Thứ Năm, 24 tháng 2, 2011

“Dị Hương”: Sao lại bịa chuyện bôi xấu vua Gia Long đến thế? Trần Mạnh Hảo

--Nhà văn Nguyễn Văn Thọ vào Hội NV VN cửa trước, không phải cửa sau Trần Mạnh Hảo

-Trao đổi với ông Trần Ngọc Tuấn: “Ai cầm batoong gõ lên đầu đồng nghiệp”? Trên website http://trannhuong.com  ngày 21-02-2011 có in bài: “Chém” Dị Hương, Trần Mạnh Hảo tự “thiến” văn hóa đọc” của ông Trần Ngọc Tuấn – CH Séc. Chúng tôi xin có mấy lời trao đổi lại với ông Tuấn như sau.
Mới đọc qua “tít” bài có tính cách rất máu lửa, dao thớt đằng đằng sát khí trên với nào “chém” nào “thiến” của ông Trần Ngọc Tuấn, tôi biết chắc ông này đang cả giận? Tôi tự nói thầm, từ từ nào ông Tuấn, có gì mà phải lớn tiếng hung hãn thế anh Hai? Bởi phê bình văn học và thiến heo là hai nghề khác nhau mà ; vả cũng đâu phải nơi đầu đường xó chợ mà tung chưởng nào “chém” nào “thiến” nghe hãi chết đi được vậy ông?
Đọc kỹ bài viết của ông Trần Ngọc Tuấn, mới biết đây là bài phê bình văn học; ông Tuấn phê bình chúng tôi dám vu cáo cho tác giả truyện ngắn “Dị hương” của Sương Nguyệt Minh (vừa được giải thưởng Hội Nhà Văn Việt Nam năm 2010), rằng làm gì có chuyện ông Sương bôi xấu vua Gia Long, ông Sương toàn ca ngợi vua Gia Long không à?
À, thì ra thế, cứ bình tĩnh từ tốn mà trao đổi với nhau, nhẹ nhàng “ lạt mềm buộc chặt”, đâu còn đó  mà ông Tuấn, việc gì ông phải dùng những lời lẽ của dân anh chị thế ? Nào là ông Hảo “ chém”, ông Hảo “tự thiến”, ông Hảo “cãi nhau có hệ thống”, ông Hảo “không phải nhà phê bình văn học”, ông Hảo “lườm nguýt”, ông Hảo “rủa sả”, ông Hảo “thiếu học thuật”, hằn học”, ông Hảo “cầm ba toong gõ lên đầu đồng nghiệp”, “ông Hảo tội nghiệp”, ông Hảo “ mất giá”…ông Hảo “quy kết”, ông Hảo có “động cơ ngoài văn học”…
Chao ôi, tự dưng tự lành ông Trần Ngọc Tuấn đang ở đẩu ở đâu, không tư thù nhau, không duyên nợ nhau, sao lại nỡ ném lên đầu chúng tôi bao nhiêu tội lỗi, bao nhiêu bất cập, bao nhiêu oan nghiệt, bao nhiêu từ khiếm nhã mà ông Tuấn không hề đưa ra một tẹo dẫn chứng? Như thế, ông hay tôi đang “ cầm ba toong gõ lên đầu đồng nghiệp” đây?
Ông Tuấn còn dùng nhiều từ thóa mạ đồng nghiệp khác, ví như: “trò tháu cáy”, “thủ dâm chính trị”, “thớ lợ”, “không lương thiện”…v…v….và …v…v…
Chúng tôi xin chứng minh:
Ông Trần Ngọc Tuấn viết: “Những cuộc “cãi nhau” có hệ thống, và… truyền thống của nhà thơ (không phải nhà phê bình văn học Trần Mạnh Hảo), tôi thấy anh “không thoáng” trong cái nhìn “lườm nguýt” một tác phẩm văn học, hoặc sự thay đổi thi pháp thơ ca.
Với tôi, Trần Mạnh Hảo là một nhà thơ mà tôi yêu quý về tài thơ. Nhưng chưa bao giờ, dù chỉ một phút xem anh là nhà phê bình văn học. Những suy nghĩ ấy có căn nguyên của nó khi anh “rủa sả” Phạm Thị Hoài. Nguyễn Quang Thiều, Lê Đạt, Chu Văn Sơn…vv…một cách thiếu học thuật, hằn học. Khi đọc các bài viết của anh, tôi có cảm tưởng: trong cầm batoong gõ đầu đồng nghiệp”….”
Ông Trần Ngọc Tuấn còn viết tiếp như sau: “Cảm nghĩ đầu tiên tôi thấy anh… “chém” ông Hữu Thỉnh, chém Hội đồng Chung khảo và mượn cớ để “chém em Dị Hương”… “Sự quy kết này chứng tỏ động cơ cầm bút của anh Hảo không xuất phát từ văn học, mà từ những điều ngoài văn học”… . “Cách “chém” “Dị Hương” vô hình dung Trần Mạnh Hảo đã tự thiến văn hóa đọc của mình…”
Thưa ông Trần Ngọc Tuấn, nguyên tắc phê bình văn học của chúng tôi từ trước đến nay là: tuyệt đối không xúc phạm cá nhân, bất cứ kết luận nào, sự phân tích nào cũng phải đưa ra bằng chứng. Chúng tôi chỉ phê bình trên văn bản học thuật, không hề bịa tạc ra dẫn chứng hay đi ra ngoài lĩnh vực văn học.
Xin ông Trần Ngọc Tuấn dẫn ra thử một đoạn, dù nhỏ, chỉ ra  chúng tôi đã  “rủa sả” Phạm Thị Hoài, Nguyễn Quang Thiều, Lê Đạt, Chu Văn Sơn…vv…” ở bài nào, trang nào, dòng nào, sách nào ; nếu ông không đưa ra được bằng chứng cụ thể, thì chính ông đang bịa tạc, vô cớ vu cáo chúng tôi đấy, chính ông là người “cầm ba toong gõ lên đầu đồng nghiệp” là chúng tôi đấy?
Xin quý vị đọc tiếp lời ông Tuấn viết: “Nhưng sau này tôi thấy “tội nghiệp” cho anh khi “được” (các “chính khách” hải ngoại) tung anh lên tận mây xanh, họ gọi anh: nhà văn “Phản Tỉnh”, tôi cho đó là trò tháu cáy của kẻ thủ dâm chính trị.
Những kẻ hả hê một cách thớ lợ khi đưa tin trên báo: mất mùa bão lụt, nhân dân mình khổ sở, các hiện tượng tiêu cực… nhưng lờ đi cái tích cực ở tổ quốc mình (nó có, dù ít nhưng vẫn có). Những người như vậy không lương thiện, dù họ sống trong môi trường dân chủ. Những người như thế, tung hô anh, vô tình lại làm anh mất giá.
Anh Trần Mạnh Hảo là người yêu tự do dân chủ, (tự do dân chủ ai mà chẳng yêu), nhà thơ cấp tiến. phản tỉnh.”
Chúng tôi hết sức kinh ngạc khi ông Trần Ngọc Tuấn dám viết ra những câu thóa mạ chính “phe mình”, hay nói khác đi ông Tuấn đang thóa mạ chính mình. Chúng tôi xin nhắc để ông Tuấn biết, trên internet vẫn còn đang lưu tất cả những bài viết của ông. Chỉ cần ông vào mạng http://google.com , rồi đánh từ khóa “Trần Ngọc Tuấn –Cộng hòa Séc” là ra rất nhiều bài ông đã viết, ví như bài “Tâm sự nỗi buồn người Việt trong nước Ngày Nói ‘Không!’ Với Chủ Nghĩa Cộng Sản Ngày tháng: 06/05/2007 Trần Ngọc Tuấn – Phóng sự từ Praha, Cộng Hoà Séc(1)
Xin lỗi ông Trần Ngọc Tuấn, chúng tôi không thể trích ra đây một vài dòng trong bài “ Tâm sự nỗi buồn người Việt trong nước” của ông in ngày 01-05-2007 trên mạng “Đàn Chim Việt” được, vì nếu trích ra trên web http://trannhuong.com, web này sẽ không dám đăng bài của chúng tôi; vì …web anh Nhương là trang mạng trong nước. Trong nhiều năm, ông Trần Ngọc Tuấn đã viết rất nhiều bài với những nội dung y như các cây bút hải ngoại đã viết : Bùi Tín, Vũ Thư Hiên, Lê Diễn Đức, Mạc Việt Hồng, Trần Ngọc Thành…Vậy mà hôm nay vì cớ gì ông lại mắng họ sa sả thế này: “Những kẻ hả hê một cách thớ lợ khi đưa tin trên báo: mất mùa bão lụt, nhân dân mình khổ sở, các hiện tượng tiêu cực… nhưng lờ đi cái tích cực ở tổ quốc mình (nó có, dù ít nhưng vẫn có). Những người như vậy không lương thiện, dù họ sống trong môi trường dân chủ. Những người như thế, tung hô anh, vô tình lại làm anh mất giá.”
Ông Tuấn chửi họ là “những kẻ thớ lợ, tháu cáy, thủ dâm chính trị” khi họ từng viết giống ông, từng một phe với ông mới gần đây thôi là  “không lương thiện”, thì xin lỗi, chính ông đang tự mắng mình đấy.
Ông Trần Ngọc Tuấn viết tiếp: “Đọc Dị Hương, tôi không thấy sự “Bôi xấu” Nguyễn Phúc Ánh một chút nào, trái lại, Sương Nguyệt Minh lại đề cao, ngợi ca Nguyễn Phúc Ánh.”
Chúng tôi xin trích ra những dòng sau đây của tác giả “Dị Hương” viết về vua Gia Long và bà vợ của nhà vua là Lê Ngọc Bình, xem đây là những dòng Sương Nguyệt Minh “ ca ngợi” hay bôi nhọ hai nhân vật lịch sử trên:
Ánh đưa một đường gươm.Chớp lóe sáng lên phạt ngang cổ thôn nữ. Máu đỏ phun lên như mạch nước ngầm hở miệng…Ánh lên đến đỉnh Ngọc Trản Sơn thì cũng kịp vung gươm phạt bay năm đầu thị nữ….”…“Mùi tanh của máu người, mùi khét lẹt của binh khí va chạm tụ lại thành mùi chết chóc ngấm vào da thịt Ánh…”“Bao nhiêu cái đầu lăn lóc dưới đôi chân bôn tẩu của Ánh…”
“Ánh chợt nhìn thấy Sán cứ bần thần mê mẩn yếm thắm. Ánh lộn tiết, cho rằng Sán chơi trò ma thuật phù thủy, bèn quát lính lôi ra chém….”
“Ánh túm ngực áo gầm lên…”
“Tội các ngươi đáng chém….” . “Lần này Ánh chém thật…”
“Cung tần qua đêm với Ánh, dù ngực hằn đầy vết hồng đỏ của bàn tay thô ráp cầm kiếm, hai đùi đầy vết răng bầm tím…”

“Lòng Ánh nôn nao, không chịu nổi mùi gợi dục, cuống cuồng cởi quần áo”…
“Mỹ nhân đột tử ngay dưới bụng Nguyễn Ánh…”
“Ánh bèn lẩn vào bên trong lùm cây, kéo cành lá, mặt đần ra mê đắm nhìn mỹ nhân tắm….”

“Bóng Ánh đổ dài kéo thành vệt đến giếng nước. Mỹ nhân vội khép hai đùi, một tay che hai trái tuyết lê căng mẩy, một tay che đám lông mu đen mượt. Thực ra mỹ nhân không cần phải hốt hoảng che đậy vì chỏm đầu của Ánh đã đổ bong đen trên ngực nàng…”
“Ánh cầm gươm đưa những đường tuyệt kỹ như múa, nhẹ hơn gió thoảng trên long sàng. Loáng một cái cắt nát xiêm y…”
“Hai người chìm vào biển ái ân nóng bỏng…”
“Ánh sướng quá tru lên như con ngựa hoang động đực…”“Về Phú Xuân, Ánh ốm liệt giường, lúc nào cũng chìm trong mộng mị ân ái với nàng Ngọc Bình”
“Gia Long lấy Ngọc Bình chẳng phải là yêu chiều cành vàng lá ngọc mà núp dưới chiêu bài tâm lý chiến bẩn thỉu…”

Xin trích thêm lời nhà văn Trần Hoài Dương trong bài: “Trần Hoài Dương nhàn đàm văn chương” in trên http://lethieunhon.com:
Tôi quan niệm khi viết truyện lịch sử hay có liên quan đến lịch sử, không nhất thiết nhà văn quá lệ thuộc vào chính sử. Nhà văn hoàn toàn có quyền hư cấu, tưởng tượng, nhưng cái cốt lõi là bản chất của nhân vật lịch sử, sự kiện lịch sử phải được tôn trọng. Mọi hư cấu, tưởng tượng của nhà văn rốt cuộc cũng chỉ để đạt được yêu cầu tối thượng sao cho nhân vật lịch sử ấy, sự kiện lịch sử ấy bộc lộ đúng nhất bản chất cốt lõi của mình. Trong “Dị hương”, Nguyễn Ánh hiện ra là một nhân vật rất xấu, có thể nói là thô bỉ, hiếu sắc, hiếu sát… Tôi không tin là một nhân vật như thế có thể dựng nên một vương triều mà hôm nay hậu thế còn cần đánh giá một cách nghiêm túc và khoa học về công lao lẫn tội lỗi… Tất nhiên, chỉ qua một truyện ngắn không thể đòi hỏi quá nhiều, nhưng dẫu sao, qua một truyện ngắn tâm huyết của tác giả, người đọc vẫn mong muốn được thấy chân dung xác thực của một nhân vật lịch sử có tầm cỡ như Nguyễn Ánh. Tôi không biết những nhà viết sử, những người quan tâm đến lịch sử triều Nguyễn với vị vua khai sáng là Nguyễn Ánh, sẽ nghĩ gì về “Dị hương”!?”
Xin đọc thêm lời bình luận của nhà văn Trần Đình Thu trích trong bài “Dị hương không giống “Kiếm sắc” nhưng…” nhận xét về truyện “Dị Hương” in trên http://binhchonthohay.com thay lời chúng tôi tranh biện với ông Trần Ngọc Tuấn :
“Với Dị hương, Sương Nguyệt Minh dù viết sau Nguyễn Huy Thiệp đến hai mươi năm nhưng lại có cách nhìn “cũ” hơn Nguyễn Huy Thiệp. Sương Nguyệt Minh vẫn nhìn Nguyễn Ánh theo góc nhìn của các nhà sử học miền Bắc cách đây nửa thế kỷ, trong khi Nguyễn Huy Thiệp đã có cái nhìn đi trước thời đại. Nếu so sánh hai tác phẩm, thì cần so sánh ở chỗ này.
Nguyễn Ánh trong tác phẩm của Sương Nguyệt Minh hiện lên thật tệ hại. Nhà phê bình Trần Mạnh Hảo viết trong bài “Dị hương: Sao lại bịa chuyện bôi xấu vua Gia Long đến thế” như sau: “Dị hương” mô tả Nguyễn Ánh là một hôn quân dâm tặc, suốt ngày chỉ mê đắm chuyện phòng the, kinh tởm hơn Lê Ngọa Triều ngày xưa trong chuyện hoang dâm vô độ”.
Ở đây nổi lên vấn đề thái độ của nhà văn đối với sự công bằng lịch sử. Cùng viết về Nguyễn Ánh như nhau, nhưng Nguyễn Huy Thiệp không hề có chút phỉ báng vua Gia Long, dù ông viết Kiếm sắc vào cái thời kỳ mà xã hội còn thành kiến nặng nề với Vương triều Nguyễn. Ngược lại, Sương Nguyệt Minh cầm bút khi mà xã hội đã rất cởi mở, thế nhưng nhà văn này vẫn còn xem vua Gia Long như là một nhân vật quái gở của lịch sử. Vì thế Sương Nguyệt Minh đã vẽ ra hình ảnh ông vua khai sáng triều Nguyễn quá thê thảm. Thê thảm hơn nhiều lần so với hình ảnh mà các nhà sử học miền Bắc giai đoạn 1954 – 1975 đã vẽ ra. Xấu thì cho xấu luôn. Xấu hết chỗ chê luôn. Đó phải chăng là ý định của Sương Nguyệt Minh khi bắt tay vào viết Dị hương? Hay là trong lúc mải mê tả những pha hấp dẫn, Sương Nguyệt Minh đã quá đà? Dù cách nào đi chăng nữa, thì ý thức “dậu đổ bìm leo” cũng hiện ra rất rõ.
Nhà văn hiển nhiên là có quyền hư cấu lịch sử khi viết văn. Nhưng hư cấu thế nào thì cũng phải cố gắng thoát ra ngoài cái bóng của những ứng xử xã hội thông thường trong thời đại mình đang sống. Viết về lịch sử, nhà văn phải có góc nhìn của nhà văn, không nên nhìn theo góc nhìn của nhà chính trị (trừ khi anh viết các tác phẩm thơ ca hò vè tuyên truyền cổ động phục vụ cho các phong trào).”
Chúng tôi xin dẫn thêm lời nhà văn Đặng Văn Sinh trong bài : “Vài ý nghĩ sau khi đọc “ Dị hương” của Sương Nguyệt Minh” in trên trannhuong.com lên án Sương Nguyệt Minh viết truyện tình dục nhảm nhí bôi nhọ vua Gia Long:
“Dị hương” không có tư tưởng mà đơn giản chỉ là chuyện tình dục nhầy nhụa của lũ trai gái mất dạy thời hiện đại được gán cho Nguyễn Ánh, biến ông thành kẻ cuồng dâm, hạ thấp phẩm giá của bậc anh hùng, phỉ báng công chúa Lê Ngọc Bình không chỉ của dòng họ Nguyễn Phúc và họ Lê mà của cả dân tộc Việt.”
Thưa ông Trần Ngọc Tuấn, chúng tôi chỉ xin mượn lời ba nhà văn trên để ông xem lại: rằng Sương Nguyệt Minh trong “Dị Hương” ca ngợi vua Gia Long hay bôi nhọ vua Gia Long, thay lời tranh biện của chúng tôi?
Xin cám ơn những lời ông Trần Ngọc Tuấn khen chúng tôi “có tài làm thơ”; hơn nữa, ông còn trích ra khá nhiều câu thơ của chúng tôi mà ông nói rằng ông thuộc lòng. Có lẽ, do ông thuộc thơ của chúng tôi hơi bị nhiều nên đôi khi ông đã nhập tâm đến mức : “Đọc câu thơ đồng chí tưởng thơ mình” ( Tế Hanh). Xin ông Trần Ngọc Tuấn đọc bài: “Trần Mạnh Hảo kinh hoàng kêu lên chó ơi là chó” của nhà thơ Lê Thiếu Nhơn, in trên http://lethieunhon.com ngày 21-02-2011 như sau:
“Nhà thơ Trần Mạnh Hảo hoảng hồn khi phát hiện ông Trần Ngọc Tuấn ở Cộng Hòa Séc không biết vô tình hay cố ý ghi nhầm tên tác giả một bài thơ của mình: “Kính gửi website lethieunhon.com! Chúng tôi rất kinh ngạc khi vào google.com đánh từ khóa “Trần Ngọc Tuấn – Cộng hòa Séc” (nhằm phân biệt với nhà thơ Trần Ngọc Tuấn ở Biên Hòa) mới phát hiện ra ông Trần Ngọc Tuấn đã lấy bài thơ của Trần Mạnh Hảo: “Con Chó của Mozart”  (đã in trên báo Việt Nam từ nhiều năm trước) làm thơ của mình để in trên nguyentrongtao.org. Chúng tôi đành nhờ nhà thơ Lê Thiếu Nhơn  thông báo giùm tin này để công luận tỏ tường và để xin nhà văn Trần Ngọc Tuấn một lời giải thích hay một lời xin lỗi, xin ông hãy “Của Chúa hãy trả cho Chúa, của Ceasar hãy trả cho Ceasar”, của kẻ hèn này thì trả cho kẻ hèn này, đừng dắt con chó đi vòng qua châu Âu giá lạnh rồi kéo nó về tắm ao làng ngộ nhận xót xa. Xin cám ơn!”
Nguyên văn “tác phẩm” của “tác giả” Trần Ngọc Tuấn!
Khi còn ở Việt Nam mình rất thích ăn chó. Nhưng sang bên này, có lẽ, bị ảnh hưởng văn hóa của Châu Âu nên mình không ăn nữa. Thôi thì “Nhập gia tùy tục“. Gần đây, thấy báo chí Czech, Ba Lan nói về việc ăn thịt chó, mèo của người Việt , thấy lo, vì để hiện trạng này kéo dài thì mang tiếng cho cộng đồng chúng ta. “Cứ hỏi bác Lâm Quang Mỹ bên Ba Lan thì biết”.
Mong mọi người tạm “phanh“ thú ẩm thực truyền thống. Khi nào về Việt Nam tha hồ truy lĩnh), hãy xem chó là bạn. Đã có những chú chó dũng cảm hy sinh để cứu chủ. Đó là loài vật sống tình nghĩa và thủy chung với con người. Nhiều công trình khoa học đã chứng minh, nuôi chó mèo giúp giảm stress, giảm bệnh tim mạch, giúp trẻ em tự tin hơn.
Mình nhớ đến Laika, chú chó đầu tiên bay vào vũ trụ. Mình nhớ đến Smoky, chú chó anh hùng của Thế Chiến II. Mình nhớ hình ảnh chú chó Vàng trong bài thơ  “Sao không về Vàng ơi!” của Trần Đăng Khoa. Chính vì ăn thịt chó nên mới xuất hiện việc bắt trộm chó để giết thịt, khiến bao kẻ phải chết oan uổng. Hãy cùng nhau bảo vệ, yêu thương chó mèo bạn nhé!
CON CHÓ CỦA MOZART
(Mozart sinh năm 1756, mất ngày 5-2-1791. Đi theo chiếc xe ngựa của đám tang ông, chỉ có một con chó)

Tuyết trút xuống cả mùa đông nước Áo
Phủ lấp chiếc xe ngựa chở Mozart đến nghĩa địa dân nghèo
Run rẩy bước sau quan tài chỉ có mình con chó
Và chiếc lá phong cuối cùng vàng lửa bay theo

Nào bản Requiem của ông không tiễn ông về cõi chết
Và chàng Don Juan ông viết gã phong tình ?
Vợ con với bạn bè ông đâu hết ?
Chỉ con chó tiễn đưa mặc áo tuyết trên mình

Nửa thế kỷ mười tám từng theo ông trên khuôn nhạc
Theo ông đến đám cưới Figaro, đến viếng chiều tà
Sao ông mất cả Châu Âu bỏ mặc
May còn con chó này thay mặt đưa ma

Nếu sống dậy Mozart, ông sẽ khóc
Nước mắt rơi thành nốt nhạc chan hòa
Để ông viết bản Concertos về con chó
Dưới tuyết trắng muôn đời theo mãi nhạc Mozart…

TRẦN NGỌC TUẤN”


Có người nói nhỏ với tôi: sở dĩ ông Trần Ngọc Tuấn viết bài: ““Chém” “Dị hương” là Trần Mạnh Hảo “tự thiến” văn hóa đọc” là để làm đơn xin vào Hội Nhà Văn Việt Nam theo kiểu Thọ Muối (Nguyễn Văn Thọ). Tôi không tin điều này, vì một người quân tử như ông Trần Ngọc Tuấn, lẽ nào lại phải vào Hội Nhà Văn theo kiểu “đi cửa sau” không minh bạch thế?
Với bài viết vô căn cứ đầy sự đả kích cá nhân trên, ông Trần Ngọc Tuấn đích thị là người đang “cầm ba toong gõ lên đầu đồng nghiệp” là chúng tôi, chứ không phải ngược lại.
Sài Gòn, ngày 22-02-2011
© Trần Mạnh Hảo
© Đàn Chim Việt
————————————————–
Chú thích: (1) Bài viết của Trần Ngọc Tuấn đã đăng trên web Đàn Chim Việt năm 2007. Ngoài ra Trần Ngọc Tuấn cũng là tác giả nhiều bài viết và truyện ngắn trên báo giấy và báo điện tử Đàn Chim Việt trong những năm 1999- 2007.
Ngày nói không với chủ nghĩa Cộng sản
Người ta có thể hiểu câu nói này theo nhiều nghĩa: Tôi không yêu anh. Tôi không tôn thờ anh. Tôi không thích anh. Tôi không còn gì để nói với anh nữa…Chủ Nghĩa Cộng Sản ạ!
Ngày Quốc Tế Lao Động 1 Tháng 5 sẽ trở thàng ngày truyền thống của chính quyền Cộng Hòa Séc và các Tổ Chức Nhân Quyền là Ngày Nói “Không!” Với Chủ Nghĩa Cộng Sản (CNCS).
Tôi! (người viết bài này) đã có một thời yêu CNCS, nhưng chỉ sau một thời gian ngắn “kết hôn” (trải qua những đêm nằm mộng mơ với nó), khi tỉnh cơn mơ tôi thấy đó là cơn ác mộng. Cái thiên đường nó rao giảng cho rất nhiều tín đồ thực sự là địa ngục trần gian, và trong đó có những tên cai ngục kiểm soát tới từng hơi thở của mỗi con người.
Ngày nói “Không!” Với Chủ Nghĩa Cộng Sản năm nay được tổ chức tại một khoảng sân rộng đối diện với sân vận động Sparta ở thủ đô Praha Cộng Hòa Séc. Rất nhiều những tấm biểu ngữ gây cho mọi người sự chú ý và suy ngẫm. Giới trẻ với biểu ngữ: Chủ Nghĩa Cộng Sản Đáng Sợ Hơn Bệnh AIDS. Chủ Nghĩa Cộng Sản Tiêu Diệt Linh Hồn & Ăn Thịt Thân Xác…Đáng chú ý là lời phát biểu trên diễn đàn của Thủ Tướng đương nhiệm Cộng Hòa Séc Topolánek: …“Chủ Nghĩa Cộng Sản vô cùng nguy hiểm, bằng mọi cách chúng ta không để giới trẻ tiêm nhiễm tư tưởng nguy hại này…” vẫn chưa dừng ở đấy, rất nhiều quan điểm, ý kiến của các nghị sĩ hạ viện, thượng viện trong quốc hội, các cựu thành viên “Hiến Chương 77” linh hồn cuộc Cách Mạng Nhung đều hội tụ tại một điểm tương đồng: Trong đại dương dân chủ ở thế kỷ này không thể tồn tại song hành với những ốc đảo độc tài có cái tên Chủ Nghĩa Cộng Sản.
Đại diện các quốc gia vẫn còn bị xích xiềng trong gông cùm chuyên chế cũng góp nhiều tiếng nói trên diễn đàn. Khung cảnh đàn áp của lực lượng quân đội, cảnh sát Tiệp thời cộng sản được “phục chế” lại, tất cả tạo nên một bản nhạc bi hùng, một bức tranh đa cảnh, đa mầu đan vào hiện tại.
Đặc biệt nhất “Một Khu Ốc Đảo Độc Tài” gồm có Trung Quốc, Cu Ba, Bắc Triều Tiên với những nhà tù, trại lính, tháp canh. Nằm cạnh ốc đảo mang tính tượng trưng ấy là Việt Nam và Tây Tạng. Những người dân Tiệp nói với chúng tôi:..”Việt Nam phải nằm trong trung tâm ốc đảo kia, chứ không thể nằm bên cạnh được”. Họ nói vậy khi đã được xem, được đọc các tài liệu, hình ảnh trong gian hàng “Triễn Lãm Thành Tích Vi Phạm Nhân Quyền” của chính quyền Việt Nam hơn nửa thế kỷ qua. Khi nhìn thấy bức ảnh một nhân viên an ninh mặc thường phục bịt miệng linh mục Nguyễn Văn Lý tại phiên tòa thời gian gần đây, đứng bên cạnh có hai nhân viên an ninh mặc cảnh phục, vợ các người tranh đấu dân chủ như Nguyễn Vũ Bình, Phạm Hồng Sơn…Bị lực lượng an ninh trấn giữ ngay trước tư gia của Đại Sứ Mỹ tại Việt Nam khi họ được mời tới dự buổi tiệc trà. Luật sư Lê Thị Công Nhân, Nguyễn Văn Đài…Và những người đối lập đang bị giam cầm vì họ cất lên tiếng nói ôn hòa đòi tự do dân chủ. Những người dân Tiệp nói tiếp: … ”Thế kỷ 21 mà vẫn còn tồn tại một tòa án không khác gì tòa án thời Trung Cổ và cách hành xử mang đầy tính bạo lực”
“Bảng Thành Tích” của chính quyền Việt Nam thật “Phong Phú”, bắt đầu từ “Cải Cách Ruộng Đất” đàn áp “Phong Trào Nhân Văn Giai Phẩm” vụ án ngụy tạo “ Xét lại Chống Đảng”, “Cải Tạo Công Thương Nghiệp Tư Bản Tư Doanh” (mà thực chất là một cuộc trấn lột tàn bạo tài sản các doanh nhân bắt đầu từ năm 1954 tại Miền Bắc và sau năm 1975 ở Miền Nam), hình ảnh bi thảm của cả triệu người bất chấp bão biển, hải tặc phải liều mình trên con thuyền định mệnh đào thoát tìm bến bờ tự do là minh chứng đầy đủ cho cái gọi là “Thiên Đường Cộng Sản” tính “Ưu Việt Của Chủ Nghĩa Xã Hội”. Chân lý vốn chẳng cần nhiều lời và cũng khước từ sự thuyết giảng. Các “Linh Mục Chính Ủy Của Đạo Cộng Sản” khuyên nhủ nhân quần cách sống thanh giáo, nhưng chính họ lại sống siêu thế tục, họ nói nhiều về lòng nhân ái, nhưng cũng chính họ là siêu đao phủ trong cách hành xử với những ý kiến ngược.
Trên tấm pano (phía dưới hình ảnh linh mục Nguyễn Văn Lý bị bịt miệng” là hàng chữ bằng tiếng Tiệp: “Chúng Tôi Nói Hộ Những Người Không Được Nói”. Nhìn những người dân Praha ký tên vào bản kêu gọi Tự Do Cho Việt Nam, Tự Do Tôn Giáo, Thả Tù Nhân Chính Trị… những mái tóc xanh, những mái đầu bạc trắng, chúng tôi hiểu thêm một điều: Dân Chủ, Tự Do là khát vọng chung của tất cả con người.
Bản kiến nghị này sẽ được những người Việt Nam ở Tiệp, Ba Lan chuyển tới chính quyền quốc gia sở tại.
Trên diễn đàn tôi lại nghe lời phát biểu của Thủ Tướng Cộng Hòa Séc nhiều lần nhắc tới Việt Nam, Trung Quốc… những “Vùng Tối” trên bản đồ dân chủ.
Hôm nay, tổ quốc tôi vẫn nằm trong vùng tối, nhưng ngày mai, ngày mai sẽ sáng. Tới một thời điểm nào đó tại thủ đô Hà Nội cũng sẽ có một ngày: Nói Không! Với Chủ Nghĩa Cộng Sản ngay tại quảng trường Ba Đình.
Tôi tin và hy vọng.
Trần Ngọc Tuấn
-“Chém” Dị hương là Trần Mạnh Hảo tự “thiến” văn hoá đọc
Dù xa tổ quốc đã lâu tôi vẫn chịu đọc và quan tâm tới văn học Việt Nam, về các tác phẩm, các cuộc tranh luận. Buồn có, vui có. Nhưng quy nạp lại những cuộc “cãi nhau” có hệ thống, và… truyền thống của nhà thơ (không phải nhà phê bình văn học Trần Mạnh Hảo), tôi thấy anh “không thoáng” trong cái nhìn “lườm nguýt” một tác phẩm văn học, hoặc sự thay đổi thi pháp thơ ca.
Với tôi, Trần Mạnh Hảo là một nhà thơ mà tôi yêu quý về tài thơ. Nhưng chưa bao giờ, dù chỉ một phút xem anh là nhà phê bình văn học. Những suy nghĩ ấy có căn nguyên của nó khi anh “rủa sả” Phạm Thị Hoài. Nguyễn Quang Thiều, Lê Đạt, Chu Văn Sơn…vv… một cách thiếu học thuật, hằn học. Khi đọc các bài viết của anh, tôi có cảm tưởng: anh là ông quan văn nghệ, cầm batoong gõ đầu đồng nghiệp.
Nhiều người nói với tôi: Trần Mạnh Hảo cao ngạo khi được giới cầm bút ở hải ngoại lăng sê…tôi không tin, khi qua Mỹ được đọc “Ly Thân” của anh. Có người hỏi: ông thấy thế nào? Tôi trả lời: cũng là một cuộc “đấu tố thời cải cách văn chương” theo hướng ngược chiều kim đồng hồ, nhưng thơ trong đó thì hay.
Cho tới tận ngày hôm nay tôi vẫn nhớ những câu thơ trong “Ly Thân”:..”Những con đường như những lằn roi/ Lịch sử quất lên mình đất nước/ Những con đường trên xứ sở tôi/ Như nước mắt của người yêu chảy suốt…”  Hoặc những câu trong bài “Đêm phương Bắc nhớ về tổ quốc”:..”Loa thành ơi! Ai lừa gạt Mỵ Châu/ Dấu lông ngỗng tình xưa còn trắng tóc/Tổ quốc tôi đau mà không dám khóc/ Hoa cau cười nhoè nhoẹt áo Nàng Bân..” và trong bài “Nhớ Nguyễn Bính”:..” Anh mang theo xuống đất cái thời/ Tới nghĩ ngợi cũng phải cần xin phép..”. Vào thời điểm đó, dù chưa một lần diện kiến tôi quý trọng anh biết dường nào. Nhưng sau này tôi thấy “tội nghiệp” cho anh khi “được” (các “chính khách” hải ngoại) tung anh lên tận mây xanh, họ gọi anh: nhà văn “Phản Tỉnh”, tôi cho đó là trò tháu cáy của kẻ thủ dâm chính trị.
Những kẻ hả hê một cách thớ lợ khi đưa tin trên báo: mất mùa bão lụt, nhân dân mình khổ sở, các hiện tượng tiêu cực… nhưng lờ đi cái tích cực ở tổ quốc mình (nó có, dù ít nhưng vẫn có). Những người như vậy không lương thiện, dù họ sống trong môi trường dân chủ. Những người như thế, tung hô anh, vô tình lại làm anh mất giá.
Anh Trần Mạnh Hảo là người yêu tự do dân chủ, (tự do dân chủ ai mà chẳng yêu), nhà thơ cấp tiến. phản tỉnh.  Nhưng khi đọc các bài phê phán đồng nghiệp của anh, và gần đây nhất là bài viết về “Dị Hương”, tôi thấy anh không xứng đáng với sự tung hô ngưỡng mộ đó.
Thôi! Quay lại việc anh phê phán “Dị Hương” của nhà văn Sương Nguyệt Minh. Tôi đã đọc cuốn này rất kỹ (khi được nhà thơ Lâm Quang Mỹ từ Ba Lan mang sang Tiệp cho tôi mượn). Và sau đó đọc bài của anh trên “Đàn Chim Việt”.
Cảm nghĩ đầu tiên tôi thấy anh… “chém” ông Hữu Thỉnh, chém Hội đồng Chung khảo và mượn cớ để “chém em Dị Hương”.  Anh viết “Dị Hương” sao chép “Kiếm Sắc” của Nguyễn Huy Thiệp, và…”Bịa chuyện bôi xấu vua Gia Long”,  tôi tìm hoài, không thấy sự bôi xấu. Còn bịa chuyện (thường được gọi dưới cái tên sang trọng mang tính văn học là hư cấu) thì điều này nghiễm nhiên phải có trong sáng tác văn học nghệ thuật. Bởi lẽ, viết về các nhân vật lịch sử hay huyền thoại, mỗi người viết đều có một góc nhìn khác, hư cấu khác. Ví dụ như viết về Robin Hood các nhà làm phim viết chuyện đều khai thác theo góc nhìn của mình dưới nhiều biên độ nghệ thuật khác nhau. Vả lại, Sương Nguyệt Minh không phải người chép sử như Lê Văn Hưu hoặc giống cái ông họ Tư Mã bên Tàu.
Nhà LLPB văn học Phạm Quang Trung  trong bài viết “Góp chuyện đầu xuân” có lý lẽ vững chắc khi viết:
“Mục đích dụng bút của anh Hảo được tỏ bày rất tập trung và rõ ràng: “Chúng tôi viết bài báo nhỏ này không nhằm phê bình cả tập truyện “Dị hương” của tác giả, mà cốt thông qua truyện ngắn “Dị hương” nhằm phê phán thái độ bôi bẩn lịch sử một cách vô lối của tác giả”. “Sự bôi bẩn” mà anh muốn nói tới lộ rõ ở tiêu đề bài viết “Dị hương”: Sao lại bịa chuyện bôi xấu vua Gia Long đến thế? Như đã nói ở trên, Dị hương của Sương Nguyệt Minh chỉ nhằm thông qua nhân vật lịch sử là Nguyễn Ánh để bộc lộ ý tưởng văn chương về con người đời thường nên có lẽ sự quy kết như vậy là có phần không trúng.“
Sự quy kết này chứng tỏ động cơ cầm bút của anh Hảo không xuất phát từ văn học, mà từ những điều ngoài văn học.
Bây giờ tôi xin đưa ra vài nhận xét, phân tích, đối chiếu văn bản trong “Kiếm Sắc” của Nguyễn Huy Thiệp và “Dị Hương” của Sương Nguyệt Minh xem nó có giống hay khác nhau? và xem có sự “Bôi xấu” Nguyễn Ánh (chữ của nhà thơ Trần Mạnh Hảo) hay không?
A/ Quan niệm như thế nào là “Bôi xấu” nhân vật lịch sử?
Trong “Kiếm Sắc” của Nguyễn Huy Thiệp ngay từ đoạn mở đầu, khi nhân vật Đặng Phú Bình (cha của Đặng Phú Lân) nói với con trước lúc chết:..”Con ơi, nước đang có loạn. Tây Sơn bây giờ đang lên như thế chẻ tre, nhưng ta thấy sức chơi của bọn này bất quá chỉ như trọc phú nhà giàu, gánh vác giang sơn sao được? Ta đồ rằng mệnh Tây Sơn có hạn. Hiện Gia Định có Nguyễn Phúc Ánh là nòi vương giả, con gắng vào đấy tìm xem…”
Nguyễn Huy Thiệp viết trong Kiếm Sắc:..”Nguyễn Phúc Ánh ở Gia Định tìm cách lật đổ Tây Sơn, khi này thế đã mạnh. Ánh là người đa mưu, túc kế, tính kiên trì, không tin ai (xin được viết đậm), dụng người lấy chữ hiệp chữ lễ làm trọng, không coi nhân, nghĩa, trí, tín ra gì…”

Cũng trong Kiếm Sắc, Nguyễn Phúc Ánh nói suy nghĩ của mình về sĩ phu Bắc Hà với Đặng Phú Lân:..”Chữ nghĩa của chúng nó thối lắm, nguỵ biện xảo trá tinh vi. Hành tung chúng, ta chẳng lo. Toàn lũ ốm o như dòi chó, hèn mọn cả…”
Lê Văn Duyệt tâu:..”Bắc Hà có nhiều danh sĩ tài giỏi. Sao cho cờ của ta đến đâu, bọn khốn nạn này mà theo thì dân chúng cũng phải theo thôi…”
Ánh bảo:..”Không được. Ta uỷ mệnh trời, cần gì mua chuộc ai?Ta đến đâu, đào hố đến đấy, chôn chúng nó xuống, dân chúng không theo không được…”
Nếu triết tự từng câu chữ, và giải mã các ẩn ý trong ngôn từ mà Nguyễn Phúc Ánh nói với quần thần, hay đoạn Nguyễn Huy Thiệp chấm phá, phác họạ tính cách của Nguyễn Phúc Ánh:..” không coi nhân, nghĩa, trí, tín ra gì…” hoặc:..”chữ nghĩa của chúng nó thối lắm…toàn lũ ốm o như dòi chó…Ta uỷ mệnh trời, cần gì mua chuộc ai? Ta đến đâu đào hố đến đấy, chôn chúng nó xuống, dân chúng không theo không được…” Thì thấy Nguyễn Huy Thiệp “Bôi xấu” Nguyễn Phúc Ánh một cách cay độc, thâm sâu – Nguyễn Phúc Ánh như bạo chúa Nero, như các Faraoh thời Ai Cập cổ đại. Nhưng không vì thế mà Nguyễn Huy Thiệp bị cho là báng bổ nhân vật lịch sử (nếu cứ theo cách nhìn của Trần Mạnh Hảo soi mói “Dị Hương”) hoặc bôi xấu Quang Trung (như Nguyễn Huy Thiệp đã từng bị một số nhà phê bình văn học mặc áo Trương Tuần quy chụp).
B/ Dị Hương ngợi ca Nguyễn Ánh.
Đọc Dị Hương, tôi không thấy sự “Bôi xấu” Nguyễn Phúc Ánh một chút nào, trái lại, Sương Nguyệt Minh lại đề cao, ngợi ca Nguyễn Phúc Ánh.
Trong lịch sử, Nguyễn Ánh nhốt vợ vào hang, ném con xuống biển, quyết chí “ra đi không vương thế nhi” để mưu nghiệp lớn, bôn tẩu, khổ ải, sống chết luôn cận kề 25 năm. Để lấy lại vương triều từ Tây Sơn thì khói lửa ngút trời, máu chảy đầy sông, đất nước kiệt quệ, Dị Hương đã dựng lên nỗi ai oán đó. Nhưng dưới ngòi bút của Sương Nguyệt Minh thì Nguyễn Ánh cũng có lúc đau đớn, buồn:
“Một vùng hoang vu. Quạ đen bay rợp trời. Xác binh lính chết như ngả rạ. Đồ khí giới quẳng vô tội vạ. Ngựa què nằm bẹp, máu tím bầm đen. Ruồi trâu bay vù vù. Xe mộc bỏ vương vãi. Đồng không mông quạnh. Xơ xác. Tiêu điều. Thật ai oán thê lương nước lửa và ống đồng. Ánh vốn lạnh lùng đến độc nghiệt, cũng không khỏi xót xa, cô đơn và buồn. „
Nguyễn Ánh biết việc mình làm chết muôn dân, vẫn làm, và sau đó thì xót xa, buồn; ông chưa đến mức người vô cảm. Mấy ai chia sẻ, cảm thông được với Nguyễn Ánh như Sương Nguyệt Minh?
Nguyễn Ánh trong Dị Hương là người đoạt đến tận cùng, kể cả cái bình thường nhất, đến cái dị thường của nhà Tây Sơn. Nhưng Nguyễn Ánh không võ biền, ông biết yêu mến cái đẹp và trân trọng người đẹp. Khi cận thần can gián, khuyên Nguyễn Ánh không nên lấy vợ của kẻ bại trận – kẻ thù, thì ông vẫn độc quyết theo ý mình:
Ánh cả giận, mắng:
“Ta đoạt lại thiên hạ từ giặc cỏ Tây Sơn, thì cành cây ngọn cỏ cũng thuộc về ta, huống chi là vợ Quang Toản. Vả lại, các ngươi là anh hùng thời loạn chỉ biết hùng hục đánh nhau chém giết, có biết yêu thương bao giờ mà hiểu được lòng ta. Các ngươi là hạng đàn ông võ biền chỉ nghĩ đến chuyện đực cái trần tục, đâu có biết cái thứ mùi hương kỳ lạ thanh tao tỏa ra từ ngọc thể của nàng”.
Dù cho có thù hận đối thủ (Nguyễn Huệ) bao nhiêu thì Nguyễn Ánh vẫn cảm phục Nguyễn Huệ. Ông không coi việc lấy lại vương quyền từ Tây Sơn khi Nguyễn Huệ chết bệnh đột ngột… là vẻ vang. Thói thường xưa nay: người đã chiến thắng thì phán xét kẻ bại trận thế nào chả phải, chả được; bởi khi ấy “chân lý thuộc về kẻ mạnh”; nhưng Nguyễn Ánh rất công bằng với người đã chết – Nguyễn Huệ, điều này, không phải người đại anh hùng nào cũng làm nổi:
“Giờ ta mới thấy Sán nói đúng. Nguỵ Huệ là bậc đại anh hùng thiên hạ thực. Huệ chết bất đắc kỳ tử, ta mới lấy Phú Xuân dễ dàng như đi vào chỗ không người. Vậy phỏng có vẻ vang kiêu hãnh gì với bậc Chúa vương đại nguyên suý như ta? Tiếc y không còn sống để ta thi thố đường gươm vó ngựa…” (trích Dị Hương).
“Biết người biết ta”, rõ ràng Nguyễn Phúc Ánh là một bậc hào kiệt, nể phục tôn trọng đối thủ của mình. Sương Nguyệt Minh đặt trí lự, tài năng Nguyễn Ánh ngang với Nguyễn Huệ. Viết tới đây tôi nhớ tới một chi tiết trong cuốn sách thời Liên Xô cũ “Tên anh chưa có trong danh sách”. Nội dung cuốn sách nói về một sĩ quan Hồng quân mới ra trường, anh được bổ nhiệm tới pháo đài Bret, chưa kịp trình diện, anh đã lao vào cuộc chiến chống cuộc xâm lược của phát xít Đức vào rạng sáng ngày 22.6.1941. Khi pháo đài bị chiếm, anh chui xuống hầm và chiến đấu bền bỉ gần một năm trời. Khi anh lên khỏi đường hầm, tất cả binh lính, sĩ quan Đức đều đứng nghiêm giơ tay chào kính phục một đối thủ quả cảm, ngoan cường, một chi tiết rất đắt. Biết kính trọng người đối nghịch là nghĩa cử thượng võ, quân tử.
Nguyễn Phúc Ánh dưới ngòi bút của Sương Nguyệt Minh cũng như vậy. Dù coi Nguyễn Huệ là giặc cỏ, là ngụy Huệ, ngụy Toản, nhưng Nguyễn Ánh rất nể phục người anh hùng Nguyễn Huệ.
C. Dị Hương không giống Kiếm Sắc.
So sánh văn bản giữa “Kiếm Sắc” và “Dị Hương” tôi thấy ý tưởng, văn phong hoàn toàn khác nhau, xung đột nhân vật khác nhau, ngôn ngữ khác nhau…
(-) Ý tưởng của Dị Hương: là bị kịch anh hùng và mỹ nhân, là bi kịch bạo quyền với vẻ đẹp thánh thiện.
Ý tưởng Kiếm Sắc là xung đột thân phận bị “vắt chanh bỏ vỏ” của trí thức với nhà chính trị cầm quyền.
Xây dựng ý tưởng văn học của Sương Nguyệt Minh và Nguyễn Huy Thiệp khác nhau nên cùng là nhân vật lịch sử Nguyễn Ánh khi đi vào tác phẩm của hai ông cũng khác nhau:
(-) Nhân vật Nguyễn Ánh trong “Dị Hương” không phải con người chính trị, mà là con người anh hùng giữa đời thường, làm người bình thường. Nguyễn Phúc Ánh biết rung động trước cái đẹp, coi nghiệp bá chẳng ra gì so với mỹ nhân:
…”Sao đế vương khổ thế?Ta muốn sống như một người dân bình thường không được ư? Chẳng lẽ việc ngủ với gái mà còn phải hoãn cơn động cỡn lại chờ về nơi lều son gác tía?…Ta không bằng một thợ cầy sao?Đêm nay ta muốn ngủ với nàng trên cỏ cây như một thảo dân vô học…”
Đó! Nguyễn Phúc Ánh đã cay đắng thét lên bi phẫn như vậy với Lê Văn Duyệt trong khi tay vẫn ôm “Dị Hương” vào lòng. Cái bi kịch kép giữa ngôi vương, quyền lực, giữa nhục thể bản năng mà Sương Nguyệt Minh khai thác khác hoàn toàn Nguyễn Phúc Ánh trong “Kiếm Sắc”.

Nhân vật Nguyễn Ánh dưới ngòi bút của Nguyễn Huy Thiệp là con người quyền lực chính trị, là người làm tất cả để đoạt lại cơ đồ nhà Nguyễn, ông coi tất cả như cỏ rác, miễn đoạt được mục đích. Nguyễn Ánh dứt bỏ ca nữ Ngô Thị Vinh Hoa và tiếng đàn mang hình tượng nghệ thuật để thực hiện cơ hội “nghìn năm có một” là chiếm thành Thăng Long.
Còn Nguyễn Phúc Ánh – Anh hùng với cái nhìn đời thường của nhà văn Sương Nguyệt Minh trong “Dị Hương” thì bị giằng xé về nội tâm, về bản dục – bản năng gốc thụ hưởng vẻ đẹp với chức phận làm con người anh hùng – làm Vương:
Ánh cười gằn, bảo:
“Bọn các ngươi không nghe câu thơ cổ: “Mỹ nhân tự cổ như danh tướng”. Nàng còn hơn cả danh tướng. Ta được nàng như được nửa cuộc đời”.
Và: “Sao đế vương khổ thế!? Ta muốn sống như một người dân bình thường không được ư?… Ta không bằng một thợ cày sao? Đêm nay ta muốn ngủ với nàng trên cỏ cây như một thảo dân vô học”.
Cựu Tổng Thống Cộng hòa Czech – VL. Havel là Nhà viết kịch lớn đã nói: các vĩ nhân khi làm tình đều bình dân cả…”
Ở truyện ngắn “Dị Hương”, Sương Nguyệt Minh đã đưa ra cái điều mà bấy lâu nay nhiều nhà văn xứ mình ít đề cập tới: cái đẹp của mỹ nhân bên cái hào sảng của anh hùng. Cái phần con, trong chính giới rất thật, rất người.

Nguyễn Ánh trong Kiếm Sắc của Nguyễn Huy Thiệp là con người lạnh lùng, mưu sự việc nghiệp lớn với Đặng Phú Lân, chỉ với ý chí trả thù, quyết liệt tận diệt Tây Sơn đến cùng:  “Khi nào ta thành nghiệp lớn, ta phanh thây nó, ta chôn ba họ nó”

(-) Văn truyện ngắn Kiếm Sắc của Nguyễn Huy Thiệp gai góc, gồ ghề, sắc lạnh; còn văn Dị Hương của Sương Nguyệt Minh ấm áp, chở được xung đột nội tâm, lãng mạn và bàng bạc chất thơ. Tôi cho đoạn làm tình trong Dị Hương rất mỹ cảm:
…”Ánh trôi vào mê mị. Tiếng rên rỉ trong niềm khoái lạc tột cùng của Ánh tựa hồ tiếng binh khí chạm vào nhau lan ra mặt sông làm váng đầu quân quan. Cá chép ở thượng nguồn xuôi về. Con đực bám đuôi con cái, quẫy ùm ùm giao phối không đợi mùa động đực. Cả khúc sông Hương nổi đầy màng nhầy trong suốt lấm tấm trứng cá, nồng nàn mùi đực cái. Từ lính, quan đến cung tần không ai ngủ nổi…”   
Tôi rất đồng cảm với nhà nghiên cứu văn học Trần Đình Thu trên binhchonthohay.com viết: “Thực ra khi hai truyện ngắn đã rất khác nhau, chúng ta không thể so sánh như thế được. Cũng như ta không so sánh một cành hoa mai với một cành hoa đào xem cành hoa nào đẹp hơn.“
Trong khi Trần Mạnh Hảo rủa sả, chê bai Dị Hương thì Nhà nghiên cứu văn học Trần Đình Thu lại quả quyết: “Sự thực, đọc Dị hương của Sương Nguyệt Minh tôi thấy rất thú vị. Truyện viết công phu, sức tưởng tượng phong phú, có nhiều tình tiết văn học đắt giá“.
Mới hay, nhìn viên ngọc đẹp cũng tùy từng người có con mắt xanh hay không, đứng ở điểm nhìn nào, và tâm thế nào thì mới nhận ra giá trị của nó?
“Dị Hương” không phải chính sử. Trong thực tế, ngay cùng một hiện tượng, một nhân vật lịch sử thì các nhà sử học cũng có các cách nhìn, quan điểm đánh giá khác nhau. Tôi có cảm giác anh Hảo bị mù mầu khi thẩm định một tác phẩm văn học.
Anh Trần Mạnh Hảo còn nói (đại ý) là có sự chỉ thị cho Sương Nguyệt Minh viết truyện ngắn Dị Hương. Đó là sự suy diễn thô lậu, cay cú, hậm hực. Tôi tin, chẳng bao giờ có một chỉ thị ngớ ngẩn như thế.
Trần Mạnh Hảo còn viết:
“Nếu một kẻ nào đó, lôi ông tổ của nhà văn Sương Nguyệt Minh ra để chửi bới thậm tệ như ông đã làm với vị Hoàng đế nước Việt Nam Gia Long, một người đã có công thống nhất đất nước, liệu ông Sương Nguyệt Minh có để yên hay sẽ nhảy dựng lên đòi kiện bọn vô cớ bôi bẩn ông cha mình ra tòa? Nếu một kẻ cầm bút vì lý do tiến thân nào đó, tự nhiên lôi ông tổ của nhà thơ Chủ tịch ra vu cáo thậm tệ theo kiểu Sương Nguyệt Minh vu cáo tổ tiên của hoàng tộc Huế, liệu ông Chủ tịch có dám trao giải thưởng cho hay không?”.
Thưa bạn đọc! Đoạn viết trên của Trần Mạnh Hảo có phải là phê bình học thuật, hay là lời chửi bới tác giả? Tôi xin nhường bạn đọc phán xét.
Cách “Chém” “Dị Hương” vô hình dung Trần Mạnh Hảo đã “Tự thiến”  văn hoá đọc của mình.
Praha – đầu năm con mèo.
©  Trần Ngọc Tuấn – CH Séc
-Vài ý nghĩ sau khi đọc “Dị hương” của Sương Nguyệt Minh (Đặng Văn Sinh)
“…“con mắt xanh” của các “nhà” trong Hội đồng văn xuôi cất ở đâu mà đề cử một tập truyện nặng mùi sex như thế vào Giải thưởng văn chương cao quý của nền văn học Việt “đậm đà bản sắc” và “đỉnh cao thời đại” năm 2010?…”
Đúng như nhà văn Trần Mạnh Hảo đã phát hiện, Giải thưởng của Hội Nhà Văn trao cho Sương Nguyệt Minh năm 2010 chủ yếu tập trung vào truyện “Dị hương”, còn những truyện khác đều thuộc loại làng nhàng, giống như hằng hà sa truyện và đã được các nhà xuất bản cũng như mấy trăm tờ báo (kể cả báo văn chương) lề phải theo định hướng XHCN liên tục “xuất xưởng” trong nhiều năm qua. Đó là những truyện ngắn câu khách nặng mùi… tình dục nhưng thiếu tư tưởng được xào xáo sống sượng, sau đó thông qua công nghệ “lăng xê” của các nhà phê bình “cò mồi” (liệu có kèm theo điều kiện?), không ít cây bút lạ hoắc kiếm được tấm vé vào cửa HNV.


Với quy trình sản xuất truyện ngắn như vậy (xin tạm để tiểu thuyết sang một bên, tác giả không dám lạm bàn, vì chỉ cần qua lời nhận xét của nhà văn Nguyễn Bắc Sơn trong đợt trao Giải thưởng cuộc thi năm 2010, thì sẽ biết được tiểu thuyết VN đang đứng ở trình độ nào), tất yếu dẫn đến hệ luỵ là hàng loạt tác phẩm na ná giống nhau cứ như là chúng được đúc ra từ một khuôn. Đây là quan hệ nhân quả mang tính quy luật không thể đảo ngược và sẽ còn kéo dài nhiều thập niên nữa theo kiểu “không tiền khoáng hậu”, mặc cho bác Chủ tịch đương nhiệm, người có thâm niên chăn dắt đám văn nhân gần như suốt đời, đã phải hạ bút “điền vào chỗ trống” trong “Báo cáo…” của 4 nhiệm kỳ Đại hội liên tục là “chưa có tác phẩm ngang tầm thời đại”. Ấy vậy, nhưng nếu xét về mặt số lượng, thì đội ngũ các “nhà”, từ cổ chí kim chưa bao giờ lại hùng hậu như bây giờ. Đấy mới chỉ là nói đến các “nhà” chính danh. Còn một đội ngũ “phó danh” cũng hùng hậu không kém, tính sơ sơ cũng phải hàng vạn của 64 tỉnh thành, (tất cả đều toạ hưởng vào tiền thuế của dân) mà phẩm chất tự tin (hay là thói kiêu ngạo nghệ sĩ dỏm) thì… “dưới vòm trời này, đếch thằng nào bằng ông!”

Trong bối cảnh trên, vớ được “Dị hương”, Hội đồng Giải thưởng tưởng như vớ được vàng ròng. Ai ngờ, đó lại là vàng giả, thậm chí vàng nhái, vàng đểu. Bởi “Dị hương” thực chất chỉ là một đoản thiên nặng mùi tình dục câu khách rẻ tiền, đánh lừa độc giả vốn đã quá ngán ngẩm với thứ văn chương “quốc doanh” được dán nhãn “định hướng”, “đổi mới” giả cầy. Đọc “Dị hương”, người bàng quan nhất với nền văn học “lề phải” cũng lập tức liên tưởng ngay đến “Kiếm sắc” của Nguyễn Huy Thiệp mà so sánh cái tầm của hai cây bút cùng những vấn đề mà người viết đặt ra.

“Kiếm sắc” là truyện ngắn mang tầm tư tưởng lớn. Tư tưởng ấy xuyên suốt từ quá khứ đến hiện tại, thậm chí còn dự phóng được cả tương lai, là thứ mà cho đến bây giờ, nghĩa là hơn hai mươi năm sau khi tác phẩm ra đời, chúng ta mới ngộ ra được phần nào. “Kiếm sắc” trước hết là liều thuốc giải thiêng thần tượng (chưa nói đến thủ pháp tinh diệu lấy quá khứ giải thích hiện tại), sau nữa là minh định những giá trị lịch sử mà bấy lâu nay người ta vẫn ngộ nhận, “trả lại cho Ceasar những gì của Ceasar”. Dưới ngòi bút Nguyễn Huy Thiệp, nhân vật Gia Long hiện lên như một bậc anh hùng cái thế, nhưng lại rất “người” với những biểu hiện cụ thể qua những chi tiết đắt giá như đánh rơi kiếm khi nhìn thấy người đẹp Ngô Thị Vinh Hoa, nóng lòng muốn trả thù Nguyễn Huệ nhưng cũng biết nghe lời Đặng Phú Lân nhẫn nhịn đợi thời cơ. Tuy nhiên, cái cao cả hơn hết ở bậc vĩ nhân này là biết được mình đang mang gánh nặng lịch sử trên vai, biết tầm quan trọng của việc mở mang bờ cõi cùng với sự nghiệp quyết tâm tiêu diệt nhà Tây Sơn, thống nhất lãnh thổ.

Gia Long trong “Kiếm sắc” là nhà độc tài nhưng không hề là bạo chúa. Ông là hậu duệ đảm lược làm vẻ vang cho mười ba dòng Chúa Nguyễn vốn có nguy cơ tuyệt diệt bởi bàn tay tàn ác của Quang Trung Nguyễn Huệ. Viết về Gia Long, Nguyễn Huy Thiệp không bôi nhọ chính sử mà chỉ phản biện nguỵ sử, một loại sử chép lấy được bất chấp hiện thực khách quan của những kẻ nắm sức mạnh trong tay, thao túng ngọn bút…

Với “Dị hương” thì khác. Từ cốt truyện đến ngôn ngữ diễn đạt cũng như các chi tiết, tình tiết đều “nhái” một cách trắng trợn “Kiếm sắc”. Có điều, Sương Nguyệt Minh chỉ mô phỏng được phần xác của “Kiếm sắc”, tức là cái vỏ của câu chuyện, còn phần hồn của nó tuyệt nhiên không hề mảy may có một phân lượng nào. Nói cách khác, “Dị hương” không có tư tưởng mà đơn giản chỉ là chuyện tình dục nhầy nhụa của lũ trai gái mất dạy thời hiện đại được gán cho Nguyễn Ánh, biến ông thành kẻ cuồng dâm, hạ thấp phẩm giá của bậc anh hùng, phỉ báng công chúa Lê Ngọc Bình không chỉ của dòng họ Nguyễn Phúc và họ Lê mà của cả dân tộc Việt.

Cách xử lý bố cục của Nguyễn Huy Thiệp khá bài bản. Cả hai nhân vật Ngô Thị Vinh Hoa và Đặng Phú Lân đều hư cấu nhưng động thái hư cấu ấy lại nằm trong mạch tư duy nghệ thuật thống nhất, phục vụ triệt để cho ý đồ tư tưởng tác phẩm. Đó là khẳng định vai trò quan trọng của Gia Long đối với lịch sử cận đại Việt Nam. Đặng Phú Lân là kẻ sĩ Bắc Hà, đồng thời là viên văn thần cơ mưu, thuộc hàng tâm phúc của Nguyễn Ánh, cho dù sau này bị Ánh bức tử bằng chính thanh gươm báu của mình. Hãy nghe Lân nói với Gia Long: "Thế là chúa công vẫn quen dùng người thường, ở bậc cao nhân còn gì còn chuyện vô đạo, hữu đạo ? Tâm ở sự thành, đâu phải ở lòng ? Chúng không chịu hiểu là lỗi ở chúng”. Ngô Thị Vinh Hoa là vưu vật của Tạo hóa có vẻ như được thác sinh xuống cõi trần để sánh đôi với người anh hùng Gia Long. Ngón đàn tuyệt diệu và những ca từ Ngô Thị Vinh Hoa hát làm Gia Long say nàng mê mệt chứng tỏ nhà vua là bậc trượng phu, có linh giác của phẩm chất đế vương, khác hẳn một Gia Lọng hiếu sát, bệnh hoạn của Sương Nguyệt Minh.

Ngoài giá trị tư tưởng, “Kiếm sắc” còn có lối viết nửa hư nửa thực. Ngòi bút Nguyễn Huy Thiệp lúc ấy tựa hồ như có giác quan thứ sáu “định hướng” làm cho thiên truyện của ông bồng bềnh giữa cõi ma quỷ và cõi người khiến độc giả phán đoán mỗi “nhà” một kiểu, chẳng ai giống ai, thật là một chiêu thức tuyệt luân.

Ngược lại, “Dị hương” là truyện ngắn “bẹt”, chẳng những trăm phần trăm vắng bóng tư tưởng mà còn cố tình bóp méo lịch sử, biến Gia Long thành một bạo chúa, hôn quân, nhân cách vô liêm sỉ. Công chúa Lê Ngọc Bình, trong Phả hệ còn chép, bà đã có với Gia long bốn người con, hai hoàng tử và hai công chúa. Tuy từng là hoàng hậu của Quang Toản nhưng Ngọc Bình vẫn được Gia Long phong làm Đức Phi và yêu chiều như một ái thê, vậy mà Sương Nguyệt Minh dám xuyên tạc bằng cái đoạn Nhà vua làm tình vô cùng bạo liệt đến mức nàng công chúa út vua Lê Hiển Tông đột tử ngay dưới bụng Nguyễn Ánh. Hỡi những hậu duệ của Đức Gia Long, các vị nghĩ gì về hành động bôi nhọ này? Cũng xin nói thêm, chi tiết Lê Ngọc Bình có mùi hương của Sương Nguyệt Minh đâu phải sáng tạo, thực chất là “mượn tạm” từ nhân vật Hương phi trong kịch truyền hình “Hoàn Châu cách cách” của mấy anh Ba Tàu. Trong khi đó, nếu đọc thêm “Phẩm tiết” ta sẽ thấy chi tiết mùi thơm tiết ra từ… của Vinh Hoa (nhân vật xuất hiện trong cả hai truyện ngắn) tuy có vẻ hơi tục nhưng lại là độc nhất vô nhị, hoàn toàn mang phong cách Made in Nguyen Huy Thiep!

So với Đặng Phú Lân, cũng là nhân vật hư cấu, thì Trần Huy Sán chỉ là gã lưu manh, chuyên dắt gái cho đám đại gia cũng lưu manh không kém của thế kỷ hai mươi mốt. Để tên cò mồi này bên cạnh đức Gia Long, một lần nữa người đọc lại thấy Sương Nguyệt Minh chịu ảnh hưởng rất nặng nề của loại kịch truyền hình dài tập nhảm nhí của các đồng chí “nước lạ” nhằm bôi bác tiền nhân, biến chính sử thành trò đùa rẻ tiền mua vui cho những kẻ ở tầm “văn hóa lùn”. Nhân vật Hòa Thân bên cạnh vua Càn Long xem ra có khác gì Trần Huy Sán?

Ngôn ngữ “Kiếm sắc” là thứ ngôn ngữ lạnh như ánh kiếm báu gia truyền loé lên khi chém đầu Đặng Phú Lân. Đó là loại ngôn ngữ rất kiệm lời, ý tại ngôn ngoại, cho dù đấy là văn chứ không phải là thơ. Có thể nói, trong mỗi câu văn “Kiếm sắc” đều hàm chứa một tư tưởng nào đó, thậm chí đọc đi đọc lại rồi mới hiểu tác giả định nói gì. Trái lại, “Dị hương” cũng bắt chước câu văn ngắn, dùng dấu chấm đột ngột, nhưng người đọc vẫn nhận ra toàn truyện là những câu văn hụt hơi, rời rạc như một thứ xác ướp không hồn. Chẳng những thế, vốn từ vựng và cách viết câu của “Dị hương” dường như còn thiếu một trình độ cơ bản, nói nôm na là tác giả “chưa sạch nước cản”. Xin dẫn chứng: “Không còn là mỹ nhân thanh mai trúc mã”. Thành ngữ “thanh mai trúc mã” là dùng để chỉ đôi trai tài gái sắc rất xứng đáng với nhau ( vẻ đẹp cây mai – vẻ đẹp của cây trúc). Ở đây tác giả chỉ dùng riêng cho Lê Ngọc Bình, chứng tỏ người viết không hiểu gì về cách so sánh này nhưng lại viết liều, dụng ý khoe chữ. “Trần Huy Sán phán rằng”. Lại một câu văn không ổn, bởi chỉ có các bậc đế vương hoặc kẻ bề trên mới được “phán”, còn Trần Huy Sán là bề tôi đang đứng trước vua mà lại “phán” thì rõ ràng Sương Nguyệt Minh rất mù mờ về chữ “lễ” cũng như tôn ti trật tự trong triều đình phong kiến ngày xưa. Đó là chưa kể những đơn vị đo lường thế kỷ mười tám, mười chín là tấc, thước, trượng (thốn, xích, trượng) phải được đặt đúng vào văn cảnh chứ không thể dùng tuỳ tiện, đại loại như: “đường kính vài mét”. Xin thưa, thời ấy, hệ thống tiêu chuẩn đo lường phương Tây chưa được du nhập vào nước ta.

Đành rằng văn học là có sự kế thừa nhưng tuyệt nhiên người đọc chân chính không chấp nhận loại văn chương nhái ở tầm thấp như “Dị hương”. Thật không hiểu, “con mắt xanh” của các “nhà” trong Hội đồng văn xuôi cất ở đâu mà đề cử một tập truyện nặng mùi sex như thế vào Giải thưởng văn chương cao quý của nền văn học Việt “đậm đà bản sắc” và “đỉnh cao thời đại” năm 2010?
12/ 2/2011
Đặng Văn Sinh


Phụ đính:

Để rộng đường dư luận, chúng tôi xin đăng kèm hai truyện ngắn “Kiếm sắc” và “Dị hương” dưới đây để bạn đọc tiện tham khảo:


Kiếm sắc
Nguyễn Huy Thiệp


Trong số người gần gũi với Thế tổ Nguyễn Phúc Ánh những năm mưu phục lại cơ đồ nhà Nguyễn có một hào kiệt mà không sử sách nào nhắc đến. Người đó là Ðặng Phú Lân.

Lân quê ở Hưng Hóa, cha là Ðặng Phú Bình, trước là thuộc tướng của Trịnh Bồng. Bình tính ngang tàng, võ công thâm hậu, thấy chúa Trịnh hèn mà cách xử thế keo kiệt, không xứng đáng với bậc vương giả nên bỏ Trịnh Bồng vào Ðàng Trong. Khi Tây Sơn nổi lên, Bình theo Nguyễn Nhạc, Nguyễn Nhạc không tin Bình, cho Bình là dân Bắc Hà trí xảo, không trung tín. Nhạc chỉ cho Bình làm một chức quan võ nhỏ ở vùng sơn cước mãi tây Bình Thuận. Bình bất đắc chí, suốt ngày uống rượu, nhiều khi say quá, cứ trông về phía trời Bắc mà khóc hu hu. Lân can thế nào cũng không được. Về sau Bình ngã nước, râu tóc rụng hết, gầy tọp đi, da vàng như nghệ, chỉ nằm chờ chết. Bình có một thanh kiếm gia truyền, sắc như nước, sống kiếm đổ chì, sức chém khủng khiếp. Trước khi chết, Bình trao thanh kiếm lại cho Lân, bảo rằng: "Con ơi, nước đang có loạn. Tây Sơn bây giờ đang lên như thế chẻ tre. Nhưng ta thấy sức chơi của bọn người này bất quá chỉ như trọc phú nhà giàu, gÁnh vác giang sơn sao được ? Ta đồ rằng mệnh Tây Sơn có hạn. Hiện Gia Ðịnh có Nguyễn Phúc Ánh là nòi vương giả, con gắng vào đấy tìm xem". Lân khóc, mắt chảy có máu. Bình giãy mấy cái, mồ hôi toát đầm đìa, người cứ lạnh dần rồi chết. Lân lấy kiếm đào huyệt chôn cha; tìm đường vào Gia Ðịnh theo Nguyễn Phúc Ánh. Lúc bấy giờ Lân mới hai mươi tám tuổi.

Nguyễn Phúc Ánh ở Gia Ðịnh tìm cách lật đổ Tây Sơn, khi này thế đã mạnh. Ánh là người đa mưu túc kế, tính kiên trì, không tin ai, dùng người lấy chữ "hiệp", chữ "lễ" làm trọng, không coi "nhân", "nghĩa", "trí", "tín" ra gì. Thỉnh thoảng, Ánh vào trong đất Thuận Quảng, xuất quỷ nhập thần. Người Ðàng Trong sợ Ánh hơn là thích Ánh. Ánh đi đến đâu nghe nói cũng có mây đen cuồn cuộn bay đằng trước, dân cư thấy có mưa là biết Ánh vừa đi qua.

Lân gặp Ánh. Ánh thấy Lân khôi ngô, ăn nói khoan hòa mà thủ đoạn táo bạo thì thích lắm, cho ở luôn bên mình. Một lần thuyền Ánh qua cửa Tiền Giang, có bốn người đi theo, trong đó có Lân. Bấy giờ có con cá sấu rất to cứ bơi theo, đuổi thế nào cũng không được. Mọi người lo sợ, thấy phải có người nhảy xuống làm mồi cho cá sấu thì mới thoát.

Ánh hỏi: "Ai vì nước Việt mà chết ?"

Ba người kia tình nguyện chết, chỉ có Lân ngồi im. Ánh trừng mắt hỏi Lân:

"Trượng phu quý mạng sống thế à ?"

Lân chắp tay: "Chúa công đừng giận. Nước Việt thì không ai hại được. Còn thoát hàm cá sấu, cần gì phí một mạng người !"

Nói rồi nhặt hòn đá ở mạn thuyền ném con vịt giời bay qua. Vịt giời rơi xuống nước, cá sấu thấy vậy vội bỏ thuyền lao đến chỗ vịt giời. Ánh cười ha hả bảo rằng: "Thế này thì nghiệp ta thế nào Trời cũng cho thành".

Ánh đi đâu cũng cho Lân đi theo, cũng nhiều khi Ánh xem ý Lân để liệu xử thế với người, lần nào cũng trúng. Có lần, lúc này thế Ánh như diều gặp gió, trước Tết Nguyên đán, các tướng lĩnh, các nhà hào phú quanh vùng, cả dân chúng Gia Ðịnh nữa cũng mang lễ vật đến mừng, Ánh cho Lân ra nhận lễ vật. Lân ra nhận, cho ráo vào cả một kho. Khách đến chúc mừng Ánh, chỉ đi chân tay không mà vào. Bọn Lê Văn Duyệt, Nguyễn Văn Thành, Võ Tánh thấy lễ vật của mình cũng bị xếp cùng với lễ vật những người khác thì căm tức. Bọn này phàn nàn với Ánh, ý trách Ánh để tả hữu coi thường mình. Ánh cười bảo rằng: "Lân là người có văn, có võ, lại cương trực, trung thành với chủ, cứ để hắn khu xử. Hắn có cách khu xử của hắn. Những người gần ta không phải kẻ tầm thường đâu".

Sáng mồng một, lập đàn tế thần, Ánh cho Lân đứng ra chia lộc thánh. Lân chia phần đều ai cũng như ai, mọi người rất hớn hở. Sau việc này, Ánh hỏi Lân, Lân đáp: "Nghiệp chúa công chưa thành, thế mà đã có kẻ dâng lễ vật nhiều, dâng lễ vật ít. Biết lễ vật của từng người, chúa công sau này dùng họ khó." Ánh bảo: "Phải !" Lân lại nói: "Việc chia phần đều nhau là để ai cũng thấy mình phải cố gắng". Ánh bảo: "Cũng phải". Ngồi một lúc Ánh nói: "Chỉ e ngươi căn cơ quá chăng ?" Lân đáp: "Ðầy tớ không căn cơ có hại cho chủ". Ánh bảo: "Ngươi là dân Bắc Hà; Ngươi không hiểu dân Ðàng Trong như ta được. Ngươi tưởng làm thế là chu toàn, nhưng bậc vương giả thích sự tiện lợi hơn cả". Lân bảo: "Chúa công nói phải, căn cơ chỉ hợp với bần tiện, nhưng đất của Chúa công bây giờ nhiều hơn đất của Tây Sơn hay của Tây Sơn nhiều hơn ?" Ánh cau mày đáp: "Ta chỉ vỏn vẹn có ba thước đất chôn thây thôi". Lân bảo: "Không phải thế. Chúa công được lòng trời đất, chỉ cần Chúa công thành tâm". Ánh ngồi im, lát sau lại hỏi: "Nhạc không nói làm gì. Lữ không nói làm gì. Huệ có cách gì mà giỏi giang thế ?" Lân đáp: "Huệ giỏi dùng người tài nhưng không giỏi dùng người thường. Chúa công khác Huệ". Ánh ngồi im không nói năng gì.

Khi Nguyễn Huệ chết, con trai là Nguyễn Quang Toản lên ngôi, Tây Sơn năm bè bảy mối. Ánh mừng lắm sai mở tiệc mừng. Lân đứng ra can: "Chúa công đừng làm thế, dân chúng nhìn vào không cho ta là người đại lượng". Ánh bảo: "Huệ coi ta là quốc thù, hịch truyền khắp nơi, lời lẽ bẩn thỉu lắm. Ta với Huệ không đội trời chung. Nó chết ta cười cũng không được ư ?" Lân đáp: "Huệ không có tội gì, chỉ là một người tài, bị trời hành, cũng như Chúa công vậy. Nhưng lực lượng của Huệ không được hưởng phúc lâu dài, thế là Huệ dăm bảy đường thiệt. Ta lấy lộc của kẻ được hưởng phúc trời mà cư xử, trời thấy ta phải, người cũng thấy ta phải". Ánh nghe Lân nhưng nghiến răng nói: "Khi nào ta thành nghiệp lớn, ta phanh thây nó, ta chôn ba họ nó". Lân bảo: "Chẳng lâu đâu, Chúa công cứ nhịn cười, lúc ấy cười một thể". Quả nhiên sau này khi Ánh chiếm Thăng Long, thống nhất giang sơn, Ánh trả thù Tây Sơn rất thảm khốc.

Khi Ánh chiếm Phú Xuân, cướp được một ca nữ xinh đẹp lạ lùng, tên là Ngô Thị Vinh Hoa, vừa tròn mười tám tuổi. Vinh Hoa hát hay, đàn giỏi, điệu bộ rất duyên dáng. Một đêm, Ánh hứng khởi, sai Lân đưa Vinh Hoa vào bày tiệc, ngồi nghe hát. Lân bảo: "Hát bài Triều Thiên Tử". Vinh Hoa ôm đàn hát:
Kìa xanh xanh
Mấy nụ non
Mấy lá non
Nhờ mưa xuân mang sữa cho
Nhờ gió xuân mang khí thổ cho
Nhờ đất mang lương thực cho
Chẳng chịu cho ai hái
Càng lớn, nhan sắc càng mỹ miều
Càng lớn, phẩm hạnh càng thanh sạch
Càng lớn, càng cả thẹn
Thơ nào tả được vẻ đẹp này
Bút nào vẽ được ý tứ này
Ai tương tư mà chau mày
Ngủ thì thôi, tỉnh lại nhớ
ấy là trời cho
Vẻ đẹp hoàn hảo
Vẻ đẹp thiên kim.
Ánh vỗ tay reo: "Hát hay quá". Lân lại bảo:" Hát bài Tình Sông Núi". Vinh Hoa ôm đàn hát:
Kìa núi cao cao
Kìa sông xanh xanh
Núi do đâu mà ra
Sông do đâu mà ra
Tráng sĩ xa nhà
Lặn lội trên đường
Nơi cố hương
Mẹ già bạc đầu
Gái quý đêm nằm trằn trọc
Lấy gì trả nghĩa tình
Uống chén rượu sầu
Mời núi cao một chén
Lạy thiên tử ba lạy
Chẳng quên tình sông núi
Chỉ thương tình mẹ già với người đẹp phương xa.
Ánh cau mày: "Hát hay nhưng buồn quá". Vinh Hoa quì xuống lạy: "Tiện thiếp làm rầu lòng người trời". Lân đỡ dậy, bảo rằng: "Người chớ lo, Chúa công lòng rộng, những thứ tình cảm sướt mướt của bọn người thường không hợp với Chúa công đâu". Nói xong, Lân sụp xuống lạy Ánh: "Ngày mai Chúa công ra trận vui thú ít thôi, cần nghỉ ngơi". Ánh thở dài đứng lên: "Cũng phải ngươi ép ta, đến nay là chín năm rồi, ta còn nhớ. Từ khi ngươi cắp gươm hầu ta, ăn ngủ cũng phải tính giờ. Xưa kia ta đâu phải vậy ?" Lân đáp: "Chúa công chịu mệnh trời, gÁnh nặng hơn người". Ánh bảo: "Ta chỉ thích như người thường thôi !" Tuy nói thế nhưng cũng rũ áo vào trướng. Vinh Hoa ôm đàn lui ra. Hôm sau, Ánh bảo Lân: "Ta đi mà cứ văng vẳng tiếng hát ca nữ bên tai, tiếng gió thổi, tiếng gươm dao không át được". Lân bảo: "Chúa công còn nhiều cơ hội nghe hát, nhưng cơ hội diệt Tây Sơn chỉ có một".

Ánh họp các tướng, bàn kế hoạch đánh ra Thăng Long. Lê Văn Duyệt tâu: "Bắc Hà có nhiều danh sĩ tài giỏi. Sao cho cờ của ta đến đâu, bọn khốn nạn này mà theo thì dân chúng cũng phải theo thôi". Ánh bảo: "Không được. Ta ủy mệnh trời, cần gì mua chuộc ai ? Ta đến đâu, đào hố đến đấy, chôn chúng nó xuống, dân chúng không theo không được". Quan tướng ai cũng thấy phải, ngồi yên lặng cả.

Ðêm ấy Ánh thao thức không ngủ được, gọi Lân đến bảo múa kiếm cho xem. Lân cầm thanh kiếm gia truyền, múa loang loáng, nghe như có gió thổi bốn bề. Ánh nhìn toát cả mồ hôi, đoạn bảo đưa kiếm cho xem. Ánh cầm thanh kiếm hai tay, phát đứt một cây hoa dại vòng gốc như cột nhà mà chỉ bằng một nhát. Nhựa cây phun ra như máu trắng. Ánh hỏi: "Kiếm của ngươi sao sắc bén vậy ?" Lân bảo: "Ðây là kiếm thần, không rõ xuất xứ, tổ phụ truyền lại". Ánh hỏi: "Sao bây giờ ta mới thấy nó ?" Lân bảo: "Trước Chúa công chỉ thấy đầu rơi dưới kiếm, bây giờ mới nhìn rõ kiếm. Thế là sắp thanh bình thịnh trị rồi đó". Ánh cầm thanh kiếm không muốn rời tay.

Ánh hỏi: "Trưa nay khi nói việc ta muốn chôn danh sĩ Bắc Hà, sao ngươi tái mặt ?" Lân tâu: "Lân là người Bắc Hà nên tủi phận mình sợ cho mình". Ánh bảo: "Ta chỉ ghét bọn chữ nghĩa thôi, còn ngươi là con nhà võ thì sợ gì. Chữ nghĩa chúng nó thối lắm, nguỵ biện xảo trá tinh vi. Hành tung chúng, ta chẳng lo. Toàn lũ ốm o, như dòi chồn hèn mọn cả". Lân bảo: "Ða số như thế, chôn cũng đáng. Chỉ có đôi người khá, chúa công được họ thì thêm sang cho chúa công". Ánh bảo: "Ta không tin bọn nó theo ta. Chúng nó quen tỉ tê với chữ nghĩa thì sẽ coi ta là vô đạo, không có tâm thế. Rửa đầu óc chúng nó mệt lắm". Lân bảo: "Thế là chúa công vẫn quen dùng người thường, ở bậc cao nhân còn gì còn chuyện vô đạo, hữu đạo ? Tâm ở sự thành, đâu phải ở lòng ? Chúng không chịu hiểu là lỗi ở chúng. Ðã ai hiểu việc chúa công dùng Bá Ða Lộc, dùng người ngoại quốc ? Chúc công còn phải mang tiếng ba trăm năm". Ánh lo sợ nói: "Phải làm sao ?" Lân bảo: "Chẳng làm sao được, nhưng bên cạnh chúa công có vài người như Ngô Thì Nhậm thì không sao cả".

Ánh bảo: "Ta muốn cho ngươi đi trước, chiêu mộ đôi ba người, thế là công to lắm". Lân sụp lạy: "Ðược thế còn gì bằng, Lân cũng không thẹn mặt với nơi sinh ra mình". Ánh bảo: "Ta giữ thanh kiếm này để khi ngươi quay về, có tin hay, ta có cớ mà khen thêm. Còn không được việc, ta có linh khí mà trừng phạt". Lân tái mặt nhưng đành phải chịu.

Ít bữa sau, Lân cải trang, giắt theo ít vàng bạc, tìm đường ra Bắc Hà. Lúc này Bắc Hà nhốn nháo lắm, triều đình Tây Sơn như trứng để đầu đẳng. Bọn tướng của Tây Sơn tranh giành nhau, chẳng còn biết giữ gìn tiếng tăm nữa. Lân thân cô, thế cô, lang thang đây đó, đi khắp nơi tìm người tài giỏi nhưng không thấy ai ưng ý.

Một hôm, Lân vào nghỉ ở một quán trọ ven đường, thấy có một người cốt cách hiền lành, dáng điệu bồn chồn đang ngồi uống nước chè suông. Hai người nói chuyện. Lân ngạc nhiên thấy người này trong trẻo lạ thường, tâm hồn sạch như nước ở suối ra. Lân cố mời rượu, người này chỉ uống một tí đã đỏ mặt. Con gái chủ quán rất xinh đứng ra hầu rượu. Người trẻ tuổi bảo: "Khách ở nơi xa đến, mệt mỏi vì công danh không đâu, chưa biết thế nào là đường đi lối lại, cô Cầm hát một bài cho nghe đi". Lân thoáng ngạc nhiên, rồi bình tâm lại, vật nài mãi, cô con gái chủ quán bèn ôm đàn ra đưa cho người trẻ tuổi. Người trẻ tuổi gảy đàn, cốt cách rất ư thanh lịch. Cô con gái chủ quán hát:
Kìa trăm năm
Tài mệnh là gì
Chỉ thấy đớn đau
Nhờ mưa mang sữa cho
Nhờ đất mang lương thực cho
Chẳng chịu cho ai hái
Ai hái cũng phí
Nhan sắc mỹ miều cũng qua thôi
Phẩm hạnh thanh sạch cũng nhạt thôi
Càng lớn càng cả thẹn
Cố tả được vẻ đẹp này
Gắng vẽ được ý tứ này
Ai tương tư cho rầu lòng
Ngủ thì thôi, tỉnh lại nhớ
ấy là trời buộc
Cô quạnh vì nàng
Ta đi săn, đi câu
Vẻ đẹp hoàn hảo
Vẻ đẹp thiên kim
Bao giờ bốc mộ
Nhỏ cho một giọt nước mắt
Kìa trăm năm
Tài mệnh là gì
Chỉ thấy đớn đau
Lân nghe xong, thở dài trào máu ra từ ngũ khiếu. Lân kêu to: "Trời hỡi trời, sao giống bài Triều Thiên Tử vậy ?" Cô con gái chủ quán cười cười chỉ tay vào người trẻ tuổi: "Bài này không có tên, do người này làm ra, chỉ để riêng cho Cầm hát". Lân thở dài nói: "Bài hát hay quá, thật Lân này chưa biết thế nào là đường đi lối lại". Nói rồi Lân cáo từ vào trong nằm nghỉ. Hôm sau Lân dậy sớm, bỏ đi không chào chủ quán, cũng không hỏi người khách trẻ tuổi với cô Cầm, con gái chủ quán.

Khi Lân đến được Thăng Long thì Nguyễn Ánh đã vào thành rồi. Quân Ánh đi như nước lụt, Lân như cánh bèo bị sóng cuốn trôi. Thâm tâm Lân cũng chẳng biết nên vui hay buồn, chỉ thấy trong lòng cảm động.

Lân gặp Ánh xin chịu tội vì không làm được việc. Ánh ngồi trên ngai vàng, tả hữu gươm giáo sáng quắc hai bên. Lân tự trói mình, quì xuống sân rồng. Ánh bảo: "Ngươi theo hầu ta thế là chín năm một trăm ngày. Chín năm không làm hỏng việc gì, còn một trăm ngày thì hỏng việc, vô tích sự. Thế là trèo lên cây mà không hái được quả, đáng tội chết". Lân không nói năng gì, vươn cổ ra chịu chém. Nghe nói Nguyễn Ánh đã sai đao phủ dùng thanh kiếm gia truyền của Lân để chém đầu Lân. Khi chém đầu, máu phun ra không đỏ mà trắng như nhựa cây, một lúc sau thì bết lại.

Ðoạn Kết

Tôi, người viết truyện này, gần đây lên Ðà Bắc, đến Tu Lý ở trong nhà một người Mường. Chủ nhà tên là Quách Ngọc Minh có cho xem bài vị thờ tổ tiên. Tôi hết sức ngạc nhiên khi ông Quách Ngọc Minh cho biết tổ tiên ông là người Kinh. Ông Quách Ngọc Minh có nói tổ phụ ông tên là Ðặng Phú Lân, có vợ tên là Ngô Thị Vinh Hoa vốn là một ca nữ. Lân và Hoa trốn vua lên Ðà Bắc, giả làm người Mường, về sau lập trại, sinh con đẻ cái ở đây. Ông Quách Ngọc Minh có nói tổ phụ ông sinh thời từng gặp Nguyễn Du, tác giả cuốn Ðoạn Trường Tân Thanh nổi tiếng. Tôi còn được con gái ông Quách Ngọc Minh tên là Quách Thị Trinh hát cho nghe một bài hát xưa, lời lẽ rất thanh tao về những chồi cây xanh.

Viết truyện ngắn này, tôi muốn để tặng gia đình ông Quách Ngọc Minh để cám ơn thịnh tình của gia đình ông đối với riêng tôi. Tôi cũng xin cảm ơn một số nhà nghiên cứu lịch sử và bạn bè quen biết đã giúp tôi sưu tầm chỉnh lý những tư liệu cần thiết cho công việc viết văn, vốn rất nhọc nhằn, phức tạp, lại buồn tẻ nữa của tôi...
Hà Nội 1988
Nguyễn Huy Thiệp



Dị hương
Sương Nguyệt Minh



Nhợt nhạt. Khô xác. Và thất sắc.

Nằm đườn đưỡn tựa hồ cái xác vô hồn. Dị hương sang trọng quý phái thanh tao biến mất. Yểu điệu dịu dàng chỉ còn trong hình cũ bóng xưa. Không còn là mỹ nhân thanh mai trúc mã thuở nào. Chẳng còn ngọc ngà sắc nước hương trời ngày trước. Cứ mỗi lần ân ái xong là Đức phi tam cung Ngọc Bình như con cá ươn nằm trên thớt. Hết sạch hứng thú, lòng lạnh nguội, Nguyễn Ánh chỉ muốn đạp Đức phi ra khỏi long sàng. Đã đôi lần Ánh tức giận và chán chường, muốn gọi thái giám đem nàng đang khoả thân héo rũ giam vào lãnh cung. Cái gì đã làm cho nàng tàn tạ, ươn lạnh?

Cung tần qua đêm với Ánh, dù ngực hẳn đầy vết hồng đỏ của bàn tay thô ráp cầm kiếm, hai đùi nhiều vết răng bầm tím, sáng ra vẫn nhuận sắc, nuối tiếc trong niềm hân hoan, mắt sáng long lanh, mặt mày rạng rỡ. Mỹ nữ trong vòng tay vần vò của Ánh, dù khi chính ngọ hay lúc chiều tà, ái ân xong vẫn cười tình tứ, mắt ướt rượt, thịt da căng mẩy, no nê, thoả mãn. Còn Đức phi tam cung, Ánh chiều chuộng nâng niu, vuốt ve, mơn trớn, đam mê cuồng nhiệt. Vậy mà nàng vẫn ở ngoài trái tim tráng niên sung mãn của Ánh. Điều gì khiến lòng nàng băng giá, thờ ơ? Ánh không cắt nghĩa được. Còn một điều kỳ lạ, cứ mỗi lần Ánh ra khỏi long sàng mặc quần áo thì thân thể Đức phi lại nhuận sắc hồng hào, tươi mởn. Dị hương lại vấn vít quyến rũ không dứt… Cũng là điều Ánh không hiểu nổi.


*

Vó ngựa phi đến bờ sông An Cựu thì dừng đột ngột. Con ngựa tía chân xước sát bởi cành lá quệt gai đâm không chịu cất thêm nửa bước. Nó nghênh nghênh đầu lắng nghe những câu hát của bọn trẻ chăn trâu thả ra khắp triền sông.
Hơn hai mươi năm trường
Nếm mật nằm gai
Chí cao ngút trời xanh
Vó ngựa xéo nát bàn dân thiên dạ
Trước mặt máu chảy đầu rơi
Sau lưng xương trắng đống gò…
Sự lạ? Một vùng hoang vu. Quạ đen bay rợp trời. Xác binh lính chết như ngả rạ. Đồ khí giới quẳng vô tội vạ. Ngựa què nằm bẹp, máu tím bầm đen. Ruồi trâu bay vù vù. Xe mộc bỏ vương vãi. Đồng không mông quạnh. Xơ xác. Tiêu điều. Thật ai oán thê lương nước lửa và ống đồng. Ánh vốn lạnh lùng đến độc nghiệt, cũng không khỏi xót xa, cô đơn và buồn.
…Đường dọc ngang bôn tẩu
Dị hương bay bất chợt
Vương tướng lòng dạ xốn xang
Ngỡ ngàng say người đẹp châu sa
Đôi chân đạp đổ thành phá lũy
Bồi hồi không qua ải mỹ nhân.
“Gái đâu có gái lạ đời
Con vua lại lấy hai chồng làm vua
Những câu hát xa gần man mác, hoang liêu vẫn cứ rót vào tai người máu lạnh.

Sinh thời Ánh trọng võ hơn văn. Đất nước tao loạn, ru rú thù tạc những vần thơ cũ mèm nhạt nhẽo thử có ích gì? Chẳng ai lấy được thiên hạ từ những bài thơ kẽo kẹt, à ơi. Bất quá, mua vui được chốc lát qua miệng con hát con đào. Lưỡi gươm chém vào trời xanh mới đáng mặt anh hùng. Ánh rất ghét bọn hủ nho làm thơ. Chúng thường xúm vào tâng bốc, ngợi ca Ánh như một bậc kỳ tài trong thiên hạ chí lớn ngùn ngụt. Cứ như chỉ có Ánh mới đáng mặt lấy thiên hạ từ tay anh em Nguyễn Huệ. Nghe mãi cũng chán. Thực ra, bọn hủ thơ chỉ rặt một lũ ăn bám. Chẳng ích tóp gì. Huống hồ mấy câu hát vặt của trẻ con...

Nhưng sao bọn trẻ chăn trâu cắt tóc để chỏm lại hát: “Gái đâu có gái lạ đời. Con vua lại lấy hai chồng làm vua”?

Có điềm gì tốt hay lành như lời sấm truyền đang rơi xuống bầu trời Phú Xuân?



*

Dưới trướng của Ánh có một nhân vật rất kỳ dị tên là Trần Huy Sán. Sán vốn là bộ hạ của Nguyễn Hữu Chỉnh. Nguyễn Huệ thấy Chỉnh hẹp hòi, đố kỵ, gian hùng lòng dạ hai nơi nên giết đi. Sán bơ vơ ở Thăng Long một thời gian rồi bỏ vào Nam theo Nguyễn Ánh. Sán người lùn tịt. Chân tay ngắn tủn. Cổ bé, dài ngẵng, chằng chịt những mạch máu như đường gân xanh. Nhưng, đầu to như cái chõ xôi. Tóc búi tó củ hành to như vốc tay. Thật dị biệt. Trí lực hơn người. Tính tình khảng khái. Gàn dở hết chỗ nói. Coi cái chết nhẹ tựa lông hồng. Y có cái yếm thắm nhỏ và hai cái dải đứt rời nhau, lúc nào cũng mang theo bỏ trong túi áo. Lúc ngủ thì đắp cái yếm lên mặt. Nhòm rất tức cười. Có một điều kỳ lạ, yếm thắm có mùi hương rất dị biệt. Mỗi lần lấy yếm ra khỏi túi áo là hương bay dìu dịu thoang thoảng xa gần quyến rũ. Bí ẩn hương thơm kỳ lạ ấy từ đâu thoảng đến, chỉ mình y biết. Y có tài văn thơ, hiểu nho y lý số. Những ý nghĩ dù u tối hay ranh mãnh, sáng sủa trong đầu Ánh đều không qua mắt Sán. Ánh tin dùng lắm, luôn cho đi theo cùng trời cuối đất. Kho tàng tri thức Nho học của Sán đã giúp Nguyễn Ánh được cái danh thâm sâu, khỏi tiếng võ biền mà cánh sĩ phu Bắc Hà cao ngạo thường mỉm cười coi rẻ.



*

Thấy minh chủ mặt hằn những điều âu lo, ngẫm ngợi, băn khoăn, Trần Huy Sán liền phán rằng:

“Hạ thần nghĩ, cứ theo những câu hát kia thì âu cũng là điềm trời thả xuống nhân gian. Phen này chúa vương lấy được Phú Xuân, thống nhất bờ cõi là chuyện đại sự dễ như thò tay vào lồng bắt chim sẻ. Nhưng, chúa vương cũng sẽ bắt đầu sống vật vã thật với chính lòng mình, đó cũng là sự lớn của đời người”.

Giương cặp mắt nhìn u ám đầy nghi ngờ, Ánh bảo:

“Ngươi nói ta không hiểu. Ta đồ rằng riêng ý tưởng này cao siêu quá, ngươi lại nói những điều viển vông như đám nho sĩ Bắc Hà rồi. Rõ nực cười”.

Sán lại tâu:

“Thưa chúa vương. Ý chí phục tộc của vương quyết liệt cháy ngùn ngụt như ngọn lửa trong lò bát quái. Người đứng trên thiên hạ nên không thèm để ý đến các điều nhỏ nhặt trong cõi nhân gian và chính mình. Song thần nghĩ, thực ra chúa vương tự hiểu được mình rồng mới là điều khó nhất, hiểu lòng thiên hạ chỉ mới là cái khó thứ hai thôi”.

“Sao ngươi có lắm điều tâm sự thế? Lòng dạ đang ngổn ngang rồi. Có phải ngươi đã nhìn thấy trước mọi việc sẽ xảy ra với ta?”.

“Chính phải. Quang Toản là tên bất tài, bạc nhược. Chúa vương sẽ lấy được tất cả những gì thuộc về Toản kể từ cõi bờ thiên hạ, cung tần mỹ nữ đến con chó con lợn. Chung quy cũng bởi đại anh hùng Nguyễn Huệ vắn số”.

Nghe Sán nói, mặt Ánh tối sầm lại, rút phắt gươm ra, quát: “Nguỵ Huệ thiên tài thực, nhưng chỉ là tên giặc cỏ”.

Sán vươn cổ cò dài ngẵng nổi chằng chịt những đường gân xanh rợn chờ một ánh chớp. Ánh chùn tay, tra gươm vào bao. Sán im lặng, không nói gì, lui ra. Sán vừa đi vừa nghĩ: Mai mốt chúa thượng sẽ hân hoan, mình thì khốn nạn, bẽ bàng không kể xiết. “Sự đâu có sự lạ đời/ Con vua lại lấy hai chồng làm vua”. Miệng Sán cứ lảm nhảm mãi, như thằng tâm thần.



*

Nguyễn Ánh lấy được Phú Xuân dễ như trở bàn tay. Được một ngày hân hoan mừng vui, hôm sau buồn hẳn. Ánh đeo gươm đi ra đi vào rồi ngồi ủ dột nhìn sông Hương xanh rợn phẳng lì như ngưng chảy. Mấy con đò vắng khách neo vào bờ, có lẽ chủ sợ hãi loạn binh đao bỏ của chạy lấy người. Nguyễn Văn Thành đang đốc quân truy quét, bắt bớ gia thất, quan lại Tây Sơn lẩn trốn và chuẩn bị cho ngày ra Bắc đánh Thăng Long. Y thấy minh chủ lặng trầm liền hỏi:

“Phú Xuân đã vào tay chúa công. Ba quân nhảy nhót reo ca. Sao Chúa vương có điều gì không vui?”.

Ánh thở dài, bảo:

“Giờ ta mới thấy Sán nói đúng. Nguỵ Huệ là bậc đại anh hùng thiên hạ thực. Huệ chết bất đắc kỳ tử, ta mới lấy Phú Xuân dễ dàng như đi vào chỗ không người. Vậy phỏng có vẻ vang kiêu hãnh gì với bậc Chúa vương đại nguyên súy như ta? Tiếc y không còn sống để ta thi thố đường gươm vó ngựa”.

Trần Huy Sán lúc đó đang ngồi thảo bài chiếu yên dân, liền ngừng bút, bẩm:

“Thưa Chúa vương, đất nước mệt mỏi, binh đao loạn lạc đồng không xương trắng đã quá lâu. Chả lẽ, chúa công lại muốn Nguyễn Huệ sống lại để thi thố tài năng trên xương máu dân đen con đỏ?”.

“Ta biết… ta biết… rồi binh đao cũng đến hồi kết. Nguỵ Huệ hoặc ta chết sớm thì cuộc chiến tranh mới mau chấm dứt. Nay mai ra Bắc, bắt nguỵ Toản cũng chỉ dễ như bắt cua bỏ giỏ. Chả lẽ nước Nam này chỉ còn mỗi mình ta là bậc đại anh hùng? Bờ cõi sẽ thuộc về ta, hạt lúa củ khoai trong thiên hạ, đến cung tần mỹ nữ nhà Tây Sơn cũng thuộc về ta nốt”.

Sán nghĩ thầm trong bụng: Thiên hạ này chỉ có hai kẻ cao ngạo, Sán là một, có dễ Ánh là người thứ hai. Trước sau rồi mình cũng chết dưới lưỡi gươm của Ánh. Lòng dạ Sán ngao ngán, nhớ lại câu hát, lòng vừa phục Ánh lại vừa thầm ghen với Ánh.



*

Phú Xuân yên ổn, Ánh muốn lòng tĩnh lại, tìm về những ký ức mù xa thiếu thời êm đềm và đẫm nước mắt chạy loạn Tây Sơn. Ánh bảo Trần Huy Sán kêu quân lấy thuyền rồng của Quang Toản bỏ lại, ngược dòng Hương Giang.

Nước sông xanh ngắt. Mây trôi dưới dòng. Bao la một vùng non sông cẩm tú. Ánh đứng ở đầu mũi thuyền. Tay nắm đốc gươm báu đeo hông. Đôi mắt hướng lên phía thượng ngàn. Vẫn buồn. Cô độc.

Thuyền ngược dòng đến đoạn ngang Hương Uyển Sơn, Ánh nhìn núi non giống như con sư tử đang nằm thò đầu xuống sông uống nước, liền hỏi một viên quan già. Y kính cẩn tâu rằng:

“Chúa vương bôn tẩu thiên hạ hơn hai mươi năm quên mất rồi ư? Xưa núi này có tên Hương Uyển Sơn, sau đặt lại là Ngọc Trản Sơn, dân gian gọi nôm là núi Chén Ngọc; bởi trên đỉnh núi có chỗ đất trũng xuống, đường kính vài mét, chung quanh có vòng đá dựng như bờ giếng. Hễ mưa xuống thì nước đọng lại trông như cái chén đựng nước trong. Ngày xưa người Chàm thờ nữ thần Ponagar ở Hương Uyển Sơn. Sau đó người Việt theo Thiên Tiên Thánh Giáo tiếp tục thờ bà với danh xưng Thánh Mẫu Thiên Yana…”

Ánh bảo:

“Ta phải lìa xa Phú Xuân chạy nạn binh đao từ thuở thiếu thời. Những nơi linh thiêng như thế chưa kịp đến. Thật tiếc lắm thay”.

Viên quan già khép nép tâu tiếp:

“Thưa Chúa vương! Nữ thần Ponagar là con của Ngọc hoàng Thượng đế được sai xuống trần gian. Bà tạo ra trái đất và các loại gỗ, kỳ nam, lúa gạo,… và làm cho chúng toả hương. Ngọc Trản Sơn lúc nào cũng có mùi hương thơm lạ lan toả vấn vít”.

Ánh nghe thấy có vẻ lạ lẫm và thần bí lắm, bèn vẫy quân chèo thuyền cập bến. Phía Tây mặt trời đã gác núi. Hoàng hôn đỏ bầm như máu. Sông Hương xanh trong cũng quặn mình ngả màu đỏ hồng lai láng. Ánh đeo gươm bước ra khỏi thuyền.

Bỗng nhiên lòng dạ Ánh xao xuyến bởi mùi hương lạ ở đâu đó thoảng bay lãng đãng. Đúng như viên qua già tấu, mỗi bậc đá xanh lên núi lại ngửi được mùi hương đậm hơn. Bước thêm vài chục bậc nữa thì gặp người con gái mặc áo thôn nữ. Thị có vẻ ở nơi thâm cung nhàn nhã no đủ, chẳng giống thôn quê đói rách. Tóc đen óng ả buộc sau gáy thả dài chấm gót. Cổ trắng. Tay cũng trắng. Thị đứng án trước mặt Ánh gần như cản đường. To gan lớn mật nhỉ! Mặt mũi sáng sủa, nhưng lem nhem vết nhọ than. Ánh hỏi:

“Người có biết hương thơm lạ lùng từ đâu bay tới?”.

Thị lo sợ. Mặt lộ vẻ hốt hoảng:

“Dạ. Hoa cỏ… núi Hương Uyển”.

“Thì đã rõ! Ta bôn tẩu khắp Đàng Trong, có loại cây cỏ nào ta chẳng biết. Nhưng, còn một hương thơm lạ lùng nữa không phải từ thảo mộc”.

Thị lại càng ấp úng:

“Thưa! Từ thân thể… tiện thiếp… toả ra ạ”.

Ánh tức giận, thoáng nghĩ: Con hầu người ở chẳng phải. Cành vàng lá ngọc càng không. Áo sô gai. Chân đất. Như đám đàn bà con gái lần đầu đi làm thợ sơn tràng. Lại dám khi quân ư? Ánh đưa một đường gươm. Chớp loé sáng lên phạt ngang cổ thôn nữ. Máu đỏ phun lên như mạch nước ngầm hở miệng. Lọn tóc dài tung lên trời bay liệng hình con rồng rồi quấn vào cành cây.

Ánh bước chục bậc đá xanh nữa lại một thị nữ xinh xắn, ưa nhìn, án giữa đường dốc lên. Thêm một con rồng tóc bay lên trời xanh. Ánh lên đến đỉnh Ngọc Trản Sơn thì cũng kịp vung gươm phạt bay năm đầu thị nữ.

“Ta muốn biết hương thơm dị biệt ở đâu bay đến?”.

“Hoa cỏ đất trời Ngọc Trản Sơn chỗ nào cũng có, thưa tráng sĩ”.

“Bàn chân ta xéo nát thiên hạ. Có loại cỏ cây nào ta không biết. Có một thứ hương thơm quý phái nữa không phải từ thảo mộc”.

“Dạ… thưa. Từ thân thể tiện thiếp”.

Ánh lại vung gươm nhưng nửa chừng thì hạ xuống. Ánh bỗng chùn tay không dám chém người người đẹp thứ sáu.



*

Trong điện thờ Thánh Mẫu Thiên Yana, lòng dạ Ánh vẫn bồn chồn. Ánh bước ra ngoài. Lai láng ánh trăng non vàng. Mùi hương lạ cứ vấn vương đâu đó. Tiếng nước xối chảy tong tóc lúc xa lúc gần. Ánh bảo quan quân đứng chờ. Dường như “ma đưa lối quỷ đưa đường”, không, có thể là nữ thần Ponagar dẫn dụ Ánh đi đến bên giếng nước.

Không thể tin được! Một cô gái đẹp như nữ thần Ponagar khoả trần đang tắm ở thềm giếng. Một tì nữ quăng gầu múc nước. Thân thể ngọc ngà. Những đường cong mẩy nuột nà tưới đẫm trăng non. Ánh bèn lẩn vào bên lùm cây, kéo cành lá, mặt đần ra mê đắm nhìn mỹ nhân tắm. (Sau này Trần Huy Sán viết Phú Xuân thực lục đổ ấn cho Ánh nhòm trộm. Bởi khi nhìn thấy con gái đẹp tắm thì hoàng đế quyền nghiêng thiên hạ hay thằng ăn mày rách rưới cũng giống nhau thôi. Y còn bình rằng: Thật ra, Ánh dòng vương giả hoàng thân quốc thích, nhưng bôn tẩu 25 năm trong thiên hạ gian nan, vất vả, nhiều phen ngủ bờ ruộng chui bụi cây, rập rạ, khốn cùng, tuyệt vọng... Bấy giờ, bỗng dưng bắt gặp con gái đẹp khoả thân tắm giữa đất trời cây cỏ thì như lạc vào cõi vừa trần tục vừa thanh cao, không nhòm trộm mới là giống nửa đàn ông nửa đàn bà. Điều này không biết thực hư thế nào).

Mùi hương lạ lúc ngào ngạt lúc vấn vương thoảng bay. Ánh nhận ra mùi hương da thịt con gái đang hứng tình nồng nàn trộn lẫn mùi bạch lan đài các và cỏ thi dân dã quý hiếm. Ánh ngẩn ngơ bởi dị hương và vẻ đẹp con gái khoả thân giữa cây cỏ thiên nhiên. Bất ngờ, tay Ánh vô tình làm gẫy cành cây nhỏ. Con tì nữ ngang ngạnh hắt gầu nước về phía tiếng động và lớn tiếng quát. Quần áo người hùng vừa lấy kinh thành Phú Xuân ướt lướt thướt. Ánh bèn phải bước ra.

Trăng đầu tháng chênh chếch. Bóng Ánh đổ dài kéo thành vệt đến giếng nước. Mỹ nhân vội khép hai đùi, một tay che hai trái tuyết lê căng mẩy, một tay che đám lông mu đen mượt. Thực ra, mỹ nhân không cần phải hốt hoảng che đậy vì chỏm đầu của Ánh đã đổ bóng đen lên ngực nàng.

“Tự nhiên... Nàng cứ tự nhiên như thể ta chưa từng nhìn thấy”.

Mỹ nhân có vẻ trấn tĩnh lại song vẫn lóng ngóng, chân gạt đổ ào lu nước. Cái lu gốm đất nung lăn lông lốc. Ánh lưỡng lự, nửa muốn bước vòng qua thành giếng tiến lại gần, nửa muốn đứng im nhìn mỹ nhân trong bóng trăng mờ ảo. Cuối cùng thì Ánh quay gót trong sự ngập ngừng nuối tiếc.

“Tráng sĩ đã tha mạng cho tiện thiếp, thì hoàng hậu chắc chắn sẽ bình an. Xin hoàng hậu đừng sợ”.

“Hoàng hậu!” Sao lại là hoàng hậu? Thảng thốt trong lòng, Ánh quay lưng, bước lại. Mùi hương dị biệt lại ào vào mặt Ánh. Con tỳ nữ đứng án ngữ che gần hết thân người đẹp. Ánh dùng sống gươm khều xiêm y đang treo vắt vẻo trên cành cây bứa hất mạnh. Xiêm y bay vèo qua giếng nước. Tì nữ giơ hai tay đón được.

“Mặc xống áo vào cho mỹ nhân”.

Ánh nói xong rồi ngồi vắt lên thành giếng xây bằng đá xanh. Bao gươm xệ một bên hông. Bóng Ánh đổ xuống hòa lẫn mặt nước tối om. Lòng dạ ngẩn ngơ, miệng Ánh cứ lẩm bẩm: “Mỹ nhân… Hoàng hậu… Mỹ nhân…”

Người đẹp đã trấn tĩnh lại bước đến gần, buông gót nhẹ nhàng, êm ái, giọng nói thanh và tự tin, phong thái ung dung:

“Này tướng Gia Định. Ngươi hãy về nói với Nguyễn Vương rằng ta đã chờ cái thời khắc này từ lâu rồi”.

Ánh sửng sốt. Bao nhiêu cái đầu lăn lóc dưới đôi chân bôn tẩu của Ánh. Nàng đã không hề sợ lưỡi gươm sáng lạnh. Ánh thầm khen và kêu quân hầu đưa mỹ nhân xuống thuyền, rồi đứng dậy đi trước.

Còn một người nữa lòng dạ đầy ngổn ngang bước chân nặng chình chịch đi theo sau là Trần Huy Sán. Y đã chợt nhận ra người xưa. Vẫn vẻ đẹp trẻ trung ấy, nhưng đã pha màu đậm đà. Y cũng nhận mặt bọn tì nữ ăn mặc theo lối nhà quê trốn sự truy tìm của quân nhà Nguyễn. Y bồi hồi nhớ lại thời còn ở kinh kỳ Thăng Long…



*

Mỹ nhân là cô bé lên mười hai tuổi đã phổng phao, sáng rỡ, tóc dài đổ óng mượt chấm gót. Y mê mẩn nàng đến nỗi mỗi khi gặp là cứ lẽo đẽo bước sau lưng. Lại làm không biết bao nhiêu thơ lấy cảm hứng từ nàng. Một lần có trận lốc khủng khiếp. Vòi rồng cuốn cả kho tiền đồng, quần áo vua quan, xiêm y cung tần mỹ nữ trong cung bốc lên trời rồi ào ạt ném toé loe, vương vãi ra ngoài thành. Lúc đó, y đang ngẩn ngơ đi lẽo đẽo sau người đẹp cũng bị chìm trong lốc giông. Lòng tham mỗi người một vẻ. Đám thảo dân, binh lính đi tuần tranh nhau nhặt tiền đồng, trang phục vua quan, xống áo cái ướt cái khô… đến bươu đầu mẻ trán trong mù bụi. Chỉ riêng y lại chạy đuổi theo cái yếm thắm chao liệng như cánh diều hồng trên không trung. Chân y ngắn tũn chạy liến thoắng đến mức đám tì nữ cười ngặt nghẽo, quên cả cơn mưa tiền, mũ mão, xiêm áo. Cuối cùng y cũng nhẩy cẫng lên tay nắm “cái diều hồng”. Lập tức lòng dạ Sán mê mẩn bởi mùi hương kỳ lạ thoang thoảng từ cái yếm. Bọn tì nữ theo hầu nhận ra yếm thắm của mỹ nhân.

“Trả lại yếm cho công chúa út đi”.

Sán không chịu, còn ấp cái yếm thắm lên mặt. Bọn tì nữ quát:

“Đồ vô lễ. Ngươi muốn chết à?”.

Sán cứ khư khư giữ chặt vật báu trong tay. Rồi vươn cổ như cổ cò gân xanh nổi chằng chịt ra đợi chém.

Công chúa nhỏ hồn nhiên nhìn cái đầu to đùng cắm vào cổ dài ngẵng kì dị thích thú quá, bảo:

“Yếm nhặt được là yếm vô hồn. Ngươi cầm giữ phỏng có ích gì?”

Sán lưỡng lự đôi chút, dứt phắt hai cái dải yếm rồi mới trả. Công chúa nhỏ không giận. Lúc đó, tự dưng nàng cảm động, trong lòng trào lên một niềm yêu quý không cắt nghĩa được. Cả đám quan quân và thảo dân tranh nhau hôi của vòi rồng cuốn không ra thể thống gì. Chỉ mỗi mình y bỏ qua tiền của, theo đuổi cái yếm thắm. Cũng là một con người dị thường.

“Yếm không dải còn làm gì được nữa. Thôi, ta tặng ngươi”.

Y bất ngờ quá, đứng trân trối.

“Tiếc rằng ngươi không dũng mãnh anh hùng như Nguyễn Huệ; kỳ tài, nhẫn nhịn nuôi chí đoạt lại thiên hạ như Nguyễn Ánh để ta chọn làm chồng. Ánh còn bôn tẩu nơi chân trời góc bể. Huệ đã lấy Ngọc Hân chị ta, lại cũng đã chết sớm rồi. Thật hoài phí lắm thay”.

Công chúa than thở rồi vẫy đám tì nữ bước đi. Những bóng hồng xa mờ mà Sán vẫn đứng nghệt mặt nhìn theo. Tay nắm dải, tay nắm yếm chặt cứng…



*

Đèn lồng và nến sáng rực. Mặt nước sông Hương lung linh ánh trăng non lẫn ánh đèn. Ánh khoác trang phục màu vàng uy nghi, ngù vai, vương hiệu lóng lánh trên ngực áo. Bấy giờ, mỹ nhân mới nhận ra Nguyễn Vương, lòng đầy cả thẹn, e lệ và mừng vui. Thực ra, nàng nhận ra cái thân hình ngắn tũn kỳ dị và cái mặt bần thần của Trần Huy Sán trước, muốn hỏi thăm vài câu về Thăng Long mà chưa tiện.

Giọng vương giả, quyền uy, Ánh hỏi:

“Có phải nàng là công chúa Ngọc Bình?”

Khoan thai, ung dung tự tại, mỹ nhân đường hoàng thưa:

“Chính phải. Thần thiếp còn là Chính cung Hoàng hậu nhà Tây Sơn Cảnh Thịnh Hoàng đế Nguyễn Quang Toản, thưa Nguyễn Vương!”.

Ánh cau mày, tức giận, quát to đến nỗi bao gươm đeo bên hông gõ xuống ghế rồng cạch cạch. Không gian tràn ngập mùi binh khí lạnh lẽo rợn đến ghê người:

“Tây Sơn chẳng qua là một lũ giặc cỏ, chẳng có tên nào là đế vương trong mắt ta. Ta không muốn nghe nàng nhắc đến tên Toản đớn hèn, bất tài”.

Mỹ nhân bỗng thở dài. Các huyệt, và những lỗ chân lông đóng chặt cứng. Mùi dị hương biến mất. Nỗi buồn tê tái lộ rõ vẻ thất vọng trên gương mặt quí phái:

“Thời nhỏ, thần thiếp nghe đồn chỉ có Nguyễn Vương mới sánh được bậc đại anh hùng trong thiên hạ Nguyễn Huệ. Thần thiếp đã lâu vốn lòng kính phục, yêu dấu. Té ra Nguyễn Phúc Ánh cũng hẹp hòi nhỏ nhen chưa bằng Quang Toản chồng ta vậy”.

Nói rồi mỹ nhân lao đầu vào sập rồng tự sát. Ánh nhanh tay túm được vạt xiêm. Mỹ nhân mất thế, loạng choạng đổ nhào. Ánh đỡ được mỹ nhân, ôm choàng vào lòng. Thân thể Ngọc Bình mềm oặt trong tay Ánh. Lụa xiêm mềm mại mát rượi. Hơi thở mỹ nhân nóng hổi vấn vít mùi hương. Máu bốc hoả lên đầu Ánh dịu hẳn. Tay phải Ánh vẫn nắm chặt mảnh xiêm y vừa bị xé toạc.

“Sao nàng lại liều thân như thế. Nàng đã ở bên ta đâu mà biết được đâu là vương giả đâu là tiểu nhân, đâu là vàng thau?”.

Mỹ nhân vẫn nhắm hờ mắt, như chết lịm. Nỗi buồn lặng thầm hằn trên gương mặt khả ái làm vẻ đẹp của nàng càng thêm mặn mà. Lòng Nguyễn Vương quặn thắt, suýt nữa thì làm vỡ ngọc quý:

“Sao mỹ nhân nói rằng, mỹ nhân chờ đợi thời khắc gặp Ánh này đã lâu?”.

Ngọc Bình chợt nhớ ra điều gì đó. Nàng như từ xa xăm trở lại trần gian:

“Nguyễn Vương thừa biết thần thiếp chờ đợi điều gì rồi còn hỏi”.

Nói rồi, Ngọc Bình nép sát đầu vào ngực Ánh. Lòng dạ Ánh nôn nao, cồn cào như sóng biển Tây Nam. Bọn Lê Văn Duyệt, theo hầu lúc đó bối rối nửa muốn đi nửa ngồi lại. Trần Huy Sán rầu lòng quá, lại thêm chút bẽ bàng, thò tay lấy yếm thắm trong túi áo ra lúc nào chẳng biết. Mùi binh khí khét lẹt lạnh lẽo nhạt dần, mùi dị hương thoảng đưa. Ánh chợt nhìn thấy Sán cứ bần thần mân mê yếm thắm. Ánh lộn tiết, cho rằng Sán chơi trò ma thuật phù thủy, bèn quát lính lôi ra chém. Y lại vươn cổ ra.

Ngọc Bình ngăn Ánh lại, kể vắn câu chuyện vòi rồng hút kho tiền ở kinh kỳ Thăng Long, rồi tâu:

“Thưa Nguyễn Vương! Thần thiếp cũng không ngờ Sán giữ cái yếm từ dạo ấy. Thần thiếp thật cảm động”.

Ánh bảo:

“Hóa ra, dị hương lãng đãng toả ra từ cái yếm thắm của nàng chứ không phải từ cơ thể thằng khốn này”.

Đoạn Ánh quay ra bảo Sán:

“Vậy là, người hạnh phúc trước cả ta rồi”.

Sán nhét cái yếm thắm vào túi rồi rũ tay áo, cung kính tâu:

“Dạo còn ở kinh kỳ Thăng Long, hai đấng kỳ tài mà công chúa khao khát được thành thân hoặc là Nguyễn Huệ hoặc Nguyễn Ánh, chứ không phải hạ thần”.

Bấy giờ Lê Văn Duyệt mới lên tiếng:

“Chúa thượng bình sinh khắp thiên hạ, binh đao nước lửa từng qua, lụa là châu báu, gái đẹp không thiếu. Hà cớ gì phải hạ mình trước con đàn bà vợ nguỵ Quang Toản? Bọn thần lấy làm đau lòng và bẽ bàng lắm lắm”.

Ánh cười gằn, bảo:

“Bọn các ngươi không nghe câu thơ cổ: "Mỹ nhân tự cổ như danh tướng". Nàng còn hơn cả danh tướng. Ta được nàng như được nửa cuộc đời”.

Cả bọn thấy Ánh cười gằn lạnh như ánh chớp đường gươm thì không ai bảo ai, đều lui ra.



*

Đêm ấy, Ánh hạ lệnh neo thuyền rồng giữa sông Hương, bày trò hát múa. Nửa chừng cuộc vui, Ánh đã xao xuyến, thổn thức nhìn Ngọc Bình âu yếm lắm. Ánh cảm thấy có lỗi với nàng, than thở, ra chiều thương xót bọn cung nữ đã bị mình chém ngang cổ. Mỹ nhân nhìn Ánh, trìu mến cười hiền hậu, thưa:

“Ơn trời! Vương đã không phạt đầu đứa cung nữ nào của thiếp. Của đáng tội, chúng mất mái tóc dài cũng tiếc, nhưng được toàn thân. Chúa công không thấy chúng đang xúm quanh thiếp đấy sao”.

Ánh kinh ngạc lắm, chẳng hiểu mình đã làm gì với đám cung nữ. Dọc đường cầm gươm lên Ngọc Trản Sơn cứ hư thực tựa hồ như trong mơ vậy. Nhìn đám cung nữ xinh đẹp của Ngọc Bình, tóc đứa nào cũng bị phạt thả lòa xòe chấm vai, trông rất ngộ. Ánh cứ luôn miệng lẩm bẩm:

“Chả lẽ… chả lẽ… gươm của ta chưa vấy máu cung nữ”.

Ánh uống rượu đến tận khuya rồi vào khoang đã kê long sàng ngủ với Ngọc Bình. Ánh cầm gươm đưa những đường tuyệt kỹ như múa, nhẹ hơn gió thoảng. Loáng một cái cắt nát xiêm y, lụa bay tung lên rồi rơi xuống tơi tả. Như bị bóc trần, mỹ nhân khoả thân hoàn toàn, mà mũi gươm không hề chạm đến da thịt ngọc ngà. Thuyền rồng lắc lư, dềnh lên dập xuống. Sông Hương nổi sóng. Tiếng rên rỉ trong niềm khoái lạc tột cùng của Ánh tựa hồ tiếng binh khí chạm vào nhau lan ra mặt sông làm váng đầu quan quân. Cá chép ở thượng nguồn xuôi về. Con đực bám đuôi con cái, quẫy ùm ũm giao phối không đợi mùa động dục. Cả khúc sông Hương nổi đầy màng nhầy trong suốt lấm tấm trứng cá, nồng nàn mùi đực cái. Từ lính, quan đến cung tần không ai ngủ nổi. Lại có một người ngũ đoản, cổ dài, đầu to đứng còm cõi ở mũi thuyền. Một lúc sau, cũng không chịu được tiếng rên lạnh lẽo của Nguyễn Ánh, y rút gươm khoả lia lịa xuống dòng sông. Cá chép động dục bị các đường gươm cắt đôi nổi trắng, máu loang đỏ bầm. Kỳ lạ thay, chỉ những con cá đực bị chết tức tưởi mà chẳng biết lý do gì.

Trên long sàng, Nguyễn Ánh cảm thấy dễ chịu, thoả mãn và kinh ngạc phát hiện ra điều bí mật:

“Ta không thể tin được nàng vẫn còn trinh trắng”.

Hai mắt sáng rỡ, lấp lánh. Nụ cười tươi tắn đầy thoả mãn, Ngọc Bình úp mặt vào vồng ngực vâm váp của Ánh, thưa:

“Thần thiếp đội ơn nhuần mưa móc của người. Sáu năm thần thiếp làm vợ Quang Toản, chưa một ngày được làm đàn bà đúng nghĩa. Phải như vương năng lượng đế vương thừa thãi, tính dục đàn ông dồi dào. Thần thiếp lấy làm sung sướng mãn nguyện lắm”.

Ánh bảo:

“Ta thấy làm lạ. Hóa ra, nguỵ Toản là thằng vua liệt dương! Thật phí đời mỹ nhân cành vàng lá ngọc”.

“Toản lấy thần thiếp chỉ để ngắm nhìn, để ngửi mùi hương. Thần thiếp như cây trầm hương bị phong bao trong lầu son. Không! Như cây khô héo trên cánh đồng mùa hạn”.

“Ta thương nàng giường chiếu với một thằng trẻ ranh èo uột, trí đoản. Hắn đâu xứng với nàng”.

Hai người lại chìm vào biển ái ân nóng bỏng. Đang lúc Ánh sướng quá tru lên như con ngựa hoang động đực, Ngọc Bình rợn người, sững lại. Hai chân dài khép chặt. Người lạnh giá như đồng. Ánh thấy lạ hỏi:

“Sao nàng rùng mình, co rút người thế?”.

“Bỗng dưng, thần thiếp ngửi thấy mùi máu tanh tưởi, mùi cháy khét của binh khí chạm nhau lẩn quất ở long sàng này”.

Ánh nghênh mũi hít ngửi.

“Làm gì có! Làm gì có!”.

“Xin vương cất kín thanh gươm đang treo lủng lẳng kia đi. Thần thiếp sợ hãi lắm”.

Nửa đêm về sáng, Ngọc Bình mệt quá, mềm oặt, nằm không động đậy, như con cá chuối chết. Ánh nhìn thân thể ngọc ngà đang có chiều trắng bệch, xót xa, bảo:

“Có phải ta quá ham vui làm nàng mệt mỏi?”

“Không! Tự nhiên thần thiếp thấy mình trống rỗng. Lúc đầu ân ái đam mê cuồng nhiệt bao nhiêu thì sau đó lãnh cảm bấy nhiêu”.

Ánh thở dài. Lại nghĩ: Ngọc Bình nhìn long sàng, thuyền rồng mà nhớ nhung Quang Toản trong lúc ái ân. Đang khi tranh tối tranh sáng, Ánh kêu quân hầu mang võng tía lên sườn núi tìm cây giăng mắc. Ánh bế Ngọc Bình đi lên theo. Sương đêm lành lạnh bay mỏng nhẹ như màn buông. Gió sông vẫn thổi không dứt quằn quặn. Gai người.

Đại giám quân Lê Văn Duyệt thức khuya, mệt phờ phạc ra sức can ngăn:

“Chúa công hãy giữ mình rồng. Trước đây bôn tẩu gặp đâu ngủ đấy, cùng đường chạy giặc cỏ thì không nói làm gì. Nay đã có kinh kỳ Phú Xuân vàng son lộng lẫy, chúa vương nên về long sàng mà ngủ. Sao người cứ phải vui thú dập dạ trên cỏ cây như lối bọn thợ sơn tràng hạ dân”.

Ánh đang ẵm mỹ nhân, tức giận quá một tay quắp nàng một tay chỉ vào mặt Duyệt:

“Sao đế vương khổ thế!? Ta muốn sống như một người dân bình thường không được ư? Chả lẽ cái việc ngủ với đàn bà con gái mà còn phải hoãn cơn động cỡn lại chờ về nơi lầu son gác tía? Ta là chúa vương tối cao, ta thích sang trọng sẽ được sang trọng, ta muốn dân dã, lấm láp là được lấm láp. Ta không bằng một thợ cày sao? Đêm nay ta muốn ngủ với nàng trên cỏ cây như một thảo dân vô học”.

Mắng xong, Ánh bế phắt mỹ nhân đi như chạy. Bọn Lê Văn Duyệt không dám kêu can nữa. Còn vài canh về sáng, Ánh ngả mỹ nhân ra võng. Mỹ nhân chân dài quắp chặt hông lưng Ánh như hai con trăn. Hai tay vít chặt lưng vai Ánh, mặc cho võng bùng nhùng, dập dềnh. Rồi võng lắc hơn bị bão gió. Lá xanh rụng tơi tả. Hai đầu dây võng thay nhau giật cục thân cây. Có lúc hai ngọn vít vào nhau rồi bật trở ra. Chim chóc đang ngủ ban đêm bị đánh thức bay toán loạn. Voi, gấu, hổ, lợn lòi ở khu rừng bên cạnh vểnh tai nghe và nhăn mũi hít ngửi, động rồ chạy đi tìm đồng loại khác giống. Cả một vùng non ngàn rộn rã bước chân thú và tiếng kêu van vỉ gọi bạn tình, ầm ĩ như động rừng…

Sáng ra, Ánh thức dậy, ngái ngủ và mệt bã. Các khớp xương lục cục, mỏi rã rời. Ngọc Bình nhợt nhạt, mất hồn, thất sắc. Dị hương không còn, chỉ có mùi cỏ cây ải mục ngai ngái xông lên. Ánh ngạc nhiên thấy dây võng đứt mà vẫn đưa chao trên mặt đất. Té ra, nối hai đầu võng với thân cây là hai con trăn. Trăn đực, trăn cái đều ngóc đầu nhìn Ánh thân thiện, hiền từ và nhẩn nha vặn mình đưa võng nhè nhẹ. Ánh phát kinh nghĩ đến chuyện ma quỷ liền nhảy xuống đất, tháo thân lên thuyền giục quan quân giong buồm về Phú Xuân.



*

Trơ trọi một mình nằm trên long sàng. Ánh kinh hoàng ngỡ mình vừa trải qua cơn mê, bèn gọi Lê Văn Duyệt lại hỏi. Duyệt xác nhận câu chuyện ma quỷ ấy là có thật và khuyên Nguyễn Vương hãy vì đại sự quốc gia mà quên nàng Ngọc Bình. Ánh cũng thấy chút bẽ bàng của bậc quân vương, gật đầu chấp thuận.

Nguyễn Văn Thành chuẩn bị chiến thuyền, binh bộ trong cả tuần trăng cho cuộc tiến quân ra Bắc thì cũng ngần ấy ngày Ánh sống trong ủ ê, héo rũ. Có hôm bỏ bữa quên ăn. Người gầy đi mấy phần. Ánh không thể quên được nàng Ngọc Bình. Lúc nào cũng cảm thấy mùi hương lạ thoang thoảng xa gần. Không chịu nổi nỗi nhớ dày vò, Ánh lại kêu quân lính giong thuyền ngược sông Hương. Ánh leo lên Ngọc Trản Sơn. Núi vắng teo. Điện thờ thánh mẫu Thiên Yana quạnh hiu, không hương khói. Ánh nhìn quanh chỉ thấy những lọn tóc đen dài như con rồng quấn trên cành cây. Ánh cảm thấy cô độc, trống rỗng vô cùng.

Về Phú Xuân, Ánh ốm liệt giường. Lúc nào cũng chìm trong mộng mị ân ái với nàng Ngọc Bình ở Ngọc Trản Sơn. Ánh ân hận, cứ nghĩ mình bỏ rơi nàng lại Ngọc Trản Sơn. Ngày phát lệnh tiến quân ra Bắc đến gần mà bệnh tình của Ánh không nguôi. Việc đại sự quốc gia có nguy cơ hỏng. Bọn Lê Văn Duyệt và Nguyễn Văn Thành biết minh chủ ốm tương tư liền kêu nhau phủ phục tận long sàng thưa:

“Nguỵ Toản vẫn còn. Giang sơn chưa về một mối. Chúa vương suốt ngày thương nhớ một con đàn bà đến ốm o, mòn mỏi thì thần dân biết trông cậy vào ai?”

Ánh bảo:

“Người xưa nói: Anh hùng khó qua ải mỹ nhân”.

Lê Văn Duyệt lại phủ phục:

“Thưa chúa vương! Công chúa Ngọc Bình xinh đẹp sắc nước hương trời thật, nhưng lại là hoàng hậu nhà Tây Sơn, vợ kẻ thù hận”.

Ánh cả giận, mắng:

“Ta đoạt lại thiên hạ từ giặc cỏ Tây Sơn, thì cành cây ngọn cỏ cũng thuộc về ta, huống chi là vợ Quang Toản. Vả lại, các ngươi là anh hùng thời loạn chỉ biết hùng hục đánh nhau chém giết, có biết yêu thương bao giờ mà hiểu được lòng ta. Các ngươi là hạng đàn ông võ biền chỉ nghĩ đến chuyện đực cái trần tục, đâu có biết cái thứ mùi hương kỳ lạ thanh tao toả ra từ ngọc thể của nàng”.

Nguyễn Văn Thành thì đỏ mặt. Đại giám quân Lê Văn Duyệt vốn là kẻ ái nam ái nữ ngượng ngùng, bẽ bàng quá. Hai đại thần không thể ngấm ngầm giấu mỹ nhân Ngọc Bình mãi, đành phải đưa nàng lại bên Ánh. Ánh cả mừng. Bao nhiêu bệnh tật trong mình bay biến hết. Ánh bảo:

“Mỹ nhân tự cổ như danh tướng. Tội các ngươi đáng chém. Ta được nàng là được thêm một “danh tướng”. Ta không muốn được danh tướng mới thì mất danh tướng cũ. Thôi, ta tha”.

Lưỡng lự một lát rồi Ánh túm ngực áo gầm lên:

“Sao các ngươi không hiểu lòng ta nhỉ?”

Bọn Thành, Duyệt ngơ ngác và bất lực, lui ra.

Suốt mấy tuần sau đó. Tiếng cười như binh khí chạm vào nhau đêm nào cũng văng vẳng trong không trung. Đất trời Phú Xuân sáng láng, tưng bừng. Cứ y như mùa xuân về sớm. Cây cối, cầm thú rạo rực mùa động tình.



*

Nhiều năm trôi qua.

Nguyễn Phúc Ánh lên ngôi hoàng đế lấy hiệu là Gia Long, lập Ngọc Bình làm Đức phi tam cung và yêu chiều vô cùng. Ánh sai đúc bồn tắm bằng vàng, thả những cánh hoa lan trắng cho đức phi tắm. Lại sai người lên tận rừng rú miền tây Quảng Nam tìm hương trầm về đặt trong cung của nàng. Và Đức phi tam cung cũng kịp đẻ cho Gia Long hai hoàng tử và hai công chúa.

Nhưng, thật trớ trêu, Ánh càng yêu quý đức phi Ngọc Bình bao nhiêu thì nàng lại càng thờ ơ, lạnh lùng bấy nhiêu. Ánh không hiểu nổi, trong lòng ủ dột vô cùng.

Bỗng dưng, Ánh nhớ đến chuyện xưa từ biệt nàng Tống Thị Lan với thoi vàng chặt đôi. Dạo ấy là mùa thu năm Quý Mão, Ánh bị quân Tây Sơn đuổi chạy dài. Đường cùng phải phiêu dạt ra Phú Quốc, đói khát hiểm nguy, tuyệt vọng tưởng tận số. Trước lúc sang Xiêm La, Ánh lấy thoi vàng ra chặt vát làm đôi, đưa cho Nguyên phi một nửa, rồi bảo:

“Nay ta phải đi Xiêm. Nàng ở lại cung phụng quốc mẫu. Ta bôn tẩu nơi chân trời góc bể chẳng biết ngày nào gặp lại. Đành lấy vàng này làm tin vậy”.

Nguyên phi phục xuống khóc dòng, vâng lời. Bao nhiêu năm nàng tần tảo hầu hạ mẹ chồng và thân hành may dệt trang phục giúp việc quân. Sau này, Ánh thu lại bờ cõi, có sum họp với đức nguyên phi nhưng dần cũng thưa vào ra cung nàng.

Bấy giờ, đang ủ ê với nàng Ngọc Bình, Ánh nghĩ: Mình lạt lẽo với Đức nguyên phi quá. Gắn bó với nhau lúc khốn cùng thì chẳng có mỹ nhân nào bằng nàng. Ánh bèn bảo thái giám đưa đến cung Nguyên phi.

“Nàng còn cầm giữ nửa thoi vàng xưa không?”

Nguyên phi cung kính dâng:

“Thần thiếp dù nhịn đói, mặc rách, chứ quyết không bội tín”.

Ánh cầm nửa thoi vàng bị nhát kiếm chặt vát ngày xưa, cảm động lắm:

“Nàng còn giữ được vàng xưa là do ân trời đất giúp lúc khó khăn hoạn nạn. Ta không thể quên lãng. Phải để dành vàng này cho con cháu mai sau biết”.

Nói dứt lời, Ánh lấy nửa thoi vàng mình đang giữ, ráp với nửa thoi vàng của Nguyên phi thì vừa chằn chặn. Rồi giao hết cho nàng cất giữ.

Đêm ấy, Ánh ở lại cung Nguyên phi. Cảm giác ái ân vội vàng, thấp thỏm lúc chạy nạn quân Tây Sơn đuổi lại ùa về. Ánh quên hẳn mình đang ở giữa kinh thành Phú Xuân lộng lẫy vàng son.



*

Sau này, Trần Huy Sán bất đắc chí với đời. Y có viết một chương trong Phú xuân thực lục có đoạn rằng:

“Thật là trớ trêu ở đời! Nguyễn Huệ Quang Trung chồng Ngọc Hân công chúa; Nguyễn Phúc Ánh Gia Long lại là chồng công chúa Ngọc Bình; hai kẻ cừu địch không đội trời chung bỗng dưng lại trở thành anh em “cột chèo”. Ta đồ rằng: Gia Long lấy Ngọc Bình chẳng phải là yêu chiều cành vàng lá ngọc mà là núp dưới chiêu bài tâm lý chiến bẩn thỉu để đoạt lại đến tận cùng nhà Tây Sơn, kể cả cái dị thường hư ảo. Ánh làm chính trị thâm độc, nghiệt ngã và khôn ngoan hơn Nguyễn Huệ”…

Một đoạn khác viết:

“Những năm cuối đời, Ngọc Bình sống trong cô đơn và thất vọng. Mỗi lần ở bên Ánh, nàng không chịu đựng được mùi binh khí lạnh lẽo va chạm vào nhau. Ta đồ rằng: 25 năm bôn tẩu, ý chí phục tộc ngút trời cao, Ánh đã bước qua bao nhiêu xác người, xác ngựa; đi qua bao nhiêu mộc, khiên, câu liêm, giáo, mác, gươm, kiếm… nhuốm máu. Mùi tanh của máu người, mùi khét lẹt của binh khí va chạm tụ lại thành mùi chết chóc ngấm vào da thịt Ánh. Vì vậy cứ mỗi lần ân ái xong là dị hương bị hút kiệt. Không! Mùi máu tanh tưởi và mùi khét binh khí đã lấn át trùm lấp, không cho dị hương của nàng toả ra.

Người xưa nói: “Nhất tướng công thành vạn cốt khô”. Ta đồ rằng: Nguyễn Huệ Quang Trung có sống lại cưới Ngọc Bình công chúa thì khát vọng của nàng cũng chìm trong bi kịch tuyệt vọng y như đoạn đời nàng sống với Nguyễn Ánh Gia Long.

Nghe đồn Đức tam phi đọc được đoạn này thì gật đầu. Nước mắt chảy lã chã hai hàng đỏ như máu.”

Một đoạn khác Sán viết:

“Ánh là Tà hương, là âm u, lạnh lẽo, thiên về sức mạnh độc đoán. Ngọc Bình là Dị hương, là mùi thơm vừa trần tục vừa thanh tao, dịu dàng mà quý phái, cuồng dại mà thanh bình…chỉ hợp với Sán này”.

Có kẻ bên cung Nguyên phi ghen ghét Sán, trộm được Phú Xuân thực lục bèn dâng lên Nguyễn Ánh Gia Long. Ánh nghĩ: Té ra dị hương chưa bao giờ thuộc về mình mà lại thuộc về Sán. Có lẽ cái yếm thắm như một trò ma thuật. Y lại còn dám rủa ta là tà hương.

Ánh cho gọi Sán đến, mắng:

“Rút cuộc, ngươi cũng là loại phù thủy chọc gậy vào bánh xe”.

Sán bảo:

“Hạ thần chưa một lần xảo trá, luôn nghĩ và nói đúng sự thật”.

Ánh rút gươm khều lấy cái yếm thắm trong túi Sán, rồi mắng tiếp:

“Không những ngươi ám ta mà còn giở trò ma thuật để hút hồn đàn bà con gái đẹp”.

Sán im lặng trơ lì như đá.

“Lại còn cao ngạo nữa. Coi trời bằng vung. Tội ngươi thực đáng chém đầu”.

Sán vươn cổ cò ra như thách thức.

Một chớp sáng ngoằng như sét đánh giữa trời quang mây tạnh. Lần này, Ánh chém thật. Cái “chõ xôi” lăn lông lốc, rồi dừng lại, mắt Sán hấp háy, miệng nhếch mép cười cợt. Bỗng dưng, mùi dị hương ở đâu đó dào dạt xông lên rồi, mất hẳn. Về sau, có kẻ phán bừa rằng: dị hương ở yếm thắm đã tẩm hết vào người Sán. Khoảnh khắc đầu lìa khỏi cổ, chút dị hương còm ấy rút ra kết vón lại theo hồn vía Sán thăng thiên.



*

Đêm ấy, lòng dạ Ánh bồn chồn không yên.

Trăng hạ tuần đã gác mái điện Cần Chánh, Ánh vẫn không ngủ được. Ánh bảo thái giám đưa mình đến cung Đức tam phi Ngọc Bình.

Mỹ nhân đang tắm trong đêm khuya khoắt. Nàng ngập mình trong bồn vàng ngập nước thả đầy cánh hoa lan bé mỏng manh trắng muốt. Dị hương lãng đãng xa gần, quyến rũ vô cùng. Lòng Ánh nôn nao, không chịu nổi mùi gợi dục, vội vã cuống cuồng. Ánh hấp tấp y như chàng trai mười sáu tuổi lần đầu nhìn thấy thân thể người đẹp trắng nuột nà, nhào vào bồn tắm, làm nước tràn ra quá nửa. Nguyễn Ánh và mỹ nhân quấn lấy nhau như đôi thanh long giao phối đêm mưa bão. Từng chập từng chập nước sóng sánh tràn ra ngoài. Chỉ một lúc dập dềnh, nước dạt ra ngoài bồn tắm gần hết. Bao nhiêu cánh lan trắng nát bấy dính vào bồn tắm, nổi trên mặt nước thơm rập rờn bên da thịt mỹ nhân.

“Thưa Chúa thượng! Người cầm cái chi trong tay, cứ chạm vào da thịt thần thiếp nóng hổi?”.

Ánh đang ôm cổ mỹ nhân, vội bỏ tay ra, quơ quơ trước mặt nàng cái vật màu đỏ sũng nước lập lòe như đốm lửa.

“Cái yếm thắm của nàng. Ta chém đứt cổ cò thằng khốn ấy rồi”.

Trần Huy Sán đã chết!? Đức phi Ngọc Bình cảm thấy như tắc thở bởi mùi máu tanh tưởi và khét lạnh rợn ngợp của binh khí chạm vào nhau. Nàng rùng mình. Gân cơ co rút lại. Người thẳng đơ, cứng ngắc. Rồi thân thể ngọc ngà từ từ lạnh ngắt. Mỹ nhân đột tử ngay dưới bụng Nguyễn Ánh.

Lúc bọn thái giám vào, thấy Ánh đã khoác hờ tấm hoàng bào, ngồi bệt xuống sàn, thả một tay vào bồn tắm. Mặt ngơ ngác như người mất hồn vía. Hai mắt Đức phi tam cung nhắm hờ như ngủ. Tóc mây xõa lập lờ trong nước. Hai đùi dài khép sát. Thân thể đã mềm mại và trắng hồng trở lại. Thần sắc đã hồi. Văng vẳng đâu đó như có câu ca vọng vào tam cung:
“Gái đâu có gái lạ đời
Con vua lại lấy hai vua làm chồng”.
Cái yếm đỏ vụt bay khỏi tay Ánh lượn những đường ngoằn nghèo như hương khói.
Tháng 8. 2009
Sương Nguyệt Minh
© Thông Luận 2011


-“Dị Hương”: Sao lại bịa chuyện bôi xấu vua Gia Long đến thế?
“Dị hương” là tên tập truyện gồm chín truyện ngắn của nhà văn quân đội Sương Nguyệt Minh do nhà xuất bản Hội Nhà Văn ấn hành năm 2009, vừa được giải thưởng chính thức của Hội Nhà Văn Việt Nam năm 2010, từng được ông Hữu Thỉnh và một số tờ báo lề phải ca ngợi hết lời.
Chúng tôi viết bài báo nhỏ này không nhằm phê bình cả tập truyện “Dị hương” của tác giả, mà cốt thông qua truyện ngắn “Dị hương” nhằm phê phán thái độ bôi bẩn lịch sử một cách vô lối của tác giả. Vả, tám truyện ngắn còn lại của tập truyện này thực ra chỉ là những truyện tầm tầm, không có gì xuất sắc để phải góp lời bình phẩm.

Truyện ngắn “Dị hương” ( là điểm nhấn quan trọng để cả tập truyện được giải thưởng cao nhất của Hội Nhà Văn Việt Nam) của Sương Nguyệt Minh nếu không được ông Hữu Thỉnh ( Chủ tịch Hội liên hiệp văn học nghệ thuật Việt Nam kiêm Chủ tịch Hội nhà văn Việt Nam kiêm Bí thư Đảng Đoàn khối văn học nghệ thuật, kiêm ủy viên Hội đồng lý luận trung ương, ủy viên Hội đồng lý luận văn học nghệ thuật trung ương…) khen ngợi hết lời, đồng thời có nhiều báo lề phải ca tụng lên mây thì chúng tôi không phải làm phiền độc giả mà tung ra bài báo phê bình này. Nhân đây, chúng tôi cũng có lời cám ơn nhà văn Trần Hoài Dương, người đã lên tiếng đầu tiên trên công luận trong một bài phỏng vấn với những dòng như sau về truyện ngắn “Dị hương”: “Trong “Dị hương”, Nguyễn Ánh hiện ra là một nhân vật rất xấu, có thể nói là thô bỉ, hiếu sắc, hiếu sát… Tôi không tin là một nhân vật như thế có thể dựng nên một vương triều…”, giúp chúng tôi tìm đọc văn phẩm này .
Truyện ngắn này viết về hai nhân vật lịch sử là Chúa Nguyễn Phúc Ánh, tức hoàng đế Gia Long trong giai đoạn vừa chiếm được Phú Xuân từ tay quân Tây Sơn và bà vợ thứ ba của vua Gia Long là Lê Ngọc Bình ( con vua Lê Hiển Tông, em ruột công chúa Ngọc Hân, hoàng hậu của vua Quang Trung; Lê Ngọc Bình từng là hoàng hậu Tây Sơn, vợ vua Quang Toản Cảnh Thịnh). Trong truyện còn có một nhân vật hư cấu là Trần Huy Sán…
Truyện kể rằng công chúa Lê Ngọc Bình khi mới 13 tuổi đã đẹp mê hồn, ngọc thể thơm ngát một làn hương lạ (dị hương). Một lần Ngọc Bình đi tắm ở hồ Dâm Đàm (Hồ Tây) làm rơi chiếc yếm. Trần Huy Sán nhặt được chiếc yếm ấy và giữ mãi trong người, mỗi lần lấy chiếc yếm ra ngắm nghía làm thơm lừng cả trời đất. Trần Huy Sán mê công chúa Ngọc Bình thông qua chiếc yếm thơm phức của nàng. Rồi Sán bỏ Tây Sơn, bỏ Bắc Hà trốn vô Nam phò Nguyễn Ánh. Có lần Trần Huy Sán mang chiếc yếm của công chúa Ngọc Bình vào chầu chúa Nguyễn Ánh, khiến vị chúa chết mê chết mệt vì mùi thơm từ chiếc yếm nọ tỏa ra.
Nguyễn Ánh tranh hùng với anh em nhà Tây Sơn và cha con Nguyễn Huệ, khi chiếm được kinh đô Phú Xuân, Nguyễn Ánh đã bắt được tác giả mùi thơm mê hồn kia là Lê Ngọc Bình – hoàng hậu của vua kẻ thù Cảnh Thịnh ( Nguyễn Quang Toản). Nguyễn Ánh vừa nhìn thấy Ngọc Bình đã mê mệt mùi thơm lạ từ thân thể nàng tỏa ra, đến nỗi mất hết hồn vía. Ngay lập tức, vợ của vua bại trận Ngọc Bình đã ôm chầm lấy vị vương thắng trận để cả hai biến thành hoang dâm vô độ y hệt Trụ Vương- Đát kỷ ngày xưa. Nguyễn Ánh phát hiện ra Trần Huy Sán đã xơi tái mùi hương lạ của Ngọc Bình trước mình, bèn chém đầu Sán. Ngọc Bình bị Nguyễn Ánh dày vò quá mức thành ra mất hết mùi thơm và lãnh cảm, bị chết thê thảm dưới bụng Nguyễn Ánh khi hai người đang giao hoan. Hết chuyện.
Truyện ngắn “Dị hương” của Sương Nguyệt Minh ra đời sau truyện ngắn “Kiếm sắc” của Nguyễn Huy Thiệp chừng hai mươi năm. Khi đọc truyện này, tôi hơi ngờ ngợ, sao nó có vẻ giống từ hơi văn, cách cấu tứ, cách dùng từ của Nguyễn Huy Thiệp thế? Tôi bèn đọc lại “Kiếm sắc” của Nguyễn Huy Thiệp và thấy cảm giác ngờ ngợ kia của mình không hề lầm lẫn. Xin độc giả xem ý kiến của tác giả Bùi Công Thuấn (Đồng Nai) dưới đây do chúng tôi lấy từ Internet khi vào http://google.com gõ từ khóa : “Dị hương và kiếm sắc”:
Ý kíến ngắn về DỊ HƯƠNG của Sương Nguyệt Minh
DỊ HƯƠNG vừa đạt giải của Hội Nhà Văn Việt Nam.
Mình đọc Dị Hương với cảm giác thất vọng không sao ngăn được.
DỊ HƯƠNG sao chép cách viết của Nguyễn Huy Thiệp trong KIẾM SẮC, từ chủ đề đến nội dung, tư tưởng, cách viết và văn phong. Nhưng câu văn của Sương Nguyệt Minh thiếu hẳn chất văn chương . Bắt chước câu văn Nguyễn Huy Thiệp nhưng câu văn của Sương Nguyệt Minh chỉ là băm bổ dung tục. Bút lực của Sương Nguyệt Minh không sao sánh được Nguyễn Huy Thiệp. Nếu bút lực Nguyễn Huy Thiệp mạnh mẽ bao nhiêu thì bút lực Sương Nguyệt Minh èo ọt bấy nhiêu. Từ việc chọn bút pháp đến xử lý chi tiết, câu đối thọai và xây dựng tính cách nhân vật, Dị Hươg của Sương Ngiyệt Minh chỉ là bản nháp của Kiếm Sắc, bản đã bị Nguyễn Huy Thiệp vứt vào sọt rác.
Trong sáng tác nghệ thuật, tối kỵ là sao sao chép. Nhà văn chỉ tồn tại khi anh là người sáng tạo. Thật tiếc cho một giải thưởng dỏm (vì đánh lừa lòng tin của độc giả) và tiếc cho một cây bút không tự đứng được bằng chính đôi chân của mình
Bùi Công Thuấn
Hai mươi năm trước, sự ra đời vang dội của ba truyện ngắn lừng danh của Nguyễn Huy Thiệp là “Vàng lửa”, “Kiếm Sắc”, “Phẩm tiết”…và hàng loạt truyện ngắn tài ba của anh trên báo Văn Nghệ đã góp phần đổi mới văn xuôi đương đại Việt Nam, sao không thấy Hội Nhà Văn trao cho anh Thiệp giải thưởng nào? Nay lại giao giải thưởng cao quý nhất năm 2010 cho “Dị hương”- một truyện ngắn hầu như mô phỏng cách viết, mô phỏng chủ đề, ý tứ, hình tượng, hơi văn của Nguyễn Huy Thiệp một cách vụng về, thô thiển, thực là khó hiểu lắm thay…?
Hay có thể “Dị hương” đã viết theo định hướng của cấp trên: cần phải dứt khoát lên án Nguyến Ánh Gia Long, kẻ đã được cấp trên dán cho nhãn hiệu “cõng rắn cắn gà nhà” , không để bọn “cấp tiến” phục hồi danh dự cho các chúa Nguyễn và nhà Nguyễn y như sự thật lịch sử đã diễn ra một cách khách quan, mà Hội nhà văn đã trao giải và hết lời ca ngợi “tác phẩm” này?
Chúng tôi xin độc giả hãy xem tóm tắt vài dòng về vua Gia Long theo từ điểm mạng :
Theo bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Hoàng đế Gia Long (chữ Hán: 皇帝嘉隆; 8 tháng 2 năm 1762 – 3 tháng 2 năm 1820) là vị hoàng đế đã thành lập nhà Nguyễn, vương triều phong kiến cuối cùng trong lịch sử Việt Nam. Ông tên thật là Nguyễn Phúc Ánh (阮福映; thường được gọi tắt là Nguyễn Ánh), trị vì từ năm 1802 đến khi qua đời năm 1820.
Là cháu của vị chúa Nguyễn cuối cùng ở Đàng Trong, sau khi gần như toàn bộ gia tộc bị quân Tây Sơn bắt giết năm 1777, Nguyễn Ánh phải trốn chạy và bắt đầu cuộc chiến 25 năm với Tây Sơn để khôi phục lại cơ nghiệp của dòng tộc. Sau nhiều thất bại lớn và phải cầu viện sự giúp đỡ của Xiêm La và Pháp, ông giữ vững được Nam Hà và đến năm 1802 thì đánh bại quân Tây Sơn, lên ngôi hoàng đế, thống nhất Việt Nam sau nhiều thế kỷ nội chiến.
Triều đại của ông được đánh dấu bằng việc chính thức sử dụng quốc hiệu Việt Nam với cương thổ rộng lớn nhất cho đến thời đó, kéo dài từ biên giới với Trung Quốc tới vịnh Thái Lan; thay thế các cải cách có xu hướng tự do của triều Tây Sơn bằng nền giáo dục và điều hành xã hội theo Nho giáo khắc nghiệt hơn; định đô tại Phú Xuân. Ngoài ra, ông còn là người mở đường cho các ảnh hưởng của người Pháp ở Việt Nam qua việc mời họ giúp xây dựng các thành trì lớn, huấn luyện quân đội và khoan thứ cho việc truyền đạo Cơ đốc. Dưới triều đại của ông, Việt Nam trở thành một thế lực quân sự hùng mạnh ở Đông Dương, cùng Xiêm La phân chia ảnh hưởng đối với Chân Lạp.
Nguyễn Ánh khi mới lên 13 tuổi đã theo gia đình và chúa Nguyễn Phúc Thuần chạy giặc vào Nam khi nhà Tây Sơn đuổi theo truy sát. Tây Sơn đã giết sạch sành sanh hậu duệ của các chúa Nguyễn, những vị chúa có công lớn với dân tộc Việt Nam: mở ra gần một nửa đất nước cho Đại Việt. Chỉ còn sót lại một cậu bé duy nhất là Nguyễn Phúc Ánh chạy ra tận đảo Thổ Chu trốn sự truy bắt của Tây Sơn. Cậu bé, hậu duệ trực hệ duy nhất của chúa Nguyễn Hoàng và chín đời chúa Nguyễn ấy, nếu không có lòng dân Nam Kỳ che chở, đùm bọc, chắc chắn đã rơi đầu dưới kiếm Tây Sơn. Năm 17 tuổi, Nguyễn Ánh tập hợp binh mã để quyết giành lại giang sơn Nam Hà ( từ bờ sông Gianh đến mũi Cà Mau) do cha ông mình mở cõi. Suốt 25 năm, trong trận thư hùng với ba anh em Tây Sơn: Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ, Nguyễn Huệ và con trai vua Quang Trung là Nguyễn Quang Toản (Cảnh Thịnh), Nguyến Ánh đã chiến thắng.
Công của vua Gia Long là thống nhất đất nước sau 300 năm chiến tranh loạn lạc. Công lớn hơn nữa của vua Gia Long và chín đời Chúa Nguyễn là mở rộng gấp đôi bờ cõi Việt Nam, phỏng có triều đại nào làm được hơn thế?
Vua Gia Long sau khi lên ngôi năm 1802 lần đầu kinh lý Bắc Hà đã thu phục được giới sĩ phu từng ẩn dật trốn quân Tây Sơn ra phò tá vị hoàng đế mới . Nếu vua Gia Long là một kẻ hoang dâm vô độ, là một hôn quân bạo chúa, ngu xuẩn, bẩn thỉu, lưu manh, bá đạo như Sương Nguyệt Minh mô tả trong “Dị Hương”, liệu một đại trí thức, đại thi hào dân tộc như Nguyễn Du có tìm đến và xin phò tá vua Gia Long chăng ?
Xin quý độc giả xem vài đoạn trích trong “Dị hương” mà Sương Nguyệt Minh đã phịa ra để bôi bẩn vị Hoàng đế đã có công thống nhất đất nước. Một Nguyến Ánh tàn bạo vô song, máu lạnh, giết người như ngóe, hở ra là chém, giết, say máu hơn cọp beo:
“Ánh đưa một đường gươm.Chớp lóe sáng lên phạt ngang cổ thôn nữ. Máu đỏ phun lên như mạch nước ngầm hở miệng…Ánh lên đến đỉnh Ngọc Trản Sơn thì cũng kịp vung gươm phạt bay năm đầu thị nữ….”
“Mùi tanh của máu người, mùi khét lẹt của binh khí va chạm tụ lại thành mùi chết chóc ngấm vào da thịt Ánh…”
“Bao nhiêu cái đầu lăn lóc dưới đôi chân bôn tẩu của Ánh…”
“Ánh chợt nhìn thấy Sán cứ bần thần mê mẩn yếm thắm. Ánh lộn tiết, cho rằng Sán chơi trò ma thuật phù thủy, bèn quát lính lôi ra chém….”
“Ánh túm ngực áo gầm lên…”
“Tội các ngươi đáng chém….” . “Lần này Ánh chém thật…”
Một bạo chúa tắm trong máu người như Sương Nguyệt Minh mô tả Nguyễn Ánh trên, làm sao được lòng dân Nam Hà che chở, đùm bọc, ủng hộ để khi mới 13 tuổi, một thân một mình chạy trốn giữa biển, không còn thước đất cắm dùi, lại có thể tập hợp được hàng triệu người ủng hộ, đánh bại được anh em nhà Tây Sơn hùng mạnh, giành lại giang sơn cũ do ông cha mình dùng xương máu tạo dựng lên?
Xin hãy xem “Dị hương” mô tả Nguyễn Ánh là một hôn quân dâm tặc, suốt ngày chỉ mê đắm chuyện phòng the, kinh tởm hơn Lê Ngọa Triều ngày xưa trong chuyện hoang dâm vô độ :
“Cung tần qua đêm với Ánh, dù ngực hằn đầy vết hồng đỏ của bàn tay thô ráp cầm kiếm, hai đùi đầy vết răng bầm tím…”
“Lòng Ánh nôn nao, không chịu nổi mùi gợi dục, cuống cuồng cởi quần áo”…
“Mỹ nhân đột tử ngay dưới bụng Nguyễn Ánh…”
Đây là cảnh Nguyễn Ánh rình xem Lê Ngọc Bình tắm :
“Ánh bèn lẩn vào bên trong lùm cây, kéo cành lá, mặt đần ra mê đắm nhìn mỹ nhân tắm….”
“Bóng Ánh đổ dài kéo thành vệt đến giếng nước. Mỹ nhân vội khép hai đùi, một tay che hai trái tuyết lê căng mẩy, một tay che đám lông mu đen mượt. Thực ra mỹ nhân không cần phải hốt hoảng che đậy vì chỏm đầu của Ánh đã đổ bong đen trên ngực nàng…”
Đây là cách Nguyễn Ánh cởi xiêm y Lê Ngọc Bình theo kiểu thổ phỉ :
“Ánh cầm gươm đưa những đường tuyệt kỹ như múa, nhẹ hơn gió thoảng trên long sàng. Loáng một cái cắt nát xiêm y…”
Không dám chép ra đây những lời quá thô bỉ khi tác giả tả chuyện ân ái giữa Nguyễn Ánh và công chúa Lê Ngọc Bình, hoàng hậu của Cảnh Thịnh, mới gặp Nguyễn Ánh là ô kê trai trên giái dưới liền, không một chút e thẹn, còn dạn dĩ và chủ động hơn một con điếm thập thành:
“Hai người chìm vào biển ái ân nóng bỏng…”
“Ánh sướng quá tru lên như con ngựa hoang động đực…”
“Về Phú Xuân, Ánh ốm liệt giường, lúc nào cũng chìm trong mộng mị ân ái với nàng Ngọc Bình”
“Gia Long lấy Ngọc Bình chẳng phải là yêu chiều cành vàng lá ngọc mà núp dưới chiêu bài tâm lý chiến bẩn thỉu…”
Nếu vua Gia Long chỉ lấy Lê Ngọc Bình làm trò tiêu khiển xác thịt như Sương Nguyệt Minh mô tả vì “ chiêu bài tâm lý chiến bẩn thỉu”, sao nhà vua lại phong Lê Ngọc Bình lên hàng hoàng hậu, là bà vợ thứ ba chính thất của nhà vua?
Trong lịch sử, vua Gia Long lấy Lê Ngọc Bình từ năm 1802, phong bà là “Đệ Tam cung”. Năm 1810 Lê Ngọc Bình mất vì trọng bệnh. Chỉ trong tám năm chung sống, bà đã sinh cho vua Gia Long bốn người con, trong đó có hai hoàng tử và hai công chúa. Vậy mà trong truyện “Dị hương”, tác giả mô tả bà sau khi giao hoan những ngày đầu tiên long trời lở đất với vua Gia Long, đã bị chất sắt máu và chất phàm phu tục tử của Gia Long làm bà bay hết mùi hương lạ, thành ra lãnh cảm và bị chết dưới bụng vua Gia Long trong lúc làm tình! Thật là sự xuyên tạc lịch sử quá trâng tráo.
Trong sử, vua Gia Long là vị vua không hiếu sắc, càng không hề hoang dâm vô độ như “Dị hương” bịa chuyện. Xin xem từ điển mạng wikipedia viết về chuyện vua Gia Long không hề ưa chuyện phòng the cung cấm:
“Ngoài các người vợ kể trên, vua Gia Long còn có gần trăm bà[180] phi khác là con của các quan tiến cung[181]. Để tránh làm tổn thương các quan, nhà vua không thể từ chối được việc dâng tiến này nên dù có tuổi ông vẫn phải nạp phi[181]. Hậu cung thường xảy ra xung đột và vua Gia Long tỏ ra không ưa thích chốn hậu cung như thế, có lần ông đã từng miêu tả việc này trong câu nói: “Chốc nữa trẫm sẽ ở giữa một đám yêu phụ làm trẫm đinh tai nhức óc”[182] và câu đánh giá về phụ nữ của ông: “Trẫm muốn sửa đổi lại cả thế giới, nhất là đàn bà, vì họ đều đáng ghê sợ hơn đàn ông”[183]”
Nguyễn Ánh- vua Gia Long là một nhân vật lịch sử có thật. Đệ tam cung Lê Ngọc Bình là một nhân vật lịch sử có thật, sao tác giả “Dị Hương” lại bịa đặt một cách vô lối để bôi bẩn họ đến mức ghê tởm thế ? Nếu một kẻ nào đó, lôi ông tổ của nhà văn Sương Nguyệt Minh ra để chửi bới thậm tệ như ông đã làm với vị Hoàng đế nước Việt Nam Gia Long, một người đã có công thống nhất đất nước, liệu ông Sương Nguyệt Minh có để yên hay sẽ nhảy dựng lên đòi kiện bọn vô cớ bôi bẩn ông cha mình ra tòa?
Nếu một kẻ cầm bút vì lý do tiến thân nào đó, tự nhiên lôi ông tổ của nhà thơ Hữu Thỉnh ra vu cáo thậm tệ theo kiểu Sương Nguyệt Minh vu cáo tổ tiên của hoàng tộc Huế, liệu ông Thỉnh có dám trao giải thưởng cho hay không?
Đằng này, vua Gia Long không chỉ là tổ phụ của hàng vạn con dân hoàng phái Huế đang sinh sống ở khắp nơi, mà còn là vì vua lớn của nước Việt Nam, đã sinh ra một triều đại lớn: triều Nguyễn, có nhiều ông vua yêu nước chống Pháp như Hàm Nghi, Thành Thái, Duy Tân…thì phỏng các ông trao giải thưởng cho một tác phẩm yếu kém về nghệ thuật, lại sao chép truyện người ta, vu oan giá họa cho tằng tổ người ta bẩn thỉu hết cỡ như truyện “Dị hương” kia, nhằm mục đích gì?
Sài Gòn ngày 30-01-2011
Trần Mạnh Hảo

Tổng số lượt xem trang