Tài liệu tham khảo đặc biệt
Thứ Sáu, ngày 18/02/2011
TTXVN (Luân Đôn 12/2)
Nhận định về môi trường an ninh tại khu vực Đông Nam Á, chuyên mục phân tích tháng 1/2011 của Viện Hoàng gia An ninh và Quốc phòng Anh đăng bài của chuyên gia nghiên cứu về an ninh châu Á Brijesh Khemlani từ Trường Đại học Kinh tế Chính trị Luân Đôn (LSE) cho rằng sự hứng thú cũng như sự can dự ngày càng lớn của Ấn Độ, Trung Quốc và Mỹ tại khu vực Đông Nam Á có thể sớm đặt dấu chấm hết cho môi trường an ninh tương đối ôn hoà mà Đông Nam Á đã có đựơc trong 2 thập kỷ qua.
Chạy đua vũ trang trong khu vực
Bộ trưởng Quốc phòng Inđônêxia Purnomo Yusgiantoro hiện đang thực hiện nhiệm vụ tăng cường thực lực cho các lực lượng vũ trang dần già cỗi của quốc đảo này. Với ngân sách quốc phòng 2011 lên tới 6,3 tỷ USD, ông Yusgiantoro đang mường tượng về một loạt các phi đội máy bay chiến đấu Sukhoi thế hệ mới nhất, các tàu ngầm và tàu chiến tân tiến và một thực lực tiếp viện trên không hiện đại cùng với một ngành công nghiệp quốc phòng nội địa được phục hồi. Không muốn bị rớt lại phía sau, các quốc gia khác tại Đông Nam Á có vẻ như cũng đang theo đuổi con đường của Inđônêxia.
Trong bối cảnh một Trung Quốc ngày càng “quyết đoán” hơn và những tranh chấp lãnh thổ, chính trị kéo dài, môi trường an ninh ổn định tại Đông Nam Á đang phải chứng kiến một sự thay đổi âm thầm. Một làn sóng mua vũ khí quốc phòng từ Mianma cho tới Inđônêxia đã thúc đẩy một cuộc chạy đua vũ trang khu vực. Theo số liệu từ Hệ thống Dữ liệu Chuyển giao Vũ khí của Viện Nghiên cứu Hoà bình Quốc tế Stockholm thì số vũ khí chuyển giao tới Đông Nam Á đã tăng gần gấp đôi trong giai đoạn 2005-2009 so với 5 năm trước đó, trong đó vũ khí chuyển giao tới Malaixia tăng 722%, Xinhgapo tăng 146% và Inđônêxia tăng 84%.
Xinhgapo đã nổi lên trở thành thành viên đầu tiên của ASEAN lọt vào danh sách 10 nhà nhập khẩu vũ khí lớn nhất toàn cầu kể từ Chiến tranh Lạnh. Inđônêxia đã tăng ngân sách quốc phòng năm 2011 của mình lên 6,3 tỷ USD và mức chi tiêu này lần đầu tiên vượt quá ngưỡng 1% GDP trong nhiều năm qua. Việt Nam cũng đã ký một thoả thuận khoảng 2 tỷ USD với Nga để mua 6 tàu ngầm lớp Kilo chạy dầu ngay sau một thoả thuận mua 20 máy bay chiến đấu Sukhoi-30 tầm xa. Thái Lan cũng đã đặt 12 máy bay chiến đấu JAS Gripen từ Thuỵ Điển để hiện đại hoá lực lượng không quân đang già cỗi của mình. Malaixia thì vừa nhận 2 tàu ngầm Scorpene và đặt tại cảng hải quân Borneo.
Một Trung Quốc ngày càng “quyết đoán”
Bất kể các mối liên hệ kinh tế mạnh mẽ của khu vực với Trung Quốc, việc mua sắm các loại vũ khí tinh vi đã được thúc đẩy bằng sự phát triển quân sự hết sức nguy hiểm của con vật kếch xù (mô tả Bắc Kinh – PV) cũng như những tuyên bố chủ quyền đối với Biển Nam Trung Hoa (Biển Đông – PV). Báo cáo hàng năm của Lầu Năm góc về thực lực quân sự của Trung Quốc đã nêu bật những thực lực ngày càng lớn mạnh của nước này trong lĩnh vực tên lửa tầm xa, các lực lượng hải quân và kho hạt nhân. Động lực phát triển quân sự một cách bí mật đã cho phép người khổng lồ Đông Á phát triển quân sự một cách bí mật đã cho phép người khổng lồ Đông Á phát triển các thực lực triển khai sức mạnh bên ngoài biên giới. Xét về truyền thống, Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc (PLA) trước đây bị giới hạn ở các chiến dịch xuyên eo biển, nhưng giờ đây PLA được cho là đã có đủ thực lực để tiến hành các chiến dịch quân sự vượt ra ngoài cả Đài Loan, khiến cho các láng giềng trong khu vực hết sức lo ngại.
Tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc đối với Biển Đông cũng là một sự khó chịu đáng kể đối với một số thành viên nhất định của ASEAN. Tháng 7/2010, Trung Quốc tuyên bố “chủ quyền không thể tranh cãi” đối với Biển Đông và tiến hành một loạt các cuộc tập trận hải quân quy mô lớn ở vùng biển này, coi đây là một lời cảnh báo đối với các nước láng giềng nhỏ hơn. Một loạt các quốc gia ASEAN, trong đó có Malaixia, Việt Nam, Brunây, Philippin và Inđônêxia, cũng có tuyên bố chủ quyền một phần đối với vùng biển tranh chấp vốn được cho là giàu dầu mỏ, khoáng sản và đã chứng kiến những cuộc đụng độ dữ dội trong quá khứ. Sự bùng phát của cuộc tranh cãi ngoại giao giữa Trung Quốc và Nhật Bản liên quan tới vùng biển tranh chấp ở Biển Hoa Đông hồi tháng 9/2010 có thể được coi là một dấu hiệu của những gì sẽ xảy ra trong tương lai. Với thực tế đó, các quốc gia Đông Nam Á đang phải tự củng cố để sẵn sàng cho một viễn cảnh như vậy khi mà những căng thẳng leo thang tại Biển Đông. Việc Trung Quốc tăng cường tuần tra tại vùng biển này đã làm gia tăng quan ngại và các quốc gia trong khu vực đang nỗ lực đối phó với sự lớn mạnh này thông qua việc hình thành liên minh với các cường quốc khác.
Những “bên tham gia” khác trong khu vực
Tình hình địa chính trị không thể dự báo trước được của khu vực đã thu hút sự quan tâm của các đối thủ nặng ký khác như Mỹ và Ấn Độ. Sau nhiều năm thờ ơ về chính trị, Mỹ đã chuyển sự chú ý trở lại khu vực với mục đích kiềm chế ảnh hưởng ngày càng gia tăng của Trung Quốc. Trong Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN 17 tại Việt Nam tháng 10/2010, Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton đã “cân não” Trung Quốc khi đưa ra đề nghị làm trung gian cho tranh chấp lãnh thổ tại Biển Đông. Nhân tố nổi bật nhất trong lời đề nghị này của Mỹ là mối quan hệ quân sự đang nồng ấm trở lại giữa Mỹ và Việt Nam. Vấn đề còn đóng băng trong mối quan hệ song phương nồng ấm này có lẽ là thoả thuận hạt nhân dân sự đang được các quan chức Mỹ và Việt Nam đàm phán, theo đó sẽ cho phép quốc gia Đông Nam Á này được mua các công nghệ và nhiên liệu hạt nhân.
Ấn Độ cũng tích cực lôi kéo các nước trong khu vực để thực hiện “chính sách hướng Đông” của mình, tăng cường các thoả thuận thương mại và hợp tác quân sự với các quốc gia như Việt Nam và Malaixia. Trong khi “chính sách hướng Đông” của Ấn Độ ban đầu chỉ là nhằm tăng cường các mối quan hệ thương mại và kinh tế với Đông Á nhưng chính sách này ngày càng mở rộng về quy mô quân sự và chiến lược nhằm đối trọng với chiến lược “chuỗi ngọc trai” đang được thảo luận rộng khắp của Trung Quốc tại Ấn Độ Dương. Cụm từ nói trên được dùng để mô tả việc cung cấp tài chính và xây dựng các cảng biển, các căn cứ thiết bị hải quân của Trung Quốc tại các quốc gia như Mianma, Bănglađét, Xri Lanca và Pakixtan.
Nhờ có mối quan hệ chính trị chặt chẽ trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh, Việt Nam được coi là một đầu mối quan trọng trong chính sách Đông Nam Á của Ấn Độ nhờ vị trí địa chính trị chiến lược và có mối quan hệ thù địch trong lịch sử với Trung Quốc. Trong những năm gần đây, cả Niu Đêli và Hà Nội đã tăng cường hợp tác quân sự: các lực lượng vũ trang Ấn Độ đã cung cấp cho các đối tác phía Việt Nam các hệ thống rađa tân tiến, cung cấp các thiết bị duy tu và sửa chữa các loại vũ khí quân sự hạng nặng (thường có nguồn gốc từ Nga), và hai bên cũng đã tổ chức nhiều cuộc diễn tập hỗn hợp. Ngoài ra, một bước đi quan trọng nữa của Ấn Độ là việc Không quân nước này hồi tháng 9/2010 đã nhất trí với chương trình huấn luyện 2 năm để đào tạo các đối tác phía Malaixia trong việc điều khiển và vận hành các máy bay chiến đấu Sukhoi-30 do Nga sản xuất.
Sự hiện diện ngày càng lớn của Ấn Độ tại khu vực cũng cần phải được nhìn nhận trong bối cảnh các mối quan hệ của nước này với Trung Quốc đang đi xuống liên quan đến tranh chấp tại Himalaya. Việc truyền thông Ấn Độ đưa tin về việc ngày càng có nhiều đơn vị của Quân đội Trung Quốc thâm nhập vào lãnh thổ Ấn Độ, cùng với quyết dịnh của Bắc Kinh trong việc cấp các loại thị thực có đóng dấu khác nhau cho công dân của Casơmia, đã dẫn tới những căng thẳng ngoại giao ngày càng gia tăng giữa hai người khổng lồ châu Á. Trong khi chuyến thăm gần đây của Thủ tướng Trung Quốc Ôn Gia Bảo tới Ấn Độ hồi cuối năm ngoái là một nỗ lực để hàn gắn chiếc cầu nối và thúc đẩy ngoại giao thương mại, tuyên bố đưa ra sau cuộc gặp không nhắc lại chính sách một Trung Quốc – một sự khác biệt lớn từ các tuyên bố trước đây và là dấu hiệu cho thấy quan điểm cứng rắn hơn của Ấn Độ đối với nước láng giềng lớn hơn này. Lo ngại về tầm với chiến lược ngày càng lớn của Bắc Kinh cũng như ảnh hưởng của nước này tại sân sau của mình, Niu Đêli đang nỗ lực lôi kéo các quốc gia láng giềng Đông Nam Á nhỏ hơn có cùng những quan ngại về việc phải sống dưới cái bóng của một Trung Quốc đang lên.
Chiến lược nước đôi của các thành viên ASEAN cũng đã tạo ra nhiều sự lo lắng từ phía Bắc Kinh, nơi các nhà hoạch định chính sách đang hết sức quan ngại về một sự bao vây do Mỹ dẫn đầu. Tháng 7/2010, chuyên mục xã luận trên tờ Thời báo Hoàn cầu của Trung Quốc đưa ra một lời cảnh báo đối với ASEAN: “Các nước Đông Nam Á cần phải hiểu rằng bất cứ một nỗ lực nào nhằm tối đa hoá lợi ích bằng việc chơi trò chơi cân bằng giữa Mỹ và Trung Quốc là hết sức mạo hiểm. Trung Quốc sẽ không bao giờ từ bỏ quyền được bảo vệ các lợi ích cốt lõi của mình bằng các biện pháp quân sự”. Trong khi khả năng về một cuộc chiến tranh vẫn còn xa nhưng động lực mua sắm vũ khí tại Đông Nam Á là một dấu hiệu cho Trung Quốc thấy rằng các quốc gia khu vực sẽ không phải “dễ bảo” khi mà họ buộc phải bảo vệ các lợi ích chiến lược của mình, và điều này sẽ làm phức tạp thêm tình hình an ninh tại khu vực.
Môi trường an ninh khu vực đang bị huỷ hoại
Việc mua bán vũ khí ngày càng tăng cũng cho thấy sự bất lực của ASEAN trong việc tạo ra một cấu trúc an ninh mới cho khu vực. Những tranh cãi chính trị, các phong trào nổi loạn, tranh chấp lãnh thổ khiến bức tranh an ninh khu vực thêm u ám và đổ thêm dầu vào ngọn lửa mua sắm vũ khí. Bị khoá chặt trong cuộc tranh chấp đường biên với Campuchia, Thái Lan cũng đang nỗ lực kiềm chế sự bất ổn kéo dài 6 năm tại các tỉnh miền Nam của mình. Mianma đang tăng cường kho vũ khí và thực lực quân sự của mình vì lo ngại các cuộc nổi loạn của các bộ tộc và cả vì sự lo ngại của giới quân sự cầm quyền về một cuộc xâm lược từ bên ngoài. Malaixia và Inđônêxia thì vẫn đang tranh cãi về biên giới trên biển với căng thẳng có vẻ như ngày càng gia tăng liên quan tới vụ cảnh sát biển Malaixia bắt giữ 3 quan chức ngư nghiệp của Inđônêxia hồi tháng 8/2010. Trong khi khu vực Đông Nam Á nhiều thập kỷ qua chỉ phải đối mặt với nguy cơ xung đột ở mức thấp, nhưng việc gồng mình về tài chính cũng như sự gia tăng ảnh hưởng của giới quân sự tại các quốc gia như Inđônêxia và Thái Lan có nghĩa là sẽ có nhiều nguồn tài chính hơn sẽ được đổ vào để nâng cấp các hệ thống vũ khí cũ nhằm đối phó một cách hiệu quả hơn với các nguy cơ khu vực và tại mỗi nước.
Việc phát hiện mới đây về chương trình tên lửa đạn đạo và hạt nhân của Mianma cũng đã rung lên tiếng chuông cảnh tỉnh đối với toàn khu vực. Trong khi ASEAN vẫn im lặng về sự việc, vì thiếu thông tin liên quan tới bản chất các hoạt động hạt nhân của Mianma, những tham vọng hạt nhân không được kiểm soát của giới cầm quyền quân sự tại nước này có thể làm thay đổi cán cân quyền lực khu vực và có thể châm ngòi cho một cuộc chạy đua vũ khí hạt nhân.
Bước vào năm 2011, bức tranh an ninh ôn hoà của Đông Nam Á có vẻ như chắc chắn tiến tới một kỷ nguyên không thể đoán định được. Vấn đề mấu chốt đối với hoà bình và ổn định của ASEAN nằm ở sự kiểm soát cẩn trọng các mối quan hệ với Trung Quốc và một sự phụ thuộc lớn vào đối thoại chính trị hai bên để giảm những căng thẳng song phưong trong khối. Đồng thời, việc đầu tư lớn hơn vào các mối quan hệ với các nước lớn trong khu vực như Ấn Độ hay Nhật Bản cũng sẽ giúp cân bằng ảnh hưởng ngày càng lớn của Trung Quốc. Ký ức về những năm tháng dữ dội của Chiến tranh Lạnh vẫn luôn khắc sâu trong tâm trí của mỗi người dân Đông Nam Á. Cuộc ganh đua gay gắt giữa các cường quốc và sự tồn tại dai dẳng của những tranh chấp và căng thẳng gây ra sự tàn phá cho cả hai bên giữa các quốc gia ASEAN sẽ chỉ dẫn tới một chu trình xung đột bất ổn khác.
*
* *
(Đài TNHK 11/2)Hiện có quan ngại về một cuộc chạy đua vũ trang ở khu vực Đông Nam Á trong bối cảnh Trung Quốc gia tăng ảnh hưởng tại khu vực. Tại một cuộc hội thảo có chủ đề ‘Hiện đại hoá quân đội ở Đông Nam Á: Một cuộc chạy đua vũ trang?’ ở trung tâm Đông Tây tại Oasinhton, các nhà quan sát cho rằng nhiều quốc gia Đông Nam Á đã gia tăng chỉ tiêu quốc phòng thời gian qua và tăng cường ‘mua sắm’ các thiết bị quân sự tối tân. Như nhận định của Tiến sĩ Richard Bitzinger từ Trường Quan hệ Quốc tế S.Rajaratnam ở Xingapo, cho dù việc mua sắm khí tài đó không đáp ứng các tiêu chí về một cuộc chạy đua vũ trang, thì quá trình hiện đại hoá quân đội mạnh mẽ có thể làm thay đổi đáng kể quy mô của các cuộc xung đột tiềm tàng trong tương lai. Dưới đây là các ý kiến của ông Bitzinger trong chuyên mục ‘Câu chuyện Việt Nam’ kỳ này:
- Theo đánh giá của ông, các lý do nào dẫn tới quá trình hiện đại hoá vũ khí tăng tốc ở Đông Nam Á?
+ Tôi muốn chia các lý do thành hai phần: một là các yếu tố mang tính thúc đẩy và hai là các yếu tố mang tính điều kiện. Đối với thành phần đầu tiên, những lý do khiến nhiều nước Đông Nam Á tiến hành hiện đại hoá quân đội gồm có: các căng thẳng trong khu vực như vấn đề tranh chấp lãnh hải hay các tuyên bố chủ quyền trái ngược tại các khu đặc quyền kinh tế ở biển Nam Trung Hoa (tức Biển Đông); nhu cầu tăng cường khả năng quân sự để có thể chống đỡ được các thế lực khác nhau cũng như bảo vệ các tuyến hàng hải quan trọng; việc chuyển hướng các hoạt động quân sự của Mỹ từ Đông Á sang Đông Nam Á cũng như ảnh hưởng quân sự của Trung Quốc gia tăng ở khu vực biển Nam Trung Hoa. Bắc Kinh đã xây dựng các căn cứ hải quân, triển khai tàu ngầm cũng như máy bay chiến đấu trên đảo Hải Nam ở khu vực biển tranh chấp này. Còn về thành phần thứ hai mang tính điều kiện, thì có thể kể tới chuyện các quốc gia có thêm ngân quỹ để mua sắm vũ khí. Tổng cộng, chi tiêu quân sự của các nước Đông Nam Á gia tăng 50% trong khoảng thời gian từ năm 2000 tới năm 2005. Thêm nữa, một yếu tố khác là khả năng sẵn sàng đáp ứng khách hàng của các nhà máy sản xuất vũ khí. Phần lớn các nước sản xuất vũ khí hàng đầu, đặc biệt là ở Tây Âu, Nga hay Ixraen về cơ bản sản xuất vũ khí để xuất khẩu sang các nước khác, chứ không phải để dùng ở trong nước.
- Có ý kiến cho rằng nhiều quốc gia mua sắm vũ khí để cho ‘bằng bạn, bằng bè’, ông có đồng ý với quan điểm đó không?
+ Có một số yếu tố khác tôi gọi là không mang tính chiến lược như niềm tự hào hay thanh thế của một quốc gia. Nước nào cũng muốn có máy bay chiến đấu mới bay trên bầu trời hay xe tăng chạy dọc trên đường phố nhân ngày quốc khánh. Ngoài ra còn là tư duy ‘anh có thì tôi cũng muốn mua’. Thêm nữa, còn là vấn đề tham nhũng. Nhiều nơi người ta có thể lợi dụng các hợp đồng vũ khí để trục lợi. Cuối cùng, nếu vũ khí sẵn có trên thị trường, và các nhà sản xuất mạnh mẽ thúc đẩy việc bán các sản phẩm với chất lượng cao nhất, thì dĩ nhiên việc mua bán sẽ dễ dàng hơn.
- Vậy các quốc gia trong vùng này mua sắm khí tài gì, thưa ông?
+ Tôi muốn nhấn mạnh một điều, rằng thị trường vũ khí Đông Nam Á tương đối nhỏ, trung bình chi ra khoảng 2 tỷ USD mỗi năm, nhưng đây là một thị trường đang tăng trưởng và mở ngỏ cho các nước sản xuất khác nhau. Về không lực, phần đông các quốc gia lớn thuộc khu vực ASEAN đã chi tiền mua máy bay chiến đấu thế hệ mới, mà người ta gọi là thế hệ 4 hay 4+. Xinhgapo mua máy bay chiến đấu F15. Trong quá khứ, họ mua nhiều máy bay F16. Malaixia, Inđônêxia và Việt Nam thì mua máy bay chiến đấu Su-30 của Nga. Về hải quân, Xinhgapo, Malaixia và Inđônêxia đều mua thêm các tàu khu trụccủa Thuỵ Điển, Anh và Hà Lan. Việt Nam cũng ký hợp đồng mua tàu ngầm lớp kilo của Nga. Các lực lượng bộ binh của các nước này cũng tăng cường khí tài. 10 -15 năm trước đây, ý tưởng về việc xe tăng chiến đấu loại lớn có mặt ở Đông Nam Á là điều không tưởng, nhưng giờ thì chuyện đó đã thay đổi.
- Vậy, việc các quốc gia ASEAN tăng cường mua sắm vũ khí thời gian qua có thể được coi là một ‘cuộc chạy đua vũ trang’ không?
+ Những sự kiện xảy ra thời gian qua ở khu vực khiến người ta nghĩ rằng dường như đang có một cuộc chạy đua vũ trang gây bất ổn ở Đông Nam Á. Trong khi nghiên cứu, bản thân tôi đã xem xét các học thuyết của các tác giả khác nhau về các thành tố cấu thành một cuộc chạy đua vũ trang, như vấn đề đối đầu giữa hai nước kiểu như Mỹ và Liên Xô trước đây; việc chủ tâm tái cơ cấu quân đội dựa trên thái độ của đối thủ cũng như lập kế hoạch về quân sự dựa trực tiếp trên các tính toán về khả năng và mục tiêu của đối thủ hay tăng cường chi tiêu quốc phòng và gia tăng mua sắm vũ khí với tốc độ nhanh và số lượng lớn. Xét về tất cả các tiêu chí trên, thì tôi cho rằng khó có thể coi khu vực Đông Nam Á đang chạy đua vũ trang. Điều tôi muốn nói là ít quốc gia ở Đông Nam Á đang thực sự tham gia cuộc chơi. Tại nhiều quốc gia ASEAN như Brunây, Mianma, Campuchia hay Lào, ngân quỹ dành cho quốc phòng dưới một tỷ USD một năm và ít tăng thêm. Họ không mua nhiều vũ khí và mất nhiều thời gian để mua một thứ gì đó.
- Yếu tố Trung Quốc có tác động tới công cuộc hiện đại hoá quốc phòng tại các quốc gia Đông Nam Á không, thưa ông?
+ Phải nói rằng yếu tố Trung Quốc làm phức tạp việc hoạch định chính sách mua sắm vũ khí ở khu vực và cũng củng cố các giả thuyết về ‘cuộc chạy đua vũ trang ở khu vực’. Xét về một khía cạnh nào đó, dĩ nhiên có thành tố ‘chống Trung Quốc’ trong việc mua sắm vũ khí ở Đông Nam Á, nhất là khi xét về việc tăng cường hải quân của các nước trong khu vực, đặc biệt là Việt nam, nhưng khó có thể nói rằng ASEAN đang chạy đua vũ trang với Trung Quốc. Bản thân Bắc Kinh cũng vậy, tôi không nghĩ là họ cho rằng mình vũ trang để chạy đua với các quốc gia Đông Nam Á./.
-----------
-XUNG QUANH VẤN ĐỀ BIỂN ĐÔNG anhbasam on 18/02/2011
Tài liệu tham khảo đặc biệt
Thứ Năm, ngày 17/02/2011
(Bài của tác giả Tiết Lực, Phó chủ nhiệm Phòng chiến lược quốc tế, Viện nghiên cứu chính trị và kinh tế thế giới, Học viện khoa học xã hội Trung Quốc, đăng trên “Thời báo hoàn cầu” số 1/2011)
TTXVN (Bắc Kinh 14/2)
Trọng tâm của vấn đề Nam Hải (Biển Đông) là Nam Sa (Trường Sa). Biển Đông có 4 quần đảo lớn, trong đó chỉ có quần đảo Trường Sa và vùng biển thuộc quần đảo này là liên quan dến cả 6 bên gồm Trung Quốc, Đài Loan, Việt Nam, Malaixia, Brunây và Philippin, cộng thêm Inđônêxia (chưa kiểm soát các đảo ở Trường Sa nhưng bộ phận về vùng đặc quyền kinh tế mà Inđônêxia chủ trương đã tiến vào phạm vi đường chín vạch đứt đoạn của Trung Quốc), tạo nên tương quan “6 nước 7 bên” trong vấn đề tranh chấp Trường Sa. Vậy phải giải quyết tranh chấp bằng cách nào? Tác giả bài viết này cho rằng thành lập Tổ chức phát triển năng lượng Trường Sa là một hướng đi khả thi, cần đưa vào chương trình nghị sự.
Có hai phương thức giải quyết tranh chấp Trường Sa là phương thức không hòa bình và phương thức hòa bình. Trong số các nước thành viên ASEAN có liên quan, một số người có quan điểm theo chủ nghĩa hiện thực chính trị quốc tế cho rằng vấn đề lãnh thổ là cuộc chơi hòa 0-0 (không có kẻ thắng người thua mà chỉ là hòa không ai được gì), vấn đề Biển Đông cuối cùng chỉ có thể giải quyết bằng phương thức không hòa bình. Ở trong nước Trung Quốc cũng có người chủ trương “Nam Hải cuối cùng phải có một cuộc chiến”. Nhưng quan điểm như vậy không thuộc dòng chủ lưu, trên thực tế cũng không khả thi, hơn nữa các bên liên quan cũng đều không có ý thức thông qua chiến tranh để giải quyết tranh chấp. “Hiệp ước thân thiện và hợp tác Đông Nam Á” cũng hạn chế các nước thành viên sử dụng phương thức phi hòa bình để giải quyết vấn đề tranh chấp lãnh thổ.
Phương thức hòa bình giải quyết tranh chấp có ba loại:
- Bên thứ ba tài phán quyết định (thông qua tòa án quốc tế, tòa án luật biển quốc tế, Ủy ban phân giới thềm lục địa Liên hợp quốc);
- Đàm phán song phương trong số 7 bên;
- Thông qua đàm phán đa phương để giải quyết.
Trong số “5 nước ASEAN” có một số nước hy vọng thông qua tài phán của bên thứ ba để giải quyết nhưng Trung Quốc phản đối. Trung Quốc thiên về hướng đàm phán song phương với 5 nước ASEAN để giải quyết tranh chấp Trường Sa, nhưng năm 1994 các nước ASEAN công khai tuyên bố “từ nay về sau công tác đối ngoại sẽ chấp nhận đàm phán bằng danh nghĩa tập thể chứ không chấp nhận danh nghĩa song phương” trên vấn đề này. Lập trường như vậy đã tiếp diễn cho đến hiện nay. Vì thế, phương thức giải quyết bằng đàm phán dựa theo khuôn khổ đa phương 6 nước 7 bên đã trở thành một hướng đi có thể được chấp nhận. Vấn đề ở chỗ khởi động một cách thiết thực tiến trình này như thế nào.
Từ tháng 1/1990 đến nay, 6 nước 7 bên đã tổ chức một số lần “hội nghị không chính thức các bên liên quan về quản lý tranh chấp tiềm tàng ở Biển Đông”, nhưng ngoài việc trao đổi thông tin, trình bày lập trường, đã không thu được tiến triển thực chất. Điều đáng nêu lên ở đây là năm 2005 ba nước Trung Quốc, Việt Nam và Philippin đã ký bản “Hiệp định thăm dò địa chấn hỗn hợp”, sau đó đã hợp tác thu thập dữ liệu địa chấn ở vùng biển rộng 142.886 km2 và đã xử lý số liệu. Dự án diễn ra trong thời hạn 3 năm đã hoàn thành thuận lợi.
Bước tiếp theo sẽ là gì? Trước mắt trọng tâm tranh chấp Biển Đông là lợi ích kinh tế, nhất là lợi ích năng lượng. Từ đó việc thành lập Tổ chức phát triển năng lượng Trường Sa có thể là cách lựa chọn khả thi. Đại thể là trong tình trạng chưa biết rõ về trữ lượng tài nguyên ở vùng biển Trường Sa, tổ chức này sẽ đi đầu điều tra thăm dò địa chất một cách toàn diện, làm rõ tình hình dưới đáy biển, xác định một khu vực nhỏ chưa khai thác làm khu thí điểm, khai thác chung, tổng kết kinh nghiệm, sau đó mở rộng phạm vi và diện tích hợp tác. Đồng thời tổ chức các học giả, các quan chức đã nghỉ hưu thành một đoàn chuyên gia cố vấn, tiếp xúc trao đổi đầy đủ bằng phương thức gọi là quỹ đạo tuyến hai, sau đó đưa ra đề án khả thi để tiếp tục hợp tác.
Biện pháp trình bày trên đây có một số ưu điểm như sau:
Thứ nhất, vấn đề chính trị quân sự thường có tính chất hòa 0-0, nhưng vấn đề kinh tế thường có tính chất hòa nhưng cùng thắng, nói về việc khai thác năng lượng ở Trường Sa, có thể thông qua phương thứ làm chiếc bánh ga tô lớn để các bên cùng hưởng lợi. Thức chất tranh chấp chủ quyển là tranh chấp lợi ích. Trong tình huống “không thể độc chiếm” hoặc “theo đuổi độc chiếm có tác dụng phụ rất lớn”, thông qua hợp tác chia sẻ lợi ích sẽ là hướng đi hiện thực.
Thứ hai, hợp tác Đông Á có một đặc điểm lớn là chú trọng tâm lý thoải mái của các bên tham gia, “6 nước 7 bên cùng tham gia” sẽ phù hợp với đặc điểm này, dễ được các bên chấp nhận, từ đó sẽ thay đổi cục diện hợp tác đa phương vốn chỉ hạn chế ở trạng thái “ngồi đàm phán suông” như hiện nay.
Thứ ba, năm nước ASEAN nhờ đó mở rộng phạm vi khai thác dầu khí. Một số giếng dầu của các nước này ở gần hoặc tiến vào phạm vi đường 9 đoạn của Trung Quốc, sẽ rất khó tiếp tục sách lược khai thác “đơn phương độc tiến” như trước đây. Trong khi đó, Trung Quốc cũng sẽ thay đổi cục diện “một giọt dầu không khai thác, một tấc khí cũng không được” ở Trường Sa như hiện nay bằng phương thức ít trở ngại nhất. Trong khai thác ở Biển Đông Trung Quốc cần phải cân bằng nhiều kiểu lợi ích, hài hòa trong nhiều mối quan hệ, không thích hợp với mô hình khai thác trong thế đối đầu với 5 nước ASEAN, trừ phi trong trường hợp bất đắc dĩ.
Cuối cùng, củng cố xây dựng hợp tác Đông Nam Á là một xu thế lớn, trong khi tranh chấp Trường Sa lại là một trở ngại lớn đối với nhu cầu củng cố hợp tác Đông Nam Á. Thành lập Tổ chức phát triển năng lượng Trường Sa sẽ nhằm biến “năng lượng tranh chấp” như vậy thành “chất kết dính hợp tác”, kiến tạo và mở rộng lợi ích chung với 6 nước 7 bên trong hoàn cảnh đang va chạm, như vậy sẽ giúp ích cho việc xây dựng ý thức đồng thuận ở Đông Á.
Trải qua quá trình hợp tác chặt chẽ hơn 1.000 năm, các nước Đông Á cần có trí tuệ vượt qua hạn chế nội tại của một hệ thống quốc gia dân tộc.
*
* *
Báo “Hải dương Trung Quốc” số ra gần đây đăng hai bài viết của tác giả Tiêu Hán Cường – chuyên gia địa chất biển và luật biển thuộc Bộ tài nguyên đất nước – dẫn các căn cứ theo cách lập luận của Trung Quốc khẳng định quyền và lợi ích của Trung Quốc ở Nam Hải (Biển Đông) như vẫn đang khẳng định hiện nay là phù hợp với “Công ước của Liên hợp quốc về luật biển”, rằng đường 9 đoạn đứt quãng là đảm bảo pháp lý để bảo vệ chủ quyền của Trung Quốc ở Nam Hải. Nội dung các bài viết như sau:Bài I: “Quyền lợi của Trung Quốc ở Nam Hải phù hợp với công ước của Liên hợp quốc về luật biển”
Các đảo ở Nam Hải (Biển Đông) từ xưa đến nay vốn là lãnh thổ của Trung Quốc, bao gồm các quần đảo Đông Sa, Trung Sa, Tây Sa (Hoàng Sa), Nam Sa (Trường Sa) và các vùng biển phụ cận thuộc các quần đảo nói trên. Các quần đảo và vùng biển phụ cận này từ lâu đều nằm dưới sự quản lý hữu hiệu của Chính phủ Trung Quốc, và được cộng đồng quốc tế công nhận rộng rãi. Các quy định liên quan đến quyền và lợi ích mang tính lịch sử trong “Công ước của Liên hợp quốc về luật biển” cho thấy rõ việc Trung Quốc kiên quyết bảo vệ quyền và lợi ích của mình ở các đảo và vùng biển phụ cận là hoàn toàn phù hợp với quy tắc quốc tế và sự thực lịch sử đã được công nhận. “Công ước của Liên hợp quốc về luật biển” được Hội nghị Liên hợp quốc về biển lần thứ ba năm 1982 thông qua và có hiệu lực từ ngày 16/11/1994, cho đến nay đã có 138 quốc gia phê chuẩn tham gia. Công ước nói trên gồm 17 phần, phần chính có tổng cộng 320 điều, ngoài ra còn 9 văn bản kèm theo và các hiệp định liên quan, tổng cộng có 456 điều khoản, nội dung đề cập đến các phương diện trong lĩnh vực luật biển. Có 3 phần, tổng cộng gồm 6 điều khoản là những qui định tương đối rõ ràng liên quan đến việc tôn trọng quyền và lợi ích mang tính lịch sử hoặc quyền lợi truyền thống.
1. Khoản 6 điều 10 quy định về “Vịnh” thuộc Mục 2 nói về “giới hạn lãnh hải” trong phần 2 liên quan đến “Lãnh hải và khu vực giáp ranh” của Công ước, lần đầu tiên có quy định chung: “Không áp dụng cho khu vực được gọi là Vịnh mang tính lịch sử, cũng không áp dụng trong bất cứ tình huống nào liên quan đến đường thẳng, đường cơ bản được quy định trong điều 7”. Như vậy cũng có nghĩa là các quốc gia có vùng biển tiếp giáp nhau hoặc hướng sang nhau, khi phân định lãnh hải và khu vực tiếp giáp, phải ưu tiên đảm bảo quyền lợi ở khu vực vịnh mang tính lịch sử.
2. Điều 15 trong Mục 2 về “giới hạn lãnh hải” thuộc phần 2 của Công ước nói về “Lãnh hải và khu tiếp giáp” cho biết: Trong “hoạch định đường phân giới lãnh hải giữa các quốc gia có vùng biển hướng sang nhau hoặc liền bên cạnh nhau”, có nói đến khả năng “nếu do quyền sở hữu mang tính lịch sử hoặc do tình huống đặc biệt nào đó mà cần thiết phải phân định ranh giới lãnh hải giữa hai nước theo phương pháp khác với quy định nói trên thì không áp dụng quy định nói trên” (có nghĩa không có quyền phân giới lãnh hải đến khu vực biển ngoài đường trung gian giữa các nước tiếp giáp nhau).
3. Khoản (b) Điều 46 nói về “quốc gia quần đảo” ở phần 4 của Công ước quy định: “Quần đảo là một quần thể các đảo, bao gồm một số đảo và một số vùng nước và các địa hình tự nhiên khác liền với các đảo đó, có liên quan mật thiết với nhau, khiến cho các đảo, vùng nước và các địa hình tự nhiên khác nói trên về bản chất tạo thành một thực thể địa lý, kinh tế và chính trị, hoặc trong lịch sử vốn được coi là thực thể như vậy”. Những quy định đó hoàn toàn phù hợp với các đảo, bãi đá, bãi cát và các bãi đá ngầm, bãi san hô và bãi cát ngầm để có thể được coi là đặc điểm địa lý tự nhiên của các bãi hoàn chỉnh.
4. Khoản 6 điều 47 trong Công ước nói về “đường cơ sở của quần đảo” cũng quy định: “Nếu một phần của vùng nước thuộc quốc gia quần đảo nằm ở giữa hai bộ phận của quốc gia tiếp giáp trực tiếp, thì quyền lợi hiện tại và mọi lợi ích hợp pháp khác mà quốc gai tiếp giáp đó đang hành xử ở vùng nước đó về mặt truyền thống, cùng với mọi quyền lợi như đã quy định trong hiệp định giữa hai nước đều phải tiếp tục được tôn trọng”. Trung Quốc vừa là nước lớn trên lục địa, cũng vừa là nước lớn về biển ở châu Á. Trung Quốc có một số quần đảo mà diện tích và dân số trên các quần đảo đó đều lớn hơn diện tích và dân số của một số quốc gia quần đảo, Trung Quốc có quyền được hưởng quyền lợi hợp pháp như Công ước đã quy định đối với quốc gia quần đảo hữu quan.
5. Khoản 1 điều 51 về “hiệp định hiện hữu, quyền đánh bắt cá truyền thống và đường dây cáp điện ngầm hiện có dưới đáy biển” cũng quy định rõ: “Trong tình huống điều 49 có thể bị xâm hại, quốc gia quần đảo cần tôn trọng hiệp định hiện hữu với quốc gia khác, đồng thời cần thừa nhận quyền đánh bắt cá truyền thống và các hoạt động hợp pháp khác của nước trực tiếp tiếp giáp bên cạnh ở một số khu vực trong phạm vi vùng nước thuộc quần đảo”. Tất cả đều biết, các hoạt động khảo sát, tuần tra và đánh bắt cá của người Trung Quốc tại các đảo và các vùng biển phụ cận các đảo ở Nam Hải (Biển Đông) đã sớm được ghi chép từ hơn 2.000 năm nay.
6. Trong mục (a) (1) khoản 1 điều 298 ở phần 15 của Công ước về việc “giải quyết tranh chấp”, tức là việc “áp dụng thích hợp ngoại lệ mang tính chất lựa chọn tùy ý ở mục 2” quy định: “Những tranh chấp được giải thích hoặc vận dụng thích hợp theo các điều 15, 74 và 83 về việc hoạch định biên giới biển, hoặc tranh chấp liên quan đến vùng vịnh hoặc quyền sở hữu mang tính lịch sử, không nên chuyển sang trình tự giải quyết cưỡng chế dẫn đến hình thức tài phán có sức ràng buộc. Trung Quốc có đầy đủ chứng cứ pháp lý để bảo vệ lợi ích chủ quyền ở quần đảo Nam Sa (Trường Sa) và vùng biển phụ cận của quần đảo Nam Sa, phản đối mọi ý đồ quốc tế hóa vấn đề Nam Sa.
Bài II: “Đường ranh giới 9 đoạn – Đảm bảo pháp lý bảo vệ chủ quyền quốc gia ở Nam Hải”
Các đảo ở Nam Hải (Biển Đông) của Trung Quốc theo các hướng Đông, Tây, Nam có đường biên giới quốc gia gồm 9 đoạn đứt quãng, được gọi là “đường biên giới quốc gia liên tục” hay “đường 9 đoạn Nam Hải”. Đó không chỉ là “đường quy thuộc chủ quyền các đảo” đối với các đảo ở Nam Hải, mà còn là “đường phạm vi” vùng biển quản lý Nam Hải. Đường biên giới biển truyền thống ở Nam Hải đã phản ánh một cách khách quan rằng người Trung Quốc phát hiện các đảo ở Nam Hải sớm nhất, khai thác tài nguyên Nam Hải sớm nhất cũng như phản ánh không gian chuẩn xác mà Trung Quốc thực hiện kiểm soát một cách hữu hiệu.
Người viết bài này cho rằng kiên trì coi đường biên giới biển truyền thống là phạm vi kiểm soát Nam Hải của Trung Quốc phù hợp với sự thực lịch sử, với căn cứ pháp lý và đặc điểm địa lý địa chất của bản thân các đảo ở Nam Hải.
Trước hết, các đảo ở Nam Hải bao gồm hơn 310 đảo, mỏm đá, bãi cát, bãi đá ngầm, bãi san hô và bãi cát ngầm, diện tích vùng biển phụ cận của các đảo, bãi nói trên khoảng 1,96 triệu km2, tạo thành 4 nhóm bãi san hô lớn là Đông Sa, Tây Sa, Trung Sa và Nam Sa, mỗi nhóm như vậy tập hợp thành một chỉnh thế độc lập tương đối. Các sách cổ của Trung Quốc đã ghi lại thành các tên gọi “Thiên lý Trường Sa, Vạn lý Thạch Đường”, phản ánh một cách hình tượng đặc điểm địa chất, địa lý và phạm vi của chúng.
Thứ hai, Trung Quốc không chỉ mở ra một cách sớm nhất con đường tơ lụa trên biển từ Nam Hải thống sang châu Phi, Trịnh Hòa đi ra biển phía Tây đã hơn 600 năm, từ Chiến tranh Thế giới thứ Hai đến nay các đảo ở Nam Hải cũng luôn nằm dưới sự quản lý hữu hiệu của Chính phủ Trung Quốc. Nhà xuất bản bản đồ quyền uy trên thế giới cũng đều ghi rõ phạm vi biên giới biển của Trung Quốc ở Nam Hải theo các ấn phẩm công khai do Chính phủ Trung Quốc phê chuẩn.
Thứ ba, trước khi Chính phủ Trung Quốc công bố biên giới lãnh thổ ở Nam Hải, ngày 23/9/1945, Tổng thống Mỹ Truman khi đó đã ra tuyên bố về thềm lục địa, nói rõ “tài nguyên thiên nhiên ở vùng biển quốc tế nhưng nằm trên đáy thềm lục địa và lòng biển tiếp giáp bờ biển của Mỹ là thuộc về nước Mỹ, chịu sự quản lý và kiểm soát của nước Mỹ”; Để bảo vệ quyền và lợi ích biển của mình, các nước Mỹ Latinh cũng đều tuyên bố quyền lãnh hải 200 hải lý. Chính phủ Trung Quốc ngay từ năm 1974 đã coi đường biên giới biển như vậy như một dấu mốc chính thức công khai với thế giới, vì thế Trung Quốc có đầy đủ chứng cứ lịch sử về mặt pháp lý.
Thứ tư, đường biên giới biển truyền thống cũng có thể phản ánh Trung Quốc ngay từ thời nhà Đường, nhà Tống đã quản lý một cách hữu hiệu vùng biển này, như lập khu quản lý thủy quân, xây dựng quy chế tuần tra vùng biển Nam Hải. Dù là “Công ước của Liên hợp quốc về luật biển” được thông qua tại Hội nghị luật biển lần thứ ba tháng 4/1982 cũng có nhiều chỗ quy định việc giải quyết tranh chấp biển cần tôn trọng quyền và lợi ích mang tính lịch sử, không nên chuyển giao đến trình tự cưỡng chế dẫn đến hình thức tài phán cưỡng ép, như vậy là hết sức phù hợp với tình hình thực tế ở Nam Hải thuộc Trung Quốc.
Tuy nhiên, những người hiểu được đường phân giới như vậy hiện nay quả không thật nhiều, đòi hỏi phải tăng cường tuyên truyền. Mặt có lợi ở đây là trong văn kiện mang tính quyền uy do cơ quan chức năng có thẩm quyền coa nhất ở Trung Quốc xuất bản chính thức năm 1947 đã đánh dấu rõ “ký hiệu biên giới quốc gia” là cấp cao nhất đối với đường biên giới này. Hơn nữa biên giới vùng biển, sông hồ là dùng đường ký hiệu đứt đoạn biểu thị theo thông lệ quốc tế, cũng là quy tắc thông thường trong kỹ thuật vẽ bản đồ. Biển Bering giữa Mỹ và Nga, khu vực hồ giữa Mỹ và Canada, các khu vực giữa Philippin với Inđônêxia và Malaixia, giữa Xingapo với Malaixia và Inđônêxia, biên giới eo biển Triều Tiên giữa Hàn Quốc và Nhật Bản, không có khu vực nào là không dùng đường biên giới đứt đoạn giữa các quốc gia để biểu thị.
Tác giả bài viết kiến nghị cần làm rõ đường biên giới này từ nhiều góc độ khác nhau và thường xuyên cho công bố một số tư liệu mang tính lịch sử, tuân thủ theo tinh thần của quan điểm phát triển khoa học trên thực tiễn, tăng cường giải thích thêm những nội dung cần thiết, tiến theo cùng thời đại khiến cho chúng trở nên hoàn thiện. Cố gắng đạt đến độ nhất trí với các văn bản pháp luật về biển ở trong và ngoài nước để coi đó là đường biên giới phạm vi quản lý các đảo ở Nam Hải, giống như đường biên giới bên ngoài về thềm lục địa và khu đặc quyền kinh tế ở Nam Hải Trung Quốc.
*
* *
(Đài RFA 1/2)Mới đây, Chính phủ Việt Nam chính thức yêu cầu Trung Quốc gỡ bỏ những nội dung sai trái phổ biến qua dịch vụ bản đồ “Map World” trong đó Bắc Kinh đơn phương coi hầu hết chủ quyền khu vực Biển Đông thuộc về Trung Quốc.
Tuyên bố chủ quyền với “đường lưỡi bò” là bất hợp pháp
Liên quan đến vấn đề Biển Đông, hồi tháng 11/2010, ông Raul Pedrozo, Phó Giáo sư tại Trung tâm Nghiên cứu Hải chiến của Học viện Chiến tranh Hải quân Mỹ có bài viết mang tựa đề “Bất động sản vùng biển của Bắc Kinh” trên Tạp chí Foreign Affairs. Vũ Hoàng tiếp xúc và trao đổi với ông Pedrozo để hiểu rõ thêm những vấn đề liên quan đến Biển Đông này.
- Ông có thể cho biết việc xác định chủ quyền “đường lưỡi bò” của Trung Quốc sẽ ảnh hưởng thế nào đến quyền lợi của các quốc gia trong đó có Việt Nam có chung hải phận tại Biển Đông?
+ Trước khi bắt đầu tôi xin lưu ý rằng những lời tôi nói ở đây chỉ là ý kiến của cá nhân tôi chứ không phải là phát ngôn chính thức từ Chính phủ Mỹ hay là ý kiến đại diện cho Học viện Chiến tranh Hải quân Mỹ. Trước hết, tôi phải nói rằng việc tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc với “đường lưỡi bò” là hoàn toàn bất hợp pháp và không có cơ sở dựa trên luật pháp quốc tế. Và ngày bản thân Inđônêxia từ lâu cũng đã phản đối và cũng đã có hồ sơ gửi lên Liên hợp quốc. Nếu như lời tuyên bố này có hiệu lực thì chắc chắn sẽ có những ảnh hưởng tiêu cực đến việc đi lại của tất cả các quốc gia ở vùng Biển Đông, tương tự như vậy, quyền tập trận quân sự hợp pháp của tất cả các nước trên vùng Biển Đông cũng bị ảnh hưởng. Như chúng ta đã thấy trong vòng hơn một thập kỷ qua, Trung Quốc thường xuyên can thiệp bất hợp pháp vào những hoạt động của tàu quân sự và máy bay của Mỹ không chỉ ở vùng Biển Đông mà còn ở vùng biển Hoa Đông và Hoàng Hải. Và điều cuối cùng tôi muốn nói là nếu lời tuyên bố về “đường lưỡi bò” của Trung Quốc có hiệu lực thì sẽ ảnh hưởng đến mọi quốc gia trong khu vực, trong đó có Việt Nam chẳng hạn những việc như khai thác tài nguyên khoáng sản ngoài biển, cụ thể là dầu, khí đốt và nghề cá tại vùng này.
Cần sự hợp tác nhằm tạo đồng thuận của khối ASEAN
- Trong bài viết của ông, ông có nói là Mỹ nên hợp tác với Việt Nam và Inđônêxia trong việc giải quyết vấn đề “đường lưỡi bò”, và ông cũng có trích lời Thượng nghị sỹ Jim Webb là “Mỹ có cả tầm vóc lẫn sức mạnh quốc gia” để làm đối trọng với Trung Quốc, thì ngoài chuyện tăng cường sự có mặt của hải quân Mỹ, ông nghĩ là Mỹ có thể có những biện pháp gì khác không?
+ Ngoài việc tăng cường sức mạnh hải quân ngoài Biển Đông, tôi nghĩ điều đầu tiên là Chính phủ Mỹ nên khuyến khích tất cả các nước trong khu vực đẩy mạnh việc thực thi các quy tắc ứng xử vùng Biển Đông, điều này cũng đã được Ngoại trưởng Mỹ Hilary Clinton nhắc đến tại Hội nghị Diễn đàn hợp tác khu vực ASEAN hồi tháng 7/2010. Bên cạnh đó, điều quan trọng là Mỹ phải khuyến khích tất cả các quốc gia muốn khiếu kiện vấn đề đảo ngoài Biển Đông cần phải giải quyết những khác biệt này thông qua những tranh chấp về lãnh thổ đất đai. Tôi nghĩ điều này là quan trọng bởi vì nếu những quốc gia có tranh chấp mà không giải quyết được những khác biệt này thì Trung Quốc sẽ tiếp xúc để đặt vấn đề này một cách song phương với cá nhân từng quốc gia có tranh chấp. Và thường thì các quốc gia trong khu vực không đủ sức mạnh quân sự và kinh tế để đối chọi lại với Trung Quốc. Vì thế, theo tôi nghĩ điều quan trọng là các quốc gia trong khu vực cần hợp tác với nhau để giải quyết những khác biệt này và do đó những quốc gia này có thể thể hiện thái độ đồng thuận của một khối ASEAN với vấn đề Biển Đông.
- Nếu Mỹ không mạnh tay trước những hành động gây hấn này của Trung Quốc ngoài Biển Đông thì ông nghĩ sẽ có những hậu quả thế nào cho khu vực Biển Đông?
+ Tôi cho là trong suốt một thời gian dài vừa qua, Mỹ vẫn giữ thái độ nước đôi về những hành động của Trung Quốc trong vấn đề Biển Đông và nhất là trước những hành động gây hấn ngày càng nhiều hơn của Trung Quốc ngoài Biển Đông và đối với Việt Nam. Tôi nghĩ rằng nếu cứ tiếp tục chiều theo ý hoặc tiếp tục đáp ứng những yêu sách của Trung Quốc về vấn đề này thì sẽ khiến Trung Quốc càng trờ nên hung hăng hơn trong việc tuyên bố chủ quyền ở Biển Đông. Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Mỹ Robert Gates đã tuyên bố tại cuộc đối thoại Shangri-La cũng như bà Ngoại trưởng Hillary Clinton cũng tuyên bố tại Hội nghĩ Diễn đàn hợp tác ASEAN hồi tháng 7/2010 đều nhấn mạnh tầm quan trọng của khu vực này đối với Mỹ về cả góc độ quân sự lẫn kinh tế. Tôi nghĩ rằng những lời tuyên bố này đang đi đúng hướng và xin được trích một câu nói của người Trung Quốc là “ngôn bất khả chính dã” có nghĩa là “lời nói không làm cho sự việc đúng được” và đã đến lúc Mỹ cần phải làm cho lời nói đi đôi với việc làm và đối mặt với sự hung hăng của Trung Quốc tại khu vực này.
- Theo ông, Việt Nam, đất nước có lịch sử tranh chấp lâu dài về mặt lãnh thổ cũng như tranh chấp lãnh hải trong gần nửa thế kỷ qua với Trung Quốc, nên có những biện pháp cụ thể gì về “đường lưỡi bò”?
+ Tôi nghĩ rằng Việt Nam là nạn nhân của sự hung hăng của Trung Quốc. Kể từ hồi năm 1974, Trung Quốc lần đầu tiên xâm chiếm đảo Hoàng Sa, chiếm cứ quần đảo này một cách bất hợp pháp và vẫn chiếm giữ cho đến tận ngày nay. Và tôi cũng muốn nói rằng việc lực lượng quân đội Trung Quốc tấn công binh lính Việt Nam năm 1988, cũng như việc bắt giữ các tàu bè của ngư dân Việt Nam suốt hơn một thập kỷ vừa qua, đã minh chứng cho sự nguy hiểm vì đã không ra mặt đối phó với Trung Quốc khi họ tuyên bố chủ quyền bất hợp pháp tại vùng Biển Đông. Với những điều tôi vừa nói, thì trên thực tế, Việt Nam rất khó có thể tự mình làm được điều gì trước sự hung bạo của Trung Quốc. Việt Nam cần sự giúp đỡ của các nước trong khối ASEAN cũng như các nước khác, chẳng hạn như của Mỹ, để giải quyết triệt để việc Trung Quốc bắt nạt và đe dọa ngoài vùng Biển Đông. Chúng ta đã thấy từng quốc gia riêng lẻ sẽ không thể đối chọi lại được với Trung Quốc về cả khía cạnh quân sự lẫn kinh tế. Vì thế cần có sự phối hợp của nhiều quốc gia để giải quyết vấn đề Biển Đông này.
*
* *
(Đài RFI 14/2)Đòi hỏi chủ quyền rộng khắp của Trung Quốc thể hiện trên tấm bản đồ hình chữ U đã bị nhiều người coi là vô lý, thế nhưng Chính phủ Trung Quốc vẫn tiếp tục phô trương. Cộng thêm với tính chất mơ hồ, các yêu sách này càng làm cho vấn đề Biển Đông khó giải quyết.
Trong thời gian gần đây, hồ sơ Biển Đông lại nổi cộm trở lại trong quan hệ Việt-Trung. Ngày 26/1/2011, Việt Nam đã chính thức lên tiếng phản đối Trung Quốc cung cấp cho quốc tế tấm bản đồ bị gọi nôm na là “đường lưỡi bò”, vi phạm chủ quyền của Việt Nam. Hà Nội đã có phản ứng như trên sau khi Cục Đo đạc Bản đồ Quốc gia Trung Quốc ngày 18/1 đã khai trương dịch vụ bản đồ trực tuyến “Map World”, trong đó có việc cung cấp bản đồ thể hiện đường yêu sách 9 đoạn, gộp toàn bộ vùng quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa vào chủ quyền của Trung Quốc.
Như thông lệ, Phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Việt Nam, bà Nguyễn Phương Nga, đã lên tiếng tố cáo hành động của Trung Quốc là đã “vi phạm chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, vi phạm chủ quyền và quyền tài phán đối với vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa của Việt Nam và của các nước ven Biển Đông”. Việt Nam đã yêu cầu Trung Quốc phải xóa bỏ ngay lập tức những điều được Việt Nam coi là “những nội dung sai trái” trong bản đồ.
Điều đáng nói là Bắc Kinh đã khai trương dịch vụ trực tuyến Map World đó chỉ vài ngày trước khi các Ngoại trưởng của Trung Quốc và ASEAN gặp nhau ngày 25/1 tại Côn Minh (Trung Quốc), và trong bối cảnh hai bên đang tìm cách thúc đẩy việc thực thi Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC), được ký kết năm 2002 nhưng vẫn không được thực hiện.
Hành động của Trung Quốc quảng bá trên thế giới yêu sách chủ quyền đơn phương của họ tại khu vực Biển Đông như dự báo trước thất bại của các cuộc thương thảo. Theo các nguồn tin báo chí sau đó, các cuộc tiếp xúc đó vẫn không mang lại kết quả gì cụ thể trong mục tiêu thúc đẩy việc áp dụng DOC. Một nhà ngoại giao ASEAN còn phát biểu bi quan rằng: “Thương thuyết về bản hướng dẫn thực hiện DOC sẽ bị bế tắc trong nhiều năm nữa”.
Phải nói rằng từ ngày Trung Quốc chính thức công khai hóa tấm bản đồ hình chữ U bằng cách gửi tài liệu này lên Liên hợp quốc, tự nhận chủ quyền trên khoảng 80% diện tích của Biển Đông, sự kiện này đã là dấy lên những lời chỉ trích, không chỉ từ phía các nước như Việt Nam, Malaixia, Philippin… vốn có tranh chấp với Trung Quốc tại vùng biển này, mà cả từ những quốc gia bên ngoài hay từ giới nghiên cứu, học giả khắp nơi.
Đòi hỏi chủ quyền rộng khắp đó đã bị rất nhiều người, nhiều nước coi là vô lý, không có một chút cơ sở pháp lý nào, thế nhưng Chính phủ Trung Quốc vẫn tiếp tục phô trương, như muốn đặt cả thế giới vào sự đã rồi. Bên cạnh đó, Chính quyền Bắc Kinh cũng không ngần ngại dùng sức mạnh để ép buộc các nước khác tôn trọng yêu sách đơn phương của họ. Nạn nhân bị Trung Quốc thúc ép nhiều nhất chính là Việt Nam, nước tranh chấp chủ quyền với Trung Quốc trên cả hai khu vực quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Yêu sách của Trung Quốc rất mập mờ, gây khó khăn cho những ai muốn đàm phán
Đối với giới nghiên cứu về Biển Đông, do các đòi hỏi chủ quyền đối nghịch nhau trong khu vực, việc giải quyết vấn đề này có thể xem là một điều bất khả thi, không chỉ vì Trung Quốc là nước hùng mạnh nhất trong khu vực, không che giấu tham vọng thâu tóm toàn bộ khu vực, mà còn do việc các yêu sách của Trung Quốc rất mập mờ, gây khó khăn cho những ai có thực tâm muốn đàm phán.
Trả lời câu hỏi của chúng tôi về tấm bản đồ 9 đường gián đoạn, Giáo sư Ramses Amer thuộc trường Đại học Stockholm (Thụy Điển), đã ghi nhận tính chất mập mờ trong các yêu sách của Bắc Kinh, thể hiện trong tấm bản đồ mà họ đã chính thức hóa lần đầu tiên trong công hàm gửi Ủy ban Liên hợp quốc về thềm lục địa mở rộng ngày 7/5/2009, nhằm phản bác các đề nghị của Việt Nam và Malaixia.
Tấm bản đồ này đã có từ lâu, do Quốc Dân Đảng Trung Quốc vẽ ra từ năm 1974. Nhưng do việc Trung Quốc đã gửi tấm bản đồ này đến Liên hợp quốc vào tháng 5/2009 (để bác bỏ những đề nghị của Việt Nam và Malaixia) cho nên tấm bản đồ đã được một số người coi là bản đồ “chính thức”.
Hệ quả mà Trung Quốc hoàn toàn không hề muốn là do hành động của chính họ, hồ sơ Biển Đông đã được quốc tế hóa. Trước đó, bản thân tấm bản đồ đã tồn tại, nhưng nó không gắn với bất kỳ một văn kiện chính thức nào đó mà Bắc Kinh đã công bố trong hai thập niên 1990 và 2000.
Bản đồ này làm dấy lên một số vấn đề. Ai cũng biết là Bắc Kinh đòi chủ quyền trên các hòn đảo trong khu vực, tức là trên các quần đảo Trường Sa, Hoàng Sa và các đảo nhỏ khác… Điều không rõ ràng là không ai biết được Trung Quốc đòi hỏi ghi thêm.
Chính vì vậy mà nhiều nhà nghiên cứu đã lao vào xem xét tính chất pháp lý của các đòi hỏi chủ quyền của Trung Quốc, không phải là chủ quyền trên các đảo mà ai cũng rõ, mà là chủ quyền rộng khắp nêu lên trong tấm bản đồ với các đường gián đoạn đó. Và như vậy, trong tất cả các cuộc hội thảo, hễ thấy một nhà nghiên cứu Trung Quốc nào là người ta liền hỏi ngay nội dung các đòi hỏi của Bắc Kinh là gì. Và các học giả Trung Quốc đã lâm vào tình trạng không thể nào làm sáng tỏ được các đòi hỏi chủ quyền chứa đựng trong tấm bản đồ đó. Bởi vì chính Nhà nước Trung Quốc cũng đã không làm rõ vấn đề, họ không nói rõ trong bản thông báo gửi lên Liên hợp quốc rằng họ muốn cụ thể những gì ngoài các hòn đảo. Ngay cả các nhà nghiên cứu Trung Quốc cũng không thể giải thích rõ ràng các đòi hỏi của nước họ là gì. Phải chăng đó là thềm lục địa, khu đặc quyền kinh tế. Nói chung chẳng ai biết rõ ý nghĩa chính xác của chín đường gián đoạn đó là gì.
Chỉ có Trung Quốc còn thiếu minh bạch về yêu sách
Đối với Giáo sư Amer, chỉ có Trung Quốc còn thiếu minh bạch về các yêu sách của họ, trong lúc các nước khác có tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông đều đã ít nhiều cho biết rõ là mình muốn gì.
Sự mập mờ không rõ ràng đó đã trở thành một vấn đề đối với Trung Quốc vì các nước khác có liên quan đến Biển Đông như Việt Nam, Malaixia, Philippin, đều ít nhiều làm rõ những đòi hỏi của mình…
Việt Nam hay Malaixia, chẳng hạn trong đề xuất về thềm lục địa mở rộng của mình gửi đến Liên hợp quốc, đã nói rõ ràng là đề nghị đó không đụng chạm đến các tranh chấp chủ quyền đang tồn tại, có nghĩa là trong trường hợp của Malaixia và Việt Nam, đó là vùng quần đảo Trường Sa. Theo tôi hiểu thì Malaixia và Việt Nam đã đồng ý áp dụng quy chế hải đảo cho vùng Trường Sa, trong khi Trung Quốc vẫn mập mờ trong yêu sách của họ.
Có thể nói năm 2010 là năm không mấy tốt đẹp cho Trung Quốc trong vấn đề Biển Đông. Trong khi các nước khác có tranh chấp ở Trường Sa đã ít nhiều làm rõ các đòi hỏi của họ, điều đó có nghĩa là họ sẵn sàng đàm phán để giải quyết vấn đề để tìm ra một thỏa hiệp nào đó, ngược lại Trung Quốc vẫn không rõ ràng, minh bạch.
Riêng đối với Việt Nam, căn cứ vào các yêu sách mà các đường ranh giới giữa vùng Trường Sa và bờ biển Việt Nam trên tấm bản đồ của Trung Quốc cho thấy, thì dường như Bắc Kinh đòi hỏi chủ quyền trên cả thềm lục địa lẫn khu vực đặc quyền kinh tế của quần đảo mà họ cho là của họ. Một ví dụ về thái độ này là việc Trung Quốc đã ký những thỏa thuận cho phép khai thác dầu khí trong các khu vực đó, đồng thời lên tiếng phản đối Việt nam mỗi khi nước này cho khai thác tại các vùng này.
Việt Nam đương nhiên đã xem các đòi hỏi của Trung Quốc là không có cơ sở và từ chối thương thuyết, bởi vì đàm phán có nghĩa là công nhận tính chính đáng của các đòi hỏi từ phía Bắc Kinh.
Hiện trạng vào lúc này là Trung Quốc càng lúc càng bị nhiều áp lực yêu cầu họ làm rõ các đòi hỏi tại vùng Biển Đông. Phía Trung Quốc cũng biết rõ là họ cần phải làm sáng tỏ các đòi hỏi chủ quyền, nhưng vấn đề đối với giới lãnh đạo Bắc Kinh là làm sao giải thích được điều đó cho dân chúng của họ. Nhưng dẫu sao thì trong vấn đề các đòi hỏi chủ quyền trên Biển Đông, Trung Quốc là nước ít sẵn sàng nhất trong việc làm rõ các yêu sách của mình.
Theo Giáo sư Amer, từ ngày đệ trình lên Liên hợp quốc tấm bản đồ hình chữ U, Trung Quốc đã bớt đưa ra những lập luận lịch sử để bảo vệ các đòi hỏi chủ quyền của họ. Ông ghi nhận: “Lẽ dĩ nhiên là các đòi hỏi chủ quyền của Trung Quốc đều viện dẫn tài liệu lịch sử. Nhưng thời gian sau này, tôi có cảm giác là họ ngày càng ít có tuyên bố dựa trên vấn đề lịch sử. Đúng là họ từng tự nhận là người đầu tiên khám phá ra các hòn đảo đó, nhưng từ khi ký kết Công ước Liên hợp quốc tế về Luật biển vào năm 1996, họ có dấu hiệu tránh dùng các lập luận dựa trên lịch sử mà chủ trương dùng các lý lẽ pháp lý nhiều hơn. Có thể tóm lược quan điểm của Trung Quốc như sau: Các khu vực đang tranh chấp là của chúng tôi, vì chúng tôi là người đầu tiên đặt chân đến đó, vân vân và vân vân. Nhưng để lý giải các đòi hỏi chủ quyền của họ bên trong các đường cong gián đoạn đó thì họ đã đưa ra, hay nói đúng hơn là tìm cách đưa ra, các lập luận pháp lý. Một trong những thí dụ là trong văn kiện gửi đến Liên hợp quốc vào tháng 5 năm 2009, họ không hề dùng đến các lập luận lịch sử để chứng tỏ chủ quyền của mình”.
Vấn đề Biển Đông: Quản lý thì được giải quyết không
Sau cùng, Giáo sư Amer có nhận định tương đối bi quan về khả năng giải quyết tốt đẹp các tranh chấp ở Biển Đông. Đối với ông, điều tốt nhất mà các bên có thể làm được là ngăn không cho xung đột vũ trang nổ ra.
Đương nhiên đó là những gì đang diễn ra tại vụng Biển Đông vì tại đấy việc giải quyết tranh chấp không có nhiều tiến bộ. Hiện nay, vấn đề đặt ra chỉ là làm sao tránh không cho xung đột bùng nổ chứ hoàn toàn không phải là giải quyết tranh chấp. Bởi vì bất đồng giữa các nước có tranh chấp nghiêm trọng đến mức không thể nào mở ra thương thảo về vấn đề phân định ranh giới hay vấn đề chủ quyền, trên cả hai vùng Hoàng Sa lẫn Trường Sa.
Hơn nữa, để có thể đàm phán, thì các nước liên quan phải có các yêu sách rõ ràng, phải có chung những nguyên tắc căn bản dựa theo đó mà thương thuyết. Vào lúc này, đối với các nước Đông Nam Á, có thể nói trong một chừng mực nào đó, họ đã đồng ý có thể thương thuyết trên cơ sở các vùng tranh chấp có quy chế hải đảo.
Ngược lại, Trung Quốc không rõ ràng gì cả, không ai biết quan điểm của họ ra sao. Ngay từ năm 1996, họ đã vạch ra những đường cơ sở xung quanh quần đảo Hoàng Sa. Điều đó cho thấy họ sẽ tìm cách đòi hỏi chủ quyền trên các vùng biển xung quanh toàn bộ quần đảo này, chứ không chỉ là xung quanh các hòn đảo riêng lẻ, hay những gì mà họ cho là hải đảo.
Tóm lại, để có thể mở ra đàm phán, quan điểm của mỗi bên phải rõ ràng. Đương nhiên các nước có thể nói chuyện với nhau để tránh không cho xung đột bùng lên công khai, điều này có thể làm được, nhưng giải quyết vấn đề chủ quyền vào lúc này thì không. Khả năng đó không thực tế.
Tình hình hiện nay chỉ cho phép ta quản lý chứ không phải là giải quyết. Quản lý trở nên rất quan trọng vì cần phải tránh những hành động như những gì đang xảy ra. Đặc biệt là giữa Việt Nam và Trung Quốc, cần phải có nhiều cuộc thảo luận hơn để tránh các vụ khủng hoảng.
Phân tích của Giáo sư Ramses Amer đã từng được ông trình bày trong cuộc Hội thảo Quốc tế về Biển Đông lần thứ hai, tổ chức tại Thành phố Hồ Chí Minh vào cuối năm 2010./.