ Tonle Sap, theo đồ biểu của Uỷ Hội Sông Mekong / MRC, thì hai tháng nay mực nước xuống thấp dưới cả mức thấp kỷ lục năm hạn hán 1992. Mưa ngày càng ít đi, mà hồ chứa đập thuỷ điện với trữ lượng ngày càng lớn hơn và nhiều thêm, hậu quả là Biển Hồ Tonle Sap tránh sao cho khỏi trơ đáy và ĐBSCL làm sao còn "mùa nước nổi". Tình trạng tai họa kép đã xảy ra vào cả hai Mùa Mưa lẫn Mùa Khô, và còn là "tai họa kép" của nhân tai lẫn thiên tai. [2] 
ĐBSCL và hội chứng luộc ếch
Trên báo chí truyền thông, người ta hay dùng "giai thoại luộc ếch" như một ẩn dụ (metaphor). Đó là nếu ta bỏ một con ếch vào nồi nước nóng, thì con ếch sẽ có phản ứng và nhẩy ngay ra khỏi nồi nước. Nhưng nếu ta đặt ếch vào một nồi nước lạnh, để ếch ngồi trong đó, rồi từ từ nâng nhiệt độ lên, một cách rất chậm thì con ếch vẫn thoải mái ngồi trong đó và không nhúc nhích, cho đến khi con ếch bị luộc chín từ lúc nào mà chính nó cũng không biết.
Trên thực tế, thì con ếch sẽ nhẩy ra khi nước bắt đầu nóng. Nhưng không sao, "Hội chứng Luộc ếch (Boiling Frog Syndrome)" vẫn có một ý nghĩa ẩn dụ rất hữu ích khi muốn nói tới nói tới tình trạng con người bị "mất khả năng phản ứng" đối với những mối hiểm nguy đến rất từ từ (gradual threats).
Al Gore, nguyên Phó Tổng thống Mỹ, đồng chia giải Nobel Hoà Bình 2007 do nỗ lực phổ biến kiến thức về biến đổi khí hậu do con người gây ra (man-made climate change) và xây dựng nền móng cho những biện pháp chống lại sự biến đổi ấy. Trong cuốn phim An Inconvenient Truth (2006) Al Gore cũng đã dùng ẩn dụ "con ếch luộc" để nói tới sự "vô minh" của con người trước hiện tượng "hâm nóng toàn cầu (global warming)" nhưng trong cuốn phim ấy, con ếch đã được cứu sống. [4]
Cũng không phải là quá đáng nếu đem ví Đồng Bằng Sông Cửu Long đang trở thành một "con ếch luộc", đang đi dần vào một "Cái Chết Tiệm Tiến của Thế Kỷ" với hơn 20 triệu cư dân thì vẫn cứ đang sống lặng lẽ trong đó, không có phản ứng gì trước một thảm hoạ đến rất từ từ và không thể thấy ngay một cách "nhãn tiền" cho đến khi tất cả một Vùng Châu Thổ cùng với một Nền Văn Minh Miệt Vườn đã bị chìm sâu trong một biển mặn.
NGÔ THẾ VINH
California, Oct 12, 2015
Tham Khảo:
1/ Prek Kdam (Tonle Sap), Water Level. Mekong River Commission
2/ Đọc tác phẩm Cửu Long Cạn Dòng, Biển Đông Dậy Sóng. Đỗ Hải Minh, Tập san Thế Kỷ 21, Số 139, 11/ 2000.
3/ Cửu Long Cạn Dòng, Biển Đông Dậy Sóng, Ngô Thế Vinh, Nxb Văn Nghệ 2000.
4/ An Inconvemient Truth: The Crisis of Global Warming. Al Gore. Viking Books, 1st Edition, April 2007.
-


- Mekong - Cửu Long 2011: nhìn xa nửa thế kỉ tới (Bài 3)
http://www.celsias.com/media/uploads/admin/images1802116_untitled.JPG
Xin trân trọng giới thiệu bài thứ 3 trong loạt bài “Mekong - Cửu Long 2011 nhìn xa nửa thế kỉ tới” của Bs Ngô Thế Vinh.  Đây là loạt bài phác thảo các vấn đề và giải pháp để đương đầu với tình huống ĐBSCL sẽ ngập nước trong tương lai. Hôm nay là ngày khai mạc website mới, nên cũng có thể xem bài này là một lời chào đến các bạn đọc xa gần. NVT
MEKONG-CỬU LONG 2011 NHÌN XA NỬA THẾ KỶ TỚI [3]
TỪ CON ĐÊ BIỂN ĐA DỤNG NGĂN MẶN TỚI CÁC HỒ CHỨA NƯỚC NGỌT
ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG
“Nước trở nên quý, và càng quý hơn trong tương lai, trở thành ‘vàng xanh’ của Thế kỷ 21” “Water has become expensive, and it will be even more expensive in the future, which will make it the ‘blue gold’ of the 21st century”. Ricardo Petrella, 3/2000

“Mọi tuyên bố về các dự án đập thủy điện lớn, thì rõ ràng, hiển nhiên và chứng minh được là giả định và sai trái”. “For every claim to virtue made by the proponents of big dams, there is a clear-cut, factual and demonstrable refutation”. Elmer Peterson, Big Dam Fooliness, 1954

“Theo tôi, thiên nhiên thì vô cùng khắc nghiệt, và điều chúng ta có thể làm là  trị liệu chúng”. “Inmy view, nature is awful and what you do is cure it”. Camille Dagenais, Canadian dam engineering firm SNC, 1985



Gửi Nhóm Bạn Cửu Long
& VN2020 Mekong Group

NGÔ THẾ VINH

LỜI DẪN NHẬP: Đây là bài thứ ba trong số 3 bài viết về tương lai Đồng Bằng Sông Cửu Long “Nhìn Xa Nửa Thế Kỷ Tới”:
Bài thứ nhất, như một tổng quan, với nhận định: thủy điện vẫn là nguồn năng lượng rẻ nhất, do nhu cầu phát triển, khai thác thủy điện trên sông Mekong, cho dù mau hay chậm, thì đó vẫn là một tiến trình rất khó có thể đảo nghịch, nên cần có một kế hoạch vĩ mô đối đầu với hậu quả tích lũy của những con đập thượng nguồn cùng với biến đổi khí hậu.
Bài thứ hai, giới thiệu về một phác thảo “Dự án Đê Biển Đa Dụng / Mekong Multipurpose Sea Dyke / MSD” như một bước đột phá , trước mắt làngăn không cho nước biển lấn sâu thêm vào vùng châu thổ và lâu dài là cứu Đồng Bằng Sông Cửu Long [ĐBSCL] không chìm dưới biển mặn khi biển dâng cao một mét do hâm nóng toàn cầu/ global warming, cùng với những lợi ích khác như tạo thêm vùng đất mới, cải thiện giao thông, nâng cao mức sống cư dân vùng châu thổ. (3)
Đây là bài viết thứ ba,đề cập tới nhu cầu xây dựng các hồ chứa nước ngọt từ hai vùng trũng thiên nhiên Đồng Tháp Mười và Đồng Cà Mau nhằm giữ lại được phần  nước đổ xuống từ thượng nguồn và cả lượng nước mưa hàng năm, đáp ứng  nhu cầu khẩn thiết về nước uống, phục vụ canh tác và kỹ nghệcho ngót 20 triệu cư dân ĐBSCL thay vì đổ phí ra Biển Đông qua các cửa sông. Quan trọng hơn thế nữa là bảo vệ được các tầng nước ngầm / underground aquifers ngăn đất sủi phèn đưa tới acít hóa toàn vùng đất đai ruộng vườn.
Cả ba bài  Mekong-Cửu Long Nhìn Xa Nửa Thế Kỷ Tới đều mang tính cách “khái niệm/ conceptual” về một tương lai xa hơn nhiều thập niên; do đó bạn đọc có thể coi đây là “nguồn thông tin mở / open-ended informations”với các dữ kiện luôn luôn được bổ xung và cập nhật theo thời gian, với đóng góp từ nhiều nguồn trí tuệ, phù hợp với những biến động của cả thiên nhiên và con người, mà ở thời điểm 2011 chưa có thể có hết trong tầm dự liệu của người viết.
Một ví dụ: trong bài viết 1, khi đề cập tới trường hợp nước biển dâng 1 mét, thì cho rằng 90% diện tích ĐBSCLsẽ chìm trong biển mặn (2), trong khi theo dự đoán của Giám đốc Viện Khí tượng Thủy văn và Môi trường Việt Nam Trần Thức thì  “Nếu mực nước biển dâng khoảng 1 mét, toàn thểĐồng Bằng Sông Cửu Long – tức 100% sẽ bị ngập mặn”; nhưng rồi theo ước tính trong bài nghiên cứu của hai Ks Ngô Minh Triết và Phạm Phan Long, dựa theo địa hình các vùng cao thấp, thì con số đưa ra dè dặt hơn: “Khi  nước biển dâng cao 1mét, thì 50% diện tích ĐBSCLsẽ chìm dưới mực nước biển và thêm 25% cũng sẽ trở thành vùng bão ngập/ storm surge zone”…
Cứu nguy hệ sinh thái của ĐBSCL là một cuộc hành trình ngàn dặm, nỗ lực của người viết trong ngót hai thập niên qua chỉ là một bước rất nhỏ như “giọt nước trong biển cả”của kho tàng trí tuệ dân tộc trên vùng đất định mệnh, trong suốt dòng lịch sử luôn luôn phải đấu tranh với mối hiểm họa đến từ phương Bắc và với cả thiên nhiênngày càng khắc nghiệt, để có thể sinh tồn.

ĐỊA LÝ DÂN CƯ ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG
Trong số 17 cửa sông của ĐBSCL, thì đã có bảy cửacủa hai con sông Tiền và sông Hậu, nước mặn theo các cửa sông ấycàng ngày càng lấn sâu vào vùng châu thổ [ 128 km, thời điểm 2010 ]. Theo ước tính của Viện Quy Hoạch Thủy Lợi Miền Nam, thì có đến 1.5  tỉ mét khối nước mặn đổ vào nội đồng mỗi ngày trong mùa nước kiệt, và con số còn tăng hơn  25% khi có triều dâng. (7)

Hình 1:Nước mặn ngày càng lấn sâu vào ĐBSCL, 38 km tới 128 km trên Sông Tiền từ 1996 tới 2010[Ref. 3]
Sau 1975, đã có bước đầu thực hiện xây đập ở các cửa sông để ngăn mặn, nhưng cũng để thấy rằng đây chỉ là giải pháp cầm cự, bởi vì khi mực nước biển tiếp tục dâng cao thì không phải chỉ từ các cửa sông, mà toàn vùng châu thổ sẽ chìm trong biển mặn. Do đó, một dự án vĩ mô về con đê biển đa dụng ngăn mặn cho toàn vùng châu thổ phải là một giải pháp dài hạn với tầm nhìn chiến lược.
Cũng nên ghi lại ở đây cuộc trao đổi giữa phóng viênbáo National Geographic và Tổng Trưởng Thông Tin Tôn Thất Thiện [1968] . Peter White quan sát trên bản đồ,  rồi bằng phi cơ quân sựbay lượnvới cao độ khác nhau trên cácbãi biển xình lầy và trên những khu rừng tràm, nhưng rồianh chỉ thấy được 8 cửa sông thay vì 9. Anh tìmtới hỏi giáo sư Tôn Thất Thiện, người bạn tham vấn lâu năm về những vấn đề Việt Nam, cũng là Tổng Trưởng Thông Tin, ông Thiện cười, giải thích: “Thực sự chỉ có 8, nhưng đó không phải là con số hên; các con số hên là 7 hoặc 9, do đó chúng tôi phải tìm ra một cửa sông nhỏ khác nữa, rất hẹpchỉ non 10 dặm…Tôi mong anh không bất bình vì đã không tìm ra được cửa sông thứ 9 đó.” (8)

HAI VÙNG TRŨNG ĐỒNG THÁP MƯỜI VÀ ĐỒNG CÀ MAU
Ngoài những hồ chứa nước dọc theo con đê biển MSD có chiều dài 600 Km (3), thì còn có hai vùng trũng thiên nhiên và là hai hồ chứa nước ngọt trong mùa nước nổi của ĐBSCL. Như một chu kỳ hàng năm,Tonle Sap là con sông duy nhất trên  lãnh thổ Cam Bốt chảy hai chiều theo theo hai mùa mưa nắng. Nhờ vậy mà diện tích Biển Hồ co dãn: là hồ cạn với diện tích 2,500 km2 trong Mùa Khô, nhưng từ tháng 5 đến tháng 9 khi bước sang Mùa Mưa, nước sông Mekong dâng cao, tạo sức ép khiến sông Tonle Sap phải đổi chiều, chảy ngược vào Biển Hồ làm nước hồ dâng cao từ 8 tới 10 mét và tràn bờ, và diện tích Biển Hồ tăng gấp 5 lần khoảng 12,000 km2. Những cánh đồng lũ / flooded forest của Biển Hồ là cái nôi nuôi dưỡng và tái sinh nguồn thực phẩm khổng lồ chủ yếu là cá, chiếm tới hơn 60% nguồn cá của Cam Bốt. Khi Mùa Mưa qua đi, khoảng tháng 11, cũng là ngày Hội Nước, con sông Tonle Sap lại xuôi chiều, để từ Quatre Bras nơi hội tụ của bốn nhánh sông, nguồn cá từ Biển Hồ theoMekong Hạ đổ vào sông Tiền và theo sông Bassac đổ vào sông Hậu, tràn vào hai hồ chứa thiên nhiên Đồng Tháp Mười và Đồng Cà Mau, đàndi ngư này tăng trưởng nhanh chóng và đã từng là vựa cá trời cho cư dân ĐBSCL.
Khác với con đê biển nằm ngoài đất liền, không đặt ra vấn đề phảithu mua đất, nhưng do hai hồ chứa nước ngọt nằm trongvùng châu thổ, nên sẽ có nhu cầu giải tỏa và tái định cư, bước đầu có thể khó khăn nhưngvì lợi ích lâu dài cho toàn vùng ĐBSCL và cho tương lai thế hệ con cháu họ, thêm vào đó nếu người dân được đối xử công bằng và bồi thường xứng đáng thì trở ngại này có thể  giải quyết với sự đồng thuận và hợp tác.
Cần có một chính sách trong sáng / transparency, với chương trình đền bù thiệt hại xứng đáng , với kế hoạch di dân tái định cư hợp lý, để cùng hướng về mục đích chung, sẽ không có khó khăn để thuyết phục người nông dân ĐBSCL vốn sẵn lòng yêu vùng đất của họ, sẽ chấp nhận phần hy sinh cho một tương lai bền vững.

NHỮNG BƯỚC KHỞI ĐẦU CỤ THỀ
1/ Ủy Ban Mekong Việt Nam thay vì bấy lâu tọa ngự nơi địa chỉ 12 Phố Hàng Tre Hà Nội thuộc châu thổ Sông Hồng, thì nay đúng là thời điểm nếu không là quá trễ để di dời về ĐBSCL vùng đất thấp. Rất biểu tượng, thuyền trưởng không thể chọn đứng trên bờ để hô hào thủy thủ hy sinh cứu nguy con tàu đắm.
2/ Đại Học Cần Thơ  được mệnh danh là “Ngọn Hải Đăng Trí Tuệ” cho ĐBSCL nhưng câu hỏi đặt ra là liệu có còn triển vọng tồn tại để kỷ niệm 100 năm hay không khi mà trường sở nằm trên vùng đất thấp hơn mặt biển như hiện nay. Ai sẽ tìm câu giải đáp cho “vấn nạn mất còn” ấy nếu không phải là “think tank” từ Phân Khoa Sông Mekong  Đại Học Cần Thơ?Vai trò của Đại Học Cần Thơ với Phân Khoa Sông Mekong chưa bao giờ cấp thiết đến như vậy. Đây cũng là đề xuất của tác giả trong bài viết này cách đây hơn11 năm, cả với đề nghị từng bước cụ thể: (a) Xây dựng một thư viện chuyên ngành liên quan tới con sông Mekong và con sông kết nghĩa Mississippi;(b) Thiết lập ban giảng huấn, sẽ bao gồm thành phần cơ hữu của nhà trường, các chuyên gia của hai Ủy Hội Sông Mekong và Mississippi, cùng với nhóm Chuyên Viên Tham vấn Quốc tế từ Chương Trình Môi Sinh Liên Hiệp Quốc [UNEP/ United Nations Environment Programme], chuyên gia Hội Các Con Đập Thế Giới [WCD/ World Commission Dams], Mạng Lưới Sông Quốc tế [IRN/ International River Network]… Họ sẽ được mời như những Giáo Sư Thỉnh Giảng, cho Phân Khoa Sông Mekong. Tài liệu giảng của họ sẽ là nguồn thông tin vô cùng quý giá do từ những đúc kết qua thực tiễn;(c) Tuyển sinh từ thành phần ưu tú không phải chỉ có Việt Nam mà cả từ các quốc gia trong lưu vực như Thái Lan, Lào, Cam Bốt và cả từ Vân Nam Trung Quốc, Miến Điện. Chương trình hướng tới đào tạo các kỹ sư môi sinh và xây dựng cho “Chương Trình Phát Triển Xanh / Green Development”,hướng tới bảo vệ và phát triển hệ sinh thái của con sông Mekong. Lớp chuyên viên trẻ đầy năng động này cũng sẽ là mẫu số chung nối kết mở đường cho các bước hợp tác phát triển bền vững của 6 quốc gia trong toàn lưu vực sông Mekong. [6]

Hình 2: Ủy HộiSông Mekong Việt Nam, 12 Phố Hàng Tre, Hà Nội  nơi châu thổ Sông Hồng cách xa ĐBSCL hơn 1,600 km [Photo LN Hà]
Về phương diện chánh quyền, cần thiết lập ngay một mạng lưới “Tùy viên Môi sinh” đặc trách sông Mekong trong các Tòa Đại sứ và Sứ quán tại các quốc gia trong lưu vực: như tòa lãnh sự Việt Nam ở Côn Minh Vân Nam, bốn tòa đại sứ Việt Nam ở Miến Điện, Thái Lan, Lào và Cam Bốt. Họ sẽ là tai mắt, là những trạm quan sát sống cho Phân Khoa sông Mekong và Bộ Bảo Vệ Môi Trường.
Phải xem đây như một kế hoạch đầu tư dài hạn và ý nghĩa cho “Một Tinh Thần Sông Mekong” trong toàn bộ các kế hoạch hợp tác và phát triển vùng. Dĩ nhiên có một cái giá cao và xứng đáng phải trả để bảo vệ con Sông Mekong và sự sống còn của vùng ĐBSCL.
3/ Rừng Tràm Chắn Sóng: trong ngắn hạn, để  chống nạn sạt lở như hiện trạng mũi Cà Mau mất nhiều mẫu đất mỗi năm (927 ha / năm), cần ngay nỗ lực trồng và tái sinh những khu rừng tràm ven biển không chỉ để chắn sóng mà còn có khả năng giữ lại lượng phù sa, song song với giải pháp dài hạn hình thành một kế hoạch vĩ mô xây dựng đê biển đa dụng và hai hồ chứa nước ngọt để đương đầu với nước biển dâng do thay đổi khí hậu.
4/ Dòng Sông Thanh Khiết: những con sông của đất nước đang bị chính chúng ta góp phần hủy hoại. Không thể có được những dòng sông như mạch sống vừa mang tới thức ăn, vừa phải chuyên chở mọi chất phế thải. ĐBSCL, nơi nào cũng có bảng hiệu Làng Văn Hoá, nhưng các dòng sông và kinh rạchthì vẫn là nơi để hàng ngày người ta phóng uế và đổ xuống tất cả những rác rưởi. Ý niệm vệ sinh công cộng, bảo vệ môi trường sống lành mạnh, trong một thiên nhiên hài hòa,phải là kết quả của ý thức tập thểvà cả từ mỗi cá nhân. Thay đổi nếp sống với rất nhiều khiếm khuyết như hiện nay, cầnthời gian giáo dục hàng thập niên và cả biện pháp kỷ luật của một xã hội công dân, chứ không phải chỉ bằng những khẩu hiệu.

PROS AND CONS VÀ CHỈ CÓ MỘT CHỌN LỰA
Từ sau 1975, Việt Nam đã thực hiện một số dự án xây dựng đêbiển trên đất liềndọc theo các tỉnh cận duyên như Sóc Trang, Bạc Liêu và Cà Mau, với hậu quả là gây tác hại cho môi trường bên trong đê, đất bị bọc phèn và nhiễm mặn gây tổn hại cho mùa màng, khiến sau đó chính dân chúng phải tự phátđi bửa đê, và mạnh hơn thế nữa chánh quyền địa phương phải cho gài mìn phá đê đểcư dân có thể làm ăn trồng trọt trở lại. Không phải chỉ có riêng ở ĐBSCL, những thất bại về các công trình đê điều là khá phổ quát ở Việt Nam như con đê biển Hải Hậu Nam Định miền Bắc, con đê Mũi Né Phan Thiết miền Trung…
Có thể nói hàng ngàn cây số đê điều ở Việt Nam tuy rất tốn kém nhưng thiếu điều nghiên nên đã thất bại.Nhưng còn dự án con Đê Biển Đa Dụng MSD thì sao? Qua hai bài đầu tiên, người viết đã nhận được một số hồi đáp từ bên trong cũng như ngoài nước, đồng thuận hay không nhưng vẫn là những tiếng nói thao thức với vận mệnh của đất nước nên rất đáng trân trọng.
_ Có ý kiến cho rằng việc “xây đê biển ĐBSCL còn tệ hơn việc xây dựng đường sắt cao tốc về mặt hiệu quả kinh tế. Với luận cứ là,chống lại tự nhiên cần phải được tính toán cẩn trọng, ĐBSCL đã từng có bài học đắt giá về thoát lũ ra biển Tây rồi. Thành công dễ thấy nhưng bài học về thất bại cho công trình biển trên thếgiới nhiều không kém”.Về điểm này, có lẽ cần có một từ ngữ chính xác hơn, thay vì “chống lại tự nhiên” thì nên được hiểu như “một thích nghi / adaptation” với những biến động của thiên nhiên để sống còn.
_ Một ý kiến kháccho rằng dự án MSD còn rất nhiều ẩn số, kể cả những điểm bất cập và tiêu cực chưa được soi sáng và lý giải. Như ước tính cần tới hơn 200 triệu mét khối hay hơn một tỉ tấn cát đá ximăng, phải cần tới những tầu vét nạo khổng lồ / huge dredgers, làm sao mà có được. Câu trả lời: đây là một kỹ thuật không phải chỉ khả thi mà đã được triển khai và ứng dụng trên thế giới, như với quần Đảo Dừa / Palm Islandscủa Dubai cần tới 1 tỉ rưỡi / 1.5 billions mét khối cát đá ximăng,  nghĩa là 7 lần hơn, cũng lấy từ đáy biển như với dự án MSD.
_ Cũng có một cách nhìn khác nữa tích cực hơn, cho rằng khi có người xây cái nhà hay cái cầu bị sập không có nghĩa là người khác sẽ không xây được cái nhà hay cái cầu an toàn. Học từ những kinh nghiệm thất bại của người khác để làm cho tốt hơn chứ không phải để kết luận là không làm được. Bất cứ một dự án xây dựng lớn nào muốn thành công thì cần phải có trình độ, lương tâm và cơ chế hữu hiệu.
_ Thêm một số ý kiến khác khá phổ quát của số người khi lần đầu tiên tiếp cận với dự án MSD hoặc nếu không là ngỡ ngàng vì tầm vóc dự án quá lớn chưa bao giờ nghĩ tới hoặcxa hơn nữa hoài nghi cho rằng liệu có tính khả thi / feasibility về kỹ thuật,nhân sự,tài chánh trong điều kiện của Việt Nam hiện nay hay không? Ngay cả Paul Stewart, phụ trách Mạng Lưới Môi Sinh“Từ Cửa Sông Tới Nguồn / Mouth to Source”, mặc dầu cho phổ biến bài viết cũng ngạc nhiên với phát biểu: “Chỉ có thể diễn tả đây là Dự án Vĩ mô mà tôi chưa bao giờ thấy trước đây. Các  bạn thì nghĩ sao?”http://mouthtosource.org/rivers/mekong/2011/05/29/mekong-sea-dyke-concept-paper/
_ Trong khi NhómKỹ Sư tham gia soạn thảo công trình Đê Biển Đa Dụng MSD ở California, thì cho rằng chi phí MSD sẽ không cao hơn dự án đường sắt cao tốc, và hiệu quả kinh tếthì không thể so với 20,000 km2 diện tích đất đai mầumỡ của ĐBSCLcó thể mất đi vì nước biển dâng cao, cũng không cao hơn chi phí để di tản từ 10đến 15 triệu dân, lo tái định cư cho họ và rồi còn nhập cảng gạo hàng năm nuôi sống họ và cả nước. (3)
Qua kinh nghiệm và những thành tựu của thế giới, để thấy rằng dự án Đê biển Đa dụng MSD và các hồ chứa nước ngọt cho ĐBSCL là khả thi. Nhưng chúng ta cần một tư duy thế kỷ, xa hơn giới hạn đôi ba thế hệ, để thích nghi với một môi trường khắc nghiệt và thù nghịch với một tiến trình đảo nghịch: ruộng vườn biến thành biển mặn, thay vì  cảnh tượng biển xanh biến thành ruộng dâu.
Sau những thất bại, những chấn thương, chúng ta đứng trước hai tình huống: hoặc sợ hãi, co cụm lại, nghĩ rằng không còn làm gì hơn được; hoặc phân tích thất bại ấy, coi đó như bài học, để từ đó dám nghĩ khác đi, mà thành ngữ tiếng Anh gọi đó là khả năng “thinking outside the box”, hay một thứ Trial and Error / Nghiệm và Sai, là một phương pháp nghiên cứu/ giải quyết/ chỉnh sửa/ hay tạo hiểu biết về vấn đề đặt ra. Bài học không tự đến từ thất bại nhưng là do từ phân tích thất bại ấy, rồi biến cải, và thử nghiệm nữa. Đây là phương pháp không xa lạ gì trong giới khoa học thực nghiệm. [Wikipedia]

Hình 3:3,600 km2 bên trong con Đê Biển Đa Dụng MSD có tiềm năng là những hồ chứa nước và cả tạo thêm vùng đất mới [Ref. 3] 
NHỮNG BÀI HỌC THÀNH TỰU THẾ GIỚI
Những công trình kỳ vĩ trên thế giới và cả đứng vững với thời gian không phải là ít. Điều trước tiên học được từ những thành tựu ấy, đó là viễn kiến và hình thành một “ý tưởng lớn” cùng với ý chí và quyết tâm thực hiện, trong những nghịch cảnh và vị trí địa dư rất khác biệt.
_ Công trình Zuiderzee Vùng Đất Thấp đã có từ mấy thế kỷ trước với một hệ thống đê đập nhân tạo và thủy lợi nhằm giữ đất và ngăn mặn từ Bắc Hải, cộng thêm với hiệu quả ngăn lũ lụt, tạo thêm đất canh tác. Hiệp hội Kỹ sư Công chánh Mỹ / American Society of Civil Engineers đã vinh danh các công trình của Hòa Lan như một trong Bảy Kỳ quan của Thế giới.
_ Công trình Đê biển Seamangeummới đây của Hàn Quốc[ 04/2010, với một bức trường thành dọc theo bờ biển tiếp giáp với Hoàng Hải, chắn ngang hai cửa sông Dongjin và Manggyeong; được khởi công từ 1991 và hoàn tất 2010, như một kỳ công về xây dựng được coi như một trong những kỳ tích tạo một vùng đất mới / land reclamation lớn nhất, lớn hơn cả công trình Zuiderzee của Hòa Lan.
_  Công trình Đảo Dừa là một quần đảo nhân tạo như hình Bộ Ba Cây Dừa / The Palm Trilogy: Jumeirah, Jebel Ali, Deira củathị trấn Dubai / United Arab EmiratestrongVịnh Ba Tư / Persian Gulfđược hình thành với hàng tỉ mét khối cát đá do hai công ty Bỉ / Belgian và Hòa Lan / Dutch với những chuyên gia hàng đầu của thế giới để tạo nên vùng đất mới / land reclamation, và thêm cho Dubai 520 Km bờ biển. Công trình kiến trúc đảo và bờ biển nhân tạo này được coi như một Kỳ quan thứ Tám của thế giới.
_ Công trình Đập Chắn Singapore / Singapore’s Marina Barrage, do viễn kiến của nguyên Thủ Tướng Lý Quang Diệu / Lee Kuan Yew từ hơn hai thập niên trước. Là một đảo quốc, có vũ lượng cao 100 inches /năm, do đó phòng tránh  lũ lụt ngăn mặn, và dự trữ nước ngọt là vô cùng cần thiết. Đập Chắn đã hoàn tất [ 11/2008 ],góp phần tăng phẩm chất cuộc sống và phát triển kinh tế của đảo quốc này thay vì phụ thuộc nguồn nước nhập từ Mã Lai. Công trìnhđã được Viện Kỹ Sư Môi Trường Mỹ / AAEE / American Academy of  Environmental Engineersvinh danh với giải thưởng cao quý nhất 2009.

MISSISSIPPI BẠN ĐỒNG HÀNH VÀ TƯƠNG TÁC
Mississipp kết nghĩa với sông Mekong từ tháng 7, 2009; nay là người bạn đồng hành và tương tác của con sông MekongvàĐBSCL. Từ thập niên đầu của thế kỷ 21, Ủy Hội Sông Mississippi đã sớm có viễn kiến 200 năm bằngMột Cam kết Liên Thế hệ / An Intergenerational Commitment với 6 điểm tập trung vào cuộc sống hạnh phúc cho toàn cư dân lưu vực: [1] Bảo đảm cuộc sống phẩm chất có một không hai trên thế giới; [2] Tạo an toàn cho cuộc sống ven sông trong toàn lưu vực; [3] Thở không khí trong lành trong môi trường động và thực vật với thú săn bắn, câu cá và tiêu khiển trên sông; [4] Du lịch an toàn với giá phải chăng tớimọi nơi trong lưu vực; [5] Uống và xử dụng nguồn nước phong phú từ các dòng sông hay từ tầng nước ngầm trong lưu vực; [6]Quyền lựa chọn phẩm vật và nguồn tiếp liệu dồi dào được trồng, chế biến với giá thành rẻđược chuyên chở tới các địa phương và tới thị trường thế giới. (Mississippi River Commission, August 20, 2009)
Có thể vắn tắt 6 điểm ấy trong 5 mục tiêu chính, đó là: [a] An ninh quốc gia với chương trình giảm thiểu tổn thất lũ lụt và khô hạn; [b] Kiện toàn cơ sở hạ tầng và bảo đảmnguồn năng lượng; [c] Phát triển môi trường bền vững và giải trí cho cư dân; [d]  Cung cấp nguồn nước và phẩm chất nước; [e] Bảo đảm vận chuyển nông phẩm và hàng hóa trong lưu vực.
Cũng để thấy rằng viễn kiến nàyvẫn đúng và có thể ứng dụng cho cả 6 quốc gia Lưu Vực Lớn Sông Mekong / GMS/ Greater Mekong Subregion, trong đó có ĐBSCL. Điểm nhấn mạnh và nổi bật của “Viễn Kiến 200 Năm” Ủy Hội Sông Mississippi là luôn luôn đặt trọng tâm vào hạnh phúc của chính cư dân trong lưu vực và trách nhiệm liên đới với các thế hệ tương lai.

MSD VÀ NHỮNG HIỂM NGUY SINH TỬ
Phải thấy rằng có nhiều hơn một Lưỡi Gươm Damoclès treo trên dự án Công trình Đê Biển Đa Dụng và MSD sẽ là một dự án chết: [1] Nếu triển khai vội vàng không đạt tiêu chuẩn xây dựng quốc tế, và công trình èo uột ấy sẽ không thể đứng vững với hơn một cơn bão nhiệt đới đến từ Biển Đông hàng năm; [2] Nếu không có những hồ nước ngọt để bảo vệtầng nước ngầm đang suy xụp nhanh chóng như hiện nay, khiến đất sủi phèn với hậu quả là đổ ra hàng ngàn tấn acid sẽ phá hủy rộng rãi toàn vùng châu thổ; [3] Nếu không ngăn chặn đổ mọi rác rưởi, chất thải kỹ nghệ và cả phóng uế xuống dòng sông thì các hồ chứa nghiễm nhiên trở thành loại hố rác hố phân nặng mùi ô nhiễm; [4] Và tình huống tệ hại nhất, nếu xảy ra cơnđịa chấn làm vỡ con đập thượng nguồn, thì sẽ là cơn hồng thủy / một tsunami trên sông Mekong cuốn trôi mọi thứ dưới dòng và con đê biển không là một ngoại lệ. (3)
Với thay đổi khí hậu nước biển dâng, với dòng chảy xuống từ thượng nguồn giảm, với tầng nước ngầm ngày càng cạn kiệt làm đất sủi phèn, lún thêm mặt bằng ĐBSCL vốn đã thấp hơn mặt biển.Trước kịch bản ấy, chúng ta đứng trước hai tình huống: hoặc không làm gì để rồi đứng trước thảm cảnh một ĐBSCL chìm sâu dưới biển mặn, với tiêu vong cả một nền Văn Minh Miệt Vườn; hoặc bằng mọi giá đi tìm giải pháp cứu lấy vùng đất thiêng, cũng là không gian sinh tồn của cả các thế hệ tương lai.
Như một kết từ cho cả ba bài viết về “Tương lai Đồng Bằng Sông Cửu Long – Nhìn Xa Nửa Thế Kỷ Tới”: tất cả những đề xuất chỉ đang ở giai đoạn khái niệm / conceptual stagenên bạn đọc có thể coi đây như là “nguồn thông tin mở”cho mọi sáng kiến và các bước bổ xung tiếp theo cần thiết;  xa hơn nữa là những cuộc nghiên cứu khoa học hoàn chỉnh để chuyển biến“Từ Khả Năng tới Hiện Thực / A Posse Ad Esse”.

NGÔ THẾ VINH
California 06/ 2011
[Source: www.vietecology.org]



THAM KHẢO:

1/ Mekong-Cửu Long Nhìn Xa Nửa Thế Kỳ Tới [1] Ngô Thế Vinh, 01/2011, Viet Ecology Foundation;http://www.vietecology.org/Article.aspx/Article/61
2/ Mekong-Cửu Long Nhìn Xa Nửa Thế Kỳ Tới [2]; Ngô Thế Vinh, 05/2011, Viet Ecology Foundation; http://www.vietecology.org/Article.aspx/Article/67 
3/ Đê Biển Chống Mặn Đồng bằng Sông Cửu Long, Ngô Minh Triết, S.E., Phạm Phan Long, P.E.
Viet Ecology Foundation 06/2011; http://www.vietecology.org/Article.aspx/Article/68
4/ Vùng Đất Ngập Đồng Tháp Mười, Trần Ngươn Phiêu, Thế Kỷ 21 số 219, tháng 7, 2007
5/ Bức Tranh Ảm Đạm của Nông Dân Miền Tây, Nguyễn Văn Tuấn 02/2011, http://nguyenvantuan.net/misc/9-misc/1181-ghi-chep-cuoi-nam-8-buc-tranh-am-dam-cua-nong-thon-mien-tay
6/ Đại Học Cần Thơ, Ngọn Hải Đăng Miền Tây;  Diễn Văn Ra Trường của Viện Đại Học Cần Thơ; Gs Đỗ Bá Khê  (19/12/1970); Đặc San Tiền Giang Hậu Giang, 2000
7/ Sống Chung Với Nước Biển Dâng; Tuổi Trẻ Online 28/08/2010; http://m.tuoitre.vn/tin-tuc/Chinh-tri-Xa-hoi/Khoa-hoc-Moi-truong/310,Song-chung-voi-nuoc-bien-dang.ttm 
8/ The Mekong, River of Terror and Hope, Peter White, National Geographic134, No.6, December 1968
9/ Possible Impacts of Saltwater Intrusion Floodgates in Vietnam’s Lower Mekong Delta; Ian White, Australian National University_Seminar on Environment and Development in Vietnam, Dec 6-7, 1996 http://coombs.anu.edu.au/~vern/env_dev/papers/pap07.html 
10/ Plan for China’s Water Crisis Spurs Concern; Edward Wong– North China  is Dying. The New York Times, June 1, 2011http://www.nytimes.com/2011/06/02/world/asia/02water.html?_r=1&hp




Mekong - Cửu Long 2011: nhìn xa nửa thế kỉ tới
NGÔ THẾ VINH

DN NHP:
Vy mà đã 54 năm k t ngày Liên Hip Quc khai sinh y Ban Sông Mekong [1957] và cũng đã 16 năm k t ngày thành lp y Hi Sông Mekong[1995]. Trung Quc đã và đang tiếp tc xây nhng con đp thy đin khng l chn ngang dòng chính thượng ngun sông Mekong, Thái Lan có kế hoch chuyn dòng ly nước t sông Mekong, và nay li có thêm d án 12 con đp h lưu.


Đến nay 2011, Trung Quc đã hoàn tt 4 trong s 14 d án đp Vân Nam. Con đp th 5 Na Trác Đ / Nuozhado ln nht cũng đang được tiến hành xây ct cùng với con đập thứ 6 Công Quả Kiều / Gongguoqio. Sau con đp Tiểu Loan, ch trong vòng 2 năm na, , khi con đp Na Trác Đ khổng l hoàn tt, có th nói v tng th Trung Quc đã hoàn tt kế hoch chui đp bc thm Vân Nam và làm ch dòng sông Mekong.

Không có dấu hiệu các dự án xây đập thủy điện trên suốt dọc chiều dài sông Mekong sẽ chậm lại. Tuy chỉ với 4 con đập Vân Nam, các quốc gia hạ nguồn đã bắt đầu chịu những hậu quả “nhãn tiền”: những cơn lũ bất thường trong Mùa Mưa, nhiều khúc sông cạn dòng trong Mùa Khô và nạn nhiễm mặn trầm trọng hơn nơi Đồng Bằng Sông Cửu Long. Ngót 70 triệu cư dân trong Lưu vực Sông Mekong và gần 20 triệu dân vùng ĐBSCL đang và sẽ phải làm gì để thích nghi và sống còn?
Ủy Hội Sông Mekong / MRC đã chứng tỏ vô hiệu và không có một nghiên cứu cụ thể nào về các biến đổi hạ nguồn do tác động từ các con đập Vân Nam. Các quốc gia Mekong không thể trông chờ các hoạt động thiếu hiệu quả của MRC lâu hơn nữa, mà phải tự cứu mình làm các nghiên cứu này, đi tìm những giải pháp và công bố trên các diễn đàn quốc tế.
Và đang có manh nha một sáng kiến từ Hội Sinh Thái Việt: tiến tới vận động hình thành một Tổ Chức Lancang-Mekong mở rộng với 6 quốc gia bao gồm cả Myanmar và Trung Quốc.  
Đó là nội dung của 2 bài viết ngắn:  một của nhà văn Ngô Thế Vinh, tác giả cuốn Mekong Dòng Sông Nghẽn Mạch, một của kỹ sư Phạm Phan Long, thành viên sáng lập Hội Sinh Thái Việt  http://www.vietecology.org .
*
GIẤC MNG LỚN KHÔNG THÀNH
Rất sớm từ thập niên 40 thế kỷ trước, các nhà xây đập Mỹ đã quan tâm tới tiềm năng thủy điện của con sông Mekong. Năm 1957, giữa thời kỳ chiến tranh lạnh, với bảo trợ của Liên Hiệp Quốc, một Ủy Ban Sông Mekong [Mekong River Committee] được thành lập bao gồm 4 nước Thái Lan, Lào, Cam Bốt và Nam Việt Nam với một văn phòng thường trực đặt tại Bangkok. Khi soạn thảo kế hoạch phát triển sông Mekong, Liên Hiệp Quốc đã chia Lưu Vực Lớn sông Mekong [GMS, Greater Mekong Subregion] thành hai tiểu lưu vực cách nhau bởi khu Tam Giác Vàng:

Lưu Vc Trên (Upper Basin) thuộc Vân Nam Trung Quốc.
Lưu Vc Dưới (Lower Basin) thuộc 4 quốc gia hạ nguồn.
Kế hoạch phát triển Lưu Vực Dưới sông Mekong của Liên Hiệp Quốc như một “Giấc Mộng Lớn” đầy tham vọng, nhằm cải thiện cuộc sống cho toàn thể cư dân sống trong vùng hạ lưu.
[ Cho dù có mt na chiu dài sông Mekong chy qua Vân Nam nhưng Trung Quc lúc đó còn là mt quc gia khép kín và ít được nhc ti.] Nhưng rồi, Chiến Tranh Việt Nam đã lan rộng ra cả ba nước Đông Dương qua hơn ba thập niên, nên kế hoạch xây các đập thủy điện lớn như Pa Mong, Sambor, Khemmerat trên dòng chính sông Mekong vùng hạ lưu, và các chương trình khai thác khác đã phải gián đoạn, khiến cho con sông Mekong còn giữ được sự nguyên vẹn thêm một thời gian nữa.   
VẪN CÒN NHNG CÁNH ĐNG CHT
Chiến tranh Việt Nam chấm dứt năm 1975, nhưng vẫn còn một cuộc chiến diệt chủng diễn ra trên Xứ Chùa Tháp. Không có Cam Bốt, một Ủy Ban Mekong Lâm Thời [Mekong Interim Committee] được thành lập [1978], với hoạt động hạn chế. Cũng trong thời gian này, Thái Lan có kế hoạch chuyển dòng sông Mekong nhằm đưa một lượng nước lớn bơm tưới cho vùng đông bắc Thái khô hạn nhưng gặp sự chống đối của Việt Nam. Thái Lan đi tới phủ nhận tính cách pháp lý của Ủy Ban Sông Mekong, viện lý do là tổ chức này đã lỗi thời không còn phù hợp với những thay đổi về chánh trị, kinh tế và xã hội trong vùng. Trong điều kiện phân hóa như vậy, Ủy Ban Mekong Lâm Thời hầu như bị tê liệt.
TỪ ỦY BAN 1957 TỚI Y HI SÔNG MEKONG 1995
Bước vào thời bình, con sông Mekong đã trở thành mục tiêu khai thác của 6 quốc gia trong toàn Lưu Vực Lớn Sông Mekong [GMS, còn được gọi là Tiểu Vùng Sông Mekong Mở Rộng]. Cùng là những quốc gia ven sông nhưng mỗi nước lại có những ưu tiên phát triển khác nhau với những quyền lợi đôi khi mâu thuẫn. Do đó, phục hồi một tổ chức điều hợp liên quốc gia tương tự như Ủy Ban Sông Mekong trước đây là cần thiết.Ngày 05 tháng 04 năm 1995, chỉ có 4 nước hội viên gốc thuộc Lưu Vực Dưới của Ủy Ban Sông Mekong đã họp tại Chiang Rai, bắc Thái, để cùng ký kết một “Hip Ước Hp Tác Phát Trin Bn Vng H Lưu Sông Mekong” và đổi sang một tên mới là Ủy Hội Sông Mekong [Mekong River Commission] với một thay đổi cơ bản trong Hiệp Ước mới này – thay vì như trước đây, mỗi hội viên trong Ủy Ban Sông Mekong có quyền phủ quyết bất cứ một dự án nào bị coi là có ảnh hưởng tác hại tới dòng chính sông Mekong – thì nay, theo nội quy mới không một một quốc gia nào có quyền như vậy.
Ủy Hội Sông Mekong gồm 3 cơ cấu: [1] Hội Đồng Đại Diện [cấp bộ trưởng], [2]  Ủy Ban Hỗn Hợp, [3]  Văn Phòng Thường Trực. Nay có văn phòng đặt tại Vạn Tượng. Khác với tham vọng chiến lược ban đầu của Ủy Ban Sông Mekong, mục tiêu của Ủy Hội Sông Mekong có phần khiêm tốn và thu hẹp hơn bao gồm (3):
  •  Ba Chương Trình Nòng Cốt [core programmes]: (a) Chương Trình Sử Dụng Nước, (b) Chương Trình Phát Triển Lưu Vực, (c) Chương Trình Môi Trường.
  •  Năm Chương Trình Khu Vực [5 sector]: 1/ Canh Nông, 2/ Thủy Lâm, 3/ Ngư nghiệp, 4/ Giao Thông và 5/  Du lịch.
  •  Một Chương Trình Yểm Trợ [Capacity Building Programme]
Ủy Hội Sông Mekong được bảo trợ bởi các tổ chức quốc tế, hội tư nhân, các viện nghiên cứu và tổ chức quốc gia. Sau 16 năm hoạt động [1995-2011], Ủy Hội chỉ đạt được vài thành quả rất khiêm tốn như đi tới thỏa thuận chia xẻ thông tin giữa 4 nước thành viên, thiết lập đưa vào sử dụng “mạng lưới internet” tiên đoán lũ lụt và theo dõi dòng chảy Mùa Khô; và ký kết được một thỏa ước [tháng 4, 2002] nhằm trao đổi rất hạn chế các dữ kiện thủy văn với Trung Quốc v.v. Nhìn chung, thì hiệu năng và uy tín của Ủy Hội đã không được đánh giá cao bởi chính các cơ quan bảo trợ và cũng là một thất vọng cho các tổ chức hoạt động môi sinh.
LƯU VỰC TRÊN – LANCANG NGHN MCH
Lancang Jiang / sông Lan Thương, tên Trung Quốc của con sông Mekong thuộc Lưu Vực Trên [Upper Basin]. Chiến lược ngăn sông Lan Thương để xây 14 con đập bậc thềm Vân Nam của Bắc Kinh đã có từ thập niên 70. Trong hơn ba thập niên, Trung Quốc đã ào ạt khai thác con sông Lan Thương, bằng cách xây các đập thủy điện khổng lồ chắn ngang dòng chính.

Tuy chỉ mới có 4 con đập hoàn tất [Mạn Loan / Manwan 1,500 MW, Đại Chiếu Sơn / Dachaoshan 1350 MW, Cảnh Hồng / Jinhong1,350 MW, Tiểu Loan / Xiaowan 4,200 MW] trong dự án Mười Bốn Con Đập Vân Nam, vậy mà chưa bao giờ trong Mùa Khô, mực nước con sông Mekong lại có thể xuống thấp đến như vậy. [Hình 1]Ở một số nơi, có những khúc sông hầu như cạn dòng và trơ đáy. Nguồn cá và nông nghiệp đã trực tiếp bị ảnh hưởng. Không chỉ đơn giản vì “thiếu mưa”, sự kiện sông Mekong cạn dòng năm 1993 mà không vào Mùa Khô, trùng hợp với thời điểm Trung Quốc bắt đầu lấy nước vào con đập thủy điện Mạn Loan ngang dòng chính sông Mekong. Để có đủ nước cho 4 đập thủy điện đang hoạt động, Trung Quốc đã thường xuyên đóng các cửa đập khiến mực nước sông đã xuống tới mức thấp nhất. Bắc Kinh đã không cung cấp thông tin về chu kỳ vận hành của các con đập ấy để các quốc gia hạ lưu có thể kịp thời ứng xử và đối phó.
Odd Bootha 38 tuổi, anh lái đò bến Chiang Khong Bắc Thái đã phải than thở: “Nếu Trung Quốc cứ xây thêm đập thì sông Mekong chỉ còn là một con lạch.”
Chainarong Sretthachau, giám đốc Mạng Lưới Sông Đông Nam Á [Southeast Asia Rivers Network] cho rằng “Trung Quốc đã có quyền lực để kiểm soát dòng sông Mekong.” (2)Do nhu cầu điện của Trung Quốc tăng 5-6% /năm, để đáp ứng tốc độ phát triển kinh tế, với khát vọng vô hạn về năng lượng, không có dấu hiệu nào Trung Quốc sẽ dừng bước hay chậm lại kế hoạch khai thác nguồn thủy điện phong phú của con sông Mekong.
Nhận định về các kế hoạch khai thác sông Mekong của Trung Quốc, Tyson Roberts thuộc Viện Nghiên Cứu Nhiệt Đới Smithsonian [Mỹ] đã phát biểu: “Xây các đập thủy điện, khai thông thủy lộ, với tàu bè thương mại quá tải sẽ giết chết dòng sông... Các bước khai thác của Trung Quốc sẽ làm suy thoái hệ sinh thái, gây ô nhiễm tệ hại, khiến con sông Mekong đang chết dần.” (3)Với Cam Bốt, trái tim Biển Hồ chỉ còn đập khi con sông Tonle Sap còn duy trì được dòng chảy hai chiều theo mùa. Trong Mùa Mưa, sông Mekong phải đủ nước chảy ngược vào Biển Hồ, như một “điều kiện sống còn” cho nguồn cá và vựa lúa của người dân xứ Chùa Tháp. Nhưng chưa hề có bảo đảm nào cho một tương lai như vậy.
Năm 2005, trước khi bay sang dự Hội Nghị Thượng Đỉnh Côn Minh, Thủ tướng Hun Sen đã công khai lên tiếng ủng hộ Bắc Kinh, đối với kế hoạch khai thác sông Mekong, cho dù điều ấy đi ngược lại ý kiến quan ngại gần như báo động của các chuyên gia bảo vệ môi sinh. [AFP, 6/29/2005]
Và chỉ mới đây thôi, tháng 11, 2010, sau Hội Nghị Thượng Đỉnh ACMECS ở Nam Vang, ông Hun Sen lại một lần nữa, đã bác bỏ mọi mối quan ngại về ảnh hưởng của các đập thủy điện trên thượng nguồn đối với dòng chảy sông Mekong. Ông khẳng định chu kỳ lũ lụt  hay hạn hán mới đây là hậu quả của thay đổi khí hậu / climate change và khí thải carbon / carbon emissions chứ chẳng liên hệ gì tới chuỗi những con đập thủy điện của Trung Quốc. [The Phnom Penh Post,  Nov 17, 2010]
Trong khi chính một học giả uy tín Trung Quốc, giáo sư Tần Huy / Qin Hui thuộc Đại học danh tiếng Thanh Hoa / Tsinghua Bắc Kinh cũng đã phải lên tiếng chỉ trích các ứng xử thiếu trong sáng của Bắc Kinh về các con đập Vân Nam: “Bảo rằng chỉ có 14% lưu lượng nước từ Trung Quốc đổ ra Biển Đông, nhưng với con đập thứ tư Tiểu Loan đã có tới 70% dung tích các hồ chứa nằm trong lãnh thổ TQ – và dung tích ấy sẽ tăng tới 90% khi con đập thứ năm Nọa Trác Độ hoàn tất. Và điều kỳ là là các giới chức TQ lại chỉ có nhắc tới 3 hồ chứa nhỏ trên sông Mekong.” (9)
Cho dù một đất nước Tây Tạng đang khắc khoải và không có tự do, nhưng Đức Đạt Lai Lạt Ma với tầm nhìn rất xa, đã chọn ưu tiên bảo vệ môi sinh Cao Nguyên Tây Tạng trước cả chánh trị. (8) Tây Tạng vẫn được coi như Cực Thứ Ba / Third Pole của toàn cầu, nơi phát sinh những con sông lớn của Châu Á.
CON ĐẬP MẸ TIỂU  LOAN

Con đập vĩ đại Tiểu Loan/ Xiaowan chỉ đứng  thứ hai sau con  đập Tam Hợp/ Three Gorges Dam lớn nhất thế giới trên sông Dương Tử. (1)
Đây là đập thủy điện thứ tư nhưng là một trong hai con đập lớn nhất trong chuỗi 14 con đập bậc thềm Vân Nam [Mekong Cascades] của Trung Quốc trên dòng chính sông Mekong.
Đập Tiểu Loan có 4 đơn vị phát điện với công suất lên tới 4,200 MW [gần bằng tổng số công suất cả ba con đập Mạn Loan, Đại Chiếu Sơn và Cảnh Hồng]. [Hình 1]
Tiểu Loan đã là một trong hai con khủng long trên trên thượng nguồn sông Mekong, là con “đập cao nhất thế giới” 292 mét bằng chiều cao của tháp Eiffel. Hồ chứa đập Tiểu Loan như “Con Đập Mẹ / Mother Dam” có chiều dài tới 169 km, diện tích mặt hồ rộng tới 190 km2, dung lượng lên tới 15 tỉ m3  nước lấy từ con sông Mekong. Tổn phí để xây đập Tiểu Loan lên tới trên 4 tỉ $US. Đập Tiểu Loan đã bắt đầu hoạt động từ năm 2010. Tiểu Loan nằm trong chiến lược sản xuất điện của Trung Quốc, hiện nay đã dư  dùng cho thủ phủ Côn Minh và các khu kỹ nghệ Vân Nam và nay đã có thể chuyển điện sang các tỉnh cận duyên miền Đông, nối xa tới Thượng Hải.
THÊM CON ĐẬP KHỔNG LỒ LỚN NHẤT NỌA TRÁC ĐỘ

Khủng khiếp hơn cả “Con Đập Mẹ” Tiểu Loan, con đập Nọa Trắc Độ / Nuozhadu được khởi công từ 2006, phải giải tỏa 24,000 cư dân ra khỏi khu xây đập. Hồ chứa của con đập Nọa Trác Độ, có chiều dài 226 km, dung lượng hồ chứa lên tới 22 tỉ m3, [Tiểu Loan 15 tỉ m3]; 30 lần lớn hơn hồ chứa con đập Tokuyama là đập thủy điện lớn nhất của Nhật Bản, với 9 đơn vị phát điện dự trù hoàn tất vào năm 2014, với tổng công xuất lên tới 5,850 MW,  tương đương với hơn 5 lò máy hạt nhân lớn / 5 large nuclear reactors. [Chinese dam projects raise alarm in Asia_ theo Asahi Shimbun, 16/08/2010]
Nọa Trác Độ tuy không cao [261.5 m] như đập Tiểu Loan [293 m] nhưng lại là “con đập lớn nhất” trên dòng chính sông Mekong. Theo Fred Pearce, sau đập Tiểu Loan, và con đập Nọa Trác Độ hoàn tất, sông Mekong sẽ trở thành tháp nước và nhà máy điện của Trung Quốc. [Damming the Mekong: Major blow to an Epic River, Yale Environment 360, 22 June 2009]

Theo Hirsch, giám đốc trung tâm nghiên cứu sông Mekong thuộc Đại học Sydney thì:  “Hai con đập khổng lồ Tiểu Loan và Nọa Trác Độ sẽ ảnh hưởng trên suốt dòng chảy của con sông Mekong xuống tới tận ĐBSCL của Việt Nam.”
NHỮNG TN THT KHÁC TỪ PHƯƠNG BẮC Không chỉ ngăn sông xây đập, chuyển dòng lấy nước, nhưng ai cũng biết là Lưu Vực Trên Sông là vùng động đất. Vào năm 1990, một trận động đất M6 đã xảy ra gần nơi xây đập Tiểu Loan.
Hiroshi Hori là một chuyên gia Nhật Bản, từng làm việc cho Liên Hiệp Quốc trong Ủy Ban Sông Mekong, là tác giả cuốn sách The Mekong: Environment and Development [United Nations University Press, Tokyo 2000], đã nhận định: “Lưu Vc Trên ca sông Mekong là vùng đng đt, vi nhng chuyn đng đa chn đáng k khiến người ta có lý do đ s rng đng đt s xy ra khi xây nhng con đp.” (6) Chính các học giả và chuyên gia môi sinh Trung Quốc cũng đã lên tiếng báo động về nguy cơ vỡ đập này. (10)
Thêm nữa, để cho những con tàu trọng tải từ 500 tới 700 tấn chở đầy hàng hóa của Trung Quốc có thể di chuyển từ giang cảng Tư Mao / Simao Vân Nam xuống tới Chiang Khong, Chiang Sean Thái Lan và xa hơn nữa tới tận Luang Prabang và Vạn Tượng của Lào, và trên đường về sẽ chở những khoáng sản và nguyên liệu đáp ứng nhu cầu phát triển kỹ nghệ của Trung Quốc. Đã có một kế hoạch có tên là “D Án Ci Thin Thy L Thượng Ngun Sông Mekong / Navigation Channel Improvement Project on the Upper Mekong River” được ký kết vào tháng 04 năm 2001 giữa 4 nước Trung Quốc, Miến Điện, Thái Lan và Lào (không có Cam Bốt và Việt Nam).
Đó là kế hoạch dùng chất nổ / dynamite phá đá trên 21 đoạn ghềnh thác để mở rộng lòng sông Mekong từ Vân Nam xuống tới Lào. Hàng trăm ngàn tấn đá bị chất nổ phá vỡ, được các đoàn tàu vét [backhoe] dồn xuống những hố sâu dưới lòng sông – vốn là nơi trú ẩn có tầm quan trọng “sống còn” đối với vô số loài cá và cũng là nơi lưới cá của cư dân địa phương trong mùa khô.
Dự án phá ghềnh thác ngay bước đầu đã gây ảnh hưởng nghiêm trọng trên sự cân bằng thủy học, khiến dòng nước chảy nhanh và siết hơn, gây sụp lở bờ sông cùng phá hủy các loại hoa màu trồng ven sông, gây tác hại tức thời trên sinh cảnh và đời sống cư dân các nước Miến Điện, Thái Lan và Lào, chưa kể tới ảnh hưởng dây chuyền trên đời sống cư dân hai nước ở xa dưới nguồn là Cam Bốt và Việt Nam.
LƯU VỰC DƯỚI – THÁI LAN CHUYN DÒNG
Rất sớm từ đầu thập niên 90, Thái Lan đã có hai kế hoạch táo bạo nhằm chuyển dòng lấy nước từ con Sông Mẹ / Mae Nam Khong [tên Lào Thái của con sông Mekong] ._ Dự án KONG-CHI-MUN:Từ 1992, Thái đã có một kế hoạch dẫn thủy lớn lao với tổn phí lên tới 4 tỉ Mỹ kim nhằm lấy nguồn nước từ khúc sông Mekong gần Nong Khai để chuyển về các con đập trên hai con sông Chi và sông Mun qua một hệ thống ống dẫn / aqueduct khổng lồ dài 200 km. Nước sông Mekong sẽ được dùng cho việc “cứu hạn” những cánh đồng lúa nằm trong lưu vực hai con sông này.(6)Dự án KCM, hiển nhiên đe dọa nghiêm trọng trên dòng chảy sông Mekong, nên Việt Nam đã lên tiếng phản kháng. Lào cũng bày tỏ mối quan ngại, vì kế hoạch chuyển nước sẽ khiến con sông cạn dòng gây trở ngại giao thông. Bộ trưởng Môi sinh Cam Bốt, tiến sĩ Mak Moreth đã báo động về hậu quả nghiêm trọng do dự án chuyển nước của Thái Lan càng làm suy giảm dòng chảy sông Mekong nơi hạ nguồn. (6)
_ Dự án KOK-ING-NAN: Chỉ hai năm sau, từ 1994, Thái Lan có thêm một kế hoạch lớn thứ hai: Dự án Kok-Ing-Nan, lấy nước từ hai phụ lưu lớn của sông Mekong là sông Kok và sông Ing vùng Chiang Rai bắc Thái. (7)  Đây là một dự án táo bạo, tổn phí lên tới 1.5 tỉ Mỹ kim, nhằm chuyển nước từ hai phụ lưu cho chảy qua những đường hầm / tunnels khổng lồ dài hơn 100 km vào con sông Nan [sông Nan là một phụ lưu của sông Chao Phraya]. Lượng nước từ hai con sông Kok và sông Ing còn được tiếp cho con đập lớn Sirikit, quanh năm thiếu nước. Nước từ hồ chứa Sirikit không chỉ hoạt động phát điện mà còn cung cấp nước tưới cho những cánh đồng bao la vùng châu thổ Sông Chao Phraya đang bị khô hạn, và cả cung ứng nước cho các khu kỹ nghệ và 10 triệu cư dân sống ở thủ đô Bangkok.
Nhưng cho dù ba nước lân bang có lên tiếng phản đối, thì Thái Lan cũng vẫn từng bước thực hiện kế hoạch của mình.

LƯU VỰC DƯỚI – THÊM 12 CON ĐẬP MEKONG

Các dự án đập thủy điện chắn ngang sông Mekong vùng Hạ lưu đã có từ thời Ủy Ban Sông Mekong. Cũng vị trí những  con đập ấy đã được các cơ quan tham vấn Canada và Pháp tái đề xuất và Ban Thư Ký Sông Mekong ấn hành năm 1994. Nhưng rồi các dự án ấy bị tạm gác lại vì quá tốn kém và cả do mối e ngại về tác hại rộng rãi trên môi sinh.
Kể từ đầu năm 2006, các công ty Thái Lan, Mã Lai và Trung Quốc, được phép tiếp tục thực hiện những cuộc khảo sát về tính khả thi của 6 con đập sau đó tăng lên tới 11 rồi 12 con “đập dòng chảy / run-of-river”  thuộc Lưu Vực Dưới; thứ tự 11 dự án đập từ bắc xuống nam:
1/ Đập Pak Beng, Lào 1,320 MW; bảo trợ dự án: công ty “Trung Quốc” Datang International Power Generation Co. và chánh phủ Lào.
2/ Đập Luang Prabang, Lào 1,410 MW; bảo trợ bởi Petrovietnam Power Co. và chánh phủ Lào.
3/ Đập Xayabouri, Lào, 1.260 MW, tỉnh Xayabouri, Lào; bảo trợ bởi công ty Thái Lan Karnchang và chánh phủ Lào.
4/ Đập Pak Lay, Lào, 1,320 MW tỉnh Xayaburi; bảo trợ bởi công ty “Trung Quốc” Sinohydro Co. tháng 6, 2007 để khảo sát của dự án.
5/ Đập Xanakham, Lào,  1,000MW; bảo trợ bởi công ty “Trung Quốc” Datang International Power Generation Co.
6/ Đập Pak Chom, biên giới Lào Thái, 1,079 MW
7/ Đập Ban Koum, biên giới Lào Thái,  2,230 MW, tỉnh Ubon Ratchathani; bảo trợ bởi Italian-Thai Development Co., Ltd và Asia Corp Holdings Ltd. và chánh phủ Lào.
8/ Đập Lat Sua, Lào,  800 MW; bảo trợ bởi Charoen Energy and Water Asia Co. Ltd. /Thái Lan và chánh phủ Lào.
9/ Đập Don Sahong 360 MW, tỉnh Champasak, Lào: được bảo trợ bởi  công ty Mã Lai Mega First Berhad Co.
10/ Đập Stung Treng, Cam Bốt,   980 MW; bảo trợ bởi chánh phủ Nga
11/ Đập Sambor, Cam Bốt;  bảo trợ bởi công ty “Trung Quốc”/ China Southern Power Grid Co./ CSGP.
Bắc Kinh đã sở hữu 14 con đập bậc thềm Vân Nam thuộc Lưu Vực Trên, nay lại có mặt thêm nơi trong 4 dự án thuộc khu vực Hạ Lưu. Riêng Việt Nam do chỉ thấy lợi lộc ngắn hạn, cũng bảo trợ cho dự án đập Luang Prabang 1,410 MW. Với chọn lựa theo “tiêu chuẩn nước đôi ấy / double standard”, Hà Nội sẽ chẳng thể còn kêu ca được gì trước Liên Hiệp Quốc khi nói về tác hại của chuỗi đập Mekong đối với Việt Nam.
ỦY HỘI SÔNG MEKONG THIẾU TRÁCH NHIỆM
Do những lượng giá ảnh hưởng về xã hội và môi sinh của từng con đập không được công khai hóa, đã có nhiều tổ chức hoạt động môi sinh lên tiếng, nêu rõ những tác hại nghiêm trọng và lâu dài trên hàng triệu cư dân sống bằng nguồn nước, nguồn cá của dòng sông Mekong.
Với nhận định MRC đã rất thụ động trước sự tái phục hoạt của các dự án đập thủy điện Hạ Lưu. Không những thế MRC đã không có thông báo gì cho cư dân ven sông mối hiểm nguy của những con đập ấy, và cả tránh phổ biến những tin tức bất lợi của các dự án đập. Người ta tự hỏi về tương lai và vai trò tổ chức này có còn hũu ích gì không trong tiến trình bảo vệ dòng Sông Mekong?
Các nhà hoạt động môi sinh kêu gọi tinh thần trách của tổ chức liên chánh phủ này. “Ủy Hội cần chứng tỏ là một tổ chức hữu ích cho quần chúng, chứ không phải là cho các nhà đầu tư,” Surichai Wankaew, giám đốc Viện Nghiên cứu Xã hội Đại học Chulalongkorn, Thái Lan nói tiếp “Nhiệm vụ Ủy Hội thay đổi, thay vì ‘tạo thuận/ facilitation’ cho việc xây đập, thì nay phải là ‘diễn đàn / platform’ cho cư dân bị ảnh hưởng nói lên mối quan tâm của họ”. Cũng trước đó, đã có hơn 200 tổ chức môi sinh từ 30 quốc gia yêu cầu Ủy Hội và các nhà tài trợ ngưng ngay các dự án xây đập.
Một kháng thư gửi Ủy Hội Sông Mekong và các Cơ quan Tài trợ nhân cuộc họp tại Siem Reap vào ngày 15/11/2007: “Chúng tôi, những nhóm công dân viết lá thư này để bày tỏ mối quan tâm về sự tái phục hoạt các chương trình xây đập trong vùng Hạ lưu sông Mekong, cùng với sự bất lực của Ủy Hội thực hiện Thỏa ước Mekong 1995 trong tình hình nghiêm trọng hiện nay.
Lẽ ra Ủy Hội có thể lên tiếng khuyến cáo ngăn chặn các dự án xây đập của các quốc gia ven sông nhưng họ thì vẫn cứ im lặng một cách đáng ngạc nhiên. Những cuộc khảo sát của các công ty Thái Lan, Mã Lai và Trung Quốc bao giờ cũng nói tới những lợi lộc của các con đập nhưng lại rất ít quan tâm tới ảnh hưởng lâu dài trên sinh cảnh môi trường và  trước mắt là hàng bao nhiêu chục ngàn cư dân ven sông sẽ phải di dời  tới một nơi và một tương lai vô định.
Mekong là một con Sông Quốc Tế, với nguồn tài nguyên mà tất cả các quốc gia ven sông đều có quyền cùng chia xẻ chứ không chỉ để phục vụ cho các nhóm tài phiệt hay một quốc gia riêng lẻ nào.
Trong cuộc họp tại Siem Reap tháng 11/2007 với tham dự của MRC và các nhà tài trợ bao gồm: Ngân hàng Thế giới /WB, Ngân Hàng Phát Triển Á Châu/ ADB, và các quốc gia như Úc, Phần Lan, Pháp, Đức, Hòa Lan, Thụy Sĩ  và Mỹ. Các nhà tài trợ đã khuyến cáo MRC với ngôn từ mạnh mẽ về:  (a) sự cần thiết phải kiện toàn cơ cấu MRC, (b) và cũng đặc biệt quan tâm tới sự thiếu đáp ứng và thiếu khả năng lãnh đạo của MRC đối với những chương trình phát triển trong đó có lãnh vực khai thác khai thác thủy điện…
Chúng tôi cũng đặc biệt quan tâm tới thiếu sót là đã không tham khảo quần chúng và các tư nhân đầu tư; cũng như sự thiếu quan tâm tới ảnh hưởng tích lũy của những con đập trên ngư nghiệp và sự an toàn về lương thực trong  vùng. Chúng tôi yêu cầu MRC cung cấp thông tin về những phương cách thông báo/ notification, trước giai đoạn tham khảo để đi tới thỏa ước”.
Rõ ràng là sự phê phán từ phía các tổ chức bảo về môi sinh chủ yếu là từ Thái Lan và Cam Bốt [rất tiếc là đã không có Việt Nam], đã khiến các “Cơ Quan Tài Trợ Xây Đập” đầy thế lực như ADB/ Ngân Hàng Phát Triển Á Châu, WB/ Ngân Hàng Thế giới phải trùn bước và cả lắng nghe.

MỘT TIẾN TRÌNH KHÔNG THỂ ĐẢO NGHỊCH
Xây đập hay không xây đập, câu trả lời đó chỉ là vấn đề thời gian? Rồi ra các nước đang phát triển cũng trở thành những xã hội tiêu thụ, do sự cần thiết đáp ứng nhu cầu về năng lượng điện cho phát triển, có thể dự đoán với xác xuất cao, là chuỗi 12 con đập Lưu Vực Dưới sông Mekong sớm hay muộn, mau hay chậm cũng sẽ được tiến hành và hoàn tất trong vòng nửa đầu của thế kỷ 21. Riêng Lưu Vực Trên, nhưng sớm hơn Trung Quốc sẽ hoàn tất 14 con đập Vân Nam.
Tổng số dự trù sẽ là 24 con đập trên suốt dòng chính sông Mekong. Đó là một tiến trình khó mà đảo nghịch. Cốt lõi của vấn đề là làm sao khai thác thủy điện sông Mekong một cách bền vững / sustainable hydropower development, với những điều kiện khả dĩ tối ưu trong khi hoàn cảnh và nhu cầu mỗi quốc gia trong Lưu Vực thì rất khác.
Ví dụ, chỉ riêng nơi Lưu Vực Dưới, nước Lào cần tận dụng khai thác nguồn thủy điện để xuất cảng lấy về nguồn ngoại tệ nhằm thoát ra cảnh nghèo khó. Xayaburi có thể con đập dòng chính đầu tiên của Lào cho dù được Tổ chức Lượng giá Môi sinh Chiến lược / SEA / Strategic Environment Assessment khuyến cáo là nên hoãn lại mười năm nữa để có thêm thời gian khảo sát. Thái Lan thì luôn luôn cần thêm điện nhưng phải đối đầu với các tổ chức môi sinh và xã hội dân sự rất mạnh nên sẽ chậm hơn. Cam Bốt với chính quyền Hun Sen, bất chấp hậu quả môi sinh, nên sẽ không có một cản trở nào để tiến tới 2 con đập dòng chính Sambor và Stung Treng.
Đồng Bằng Sông Cửu Long với Sông Tiền Sông Hậu tuy không có tiềm năng thủy điện, nhưng Việt Nam cũng đã tận khai thác các phụ lưu lớn sông Mekong như đập Yali [Gia Lai-Kontum] trên sông Se San, và mới đây là con đập Se San 2, Stung Treng trên lãnh thổ Cam Bốt. [VNEconomyNews.com]
NHÌN XA HƠN NỬA THẾ KỶ TỚI
Đã qua thập niên đầu của thế kỷ 21, với kỹ thuật cao, với lòng tham của con người, chẳng khó khăn gì để giết chết một dòng sông, hủy diệt cả một hệ sinh thái phong phú nhưng cũng rất ư là mong manh của hành tinh này.
Liệu ai sẽ thực sự trách nhiệm “duy trì dòng chảy tối thiểu” của con sông Mekong trong mùa khô để nước mặn từ ngoài Biển Đông không tiếp tục lấn vào sâu và xa hơn nữa vào ĐBSCL? Cũng như làm sao để có dòng chảy đủ mạnh trong mùa lũ để có nước chảy ngược từ con sông Tonle Sap vào Biển Hồ, để duy trì nhịp đập trái tim của Cam Bốt. Và cho đến nay, không ai có thể đưa ra một lời giải đáp. Một câu hỏi lớn về chức năng của Ủy Hội Sông Mekong, phải chăng đó chỉ là một tổ chức hữu danh vô thực? Bởi vì Ủy Hội chưa hề là một think tank / một trung tâm trí tuệ, chưa hề một tổ chức uy tín có tầm vóc để được coi là đủ sức đối trọng với các tập đoàn tư bản xây đập quốc tế và nhất là với nước lớn Trung Quốc.
Khởi đầu, từ Ủy Ban tới Ủy Hội Sông Mekong, trước sau vẫn là hai tổ chức hình thành bởi 4 nước thuộc Lưu Vực Dưới Sông Mekong. Nay với các kế hoạch khai thác vĩ mô lan rộng suốt chiều dài sông Mekong trên cả hai Lưu Vực, thì những điều lệ và tầm vóc của Ủy Hội đã không còn phù hợp tình hình hiện tại. Rõ ràng không thể “dùng thúng úp voi”: con voi ấy là Trung Quốc và cái thúng là tầm vóc của Ủy Hội Sông Mekong hiện nay.
Do đó đang có manh nha một sáng kiến từ Hội Sinh Thái Việt: tiến tới vận động hình thành một Tổ Chức Lancang-Mekong mở rộng: LMRC / Lancang-Mekong River Commission với 6 quốc gia bao gồm cả Myanmar và Trung Quốc với những điều lệ mới trong “Tinh Thần Sông Mekong” như một mẫu số chung có thể chấp nhận được bởi mọi phía. Bởi vì một Tổ chức Sông Mekong cho dù với danh xưng nào đi nữa mà không bao gồm nửa chiều dài khúc sông Lancang-Mekong thượng nguồn, không có sự tham dự của Trung Quốc như một thành viên chính thức, tổ chức ấy sẽ hoàn toàn vô nghĩa.
Nếu không có một bước ngoặt, một nỗ lực cứu nguy cấp thời, thì trong một tương lai không xa, con Sông Mekong-Cửu Long, sẽ chỉ còn là một dòng sông chết, chỉ để sản xuất thủy điện, dùng làm thủy lộ giao thông và tệ hại hơn nữa còn là cống rãnh để đổ xuống các chất phế thải kỹ nghệ từ tỉnh Vân Nam Trung Quốc xuống tới các quốc gia hạ nguồn.

ĐỒNG THÁP MƯỜI, ĐỒNG CÀ MAU VÀ MỘT XA LỘ BIỂN ĐÔNG

Đã qua rồi từ cuối thế kỷ trước, một thời kỳ “làm chơi ăn thiệt” nơi Đồng Bằng Sông Cửu Long do được thiên nhiên ưu đãi. Nếu biết rằng, nửa sau của thế kỷ 21 này, sẽ không còn một vựa lúa cho cả nước, Sông Tiền Sông Hậu sẽ là hai con sông chết vì thiếu nguồn nước ngọt do những con đập thượng nguồn nhưng lại dư độ mặn do Biển Đông dâng cao, với hậu quả là sẽ không còn một Nền Văn Minh Miệt Vườn.
Trước kịch bản ấy, câu hỏi đặt ra là, làm gì? Câu trả lời chắc chắn đòi hỏi rất nhiều trí tuệ của một dân tộc, khởi đi từ những ý tưởng mới, từ đó mở ra những cuộc tranh luận.
Học được gì từ Hòa Lan Vùng Đất Thấp từ mấy thế kỷ trước với một hệ thống đê đập nhân tạo và thủy lợi nhằm giữ đất và ngăn mặn từ Bắc Hải, cộng thêm với hiệu quả ngăn lũ lụt, tạo thêm đất canh tác. Hiệp hội Kỹ sư Công chánh Mỹ / American Society of Civil Engineers đã vinh danh các công trình của Hòa Lan như một trong Bảy Kỳ quan của Thế giới.
Học được gì từ Con Đê Biển Saemageum dài nhất thế giới mới đây của Hàn Quốc. Là một bức trường thành dọc theo bờ biển đông tiếp giáp với Hoàng Hải, chắn ngang hai cửa sông  Dongjin và Manggyeong.  Dự án được khởi công từ 1991 và hoàn tất 2010, như một kỳ công về xây dựng được coi như một trong những kỳ tích tạo một vùng đất mới / land reclamation  lớn nhất, lớn hơn cả công trình Zuiderzee của Hòa Lan.
Điều trước tiên học được từ của hai dân tộc một Âu một Á ấy, đó là sự hình thành một “ý tưởng lớn” cùng với ý chí và quyết tâm thực hiện, trong những nghịch cảnh và vị trí địa dư rất khác biệt.
Trong hai bài tới, như một gợi ý, người viết sẽ bàn tới tiềm năng sống còn của Đồng Bằng Sông Cửu Long với hai vùng trũng Đồng Tháp Mười và Đồng Cà Mau như hai hồ chứa nước ngọt lớn (11); và kế hoạch xây dựng một con đê biển chiến lược ngăn mặn như một Xa Lộ Biển Đông. Sẽ không có cái giá để mặc cả và thời gian thì có thể hơn giới hạn một đời người, để bảo vệ vùng đất định mệnh nhưng là một linh địa của dân tộc Việt.
NGÔ THẾ VINH
California, 11-01-2011
[Source: http//www.vietecology.org]
  Tham kho: 
1/ Progress In Water Management at the Mekong River Ba­sin, MRC Presentation at Third WWF, INBO Official Session, Mar 20, 2004
2/ Mekong River At Risk, Barry Wain, FEER, Aug 26, 2004
3/ Chinese Dam Project may spell disaster for mighty Mekong river, Denis Gray, Nov 2, 2002, (AP)
4/ Hunsen backed China’s often-criticized development plans for the Mekong river Phnom Penh, Jun 29, 2005, (AFP)
5/ Chinese Premier Wen Jiabao opened the Second Greater Mekong Subregion Summit, Beijing, Jul 4, 2005, (AFP)
6/ The Mekong, Environment and Development, Hiroshi Hori, United nations, University Press, Tokyo 2000
7/ Kok-Ing-Nan Water Diversion Project, Mekong Watch: Japanese ODA to Thailand,FY 2001
8/ Dalai Lama says prioritise climate change over politics in Tibet; Guardian.co.uk_ The US Embassy cables 10 August 2009
9/ On the Mekong, a better way. Qin Hui, Economic Observer. Where China and the World Discuss the Environment. December 25, 2010.
10/ Chinese environmentalists and scholars appeal for dam safety assessments in geologically unstable south-west China,,  https://probeinternational.org/referenced/chinese-environmentalists-and-scholars-appeal-dam-safety-assessments-geologically-unstabl.
11/ Vùng Đất Ngập Đồng Tháp Mười. Trần Ngươn Phiêu, Thế Kỷ 21 số 219, July 2007







-Thực trạng bi đát của Lưu Vực sông Mekong 

 

http://www.dams.org/images/maps/map_mekong_big.jpgDẫn nhập: Từ năm 1995 khi thành lập, tổ chức Mekong River Commission đã không tạo dựng phát triển bền vữngcho lưu vực mà  lại dẫn các nuớc Mekong lâm  vào tình cảnh bế tắc tại hạ lưu. Trong 15 năm qua lưu vực suy thoái nhanh chóng và an tòan thực phẩm và nguồn nước của dân cư bị đe dọa liên tục vì thiên tai lẫn nhân tai. Bốn nướcMekong sẽ không bao giờ có thể có phát triển bền vững khi các biến đổi lớn nhất lại nằm ở thượng lưu mà MRC không biết rõ và không theo dõi. Lancang-Mekong là dòng sông quốc tế, cả sáu nước cần phải hợp tác trong một chương trình toàn lưu vực -Lancang-Mekong Intitiative- ngay trong năm nay để đạt một Lancang-Mekong Treaty mới kịp thời cứu vãn an tòan thực phẩm, bảo vệ nguồn nước, phát triển lưu vực và tránh gây thiệt hại cho dân cư lưu vực.

Thực trạng bi đát của Lưu Vực sông Mekong:
Phải cứu sông Cửu Long bằng Sáng kiến Lancang-Mekong
Phạm Phan Long
Hội Sinh Thái Việt
  Hoàn cảnh bi đát
Lancang là thượng lưu (Upper Mekong Basin -UMB) và Mekong là hạ lưu (Lower Mekong Basin (LMB), hai đọan của một dòng sông quốc tế, là cùng một hệ sinh thái mà ngư sinh vật và phù sa di chuyển không cần sổ thông hành qua các biên giới chính trị do con người làm ra, nhưng các hồ thủy điện lại ngăn cản chu trình tự nhiên này.
Hiệp Định sông Mekong đã ký kết từ năm 1995 và Ủy Hội sông Mekong (Mekong River Commission-MRC) đã được thành lập bởi bốn nước hạ lưu: Việt Nam, Cam Bốt Lào và Thái Lan. MRC hoạt động dưới sứ mạng khuyến khích phát triển bền vững. Nhưng thực tế, từ năm 1995 đến nay, Mekong đã phát triển không bền vững bền mà hứng chịu hạn hán liên tiếp 8 mùa trong 15 năm qua; ngư sản đánh bắt được đã giảm dần trong khi nước mặn tiếp tục lấn sâu vào lục địa đe dọa vựa lúa và nông nghiệp Việt Nam. Những biến đổi này do cả nhân tai lẫn thiên tai và mỗi năm càng thêm khắc nghiệt. Hậu quả là môi trường và tài nguyên thiên nhiên lưu vực suy thoái nặng nề. MRC không có hành động thực tế chặn đứng sự suy thóai ấy, tuy có nghiên cứu và các kế họach quản trị hạn (Drought Management Plan -DMP) và lụt (Flood Management Plan -FMP), nhưng chỉ là mô hình lý thuyết, không thấy hành động thực tế như ngăn hạn hán, chống lụt lội, cản sạt lở, bảo vệ thiên nhiên, kế sinh nhai, an toàn nguồn nước và thực phẩm của dân cư lưu vực.

MRC nằm dưới sự chỉ đạo của cấp bộ trưởng các nước Mekong và giới hạn phạm vi  nghiên cứu trong vòng lãnh thổ chính trị của bốn nước thành viên, tức là chỉ ở hạ lưu và không nghiên cứu về tác động từ thượng lưu. Suốt hai thập niên qua, trên UMB tỉnh Vân Nam, Trung Quốc (TQ) đã xây đập Mãn Loan (1993), Đại Chiếu Sơn (2001), Cảnh Hồng (2004). Đập Tiểu Loan (2010)  và sắp hòan tất Nọa Trác Độ năm 2014; vậy mà cho đến năm 2009, MRC đã không làm nghiên cứu đánh gía tác động môi trường (Strategic Environmental Assessment -SEA) cho một dự án Vân Nam nào. MRC cũng không phê bình TQ về việc thiếu nghiên cứu SEA đối với hạ lưu. MRC không chất vấn TQ về những hứa hẹn tốt lành của các đập Vân Nam cho hạ lưu mà dân cư Mekong chưa bao giờ được thấy.

Báo cáo chiến lược tác động môi trường SEA 2010

Mãi đến năm 2010, MRC mới có một tường trình đánh gía chiến lược môi trường (SEA) cho 12 đập thủy điện dự trù trên Mekong [1]. Ban đầu MRC đã không hề nhắc đến tác động của 8 đập UMB trên Vân Nam trong các bản tường trình SEA 2010 sơ bộ. Nhưng bất ngờ, trong ấn bản sau cùng, SEA 2010 đã báo cáo tác động không những của 12 đập LMB trên Mekong mà còn cộng cả 8 đập UMB trên Lancang. Đây là một công trình nghiên cứu công phu rất đáng trân trọng.Trong phạm vi bài này, bản tường trình này tạm viết gọn là SEA 2010.

SEA 2010 có ước tính các lợi ích, sự phân bố lợi ích và các tác động tích cực lẫn tiêu cực trên lưu vực và tại từng quốc gia trong lưu vực.
Lợi ích của thủy điện LMB là sẽ cung cấp 14,697 MW công suất mà Lào sẽ thụ hưởng 70% lợi ích kể cả thu họach thủy điện. Việt Nam và Thán Lan sẽ tiêu thụ 90% năng lượng thủy điện này. Nhưng ich lợi đó lại không cân xứng với những thiệt hại xã hội và môi trường. Kết luận quan trọng nhất của SEA 2010 là khuyến cáo các nước Mekong nên trì hoãn kế họach xây 12 con đập LMB trên Mekong trong 10 năm để làm thêm các nghiên cứu cần thiết khác.

Tác động thủy điện UMB thượng lưu so với hạ lưu LMB qua SEA 2010
Thể tích hồ chứa
Xét tất cả các dự án thủy điện đã có và đang dự tính xây chặn dòng chính trên toàn lưu vực Lancang-Mekong, thể tích 8 con đập quy ước (storage dam) của thượng lưu Lancang sẽ chiếm 78% thể tích tất cả các hồ chứa vì 12 con đập hạ lưu trên Mekong thuộc lọai đập không tạo hồ chứa (run-of-river) 22%.
Lancang Maintream Reservoirs

Reservoir MAF Storage Storage/MAF


km3/yr km3
1
Gongquiqiao*
0.51

2
Xiaowan
38.47
14.56
37.85%
3
Manwan
38.74
0.90
2.32%
4
Dachaoshan*
0.93

5
Nouzhadu
55.19
22.40
40.59%
6
Jinghong*
1.22

7
Galanba*
0.20

8
Mensong*
0.90



Subtotal UMB
41.12
78.08%
*Note: Data not stated  in SEA 2010 added by Viet Ecology Foundation
Mekong Mainstream Reservoirs

Reservoir MAF Storage Storage/MAF


km3/yr km3
1
Pak Beng
96.50
0.28
0.29%
2
Luang Prabang
100.00
0.80
0.80%
3
Xayabuti
124.80
0.37
0.30%
4
Pak Lay
130.70
0.39
0.30%
5
Sanakham
133.80
3.78
2.83%
6
Pak Chom
141.60
0.10
0.07%
7
Ban Koum
294.60
0.63
0.21%
8
Lat Sua
294.60
0.12
0.04%
9
Don Shahong
325.10
0.03
0.01%
10
Stung Treng
432.50
1.55
0.36%
11
Sambor
405.80
3.49
0.86%
12
Thakho




Subtotal LMB
11.54
21.92%

Sự chênh lệch tổng số thể tích các hồ chứa giữa Lancang (thực hiện gần xong) và Mekong (chưa thực hiện) là gần 350%  nên tỉ trọng tác động của UMB Vân Nam trên lưu vực rất nặng so với LMB hạ lưu.

Trọng tải phù sa theo SEA 2010 [1]
Theo SEA 2010, trọng tải phù sa năm 2000 từ Lancang vào Mekong chảy ra biển là 90 Mt/năm; 8 con đập Lancang trong 20 năm nữa sẽ ngăn cản 77% chỉ còn cho Mekong 20 Mt/năm. Tại Kratie sẽ có 168 tấn/năm nhưng 12 con đập Mekong sẽ ngăn cản 53% trọng tải này và chỉ cho 42 Mt/năm theo ra biển.
Thu hoạch ngư nghiệp theo SEA 2010 [1]
Theo tiên liệu của SEA 2010 các dự án thủy điện Lancang-Mekong từ năm 2015 đến 2030 sẽ làm Mekong mất đi từ 550.000 tấn đến 880.000 tấn cá họ có thể  đánh bắt được. SEA 2010 không nói rõ ra, nhưng bản đồ cho thấy LMB sẽ mất đi 400.000 tấn cá  trong khỏang  2000-2015 là vì các đập UMB Vân Nam. Tổng cộng nếu tính từ năm 2000 LMB sẽ vĩnh viễn mất đi khoảng 1.220.000 tấn cá hàng năm hơn 50% số thu họach năm 2000.
Đạo diễn Tom Fawthrop đã thực hiện phim tài liệu “Where have all the fish gone” và xem tranh chấp trên Lancang-Mekong là một “Trận chiến trên sông Mekong” giữa đầu tư khai thác thủy điện và dân cư lưu vực  (Battle over the Mekong) [2].
Những số liệu nêu trên chứng tỏ biến đổi trên thượng lưu UMB sẽ có ảnh hưởng quan trọng và sức tác động trực tiếp vào tình trạng bền vững của LMB hạ lưu. Mekong là nguồn sống của dân cư lưu vực nên kế họach phát triển cho Mekong bền vững được hay không sẽ phải lệ thuộc các tác động từ thượng lưu. Việc MRC giới hạn vùng nghiên cứu ở hạ lưu chẳng khác gì MRC đã tự bịt mắt mình và các chuyên gia của họ.
Tuy SEA 2010 đã sọan thảo rất công phu nhưng đã không làm rõ nét các tác động riêng của chuỗi đập UMB Vân Nam và không làm sáng tỏ kết luận quan trọng là phần lớn tác động là từ UMB thượng lưu xuống LMB hạ lưu.
Phải cứu Mekong thoát các tác động Lancang sắp đổ xuống
Mekong phải nằm dưới hai 8 con đập Vân Nam có tổng số thể tích 41 tỉ mét khối (Billion cubic meters-BCM) tương đương 72% lưu lượng trung bình hàng năm (Mean Annual Flow –MAF) Lancang cho Mekong [3] [4]. TQ đã tích lũy nước xong tại các hồ chứa Vân Nam từ năm 1995 tại 4 hồ thủy điện để hoạt động và TQ sẽ còn tích lũy nhiều hơn nữa tại các hồ tương lai. Cho đến nay, TQ chưa hề công bố lịch trình tích nước tại các hồ chứa cho hạ lưu biết để phòng nguy cơ cho họ.
Hai điều kiện rất quan trọng hạ lưu Mekong cần TQ bảo đảm khi xây dựng và điều hành các đập trên Lancang : (i) duy trì liên tục lưu lượng nước xả tối thiểu hàng tháng, đặc biệt trong mùa khô; và (ii) duy trì lượng nước xả lũ cần thiết để có thể giúp làm đầy hồ Tonle Sap trong mùa mưa.
Các chính phủ quốc gia hạ lưu và MRC không thể chấp nhận TQ giữ bí mật các họat động của họ trên Vân Nam khi các họat động này tác động trực tiếp đến sinh kế có từ ngàn đời của hàng chục triệu dân cư và đe dọa vựa lúa của hai dân tộc như thế. MRC càng không thể ngồi yên mà cần tìm mọi phương cách điều tra và theo dõi động thái TQ tại các hồ  chứa này. Rất tiếc, SEA 2010 đã không khuyến cáo MRC yêu cầu TQ trì hoãn chuỗi đập Vân Nam chậm lại một năm nào.
Hoa Kỳ đã nhận ra điều này này nên trong kế hoạch viện trợ Lower Mekong Initiative, Hoa kỳ sẽ cung cấp hệ thống điện toán “Forecast Mekong” để tiên liệu tác động của các hồ thủy điện trên Mekong và công bố kết quả rộng rãi trên internet cho công chúng và chuyên gia sử dụng [5]. Hệ thống Forecast Mekong sẽ giúp 65 triệu dân cư lưu vực có những thông tin mà TQ giữ vẫn giữ bí mật không cho ai biết và MRC vẫn chỉ thụ động đợi chờ.
MRC cần tự hỏi mình ngay bây giờ, tuy đã rất muộn, nếu TQ vẫn tiến hành hòan tất hết cả 8 con đập Vân Nam thì hạ lưu Mekong cần TQ điều hành hệ thống đó như thế nào để có thể tối thiểu hóa những thiệt hại ở hạ lưu hay ít nhất bảo đảm được những yêu cầu tối thiểu thường thấy trong việc điều hành các hồ chứa thủy điện. Điều bi đát là MRC cho đến nay chưa có những nghiên cứu để có thể xác định các yêu cầu tối thiểu này.
Qua cung cách cố vấn và lãnh đạo của MRC trong 15 năm nay, bốn nước Mekong không thể giao cho MRC sứ mạng cứu vãn tình thế lưu vực và cũng không thể quanh quẩn bàn tính với nhau ở hạ lưu khi đầu mối nguy cơ lớn của Lancang-Mekong lại nằm trên Vân Nam.
Trong tình cảnh này, MRC và TQ sẽ không giúp đỡ gì cho ĐBSCL tránh đi thất thoát, vậy ĐBSCL và Việt Nam đã có phương án gì giúp dân và đối phó với thượng lưu chưa?
Những hồ chứa lớn như Lancang trên thế giới thường phải cần 10 năm để chứa đầy nhưng xét theo lịch trình, cứ ba năm là TQ đã có thêm một đập mới họat động nên tác động xuống hạ lưu tăng lên gấp ba. Năm ngóai, mùa lũ đã không về ĐBSCL;  toàn lưu vực Lancang-Mekong bị hạn hán đúng lúc TQ hòan tất hồ Tiểu Loan để hoạt động;  chắc chắn TQ đã tích lũy nước tại Tiểu loan dù cho 2010 là năm khô hạn 50 năm kỷ lục. TQ đã cố trấn an hạ lưu, nhưng thực tế TQ đã cấm không cho ai đến gần các con đập Lancang và không cho ai kiểm chứng độc lập các tài liệu họ cung cấp. Năm ngoái, cá linh tại ĐBSCL đã khan hiếm đến nỗi thị trường tăng giá gấp 10 lần ngay trong mùa lũ mà đáng lý ra phải có rất nhiều và rẻ nhất. Sau đó, mực nước cuối lũ tăng lại do triều cường gây ra, không có việc TQ giúp tăng 40% lưu lượng nước xuống hạ lưu khi các hồ Vân Nam chưa đầy hết.
Trong năm 2011 đến 2014 TQ chắc chắn sẽ tích nước tại hồ chứa Nọa Trác Độ cho kịp hoạt động. TQ sẽ gây nguy khốn cho Mekong nhiều lần hơn trong những năm sắp tới.  BS Ngô Thế Vinh đã tiên đoán “flood pulse” hay nhịp tim của Tonle Sap và có thể thêm vào cả ĐBSCL sẽ cùng nhau ngừng đập [6].
Nỗi Cô Đơn của Đồng Bằng sông Cửu Long
TT Hun Sen đã bán linh hồn Cam Bốt cho TQ khai thác thủy điện và khóang sản ngay trên Cam Bốt. TT Hunsen không phản đối mà còn hứng thú bênh vực các dự án khai thác thủy điện trên Vân Nam lẫn Cam Bốt. Như thế Tonle Sap chấp nhận chờ chết. Lào là nước sẽ hưởng lợi nhiều nhất và chịu ảnh hưởng ít nhất từ thủy điện nên sẽ chống chế cho mình và TQ đến cùng. ĐBSCL của Việt nam sẽ phải bơi ngược dòng tìm lẽ sống tồn tại.
MRC cho đến nay đã không tự mình tìm hiểu cung cách sử dụng nguồn nước, cách tích lũy điều hành các hồ chứa, cách chuyển nước và số liệu khí tượng thủy văn trong vùng Vân Nam để MRC đánh gía hệ lụy từ TQ giáng xuống hạ lưu. MRC chưa bao giờ hỏi TQ tại sao TQ không xả nước giúp hạ lưu khi ĐBSCL kêu cứu hay ngăn nước giảm nhẹ bớt lũ khi Vientiane kêu cứu. Ngược lại, có khá nhiều lần MRC công khai bênh vực TQ.
Chính ông Jeremy Bird đã tỏ ra lạc quan khi TQ tuyên bố sẽ cung cấp cho Mekong các thông tin của họ [7]. Vậy mà, từ đó đến nay MRC vẫn không có giải thích nào việc mực nước thất thường và gián đọan thông tin. Các dữ kiện Vân Nam của TQ tới nay vẫn chưa xuất hiện trở lại. MRC có lẽ chẳng bận tâm mấy về sự gián đọan thông tin này từ TQ cũng như không bận tâm về thắc mắc của Hội Sinh Thái Việt (HSTV) .  MRC xem thường công luận và công bố trên website MRC như sau [8]:
“No special obligations or responsibilities applied to the general public” [9]
“Không có ràng buộc hay trách nhiệm đặc biệt gì với công chúng”
Vào tháng 10, năm 2010, ĐBSCL không thấy lũ về, Hội Sinh Thái Việt (HSTV) phát hiện lưu lượng hạ xuống qúa bất thường tại Chiang Saen vào ngày 30 tháng 10, 2010 từ 4750 m3/giây xuống 2750 m3/giây trong bốn ngày theo dữ kiện trên website của MRC mà MRC đã không có giải thích nào. HSTV đã viết thư yêu cầu MRC giải thích nhưng không được MRC quan tâm trả lời [10].
Nguồn: MRC [11] [12]
ĐBSCL đã bị bỏ rơi quá lâu thành nạn nhân của tắc trách, thiển cận và yếu hèn; ĐBSCL không thể để sự sinh tồn của hàng chục triệu dân cư bị hủy diệt. ĐBSCL và chính quyền Việt Nam không thể trông đợi ai khác, mà ngay bây giờ cần điều chỉnh cung cách lãnh đạo của MRC. VN cần thuyết phục Cam Bốt và Lào dè dặt lại trước mối nguy hiểm tiềm ẩn sau những đồng tiền viện trợ và đầu tư ồ ạt của TQ vào Lào và Cam Bốt. Quan trọng hơn hết là VN cần liên kết chặt chẽ với Thái Lan để cùng phản đối 8 con đập Vân Nam và yêu cầu TQ tôn trọng sự sinh tồn của ĐBSCL, xác định quyền lợi cốt lõi của VN trên Langcang Mekong bằng tất cả những phương cách ngọai giao khôn khéo và quyết liệt nhất mà VN có thể làm.
Lancang-Mekong Initiative
Nguồn nước là tài nguyên thiên nhiên qúy báu nhất mà các dân tộc chung một dòng sông đòi đời sẽ cùng chia sẻ. Các dòng sông quốc tế chảy qua nhiều biên giới quốc gia thường trở thành nguồn gốc tranh chấp quyền lợi nước giữa các dân tộc. Trên thế giới có trên 300 dòng sông quốc tế và đã có trên 400 thỏa hiệp sông ngòi quốc tế. Âu Châu đã có các thỏa hiệp quốc tế từ 1815 nhờ họ sớm nhận thức tranh chấp không giải quyết và sẽ là bức tường ngăn cản tất cả những cơ hội hợp tác kinh tế và chính trị khác mà hậu quả  là thiệt thòi nặng nề chung cho tòan lưu vực.
Trở về với Lancang-Mekong, trước sự suy thoái thể hiện trước mắt trên lưu vực Lancang Mekong, sự vô hiệu của MRC và vô cảm của TQ, sự bất lực của hạ lưu và mối nghi ngờ TQ ở thượng lưu ngày càng sâu đậm, đã đến lúc phải tìm giải pháp toàn bộ cho lưu vực. HSTV trân trọng đề nghị lãnh tụ sáu nước Lancang Mekong cần họp lại tìm một đáp án quốc tế cho tòan lưu vực bằng Sáng kiến Lancang-Mekong (Lancang Mekong Initiative-(LMI). Chỉ có LMI có cả 6 nước lưu vực mới có thể cùng nhau đi đến một hiệp ước quốc tế Lancang-Mekong Treaty.
Lancang Mekong Intitative (LMI) không thể theo bước MRC vì MRC đã đi vào bế tắc, mất sự tin cậy và không thể hiện được tư cách độc lập và khoa học trong sáng. Tuy nhiên LMI không phải vì thế bắt đầu từ số không vì đã có sẵn những luật lệ sông ngòi quốc tế làm căn bản để thỏa hiệp.

Liên Hiệp Quốc đã thông qua bộ luật “ The United Nations Convention on the Law of the Non-Navigational Uses of International Water Courses” vào năm 1997.   Bộ luật Helsinki Rules (1996) và Berlin Rules (2004) đều đem nguyên tắc “không gây thiệt hại đáng kể cho các nước khác” (not to cause significant harm to other riparians) và nguyên tắc “sử dụng hợp lý và công bình” (reasonable and equitable utilization) để làm nền tảng thỏa hiệp giữa các dân tộc [13][14] [15].

Năm 2011 đến 2014 là thời gian và cơ hội cuối cùng cho Lancang-Mekong thực hiện LMI để còn kịp thời  bảo vệ và vãn hồi môi sinh đang thoi thóp ở hạ lưu. LMI là cơ hội lớn để TQ chủ động chung với các nước láng giềng vì chính quyền lợi và uy tín của TQ. Nếu TQ tham gia, tiềm năng thành công của LMI rất cao vì TQ có khả năng, phương tiện và uy tín trong khi các nước Mekong có thiện chí và nhu cầu cấp bách để hợp tác với TQ hơn bất cứ cường quốc thế giới nào khác vào lúc này.

HSTV yêu cầu các NGO quốc tế và các học gỉa quốc tế cũng như trí thức TQ và các dân tộc Mekong thúc đẩy các chính quyền tiến hành sáng kiến LMI như lộ trình hay con đường cái quan tốt nhất để cùng phát triển bền vững tòan lưu vực, để không để ai còn bị nghi ngờ ích kỷ thủ lợi một mình hay gây cho một phần dân cư nào phải gánh chịu thiệt hại nặng nề vì mình nữa.

Lịch sử sẽ không khoan dung nếu Lancang Mekong không có một hiệp ước quốc tế khi cơ hội hy vọng cuối cùng vẫn còn. Các dân tộc và chính phủ Lancang-Mekong hãy viết nên lịch sử dòng sông bằng một LMI và ký kết Lancang Mekong Treaty không phải sau 2014 mà ngay trong năm 2011.

Tài liệu tham khảo
[1] http://www.mrcmekong.org/ish/SEA/SEA-Main-Final-Report.pdf
[2] http://the-diplomat.com/2010/10/22/the-battle-over-the-mekong/
[3] http://deltas.usgs.gov/abstracts2009Summit/Daming%20He.pdf
[4] http://www.mrcmekong.org/download/programmes/ep/MRC-IM-No3-Modelling-the-flow-of-the-Mekong.pdf
[5] http://www.state.gov/p/eap/rls/rm/2010/09/147674.htm
[6] http://www.vietecology.org/Article.aspx/Article/59
[7] http://ipsnews.net/news.asp?idnews=50931
[8] http://mouthtosource.org/rivers/mekong/2010/03/17/low-river-levels-caused-by-extreme-low-rainfall/
[9] http://www.mrcmekong.org/download/free_download/CustMgmtGuidelines.pdf
[10] http://groups.google.com/group/lancang-mekong/browse_thread/thread/c555150949af1951
[11] http://ffw.mrcmekong.org/weekly_report/2010/2010-10-18%20Weekly%20Flood%20Situation%20Report.pdf
[12] http://ffw.mrcmekong.org/AHNIP/Reports_AHNIP/CSA_AHNIP.html
[13] http://www.bjwconsult.com/THEHELSINKIRULES.pdf
[14] http://www.cawater-info.net/library/eng/l/berlin_rules.pdf
[15] http://www.internationalwaterlaw.org/bibliography/articles/general/Salman-BerlinRules.pdf

------------

Tổng số lượt xem trang