Thứ Hai, 10 tháng 1, 2011

Tư liệu đăc biệt: Hồi ký Trần Văn Giàu (VIII): Phần thứ Tư: Tiến tới Tổng Khởi Nghĩa (Đoạn 2)

-Tư liệu đăc biệt: Hồi ký Trần Văn Giàu (VIII): Phần thứ Tư: Tiến tới Tổng Khởi Nghĩa (Đoạn 2) (Diễn Đàn & Viet-Studies 10-1-11) -- Thành lập chiến khu Đất Cuốc và Thủ Thừa, bắt liên lạc với cánh Pháp De Gaulle, đảo chánh 9/3/45.  Đầy đủ theo nguyên bản, có chú giải.◄◄◄ 
3.  Chuẩn bị thành lập chiến khu
Đất Cuốc và chiến khu Thủ Thừa
 
Hồi cuối năm 1944, trong lúc chúng tôi nỗ lực làm công vận, nông vận, binh vận, thanh vận thì bọn tôi cũng có nghĩ tới lập một vài chiến khu ở Nam Kỳ. Nói thật là bọn tôi không chịu ảnh hưởng gì nhiều lắm của các chiến khu ở Trung Quốc, của Chu, Mao[1]. Ai tưởng rằng người Việt Nam học ở Tàu, ở chiến tranh cách mạng Tàu cái việc lập chiến khu, đánh du kích, lập căn cứ địa, xây vùng giải phóng… thì người đó lầm to. Tất nhiên, không phải không có tiếng dội tới Nam Kỳ những kỳ công của Hồng quân Tàu. Các đồng chí ta ở đây đã từng vận động ủng hộ cách mạng Tàu, bí mật và công khai. Ủng hộ hết lòng. Nhưng, khái niệm căn cứ địa, vùng giải phóng, chiến khu, đánh du kích không xa lạ gì với lịch sử cứu nước của dân tộc Việt Nam. Về những vấn đề này, người Việt Nam nếu không hơn thì bằng chứ không thua kém người Tàu bởi lẽ đất nước ta bị ngoại bang xâm  lược  thống trị nhiều lần hơn, do đó người Việt Nam phải làm những việc cứu nước bằng kháng chiến vũ trang, bằng khởi nghĩa vũ trang nhiều, lâu, có thể gọi là có truyền thống. Nay, để chống Nhật, chống Pháp, tuy không xem nhẹ bài học Bắc phương, chúng ta trước hết thừa kế kinh nghiệm của tổ tiên ông cha là chính. Lê Lợi lập căn cứ ở Lam Sơn rồi cuối cùng quét sạch quân Minh. Ba anh em Tây Sơn căn cứ vào núi miền tây Bình Định mà làm nên đại nghiệp. Trương Định, ở Tân Hoà, đã tiếp tục đánh Pháp khi Tự Đức đã chịu thua. Phan Đình Phùng dựa vào một dải Hương Sơn và lòng dân Nghệ Tĩnh tận trung với nước mà chống giặc đến mười năm. Đề Thám hùng cứ một vùng Yên Thế mãi từ thời Cần Vương đến chiến tranh thế giới. Tuy là tên gọi thời xưa có khác nay, chiến khu, du kích là sản phẩm lớn của lịch sử dân tộc Việt Nam, không phải nhập cảng từ đâu cả. Đó là một phần câu chuyện của tôi đã nói với anh Hoằng, anh Trọng, anh Xuân ở Tân An khi bàn lập căn cứ ở Thủ Thừa[2] và với anh Giỏi, anh Nghệ khi bàn lập căn cứ ở Tân Uyên[3]. Hai trong mấy anh ấy nay vẫn còn sống. Điều phải nói là trong lúc phục tài của Chu-Mao, tôi cũng “liều lĩnh” nói với các bạn vừa kể tên là, trong cách mạng hiện đại, du kích không phải là cách hay nhất, có hiệu nghiệm nhất để giành chính quyền trong cả một nước; để giành chính quyền, trong lịch sử cách mạng hiện đại, điều chính yếu là phải làm khởi nghĩa vũ trang của nhân dân theo các nguyên lý chủ nghĩa Marx- Lenin, theo kiểu mẫu cách mạng tháng Mười năm 1917. Tôi quan niệm rằng những chiến khu, du kích đều quan trọng như là sức mạnh chuẩn bị, hỗ trợ cho tổng khởi nghĩa, mà đòn đánh chính là khởi nghĩa quần chúng ở các trung tâm chính trị lớn nhất trong nước. Tôi được biết rằng ở Nam Bộ năm 1940, có phát hành một tập sách “Chiến tranh du kích” (tôi chưa được đọc) nhưng thú thật, lòng tôi chủ yếu hướng về Petrograd[4] 1917, chứ không hướng về Diên An bao nhiêu. Tuy vậy, trái với tin đồn (sau này) tôi không “chê” chiến khu và du kích đâu.
Hồi cuối 1944 đó, quan niệm của tôi về “chiến khu” đơn giản lắm; tôi nghĩ rằng cần có một số chiến khu xung quanh Sài Gòn (chứ không phải ở nơi xa xôi hiểm trở) để làm những công việc sau đây không thể làm ở thành phố và ngoại ô: thứ nhất là để máy móc in ấn báo, sách, truyền đơn (tụi tôi đã đưa máy in chữ in và thợ xếp chữ xuống Thủ Thừa); thứ nhì là chứa và làm một số vũ khí súng đạn, lựu đạn, mìn; thứ ba là tập luyện một số anh em, một số đơn vị sau này, lúc nổ ra khởi nghĩa, sẽ đứng ra chỉ huy các đội xung kích đánh nhau với địch ở đường phố, điều đó anh em “tay ngang” khó mà làm nổi mặc dù can đảm có thừa; thứ tư là làm nơi vừa tạm lánh mặt, vừa bồi dưỡng chính trị cho những đồng chí nào bị truy nã quá; và thứ năm là làm tuyên truyền (dân vận) và đánh một số đồn lẻ tẻ, tước vũ khí của hội tề ở xa gần để mở rộng mãi thế lực cách mạng đang phát triển. Cũng có thể chiến khu là nơi mà “Đồng minh” một ngày nào đó, khi họ cần và khi ta đòi, sẽ thả xuống đó một số vũ khí, khả năng này ít lắm mà có thể có. Đối với tôi, chiến khu không phải là nơi tổ chức tụ tập phát triển bộ đội để có ngày kéo về chiếm Sài Gòn mà là nơi góp phần vào cuộc khởi nghĩa của nhân dân Sài Gòn và ngoại thành. Cái hiểu của tôi khi ấy về chiến khu và du kích thật đơn giản, sơ sài như thế; thú thật là phần lớn tâm trí của tôi để vào sự chuẩn bị ở Sài Gòn và ngoại ô. Cho nên chọn nơi lập chiến khu thì tôi chọn chỗ hiểm trở đã đành, mà phải gần Sài Gòn để việc vận chuyển vũ khí và tập hợp con người được dễ dàng, mau chóng. Nhưng chiến khu phải phục vụ trước hết cho cuộc khởi nghĩa mang tính chất quyết định ở Sài Gòn, của nhân dân Sài Gòn và ngoại ô; tôi hiểu như vậy.
Tôi không được chỉ thị nào từ trên về sự thành lập khu giải phóng, tổ chức du kích. Tụi tôi làm “mò” thôi, nghĩa là tự nghĩ, tự làm. Cho nên có khác với ngoài Bắc. Tôi có đọc một đoạn của tài liệu nào, tôi quên mất, về vũ khí thô sơ của du kích; tôi có viết ở đâu đó, hình như là trong sách “Rạng đông của một dân tộc” và “Việt Nam trên đường cách mạng”, khẳng định rằng đánh du kích không đủ giành chính quyền; giành chính quyền phải nhờ Tổng khởi nghĩa, quan trọng nhất là khởi nghĩa ở trong thành thị, ở Sài Gòn. Sau này, nghe nói quan niệm của tôi bị anh em ở Bắc phê bình, cho rằng đó là xem nhẹ tác dụng của du kích trong sự chuẩn bị lực lượng giành chính quyền. Có lẽ cũng có như vậy thật. Tôi mấy lần thổ lộ với Phúc, với Khuy, với Oanh rằng Chu-Mao đánh du kích non già 20 năm nay mà đã giành được chính quyền ở một tỉnh nào đâu? Nước Tàu hết sức rộng lớn, giao thông hết sức ít ỏi, chính quyền địa phương địch yếu ớt, đó là xứ du kích lý tưởng, vậy mà tới nay anh em nhà ta hãy còn ở trong Diên An thì còn bao lâu nữa mới vào Nam Kinh, Bắc Kinh, Thượng Hải với chiến tranh du kích của Chu-Mao, nếu ngày nào đó không làm được khởi nghĩa theo kiểu Cách mạng tháng Mười Nga ở Bắc Kinh, Nam Kinh, Thượng Hải ? Thú thật là, độ này đầu óc tôi ở Petrograd 1917, không ở Diên An.
Trở lại việc bắt đầu xây dựng chiến khu ở Đất Cuốc[5].
Anh Giỏi, cán bộ khá giỏi của Tổng Công đoàn, công nhân hãng xây dựng  Eiffel, một hôm đưa Huỳnh Văn Nghệ tới giới thiệu với tôi tại tiệm Tân Việt đường d’Espagne[6], sát chợ Bến Thành. Nghệ trẻ hơn tôi năm, bảy tuổi, thân hình hộ pháp, coi bộ võ tướng như Tô Ký, mắt sáng, nói dòn, vui tính, thích ngâm thơ, làm được thơ nữa. Có lẽ anh chàng này đã có ý “tìm đường”; khi trốn sang Thái Lan; anh ta chẳng thấy đường nào hay, chỉ gặp ông tiến sĩ luật khoa ghiền á phiện là Dương Văn Giáo đang làm một thứ cố vấn cho chính quyền Băng Cốc. Giáo và Nghệ xung đột nhau như thế nào mà Nghệ định ám sát Giáo, nhưng ám sát hụt. Nghệ trở về Sài Gòn, gặp lại Giỏi là bạn cũ, qua Giỏi, Nghệ gặp tôi. Hỏi thăm thì biết Nghệ là người Tân Uyên (khi ấy thuộc tỉnh Biên Hoà). Nghệ chưa phải đảng viên, nhưng tôi thích những thanh niên dám làm việc táo bạo.  Tôi bàn với Nghệ, Giỏi về việc mở một chiến khu bắc Tân Uyên, nơi trú ẩn an toàn mấy năm nay của mấy anh tù vượt căng và nghe đâu cũng có một toán anh em du kích còn sống sót sau khởi nghĩa 1940. Nghệ đồng ý. Tôi chỉ định Giỏi, Nghệ phụ trách việc quan trọng này. Nghệ, thổ địa xứ Tân Uyên, lựa khu Đất Cuốc làm nơi “hạ trại”. Một số chòi, kho được dựng. Một số thợ, số máy, số vật liệu được Tổng Công đoàn đưa lên; có thợ đúc, thợ in; bắt đầu lựa mấy thanh niên ở Sài Gòn và lục tỉnh để học tập quân sự, chúng tôi đã có một số cây súng trường, súng lục, nhiều lựu đạn. Lương thực bắt đầu được tích trữ.  Lại có kế hoạch “chụp” vài cái đồn điền cao su, lấy vũ khí và lấy tiền. Công việc tiến hành không có gì trắc trở lắm thì:
Đùng một cái, nổ ra cuộc đảo chánh Nhật 9 tháng 3 năm 1945. Chính quyền Pháp sụp đổ trong nháy mắt. Một chiếc tàu nhỏ của Pháp chạy ngược sông Đồng Nai, lên khỏi Tân Uyên thì bị anh em chiến khu Đất Cuốc đón bắt. Ta thêm một ít súng đạn. Vốn liếng có, tình hình thuận, chiến khu có thể “làm ăn” được tốt. Tôi định mở lớp “combat de rue” – chiến tranh trên đường phố – ở Tân Uyên, Đất Cuốc.
Nhưng tôi thấy rằng, chiếu theo tương quan lực lượng khi ấy, nhất là ở Sài Gòn và đồng bằng, nếu ta dồn nhiều sức vào việc xây dựng chiến khu ở Tân Uyên, ở Thủ Thừa (còn tính một cái ở Nhà Bè hay Cần Giuộc nữa) thì việc vận động chính trị ở Sài Gòn sẽ chậm trễ, ta sẽ không chạy kịp với thời thế. Tôi cho rằng chiến khu không phải là yếu tố quyết định sự thành bại của khởi nghĩa cách mạng ở Nam Kỳ; yếu tố quyết định sự thành bại của khởi nghĩa ở Sài Gòn là công nhân, binh lính, thanh niên, nhân dân, ở trong và nông dân xung quanh Sài Gòn. Phải tập trung lực lượng vào đây, chứ không phải vào những nơi xa xôi hẻo lánh, hiểm trở. Phải gấp rút đào tạo cho kỳ được một “đạo quân chính trị” rất hùng hậu, ta phải mạnh hơn tất cả các chánh đảng và giáo phái thân Nhật cộng lại thì mới mong đem chính quyền về tay nhân dân được, chớ hoàn toàn không thể quan niệm được rằng sẽ đem quân có vũ trang súng ống từ các chiến khu về cùng nhân dân bản địa lấy Sài Gòn. Cho nên tôi quyết định “đốt đèn cầm canh” ở Đất Cuốc, duy trì nó mà không có kế hoạch phát triển; Giỏi trở về làm công vận, Huỳnh Văn Nghệ chuyển sang làm binh vận hợp tác với Tô Văn Của và Huỳnh Thiện Nghệ – cũng là những ông “hộ pháp” của tỉnh Biên Hoà – tập hợp gần ngàn người cựu binh sĩ đã đi lính cho Pháp, móc nối với các tổ chức, đơn vị quân sự người Việt Nam đi theo Nhật cốt để lấy súng đạn đưa về chiến khu hay giấu trong dân. Công việc này ba anh (anh Của và hai anh Nghệ) làm thành công lắm. “Liên đoàn cựu binh sĩ” được thành lập gồm lính trơn và hạ sĩ, trụ sở ngay trước bùng binh chợ Bến Thành - Sài Gòn.
 
4. Bắt liên lạc với cánh Pháp De Gaulle

Vấn đề tế nhị nhất, cũng là vấn đề khó khăn nguy hiểm nhất là vấn đề xác định thái độ với bọn Pháp chống phát xít, chống Nhật ở Đông Dương; cũng gọi là bọn Pháp De Gaulle, Pháp gaulliste. Thời ngắn ngủi Catroux còn làm toàn quyền, thì tuyệt đại đa số bọn Pháp quân sự và dân sự đều muốn dựa vào Anh để tiếp tục chống Đức. Nhưng khi Decoux thay Catroux làm toàn quyền thì đại đa số bọn Pháp dân sự quay theo chủ trương đầu hàng Đức, đầu hàng Nhật để bảo toàn bộ máy cai trị thực dân Pháp ở Đông Dương. Một số người Pháp dân sự chống Đức, chống Nhật; đa số quân Pháp theo tướng Mordant, tướng Aymé, mà cả hai tướng này đều kín đáo theo De Gaulle, nói là kín đáo, mà không ai không biết. Từ 1943, nhất là từ 1944, phe De Gaulle ở Đông Dương lần lần mạnh lên và có chút ít hoạt động chống Nhật, liên lạc với bọn Anh ở Ấn Độ, với bọn Mỹ ở Tàu. Họ không làm gì lớn chuyện đâu, họ chỉ làm chỉ điểm cho máy bay Mỹ đến ném bom, họ tích cực chuẩn bị để gặp dịp thì hưởng ứng quân Anh, Mỹ đổ bộ. Phe Decoux không để họ yên mà đàn áp họ cũng hơi mạnh; Pétain, Decoux chủ trương nên chơi tốt với Đức, Nhật để duy trì chính quyền Pháp ở Đông Dương cho đến chiến tranh chấm dứt. Bọn Decoux quỷ quyệt tính rằng nếu khi chiến tranh chấm dứt mà bộ máy thực dân Pháp ở đây còn, bất luận ai thắng, ai bại, thì Đông Dương vẫn là thuộc Pháp, chứ không ai lọt vào được.
Vấn đề đối với chúng ta là hỏi vậy nên hay không nên, cần hay không cần bắt tay với bọn Pháp De Gaulle để chống bọn Decoux và chống Nhật quân phiệt. Lôgic thì bảo rằng nên, rằng cần, “hành động chống Nhật”, chống thù chung là phải, dầu đó là tạm thời. Nhưng, còn ai không rõ bọn Pháp De Gaulle ở Đông Dương hầu hết là thực dân, không ai được chủ quan ở chỗ này. Bắt tay với cái tụi chủ trương giành lại chủ quyền hoàn toàn của Pháp trên Đông Dương à? Nhưng, mũi nhọn chính của chúng ta phải chĩa vào Nhật quân phiệt, vào tụi phản động thực dân phát xít Decoux, mà bọn Pháp De Gaulle thì chống Nhật, chống Decoux, thì sao không thể tạm thời bắt tay với họ nếu họ cần và nhất là nếu họ thuận theo một số đòi hỏi hợp lý của chúng ta? Thường vụ Xứ uỷ, tôi và Bảy Trân quyết định tìm bắt liên lạc với bọn Pháp De Gaulle, đặt vấn đề hợp tác chống Nhật Bản và Decoux, đòi họ và đồng minh giao cho chúng ta một số súng đạn.
Chúng tôi ở trong Nam hoàn toàn không biết ở ngoài Bắc các đồng chí mình chủ trương như thế nào về vấn đề tế nhị này. Nhưng việc phải làm thì cứ lấy tinh thần trách nhiệm mà làm.
Người Pháp làm trung gian giữa Trân và tôi với bọn Pháp De Gaulle là anh Sauterey một công chức bậc trung khuynh hướng công đoàn vô chính phủ, do bác sĩ Phạm Ngọc Thạch giới thiệu cho chúng tôi, trong lúc Thạch giới thiệu ba đồng chí đảng viên Đảng Cộng sản Pháp. Sauterey độc thân, ở xóm René Héraut, khu Tân Định.
Cùng lúc, một dịp nữa để bắt liên lạc với cánh Pháp De Gaulle ở Nam Bộ là như sau: hồi học bên Pháp, đồng chí Nguyễn Văn Trân tức Prigorny (Phú Lạc) có một bạn học tên là Brocheux (cha của giáo sư sử học hiện nay ở đại học Paris VII chuyên nghiên cứu về Việt Nam). Trân đi Liên Xô, trở thành đảng viên cộng sản. Brocheux sang Đông Dương trở thành Inspecteur de la Sureté (cò mật thám).Trân bị bắt, Brocheux nhìn ra, hai bạn cũ lại làm quen. Độ 1944, Brocheux – một người của phe gaulliste – xuống Phú Lạc tìm Trân, tính chuyện cùng cộng sản chống Nhật. Trân bàn việc đó với tôi. Brocheux trở thành một nơi liên lạc mà tôi muốn dùng, cũng như dùng Sauterey để có thể thương thuyết với tướng Mordant. Rốt cuộc, không làm được gì. Mordant không chịu gặp tôi. Có một chuyện nhỏ đáng ghi: khi Brocheux xuống Phú Lạc tìm gặp Bảy Trân để bắt liên lạc với tụi tôi bàn về hành động chống Nhật thì Trân thấy việc này có thể sinh ra vấn đề ngờ vực, nên Trân (báo cáo với tôi) là anh đã viết một bài tự thuật về vấn đề này, cuốn tròn giấy lại nhét vào một cái chai, khằng nút lại bỏ xuống mương, hay chôn dưới đất, cố làm bằng chứng rằng mình hành động có mục đích cách mạng chứ tuyệt nhiên không vì lẽ gì bất chánh. Nay Trân còn sống (90 tuổi).
Trân và tôi, những lúc đi đến nhà Sauterey hay ở nhà Sauterey về, thường hay nói với nhau là tụi mình sẽ cho tụi Tây “trượt vỏ chuối” chơi (nghĩa là lợi dụng họ mà không để cho họ lợi dụng mình). Thực ra thì bọn Pháp De Gaulle cũng khẳng định cho tụi tôi “trượt vỏ chuối”, chúng tôi biết trước như vậy. Hai bên chưa chắc ai khôn hơn ai. Điều đầu tiên làm cho chúng tôi bất bình là bọn gaulliste không chịu để chúng tôi bàn luận trực tiếp với lãnh tụ của họ như đòi hỏi của chúng tôi là Mordant hay Aymé, họ chỉ để chúng tôi nói chuyện với mấy tay không có quyền quyết định gì cả. Ví dụ như Brocheux. Chúng chỉ muốn chúng tôi thông báo cho chúng tình hình quân Nhật, mà không muốn bàn tới việc trao một số súng đạn cho chúng tôi. Ngay cả Sauterey cũng chán. Thì chúng tôi có lý do gì để “làm ổ cho chó đẻ”? đến khi De Gaulle về Paris và chuẩn bị đưa quân sang Đông Dương đánh Nhật, nhất là vào đầu năm 1945, có tin quân Mỹ sắp đổ bộ lên Trung Kỳ, thì phái Pháp De Gaulle ở Đông Dương càng kiêu căng hơn trước, chúng tôi chuyển sang một kế hoạch khác, kế hoạch khởi nghĩa địa phương (những tỉnh có thể làm căn cứ  là Biên Hoà, Tân An, Mỹ Tho, Rạch Giá, Bạc Liêu) nếu quân Mỹ từ Philippines đổ bộ vào duyên hải Đông Dương; không còn tính chơi với tụi gaulliste như trước.
Không tiếp tục liên lạc và thương lượng với bọn Pháp De Gaulle nữa, tụi tôi và riêng cá nhân tôi vẫn tiếp tục cộng tác với ba đồng chí người Pháp và một số đảng viên Đảng Xã hội Pháp. Tôi (và Thạch) tới lui hội họp với các đồng chí Pháp. Sự giao thiệp với mấy người Pháp Cộng sản và Xã hội đem lại một số lợi ích thiết thực cho công tác cách mạng; ít nhất là chúng tôi nắm được ít nhiều tình hình trong hai phe Decoux và Mordant. Đảng ta thêm một nguồn thông tin quan trọng về chủ trương của thực dân Pháp.
Một buổi tối, khi tôi đang họp Chi bộ đặc biệt của các đồng chí Pháp tại Đakao thì tối ấy, 9/3, quân Nhật làm đảo chánh lật đổ Pháp.
 
5. Cuộc đảo chánh Nhật 9 tháng 3 năm 1945

Đồng chí Pháp ở Sài Gòn chỉ có ba anh, hợp lại thành một chi bộ đặc biệt (do tôi chỉ đạo trực tiếp[7]): một làm ở Sở Vô tuyến điện Đakao, một làm ở thương chánh[8], một giáo sư trung học. Chi bộ đặc biệt họp ở nhà bên cạnh Sở Vô tuyến điện (bây giờ là đoạn đường Điện Biên Phủ từ cầu đúc lên đường Đinh Tiên Hoàng). Cuộc họp mới bắt đầu; các đồng chí Pháp đang thông báo về tình hình tư tưởng của các loại người Pháp ở Sài Gòn, về việc bên Pháp De Gaulle chuẩn bị hưởng ứng Mỹ, Tàu đổ quân vào Đông Dương, thì từ phía đường Albert 1er (Đinh Tiên Hoàng ngày nay) vọng qua cửa sổ tiếng reo hò dữ dội, kéo dài của đông đảo người, không rõ của phe phái nào; rồi đến tiếng xe bọc thép; không có tiếng đại bác, nhưng nhiều tiếng súng mút, mấy loạt súng liên thanh. Có biến rồi! Biến gì đây? Ngoài sự xung đột Nhật-Pháp, không thể có thứ “biến” nào khác. Trong lúc ba đồng chí khác nhìn ra phía cửa sổ về hướng “trung đoàn thuộc địa thứ 11” (11e RIC) thì tôi xin chấm dứt cuộc họp, chạy xuống thang rất nhanh, dắt xe đạp ra đường. Tôi vừa khỏi cửa vài chục thước đã thấy một toán lính Nhật thiệt và lính Nhật lô-can[9] tới gõ cửa Sở Vô tuyến điện. Hú hồn! Thiếu chút nữa, tôi có thể bị kẹt một cách vô lý và dại dột.
Tôi dắt xe, đi theo dòng người, theo đường Albert 1er lên sân Hào Thành[10] xem có việc gì ở đó. Lạ một điều là trong nhân dân tôi không thấy ai hoảng hốt cả. Phố xá, nhà cửa vẫn sáng choang đèn điện. Chỉ một số ít tiệm Hoa Kiều đóng cửa sớm. Người Sài Gòn lạ thật, nghe tiếng súng mà như nghe tiếng pháo. Họ bàn luận về chiến tranh gần như bàn luận về một trận đá banh. Bên kia Cầu Hang, lính Nhật và lính Cao Đài gác rất đông, không cho dân qua sân Hào Thành.
Chắc là “đảo chánh” rồi. Quân Nhật xuống tay trước. Ngày mai sẽ rõ. Bây giờ tôi ghé hội ý với Oanh, Thạch rồi sẽ đạp thẳng về Phú Lạc để họp Thường vụ Xứ uỷ bàn về tình hình mới, nhiệm vụ mới, không quên ghé anh Hai Sô trước cửa nhà thờ Huyện Sĩ[11] để trách anh và nhóm của anh trong Quốc Gia Đảng không làm được nhiệm vụ thông báo cho tôi biết trước cuộc đảo chánh này. Kể ra thì cứ trách anh Hai Sô cũng oan. Bọn Pháp có trăm, ngàn tai mắt mà chẳng biết trước ngày giờ cuộc đảo chánh thì nhóm chuyên trách của anh Hai Sô trong Đảng Quốc Gia của Ngô Đình Đẩu[12] mù tịt có gì lạ? Trong chiến tranh cái “bất ngờ” quan trọng thật. Pháp ở vùng Sài Gòn có hàng vạn quân mà chẳng bắn được một phát súng nào! Sáng hôm sau, ai nấy đều hay rằng đêm qua, quan Toàn quyền đô đốc Decoux, tướng Mordant, tướng Aymé, tất cả đầu sỏ Pháp, đều bị bắt gọn, tất cả quân đội Pháp đều bị tước khí giới. Chỉ có mấy thằng cò Tây với quan ba Dergue – các tên đã đưa bọn tôi chuyến đầu tiên lên căng Tà Lài – và ít chục lính khố xanh, trung thành, nhờ hôm đó không ở Sài Gòn nên tạm thoát nạn, kéo theo mấy bà đầm, chạy sống chạy chết xuống Cà Mau, mong được tàu Đồng minh đón rước ở ngoài mũi. Quân Nhật và quân Cao Đài đuổi theo bén gót. Tụi quan ba Dergue bị bao vây, bị tiến công bất ngờ, Dergue lãnh một nhát kiếm từ vai xuống lưng. “Kháng Nhật” của bọn Pháp De Gaulle ở Nam Kỳ hình như chỉ có bấy nhiêu đó thôi. Anh Phúc đang ở Cà Mau lúc xảy ra đảo chánh Nhật, khi về Sài Gòn, thuật lại chuyện “tử chiến” của quan ba Dergue, bà chủ chùa Phú Lạc, dì Bảy của Bảy Trân, bảo rằng đó là “quả báo nhãn tiền!”.
Trở lại nguồn gốc đảo chánh 9 tháng 3.
Nhắc lại trước một chút, khi nước Pháp được giải phóng nhờ sức tiến công thắng lợi của Liên Xô ở Mặt trận Đông Âu, nhờ cuộc đổ bộ thắng lợi của Mỹ, Anh ở Tây Âu, nhờ cuộc nổi dậy của nhân dân Pháp, đặc biệt là cuộc nổi dậy của nhân dân Paris dưới quyền lãnh đạo của Đảng Cộng sản; chính phủ De Gaulle liền “tuyên chiến” với Nhật. Tuyên chiến cho “ra vẻ” thôi, cho cái gọi là “pháp lý” rằng Pháp cũng chống Nhật và do có chống Nhật nên có quyền trở lại làm chủ Đông Dương sau chiến tranh. Chớ thực ra, lúc ấy, dù nước Pháp đã khôi phục chủ quyền, nó không khác mấy với một anh chàng bị vật ẹo xương sống, còn đang chống nạng tập đi, thì có lực lượng quân sự và tàu bè chuyên chở đâu mà sang Viễn Đông tham chiến? Dù sao, nội cái việc Paris tuyên chiến với Nhật, quyết giành lại Đông Dương bằng mọi cách  ̶  vũ lực và ngoại giao  ̶  đủ làm cho tụi thực dân Pháp ở Đông Dương hăng lên dữ lắm. Trên đường phố, trong nhà hàng, ai cũng thấy cái bộ mặt con gà Gaulois[13] chạy rót bấy lâu nay mặt tái mét, nay có máu trở lại. Lại thêm, gần cuối 1944, quân Mỹ đổ bộ thành công lên quần đảo Philippines; người Pháp ở Đông Dương mong rằng, tin rằng quân Mỹ sắp đổ bộ lên miền Nam Trung Kỳ được xem như cái “bụng mềm” của Nhật ở Đông Nam châu Á. Năm mươi ngàn quân Pháp sẽ hưởng ứng quân Đồng minh, đánh sau lưng quân Nhật, quân Đồng minh toàn thắng tức là quân Pháp toàn thắng, chủ quyền hoàn toàn của người Pháp trên Đông Dương sẽ được khôi phục, cộng sản có nổi dậy nơi này nơi nọ cũng không tới đâu. “Ăn ngon” như thế ấy! Quân Nhật ở Đông Dương cũng chỉ độ 50.000 thì sá gì? Chọi sao lại với 50.000 quân Pháp và hàng trăm ngàn quân đồng minh Mỹ, Anh, và Trung Quốc? Nhật chết đến nơi rồi! Quân Pháp hí hửng lắm. Mordant, Aymé gấp rút chuẩn bị tác chiến; tụi nó dự trữ lương thực ở một số địa phương ngoài thành phố ở hướng rừng miền Đông Nam Bộ, hướng Tháp Mười, Cà Mau; tụi nó đào công sự, di chuyển quân đội, lấy cớ là đề phòng Mỹ đổ bộ. Phe Pháp quân sự thì giữ bí mật, ý đồ và hoạt động của chúng, chứ còn phe Pháp dân sự thì đổ bộ đánh Nhật xung quanh cốc rượu, chén cà phê ở bất cứ nhà hàng nào. Lại thêm đài phát thanh New Delhi (Ấn Độ thuộc Anh) và đài phát thanh Trùng Khánh của Mỹ-Tàu, ngày nào cũng oang oang lên tiếng kêu gọi người Pháp ở Đông Dương nổi lên đánh Nhật. Con ếch nó chết vì tiếng uệch uệch; con gà nó chết vì tiếng ó o, Pháp chết vì nói dóc khắp nơi. Tôi nhớ, có lần báo Tiền Phong vẽ một con gà trống đứng trên bàn đang gáy, kề bên mấy củ hành và một bầu rượu. Gà cất tiếng gáy “đánh Nhật a!”, “đánh Nhật a!”.
Bọn Nhật ở Đông Dương, ở Sài Gòn làm như không biết gì, không nghe gì, không thấy gì. Kỳ thật là chúng nghe hết, thấy hết, biết hết.
Tụi tôi được biết mang máng rằng trong Đồng minh, về vấn đề Đông Dương, có nhiều phe phái chủ trương khác nhau: Tàu (Tưởng) thì muốn sáp nhập Bắc Kỳ vào nước Tàu để cho Vân Nam, Quý Châu, Quảng Tây có đường ra biển tiện lợi; Mỹ thì muốn đặt Đông Dương dưới chế độ uỷ trị, tức là muốn biến Đông Dương thành một thứ thuộc địa (sau này gọi là thuộc địa kiểu mới) của Mỹ. Anh thì ủng hộ Pháp trở lại Đông Dương như cũ.
Tụi tôi lại được biết rõ rằng thực dân Pháp ở Đông Dương có hai chủ trương khác xa nhau. Phe của Decoux thì chủ trương tiếp tục làm lành với Nhật, Nhật bảo sao thì cứ nghe vậy, Nhật đòi gì được nấy, miễn là bộ máy chính quyền Pháp còn nguyên cho đến khi Nhật đầu hàng. Nhật đầu hàng mà bộ máy Pháp còn nguyên tức là Pháp còn làm chủ chứ không ai lọt vào đây được. Còn phe của Mordant-Aymé thì cho rằng nếu người Pháp ở Đông Dương không đánh Nhật chút đỉnh thì Pháp sẽ mất Đông Dương vì Pháp đã làm tay sai cho Nhật từ đầu đến cuối. Hai phe chọi nhau gay gắt. Phe của Mordant-Aymé thắng thế vì được sự đồng ý của De Gaulle.
Tụi tôi về sau còn biết rằng, được báo cáo rõ về tình hình Đông Dương đầu năm 1945, những nhà lãnh đạo quân sự Nhật ở Đông Kinh có hai chủ trương khác nhau; một bên tán thành đề nghị của bọn chỉ huy Nhật ở Đông Nam Châu Á (đóng ở Sài Gòn) là lật đổ Pháp bằng một hành động chớp nhoáng; một bên muốn dùng áp lực quân sự buộc Pháp phải giải ngũ toàn thể quân đội Pháp ở Đông Dương, chỉ còn giữ việc cai trị dân sự mà thôi, việc phòng thủ hoàn toàn do Nhật phụ trách. Hai bên đều có lý do của mình. Cuối cùng phe chủ trương làm đảo chánh quân sự lật đổ Pháp được thắng thế. Quân Nhật ở Đông Dương chuyển sang hành động, điều động thêm nhiều quân tinh nhuệ vào Đông Dương, lật đổ Pháp một cách dễ dàng, gọn ghẽ như trở bàn tay. Còn gà gaulois mới vỗ cánh gáy ó o, bỗng bị đem ra lấy tiết, nó không kịp giãy giụa.
Không cần phải tài tình sáng suốt gì lắm mới đoán trước Nhật sẽ lật Pháp ngày nào đó. Từ mấy năm nay ai cũng thấy rằng hai con chó tranh nhau một miếng thịt có ngày phải cắn nhau, không sao tránh khỏi, Nhật sẽ thắng, Pháp sẽ thua. Nhưng rất ít người ở Sài Gòn, kể cả tôi, có thể đoán được rằng phải chờ đến gần ngày tận số của nó, Nhật mới lật đổ Pháp! Các phe phái thân Nhật xem là trễ quá. Nếu Nhật lật Pháp hồi năm 1943, khi tướng Tòng Tỉnh – chủ tịch hội Liên Á sang Sài Gòn để lên dây cót tinh thần cho bè đảng khi ấy chưa phải đã trễ. Để cho tới nay, tháng 3 năm 1945, thì ngay cả bọn thân Nhật cũng nản, lần này Tòng Tỉnh sang Sài Gòn “lên dây cót” cho họ chỉ là một viên thuốc không có hiệu quả lâu dài. Đến đầu năm 1945, thì người dốt chính trị nhất nước Việt Nam này, cũng thấy Nhật sắp thua, vậy cái việc Nhật lật Pháp chỉ là một hành động tự vệ cho Nhật. Nhật sợ Pháp đánh sau lưng, chứ hoàn toàn, tuyệt đối không phải là một “nghĩa cử”, không phải là “vì người da vàng mình với nhau”, không phải “vì dân tộc Việt Nam đồng văn đồng chủng với dân tộc Nhật”. Đêm 9, quanh trại lính đường Norodom[14], khoảng 5.000 lính Cao Đài làm thanh viện cho vài ngàn lính Nhật đủ buộc quân Pháp đầu hàng. Mấy ngày sau dân chúng Sài Gòn được phe thân Nhật hô hào dữ mà chỉ có mấy ngàn người đi biểu tình hoan hô “anh cả da vàng”. Tôi không muốn đánh giá quá cao truyền đơn và báo chí mật, bản tin mật của chúng tôi có tác dụng “lật tẩy” ý đồ của Nhật trong cuộc đảo chánh; tôi cho rằng nhân dân  Sài Gòn vốn nhạy bén về chính trị, tự mình cũng thấy được cái ý đồ xấu xa của Nhật từ mấy năm nay đã tự nó lật mặt nạ nó bằng hành động cụ thể. Tất nhiên là trong xu thế đó, sự tuyên truyền cổ động của chúng tôi đã có tác dụng. Trong nhân dân thành phố nói riêng, nhân dân  Nam Kỳ nói chung, mà chắc là ở cả nước Việt Nam cũng thế thôi, cuộc đảo chánh 9 tháng 3 không làm cho nhân dân ta có ảo tưởng gì đối với Nhật cả. Cái khải hoàn môn mà phe Cao Đài Trần Quang Vinh dựng lên ở khúc rộng đường Blansubé (Phạm Ngọc Thạch ngày này, trước nhà Văn hoá thanh niên), làm bằng hoa lá, tươi rồi héo, héo rồi khô đến khi bị một que diêm đốt cháy rụi chỉ mấy phút tiêu biểu cho “hy vọng” đến thời tàn của phe đã cổ vũ cho thuyết Đại Đông Á mấy năm nay. Bọn sử gia thực dân về sau sẽ viết lếu viết láo rằng, đêm 9 tháng 3, dân chúng Sài Gòn bị bất ngờ, không hoan hô Nhật bởi vì luyến tiếc Pháp, rằng dân chúng Sài Gòn “dửng dưng” nên đứng trân mà ngó thời cuộc. Sự thật đâu phải như vậy! Tuyệt đại đa số dân Sài Gòn, dân Nam Kỳ, dân Việt Nam ai mà luyến tiếc Pháp? Tám mươi năm mang ách thực dân chẳng nhiều quá rồi sao? Nhưng người ta cũng không mấy ai hy vọng gì Nhật đứng được lâu, càng không tin rằng độc lập mà Nhật sắp ban cho là độc lập thật. Nếu có cái gì gọi là “bất ngờ”, là không ngờ rằng quân phiệt Nhật ngu xuẩn đợi cho đến nay mới làm cái việc chúng có thể làm hai, ba năm trước, nếu làm hồi hai, ba năm trước thì Nhật có thể phần nào bao bọc cái lợi ích đế quốc ích kỷ của chúng trong cái vỏ “nghĩa cử” dễ tin hơn.
Người Pháp ở hai mươi tỉnh Nam Kỳ bị Nhật dồn về Sài Gòn ở tương đối thong thả trong khu vực  đất cao ráo nhất, tại trung tâm thành phố. Không phải là trại tập trung đâu. Có lần đạp xe qua đó tôi thấy mấy đồng chí cộng sản và anh bạn xã hội râu xồm của tôi đang đi bách bộ trong một sân rộng, họ chào tôi bằng cái cười không lấy gì làm thiểu não. Tôi chưa hề nghe nói người Việt Nam đánh đập hay chửi mắng người Pháp; nào phải người Việt Nam tiếc kẻ đã thống trị mình; ấy là đồng bào không muốn đánh người “dưới ngựa”, một thái độ mà thời trước gọi là quân tử, trượng phu, thời nay gọi là có chính trị cao.
Ban đầu, ở một số nhà máy, nhà thương, tụi Nhật còn giữ một số kỹ sư, bác sĩ quản lý người Pháp. Còn tất cả các quan cai trị người Pháp đều bị thay bằng quan cai trị người Việt Nam. Không ai lạ đâu, các quan cai trị Việt Nam thay cho Pháp đều là những ông phó hay tay sai kế cận của quan Tây: đốc phủ, tri phủ lên làm chủ tỉnh, làm phó chủ tỉnh, các quận giữ y nguyên; hội tề xã hoàn toàn không gì thay đổi, dưới áp lực quần chúng Nhật cũng có thể bắt giam vài tên quan Việt Nam ác ôn khét tiếng xưa nay. Trong quân ngũ cũng vậy; lính tây thì bị tước vũ khí nhốt vào trại; lính Việt thì được giữ lại y nguyên, các ông quản, thầy đội thay cho sĩ quan và cò tây. Trong toà án, bộ máy y như cũ, chỉ gỡ bọn da trắng ra, đưa da màu lên cho dầu người da màu đó là “dân Tây”. Nói theo cách nói mác-xít, ấy là làm “đảo chánh”. Nhật giữ gần nguyên bộ máy Nhà nước thực dân của Pháp. Để hiểu tại sao? Đảo chánh chớ có phải là cách mạng đâu, mà ngay cả cách mạng quốc gia tư sản đi nữa cũng đâu chắc có thay đổi gì quan trọng trong bộ máy cai trị cũ. Bọn Nhật cầm quyền muốn thấy ít xáo trộn nhất, họ muốn cho bộ máy cũ tiếp tục công việc phục vụ Nhật một cách đắc lực như bấy lâu nay. Buồn bã nhất, thất vọng nhất là giáo phái Cao Đài (Tây Ninh). Từ mấy năm rồi, từ cả chục năm rồi, họ tôn phù Kỳ Ngoại Hầu Cường Để, tính rằng hễ Nhật lật Pháp thì Cường Để về Huế làm Hoàng đế nước Đại Nam thống nhất. Nào dè, lật Pháp rồi, Nhật giữ Bảo Đại làm vua cai trị Trung và Bắc; Nhật giữ Nam Kỳ làm đất Nhật như Đài Loan, Triều Tiên, Lưu Cầu; Nhật đặt Minoda làm thống đốc Nam Kỳ thay thống đốc người Pháp.
Hội nghị Xứ uỷ ở Phú Lạc bàn về tình hình và nhiệm vụ sau cuộc đảo chánh tháng 3, tôi nhớ có năm ý lớn sau đây của một nhận định thống nhất:
1. Một đế quốc đã “rót đài”, đế quốc Pháp. Đúng như đã đoán trước, nó không còn là đối tượng đánh đổ của cuộc khởi nghĩa cách mạng sắp tới, nhưng nó được nhận định là “nguy cơ chính” (lúc đó tôi dùng chữ khác “le danger principal” để phân biệt với “đối tượng cách mạng”(“l’ennemi principal”). Nhật một mình cầm quyền thống trị, hợp tác với đám tay sai bản xứ của chúng – triều đình Huế. Nhật và tay sai bù nhìn của chúng là đối tượng đánh đổ của cách mạng Việt Nam. Lại phải thấy trước rằng, Đồng minh sắp toàn thắng ở châu Âu, châu Á, Nhật sắp đầu hàng, tất nhiên những nước Anh, Mỹ, nhất là Anh sẽ ủng hộ cho Pháp trở lại làm chủ Đông Dương, khi ấy thực dân Pháp sẽ là đối tượng đánh đổ của cách mạng. Ngay từ bây giờ, bọn Pháp bên Pháp và tay sai của chúng ở Đông Dương đang tích cực chuẩn bị cho việc Pháp trở lại; cho nên, ngay từ bây giờ ta nói rằng thực dân Pháp tuy bị đánh đổ, vẫn là nguy cơ chính của cách mạng ở xứ ta. Không thể mơ hồ được. (Về sau có người nói Xứ uỷ Nam Kỳ rút khẩu hiệu chống Nhật, thay vào đó là khẩu hiệu lợi dụng Nhật. Không có như vậy đâu; hoàn toàn không có; nói láo đó; khẩu hiệu của chúng tôi đã rõ từ lâu là: “đánh đổ đế quốc Nhật, bài trừ phản động Pháp, Đông Dương độc lập muôn năm”).
2. Nhật làm cuộc đảo chánh 9 tháng 3 không phải vì giải phóng Việt Nam (và Miên, Lào) mà vì lợi ích của Nhật. Hành động lật Pháp của Nhật không phải là một nghĩa cử, mà là một hành động ích kỷ, đế quốc. Các tầng lớp đồng bào cần nhận rõ điều ấy. Lại cần phải nhận rõ rằng cái độc lập của Nhật sẽ đem cho là độc lập giả hiệu, là một thứ nô thuộc mới, không phải là cái độc lập mà các thế hệ người yêu nước Việt Nam và các đồng chí trong Đảng Cộng sản đã hy sinh giành cho kỳ được. Nhân dân phải tiếp tục đấu tranh để giành độc lập thật sự, giành thống nhất tổ quốc bằng cách đánh đổ quân phiệt Nhật và chính quyền tay sai bản xứ của Nhật.
3. Cuộc đảo chánh 9 tháng 3 không tạo nên một cục diện chiến tranh quyết liệt và kéo dài giữa Nhật, Pháp. Rốt cùng, không có xáo trộn chính trị và xã hội đáng kể nếu chỉ ngó bên ngoài. Sự thật bên trong là Nhật không nắm được bộ máy Nhà nước đang rệu rã nhanh chóng, bù nhìn tay sai cũng không có điều kiện, uy tín và thời giờ để xây dựng, củng cố bộ máy nhà nước, ở đó, trên không nắm được dưới, dưới không phục tùng trên, các địa phương không biết tới trung ương, cả lũ không biết ngày mai ra sao. Tình hình này rất thuận lợi cho cuộc hoạt động cách mạng của chúng ta, cách mạng phải tiến tới thật nhanh như Tôn Ngộ Không làm phép cân đẩu vân, nhanh thì được tất cả, chậm thì không được gì hết. Tình hình sẽ không chờ đợi ta đâu.
4. Hồng quân Liên Xô đã đến gần sát Berlin. Đức phát xít sẽ sụp đổ nay mai thôi. Đức sụp đổ rồi, Đồng minh sẽ dồn sức qua Viễn Đông và Thái Bình Dương thì Nhật cũng không thể kháng cự lâu dài được. (Thành thực mà nhắc lại, hồi đó tôi nghĩ rằng Nhật nhất định sẽ đầu hàng, nhưng mà không đầu hàng sớm lắm đâu, ít nào cũng đến cuối năm 1945; tôi nghĩ rằng Nhật thua trận trên mặt biển thì chúng sẽ dựa vào lục địa mà chờ đợi một trận quyết chiến hết sức lớn, hết sức đẫm máu khi Mỹ đổ bộ lên đất Nhật, tôi hoàn toàn không biết gì về vũ khí hạt nhân; tôi chắc chắn rằng mọi người cũng chẳng hơn gì tôi. Tôi cũng tính sai rằng Liên Xô sẽ không can thiệp sớm vào chiến tranh Viễn Đông, rằng Liên Xô sẽ trả đũa quân Mỹ, Anh về cái tội Mỹ, Anh dây dưa quá trong việc mở mặt trận thứ hai ở Tây Âu để “chia lửa” với Liên Xô, trả đũa bằng cách để cho Anh, Mỹ, Nhật đánh nhau lâu hơn nữa. (Sau rồi tôi mới thấy rằng tính toán của tôi nông cạn, sai, lấy cái chủ quan – cần thì giờ để hoàn thành chuẩn bị khởi nghĩa – làm hướng xét đoán). Trong trường hợp đổ bộ lên Trung Kỳ từ Philippines thì chúng tôi chủ trương khởi nghĩa từng phần, thừa lúc Nhật, Mỹ đánh nhau lập chính quyền độc lập ở bất cứ nơi nào có thể lập được. Trong tình hình thế giới khi ấy, thì dù Mỹ có hay không có đổ bộ lên Trung Kỳ, Nhật trước sau cũng sẽ phải đầu hàng. Nhật đầu hàng thì sẽ xảy ra tình thế cách mạng trực tiếp cho chúng ta. Nhật đầu hàng thì quân Đồng minh, trong đó có quân Pháp, sẽ vào Đông Dương để giải giáp quân Nhật và để giành lại Đông Dương cho chủ cũ. Cho nên khởi nghĩa cách mạng ở Việt Nam nhất thiết phải nổ ra và thành công trước khi (nhấn mạnh là trước khi) quân Đồng minh vào. Khi quân Đồng minh vào mà đã có chính quyền độc lập của dân tộc Việt Nam thống nhất an bài rồi lại được toàn dân hết lòng ủng hộ, thì họ phải thương lượng với chính quyền cách mạng đó. Nếu ta không giành được chính quyền thì họ sẽ không đếm xỉa đến cuộc kháng Nhật của ta đâu. Thương lượng với họ, ta sẽ có hai cái thế mạnh, một là ta đã chống Nhật, đã ủng hộ đồng minh, hai là ta đang nắm chính quyền và được đồng bào tín nhiệm; ta sẽ hết sức lợi dụng mâu thuẫn giữa Anh, Pháp, Mỹ, Tàu. Tiếng nói của Liên Xô chắc có trọng lượng mặc dầu Liên Xô ở rất xa Đông Dương. Chắc chắn là anh em ta ở ngoài Bắc cũng nghĩ như vậy và cũng làm như vậy, chứ không thể khác.
5. Điều quan trọng bậc nhất là Nam Kỳ không được vắng mặt, cũng không được phép tới trễ trong cuộc tổng khởi nghĩa cách mạng sắp tới trên toàn Việt Nam và toàn Đông Dương. Nhưng phải nhìn nhận một sự thật là: nay ta còn yếu. Mà thì giờ chắc không còn lâu, vậy phải “chạy đua với đồng hồ” (hồi đó trình bày ý kiến trước Xứ uỷ, tôi thường hay dùng chữ Pháp là “course contre la montre”) để xây dựng, củng cố, phát triển Đảng thống nhất, Mặt trận phản đế thống nhất, để xây dựng hết sức nhanh một “đạo quân chính trị” (từ này mượn của Stalin: armée politique) rất lớn; để làm sao trong một thời gian ngắn, cho Đảng ta trở thành Đảng mạnh nhất ở Nam Kỳ, ở Sài Gòn, chẳng những mạnh hơn mỗi chính đảng khác mà còn mạnh hơn tất cả các đảng thân Nhật, thân Pháp cộng lại. Phải nối liên lạc với các đảng bộ ở Bắc, Trung, để cho cuộc tổng khởi nghĩa nổ ra khắp Nam, Trung, Bắc gần cùng một lúc với nhau.
Hội nghị Xứ uỷ vừa xong, anh em chưa kịp chia tay nhau về các tỉnh thành, thì được tin từ Bà Rá[15], các đồng chí ta đã vượt căng, có người đã về tới Sài Gòn. Một số anh em ở lại hoạt động trong vùng Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định như A (báo Lao động); một số về tỉnh nhà của mình như Tô Ký (Gia Định), như Ty (Bạc Liêu), Tiến cụt (Rạch Giá), Thiệt, Thế (Vĩnh Long) v.v… cả trăm anh em (và chị em nữa) nhận công tác mà không cần phải được giải thích, động viên. Dù sao gia đình cộng sản lớn lên một cách “đột biến” vượt bậc. Có thể nói một cách khẳng định rằng: nếu nhóm đồng chí vượt ngục Tà Lài bắt đầu gây dựng lại cơ sở và hệ thống, thì nhóm thoát khỏi Bà Rá tăng cường đảng bộ chính trong lúc đảng bộ cần tăng cường nhất, nhờ đó chúng tôi ở Nam Kỳ mới có thể đối phó kịp thời với thời cuộc khẩn trương sau đảo chánh 9 tháng 3; chứ nếu chỉ có đường lối đúng mà thiếu người giỏi thì cũng không làm gì nên việc được.
Hơn nữa, sau đảo chánh 9 tháng 3, số còn lại của anh em “ở ẩn” từ 1940, nay lục tục ra hoạt động. Nguyễn Văn Nguyễn hoạt động trước hết, Nguyễn Văn Tây ra hoạt động trước đảo chánh một chút, Ung Văn Khiêm ra hoạt động sau đảo chánh một chút. Hà Huy Giáp khi ra căng Ban Mê Thuột thì vào Sài Gòn ngay, được chữa trị ở bệnh viện Phạm Ngọc Thạch và hoạt động với chúng tôi. (Bùi Công Trừng vào Sài Gòn chỉ mấy ngày trước khởi nghĩa). Xứ uỷ Nam Kỳ từ đây không thể được than là ít và yếu nữa, mà nỗ lực đương đầu với trọng trách một cách tin tưởng. Ba anh này, Khiêm, Tây, Giáp (Ung Văn Khiêm, Nguyễn Văn Tây, Hà Huy Giáp), hồi cuối 1930 đầu 1931 là Xứ uỷ viên Nam Kỳ trong lúc tôi bị trục xuất từ Pháp về Việt Nam, được giao cho một việc nhỏ mà khó trong Ban Mặt trận phản đế và học sinh, sinh viên, trí thức. Từ đó đến giờ, tôi mới lại gặp Khiêm trên đất Sài Gòn xưa những năm trước.
 
Còn tiếp...
 
 Chú thích của người biên tập
 
1 Chu, Mao: Mao đây, tất nhiên, là Mao Trạch Đông; Chu không phải là Chu Ân Lai, mà là Chu Đức (1886-1976), nguyên soái, người thường được coi là cha đẻ của Giải phóng quân Trung Quốc.
2 Thủ Thừa: nay là một huyện thuộc tỉnh Long An, cách thành phố Hồ Chí Minh 45 km về phía tây nam, ở phía bắc Tân An.
3 Tân Uyên: nay là một huyện của tỉnh Bình Dương, ở phía bắc thị xã Biên Hòa, cách TP. HCM khoảng 45 km.
 
4 Petrograd: Tức Leningrad, nay đổi thành Saint-Petersburg (của Liên bang Nga), nơi nổ ra các cuộc cách mạng Nga (1905, 1917).
 
5  Đất Cuốc: Nay là một xã thuộc huyện Tân Uyên (xem chú thích 3 ở trên).
 
6  Rue d’Espagne: Nay là đường Lê Thánh Tôn.
 
7 Trong truyền thống của Quốc tế Cộng sản (1919-1943), chỉ có một “Đảng” trên toàn thế giới, tại mỗi nước (hay vùng) là một “đảng bộ” của ĐCS; đảng viên ở đâu thì sinh hoạt trong đảng bộ tại đó. Ba đảng viên người Pháp sống ở Sài Gòn, do đó, đương nhiên là đảng viên của ĐCS Đông Dương, hoạt động dưới dự chỉ đạo của bí thư Xứ ủy Trần Văn Giàu. Sơ đồ tổ chức của QTCS cũng giống như “quốc tế” khác là Giáo hội Roma, người Công giáo là “dân chúa” ở đâu thì sinh hoạt trong giáo hội tại đó. Năm 1943, để tranh thủ sự hợp tác với Anh-Mỹ, Stalin tuyên bố giải thể Quốc tế Cộng sản (Komintern), hàm ý mỗi đảng cộng sản từ nay là một tổ chức độc lập, không chịu chỉ thị của “giáo hoàng” ở Moskva, thay thế QTCS bằng một “Phòng thông tin Cộng sản” (Kominform). Trên thực tế, với sự có mặt ở Hồng quân ở Đông Âu, QTCS còn kéo dài ở Âu châu ít nhất cho đến cái chết của Stalin. Ông Trần Ngọc Danh (em trai của cố tổng bí thư Trần Phú), tổng đại diện Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại Pháp từ năm 1946, năm 1948 bỏ nhiệm sở, về Praha (Tiệp khắc) còn tiếp tục gửi báo cáo cho Kominform (thực chất là cho đồng chí Stalin) tố cáo sai lầm “hữu khuynh” của Hồ Chí Minh, “nguyên nhân gây ra những khó khăn của cách mạng Đông Dương”.
 
Nhóm mấy người Pháp cộng sản ở Sài Gòn sẽ lập ra “Cercle Culturel Marxiste” (Câu lạc bộ văn hóa mác-xít Sài Gòn) mà trụ sở những năm 1946-50 đặt ở nhà bác sĩ Phạm Ngọc Thạch (đường Léon Combes, nay là Sương Nguyệt Anh). Chính tại nơi đây, Georges Boudarel (1927-2003), giáo sự triết học ở Lycée Marie Curie đã có thể liên lạc được với kháng chiến và từ đó, ra bừng biền tham gia kháng chiến vào cuối năm 1950.
 
8 Thương chánh: hải quan.
 
9 lô-can: tính từ tiếng Pháp local nghĩa là bản địa, địa phương, cục bộ.
 
10 sân Hào Thành: nay là sân vận động Hoa Lư, nằm ở góc đường Đinh Tiên Hoàng (thời đó là Albert 1er) và Nguyễn Thị Minh Khai.
 
11 Nhà thờ Huyện Sĩ: ở số 1, đường Tôn Thất Tùng, TP. HCM. Do ông bà Lê Phát Đạt (tức Huyện Sĩ) hiến đất và bỏ tiền ra xây, khánh thành năm 1905.
 
12 (Chú thích của tác giả) Anh Lê Quang Sô, anh Ngô Đình Đẩu là lãnh tụ của Đảng Quốc Gia (thân Nhật như Đảng Quốc Gia Độc Lập của Hồ Văn Ngà; Hồ Văn Ngà thì dựa vào trí thức Sài Gòn; Sô, Đẩu thì dựa vào Tịnh độ cư sĩ Tiền Giang, hợp tác với lực lượng của Nguyễn Hoà Hiệp). Tôi có ở tù chung với Lê Quang Sô hồi 1933 ở Khám Lớn. Ngô Đình Đẩu (bà con rất gần với Diệm) là một người thuộc phái Cường Để từ thời Đông Du, từ lâu tôi quen Đẩu, sếp của Đảng Quốc Gia - thực tế làm “tai mắt” cho sở Sen đầm Nhật. Hoà Hiệp là Quốc Dân Đảng từ hồi Trần Huy Liệu ở Sài Gòn, cũng quen lớn với tôi từ 1930, sau khi tôi bị trục xuất khỏi nước Pháp. Tôi thấy có thể dùng Đảng Quốc Gia để biết tin tức trong cơ quan chỉ huy của quân Nhật ở Nam Kỳ (về sau các anh đó thuộc Kỳ bộ Việt Minh Nam Bộ). Nhưng anh Sô, anh Đẩu đều không biết trước vụ Nhật đảo chính ngày 9 tháng 3.

13 Gaulois: người xứ Gaule, thuộc về xứ Gaule. Gaule (không dính gì tới tướng De Gaulle, lãnh tụ kháng chiến Pháp) là tên vùng đất thuộc về Đế quốc Roma, bao gồm nước Pháp ngày nay, Bắc Ý, Bỉ, Luxembourg. Gaule tiếng Latinh là gallia, mà chữ đồng âm có nghĩa là con gà trống. Từ đó, (do một sự ngộ nhận hay nhận vơ), người Pháp (France) coi xứ Gaule là nước gốc của mình và người Gaulois là tổ tiên của mình (rồi sau đó, dân châu Phi hay “An nam mít” cũng phải học “Tổ tiên ta là người Gaulois”). Biểu tượng của nước Pháp do đó là con gà trống – con gà trống gaulois – gáy “cocorico”. Trên nóc tháp chuông nhà thờ Huyện Sĩ (xem chú thích 11 ở trên) còn có con gà trống gaulois nay vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt.
 
14 Norodom: sau là Thống Nhất, nay là đường Lê Duẩn.
 
15 Bà Rá: tên ngọn núi cao 733 mét ở miền đông Nam Bộ, nay thuộc tỉnh Bình Phước (những năm 1940 thuộc địa phận tỉnh Biên Hòa), cách Sài Gòn 180 km.

9-1-11

Tổng số lượt xem trang