Nguyễn Xuân Nghĩa - Việt Báo ngày 20100213
Nhớ lại những gì từ ngàn năm Thăng Long?
Nhớ lại những gì từ ngàn năm Thăng Long?
Con người ta có trí nhớ rất kém nên thường chú ý đến biến cố lịch sử gần với thời đại cùa mình mà coi thường chuyện sinh tử của thời xa xưa.
Khi bị Thục Phán tấn công và vua Hùng vương thứ 18 phải nhảy xuống giếng tự trầm, nước ta có thể đã rơi vào vòng Bắc thuộc. Năm Thục Phán xưng Vương trên lãnh thổ Văn Lang đó là 257 trước Tây lịch. Thời Bắc thuộc khởi sự từ đó chăng? Rất đúng nhưng còn mơ hồ, vì ta biết quá ít về Thục An Dương Vương.
Thế rồi, khi viên tướng Tần là Triệu Đà nhân việc nước Tầu có loạn mà chiếm lấy vùng Lĩnh Nam của Trung Hoa rồi thôn tính nhà Thục, từ năm 214 trước Tây lịch, thì thời Bắc thuộc mới thực sự bắt đầu... Hợp lý hơn nhiều. Nhưng chắc chắn nhất là khi cháu chắt Triệu Đà dâng nước ta cho triều Hán thì nước Nam đã mất chủ quyền. Thời điểm ấy là năm 111 trước Tây lịch, con số dễ nhớ cho bầy hậu sinh chóng quên!
Thế thì từ năm -111 đến khi Ngô Quyền xưng Vương năm 939, dân ta đã trải 1.050 năm Bắc thuộc. Rồi lại vùng ra được. Trên thế giới, có bao nhiêu trường hợp như thế?
Ngay tại chỗ, trong 10 thế kỷ, đất Lĩnh Nam - miền Nam núi Ngũ Lĩnh - hay "Quảng Châu" và các thị tộc "Bách Việt" sống trên đó đều dần dần bị Hán hóa, bị đồng hoá. Nếu còn, thì nay là thiểu số vô cùng tuyệt đối. Đất "Giao Châu" của ta (như tên gọi sau này) lại làm ngược: Việt hoá những người Hán trôi dạt xuống miền Nam, hoặc được phái xuống cai trị dân Nam.
Xin đọc lại: Trong ngàn năm Bắc thuộc, bên dưới những nỗ lực đấu tranh để giành quyền tự chủ - của các nhân vật lịch sử Trưng, Triệu, Lý, Mai, v.v... - là sự tranh đấu âm thầm của người Việt nguyên thủy và cả những người Hán được Việt hoá (Lý Bôn là một thí dụ) để giữ bản sắc riêng và chống lại sự đồng hoá. Đấy là hiện tượng đáng chú ý mà cứ hay bị lãng quên.
Bấy giờ, kể từ năm 939, đã có quyền tự chủ rồi, dân ta mới xây dựng nền độc lập, một tiến trình cũng rất chậm rãi và đầy loạn lạc.
Chỉ vì, từ nhiều nhóm nhỏ - các thị tộc, hào trưởng hay thế lực địa phương cả Hán lẫn Việt lẫn Hán-Việt - hết bị vương triều phương Bắc chi phối nữa, "dân ta" phải kết hợp lại để xây dựng "quốc thống", một chế độ chính trị thống nhất của quốc gia. Chúng ta mất 70 năm để tiến hành việc đó, từ 939 đến 1009. Suốt giai đoạn chật vật này, không thiếu gì lãnh tụ nước Nam sẵn sàng mượn tay Bắc phương để tranh đoạt quyền bính hầu có thể làm quan cho phương Bắc. Con trai của chính Ngô Vương Quyền là một thí dụ. Nhiều lãnh chúa trong thời gọi là "Thập nhị Sứ quân" cũng vậy.
Như thế, khi lên làm Hoàng đế vào mùa Thu năm 1009, Lý Thái tổ phải cùng lúc giải quyết ba bài toán. Thứ nhất là dẹp nội loạn, thứ hai là xây dựng một chế độ thống nhất cho bá tánh, và thứ ba là ngăn ngừa ngoại xâm vì phương Bắc đã đổi loạn thành trị: nhà Tống đã thống nhất đất nước năm 960 và không hụt cơ hội nào để thôn tính nước Nam. Kinh nghiệm nóng hổi là khi cho tướng Hầu Nhân Bảo tấn công năm 981 - mà bị Lê Đại Hành đẩy lui...
Kể từ năm 1009, nhà Lý dần dần kiến tạo được nền móng vững hơn cho nước Đại Việt sau này. Đấy là quốc hiệu chính thức và gần như liên tục của nước ta kể từ năm 1054 cho đến năm 1804 khi Gia Long đổi tên thành Nam Việt rồi... lãnh tên Việt Nam do nhà Đại Thanh đặt cho để tránh tên Nam Việt thời Triệu Đà! Năm 1820, vua Minh Mạng sáng suốt đổi quốc hiệu là Đại Nam - nói theo tiếng Anh hiện đại là "The Greater South". Dù nhà Thanh không chịu, ta vẫn giữ tên ấy từ năm 1839 cho đến 1945 mới lại đổi ra thành Việt Nam! Thật đáng tiếc...
Nhớ lại thì nhà Lý tồn tại liên tục từ năm 1009 đến năm 1225 - 216 năm gồm hai giai đoạn thịnh suy. Suy là từ thời Cao Tông Lý Long Trát lên ngôi năm 1175 trở về sau. Rồi bại là vào thời Huệ Tông Lý Long Sảm năm 1218. Sau đó, nhà Trần lên ngôi và tồn tại từ năm 1225 đến 1407, trong đó có ba lần đánh tan quân Nguyên Mông....
Nhớ đến ngàn năm Thăng Long thì trong 216 năm của nhà Lý, nước ta phải tiễu trừ nội loạn - từ các thế lực cát cứ lẫn các thị tộc thiểu số - phải ngăn ngừa ngoại xâm từ các nước Đại Lý, Chiêm Thành và một Đế quốc Chân Lạp khi ấy rất lớn và rất mạnh ở miềm Nam và Tây Nam. Đặc biệt hơn cả, nhà Lý là triều đại duy nhất của Đại Việt đã tấn công thẳng vào lãnh thổ Trung Hoa rồi thiết lập bang giao với cả nhà Tống và nhà Kim, cường quốc đã chiếm đóng phân nửa miền Bắc nước Tống! Đấy là một biểu hiện về quyền độc lập, muốn bang giao với ai cũng được mà khỏi phải xin phép phương Bắc.
Bên trong, nhà Lý xây dựng điển chế, phát triển giáo dục và phát huy Phật giáo, tạo dựng nền móng văn hoá riêng cho nước Nam. Nói đến nhà Lý, ta còn nhớ tới văn học, kiến trúc và tư tưởng rất độc đáo, trong đó có sự đóng góp của Phật giáo và cả văn hoá Chàm, đượm màu Ấn Độ. Ở bên dưới, sinh hoạt kinh tế cũng đã phát đạt hơn. Đại Việt khi ấy thực sự là cường quốc Đông Nam Á. Từ những mảnh vụn của chế độ Bắc thuộc mà gom lại thành một thực thể thống nhất và vững mạnh hơn, đó là công lao của nhà Lý.
Nhớ tới ngàn năm Thăng Long mà nhìn lại, chúng ta có thể học được những gì?
Vận mệnh của Đại Việt được quyết định từ những nhà Ngô, Đinh, Lê, Lý rất xa xưa mà ta đã quên rồi. Sau khi giành lại quyền tự chủ từ hơn ngàn năm Bắc thuộc, nước ta xây dựng được nền móng vững bền hơn cho quyền độc lập là từ thời Thái tổ Lý Công Uẩn trở về sau. Đại Việt đã kịp củng cố sức mạnh sau một giai đoạn nhiễu nhương kéo dài 70 năm. Trong giai đoạn ấy, Lê Đại Hành ngăn được quân Tống năm 981 nên tạo điều kiện cho nhà Lý và danh tướng Lý Thường Kiệt có sức bật gần trăm năm sau. Cũng vậy, nước Nam dưới nhà Lý phát huy được cái Việt tính cần thiết cho nhà Trần để ba lần đánh bại đạo quân đã tiêu diệt cả nhà Đại Tống và nhà Cao Ly và làm chủ từ Trung Á đến phân nửa Âu Châu. Sức mạnh ấy không chỉ kết tụ trong triều đình hay tầng lớp vương tôn quý tộc nhà Trần.
Nếu đối chiếu thì trong khi ấy, nhà Tống lên ngôi từ năm 960 lại bị bại vong vì quân Mông Cổ, khi nhà Trần thay nhà Lý đã chặn đứng làn sóng Nguyên Mông.
Oán nhà Trần hoặc luyến tiếc nhà Lý là chuyện của tầng lớp ở trên. Cũng thế, chê nhà Lý tội cướp ngôi của con cháu Lê Đại Hành là chuyện vặt. Nhưng lại là chuyện lớn của những kẻ viết sử theo kiểu "ăn cây nào rào cây nấy". Trong quãng mây mù của thời gian, trải ngàn năm cho đến nay, thì quan điểm của những kẻ viết sử kiểu đó vẫn còn ảnh hưởng cho đến đời sau. Đời nay!
Nếu nhìn rộng ra ngoài, từ Đông qua Tây, ta mừng là Đại Việt có nhà Lý. Việc định đô tại Thăng Long đánh dấu thời điểm sinh tử ấy. Sau đó, ta mới nhìn thêm là "loạn thì dễ, chứ trị mới là khó". Khó nhất là khi những kẻ có quyền lại sợ loạn mà bóp nghẹt mọi khả năng suy nghĩ hoặc hành động nằm ngoài cõi chính thống. Đại Tống bại vong vì hiện tượng tư tưởng này. Và nếu triều đình chỉ nghĩ đến mình thì trị vẫn đổi thành loạn. Nhà Cao Ly trong cùng thời đại là trường hợp tiêu biểu.
Sau hai đời Lý và Trần, nhà Lê bắt đầu đi vào vết xe đổ tai hại này khi dựng Thánh giáo của phương Bắc thành chính giáo. Tầng lớp ưu tú nước Nam học đúng phép ổn định của phương Bắc và tưởng là tự Vương hoá mà thật ra là bị Hán hoá, với ngần ấy hậu quả bi thảm. Trong khi đó, cõi Âu Châu man rợ đã chuyển mình và sau thời Phục Hưng đã dần dần thoát xác... Khi Âu châu trưởng thành từ cuộc cách mạng văn hoá thế kỷ 16, tôn giáo vào thế kỷ 17, rồi chính trị vào thế kỷ 18, rồi khoa học kỹ thuật vào thế kỷ 19, chúng ta vẫn bơi trong dòng tư tưởng Bắc thuộc.
Leo lên đỉnh cao mà không xuống được nữa!
Sau thời Bắc thuộc bất đắc dĩ và kéo dài quá lâu, chúng ta lại có gần trăm năm Pháp thuộc. Rồi ra sức học hết tinh túy tiêu cực của cả Tầu và Tây. Là chuyện hôm nay.... khi Thăng Long và các dấu tích Lý, Trần, Lê bị chôn vùi dưới những kiến trúc xã hội chủ nghĩa dị hợm. Và sau 80 năm hiện hữu của đảng Cộng sản Việt Nam, đất nước có thể trôi vào thời kỳ Bắc thuộc mới, theo "định hướng xã hội chủ nghĩa - với màu sắc Trung Hoa", khi cả thế giới đã tiến qua thế kỷ 21.
Bước vào một năm mới mà nhớ đến chuyện ngàn năm, chúng ta biết nói sao? Ôi Thăng Long! Ôi Thăng Long!...